Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc khách quan - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là cơ sở lý luận của nguyên tắc khách quan của chủnghĩa duy vật biện chứng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

KIỂM TRA GIỮA HỌC PHẦN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Họ và tên: Nguyễn Thị Thảo Quyên
MSSV: 31211025261
Mã lớp HP: 21C1PHI51002313
Ngày tháng năm sinh: 24/09/2003
ĐỀ KIỂM TRA: Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc khách quan của chủ nghĩa
duy vật biện chứng. Vận dụng nguyên tắc này vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam
hiện nay.
Bài làm:
I.Phân tích cơ sở lý luận:
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là cơ sở lý luận của nguyên tắc khách quan của chủ
nghĩa duy vật biện chứng.
-Vật chất theo V.I.Lê-nin một phạm trù triết học để chỉ thực tại khách quan, đem đến
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của con người chép lại, chụp lại, phản ánh
lại và không tồn tại lệ thuộc vào cảm giác.
- Ý thức là toàn bộ hoạt động tinh thần diễn ra trong đầu óc con người, phản ánh thế giới
vật chất xung quanh; hình thành, phát triển trong quá trình lao động và định hình thể hiện
ra bằng ngôn ngữ
Mối quan hệ giữa vật chất ý thức mối quan hệ biện chứng mà trong đó vật chất
trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức và quyết định ý thức. Mối quan hệ
được thể hiện qua nhận thức và thực tiễn như sau:
* Vật chất quyết định ý thức:
Việc thảo luận về vai trò của vật chất đối với ý thức đã là một cuộc tranh luận từ lâu. Một
số người cho rằng vật chất không thể là cơ sở cho ý thức vì nó quá trơ. Những người khác
nghĩ rằng ý thức xuất hiện từ các quá trình vật chất, nhưng họ không biết những quá trình
nào. Đối với bản thân tôi, tôi tin rằng vật chất đóng một vai trò to lớn trong việc quyết
định ý thức.
1
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức,
thể hiện thông qua việc vật chất quyết định nội dung, hình thức tồn tại, nguồn gốc và vai
trò tác dụng ý thức:
+Quyết định nội dung và hình thức tồn tại của ý thức:
Nghĩa là, ý thức sẽ mang thông tin về đối tượng vật chất cụ thể. Và những thông
tin này có thể sai hoặc đúng thiếu hoặc đủ, sự biểu hiện khác nhau đều do mức độ
tác động của vật chất lên bộ óc của con người.
Ý thức không thể tồn tại bên ngoài vật chất luôn phải tồn tại thông qua,
nhờ vào vật chất (ngôn ngữ, hình ảnh, âm thanh, các vật phẩm do con người tạo
nên…). Phương thức, cách thức, hình thức tồn tại của ý thức đều phụ thuộc vào
vật chất.
+Quyết định nguồn gốc ý thức:
Nguồn gốc tự nhiên: ý thức không chỉ là thuộc tính của 1 dạng vật chất có tổ chức
cao bộ óc con người còn , sự phản ánh thế giới bên ngoài vào đầu óc
con người. CNDVBC cho rằng, bộ óc con người cùng với sự tác động của thế giới
vật chất lên bộ óc con người là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Nguồn gốc xã hội: Ý thứcsự phản ánh năng động sáng tạo thế giới khách quan
vào trong bộ óc con người thông qua lao động, ngôn ngữ diễn ra trong các
quan hệ hội. Thông qua hoạt động lao động nhằm cải tạo thế giới khách quan
mà con người có thể phản ánh được thế giới khách quan và hình thành nên ý thức.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ
thì ý thức không thể tồn tại được.
+ Quyết định vai trò tác dụng ý thức: ý thứcvai trò quan trọng khichỉ khi nó xâm
nhập và tồn tại được trong lực lượng vật chất thông qua hoạt động thực tiễn, và qua đó nó
thể hiện vai trò và tác dụng của mình. Ý thức luôn luôn tồn tại trong vật chất. Sức mạnh
của ý thức phụ thuộc vào mức độ xâm nhập của nó vào lực lương vật chất. Nếu ý thức
không thông thâm nhập được vào thế giới vật chất thì không tác dụng cả. Mặt
khác ý thức thể hiện được vai trò, tác dụng của khi khi phản ánh đúng hiện thực
khách quan. Ngược lại sẽ kìm hãm sự phát triễn sớm muộn cũng bị xoá bỏ do
không hợp quy luật.
* Ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người:
- Ý thức do vật chất sinh ra quyết định, song sau khi ra đời, ý thức tính độc lập
tương đối nên sự tác động trở lại to lớn đối với vật chất. Tính độc lập tương đối này
có được là nhờ thuộc tính sáng tạo, tồn tại thống nhất cùng với thuộc tính phản ánh như 2
mặt thống nhất trong bản chất của ý thức. Bản thân thế giới vật chất không bao giờ bộc lộ
hết bản chất của nó, do đó dựa trên sự phản ánh hiện thực chính nhờ sự sáng tạo
con người biết xây dựng, đề xuất các mô hình, các giả thuyết về đối tượng nghiên cứu và
2
dùng thực tiễn để kiểm chứng các mô hình, các giả thuyết để tìm ra chân lý. Do đó ý thức
có tính độc lập tương đối.
- Điều kiện để ý thức tác động trở lại vật chất chính là thông qua hoạt động thực tiễn có ý
thức của con người, thông qua hoạt động thực tiễn, các nhân tố ý thức xâm nhập vào lực
lượng vật chất và qua đó chúng thể hiện vai trò tác dụng của mình qua việc vạch ra mục
tiêu, kế hoạch, tìm kiếm biện pháp, phương thức tổ chức thực hiện, kịp thời điều chỉnh,
uốn nắn hoạt động con người theo mục đích đặt ra.
- Sự xâm nhập của các nhân tố ý thức vào lực lượng càng sâu rộng, sự tác dụng của
chúng trong hội càng lớn. Sức mạnh của ý thức sẽ thúc đẩy hiện thực phát triển khi
các nhân tố ý thức trong sáng, tiến bộ, phản ánh đúng quy luật khách quan của hiện
thực. Ngược lại sẽ kìm hãm hiện thực phát triển khi các nhân tố ý thức phản ánh
không đúng quy luật khách quan của hiện thực dựa trên tình cảm, lợi ích chủ quan
của giai tầng bảo thủ, lạc hậu.
- Do đó, dựa vào cơ sở lý luận và phân tích trên, ta thấy rằng, nguyên tắc khách quan có 2
yêu cầu cơ bản:
+ Vì vật chất quyết định ý thức nên ta cần phải tôn trọng hiện thực khách quan.
+ Ý thức có tính độc lập tương đối nên chủ thể cần phát huy tính năng động, sáng tạo chủ
quan.
II . Vận dụng nguyên tắc khách quan vào công cuộc đổi mới Việt Nam hiện
nay :
“Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảngtưởng và kim chỉ nam cho
mọi hành động của Đảng cộng sản Việt Nam”
Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng luôn nắm vững quan điểm của triết học Mác-
Lênin về mối quan hệ khách quan chủ quan, vận dụng vào việc xác định đường lối,
mục tiêu, phương hướng phương pháp cách mạng. Nguyên tắc khách quan nguyên
tắc quan trọng hàng đầu trong nhận thứchoạt động thực tiễn. Nguyên tắc khách quan
yêu cầu con người trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần phản ánh trung thực sự vật
với tất cả những bản chất vốn của nó, tôn trọng những quy luật khách quan của hiện
thực. Nguyên tắc khách quan cũng đòi hỏi con người không được lấy ý chí áp đặt cho
thực tế; không được lấy ý muốn chủ quan, nguyện vọng, tình cảm nhân bất chấp điều
kiện thực tế làm xuất phát điểm cho chiến lược sách lược cách mạng; không rơi vào
chủ quan duy ý chí. Nếu thực hiện không đúng hoặc đi ngược lại những yêu cầu này, sẽ
rơi vào sai lầm khác nhau, mà điển hình là chủ nghĩa chủ quan duy ý chí trong nhận thức
và hành động, gây ra những hậu quả to lớn cho dù hoạt động bất cứ lĩnh vực nào. Bên
cạnh đó, tồn tại căn bệnh chủ quan duy ý chí, một trong những căn bệnh diễn ra khá
3
phổ biến nước ta trong thời kỳ trước đổi mới. Nhưng nói như thế không nghĩa
trong giai đoạn hiện nay căn bệnh này đã hết. Nơi này, nơi kia những biểu hiện của chủ
nghĩa chủ quan, duy ý chí vẫn bộc lộ, gây tác hại không nhỏ đối với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay. Do chủ
quan, duy ý chí mà một số bộ, ngành, địa phương đề ra chỉ tiêu kế hoạch quá xa vời, quá
cao, không phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tiễn, dẫn đến không thực hiện được,
gây ra sự phát triển mất cân đối của nền kinh tế. Chúng ta vận dụng nguyên tắc khách
quan để giải quyết những mối quan hệ biện chứng trong công cuộc đổi mới
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, việc nghiên cứu, quán triệt vận dụng phép biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin vào giải quyết những vấn đề thực tiễn cách
mạng đặt ra vừa một khoa học, đồng thời một nghệ thuật. Để triển khai một cách
hiệu quả, đòi hỏi các thế hệ tương lai hiện nay phải nắm được bản chất của phép biện
chứng duy vật, không ngừng học tập rèn luyện mới thể vận dụng một cách đúng
đắn phương pháp biện chứng duy vật vào giải quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra.
Là một sinh viên thì việc vận dụng nguyên tắc khách quan có ý nghĩa rất quan trọng. Các
nhân trong học tập phải biết nắm chắc sở luận, để từ đó thể vận dụng một
cách sáng tạo, hợp. Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức trong quá trình học
tập, công tác và khiến bản thân trở nên hoàn thiện hơn nữa.
4
| 1/4

Preview text:

KIỂM TRA GIỮA HỌC PHẦN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Họ và tên: Nguyễn Thị Thảo Quyên MSSV: 31211025261 Mã lớp HP: 21C1PHI51002313
Ngày tháng năm sinh: 24/09/2003
ĐỀ KIỂM TRA: Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc khách quan của chủ nghĩa
duy vật biện chứng. Vận dụng nguyên tắc này vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Bài làm:
I.Phân tích cơ sở lý luận:
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là cơ sở lý luận của nguyên tắc khách quan của chủ
nghĩa duy vật biện chứng.
-Vật chất theo V.I.Lê-nin là một phạm trù triết học để chỉ thực tại khách quan, đem đến
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của con người chép lại, chụp lại, phản ánh
lại và không tồn tại lệ thuộc vào cảm giác.
- Ý thức là toàn bộ hoạt động tinh thần diễn ra trong đầu óc con người, phản ánh thế giới
vật chất xung quanh; hình thành, phát triển trong quá trình lao động và định hình thể hiện ra bằng ngôn ngữ
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng mà trong đó vật chất có
trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức và quyết định ý thức. Mối quan hệ
được thể hiện qua nhận thức và thực tiễn như sau:
* Vật chất quyết định ý thức:
Việc thảo luận về vai trò của vật chất đối với ý thức đã là một cuộc tranh luận từ lâu. Một
số người cho rằng vật chất không thể là cơ sở cho ý thức vì nó quá trơ. Những người khác
nghĩ rằng ý thức xuất hiện từ các quá trình vật chất, nhưng họ không biết những quá trình
nào. Đối với bản thân tôi, tôi tin rằng vật chất đóng một vai trò to lớn trong việc quyết định ý thức. 1
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức,
thể hiện thông qua việc vật chất quyết định nội dung, hình thức tồn tại, nguồn gốc và vai trò tác dụng ý thức:
+Quyết định nội dung và hình thức tồn tại của ý thức:
 Nghĩa là, ý thức sẽ mang thông tin về đối tượng vật chất cụ thể. Và những thông
tin này có thể sai hoặc đúng thiếu hoặc đủ, sự biểu hiện khác nhau đều do mức độ
tác động của vật chất lên bộ óc của con người.
 Ý thức không thể tồn tại bên ngoài vật chất mà nó luôn phải tồn tại thông qua,
nhờ vào vật chất (ngôn ngữ, hình ảnh, âm thanh, các vật phẩm do con người tạo
nên…). Phương thức, cách thức, hình thức tồn tại của ý thức đều phụ thuộc vào vật chất.
+Quyết định nguồn gốc ý thức:
 Nguồn gốc tự nhiên: ý thức không chỉ là thuộc tính của 1 dạng vật chất có tổ chức
cao là bộ óc con người mà còn là , là sự phản ánh thế giới bên ngoài vào đầu óc
con người. CNDVBC cho rằng, bộ óc con người cùng với sự tác động của thế giới
vật chất lên bộ óc con người là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
 Nguồn gốc xã hội: Ý thức là sự phản ánh năng động sáng tạo thế giới khách quan
vào trong bộ óc con người thông qua lao động, ngôn ngữ và diễn ra trong các
quan hệ xã hội. Thông qua hoạt động lao động nhằm cải tạo thế giới khách quan
mà con người có thể phản ánh được thế giới khách quan và hình thành nên ý thức.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ
thì ý thức không thể tồn tại được.
+ Quyết định vai trò tác dụng ý thức: ý thức có vai trò quan trọng khi và chỉ khi nó xâm
nhập và tồn tại được trong lực lượng vật chất thông qua hoạt động thực tiễn, và qua đó nó
thể hiện vai trò và tác dụng của mình. Ý thức luôn luôn tồn tại trong vật chất. Sức mạnh
của ý thức phụ thuộc vào mức độ xâm nhập của nó vào lực lương vật chất. Nếu ý thức
không thông thâm nhập được vào thế giới vật chất thì nó không có tác dụng gì cả. Mặt
khác ý thức thể hiện được vai trò, tác dụng của nó khi khi nó phản ánh đúng hiện thực
khách quan. Ngược lại nó sẽ kìm hãm sự phát triễn và sớm muộn cũng bị xoá bỏ do không hợp quy luật.
* Ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người:
- Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định, song sau khi ra đời, ý thức có tính độc lập
tương đối nên có sự tác động trở lại to lớn đối với vật chất. Tính độc lập tương đối này
có được là nhờ thuộc tính sáng tạo, tồn tại thống nhất cùng với thuộc tính phản ánh như 2
mặt thống nhất trong bản chất của ý thức. Bản thân thế giới vật chất không bao giờ bộc lộ
hết bản chất của nó, do đó dựa trên sự phản ánh hiện thực và chính nhờ sự sáng tạo mà
con người biết xây dựng, đề xuất các mô hình, các giả thuyết về đối tượng nghiên cứu và 2
dùng thực tiễn để kiểm chứng các mô hình, các giả thuyết để tìm ra chân lý. Do đó ý thức
có tính độc lập tương đối.
- Điều kiện để ý thức tác động trở lại vật chất chính là thông qua hoạt động thực tiễn có ý
thức của con người, thông qua hoạt động thực tiễn, các nhân tố ý thức xâm nhập vào lực
lượng vật chất và qua đó chúng thể hiện vai trò tác dụng của mình qua việc vạch ra mục
tiêu, kế hoạch, tìm kiếm biện pháp, phương thức tổ chức thực hiện, kịp thời điều chỉnh,
uốn nắn hoạt động con người theo mục đích đặt ra.
- Sự xâm nhập của các nhân tố ý thức vào lực lượng càng sâu rộng, sự tác dụng của
chúng trong xã hội càng lớn. Sức mạnh của ý thức sẽ thúc đẩy hiện thực phát triển khi
các nhân tố ý thức là trong sáng, tiến bộ, phản ánh đúng quy luật khách quan của hiện
thực. Ngược lại nó sẽ kìm hãm hiện thực phát triển khi các nhân tố ý thức phản ánh
không đúng quy luật khách quan của hiện thực mà dựa trên tình cảm, lợi ích chủ quan
của giai tầng bảo thủ, lạc hậu.
- Do đó, dựa vào cơ sở lý luận và phân tích trên, ta thấy rằng, nguyên tắc khách quan có 2 yêu cầu cơ bản:
+ Vì vật chất quyết định ý thức nên ta cần phải tôn trọng hiện thực khách quan.
+ Ý thức có tính độc lập tương đối nên chủ thể cần phát huy tính năng động, sáng tạo chủ quan. II
. Vận dụng nguyên
tắc khách quan vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay :
“Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
mọi hành động của Đảng cộng sản Việt Nam”
Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng luôn nắm vững quan điểm của triết học Mác-
Lênin về mối quan hệ khách quan và chủ quan, vận dụng vào việc xác định đường lối,
mục tiêu, phương hướng và phương pháp cách mạng. Nguyên tắc khách quan là nguyên
tắc quan trọng hàng đầu trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nguyên tắc khách quan
yêu cầu con người trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần phản ánh trung thực sự vật
với tất cả những bản chất vốn có của nó, tôn trọng những quy luật khách quan của hiện
thực. Nguyên tắc khách quan cũng đòi hỏi con người không được lấy ý chí áp đặt cho
thực tế; không được lấy ý muốn chủ quan, nguyện vọng, tình cảm cá nhân bất chấp điều
kiện thực tế làm xuất phát điểm cho chiến lược và sách lược cách mạng; không rơi vào
chủ quan duy ý chí. Nếu thực hiện không đúng hoặc đi ngược lại những yêu cầu này, sẽ
rơi vào sai lầm khác nhau, mà điển hình là chủ nghĩa chủ quan duy ý chí trong nhận thức
và hành động, gây ra những hậu quả to lớn cho dù hoạt động ở bất cứ lĩnh vực nào. Bên
cạnh đó, tồn tại căn bệnh chủ quan duy ý chí, là một trong những căn bệnh diễn ra khá 3
phổ biến ở nước ta trong thời kỳ trước đổi mới. Nhưng nói như thế không có nghĩa là
trong giai đoạn hiện nay căn bệnh này đã hết. Nơi này, nơi kia những biểu hiện của chủ
nghĩa chủ quan, duy ý chí vẫn bộc lộ, gây tác hại không nhỏ đối với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay. Do chủ
quan, duy ý chí mà một số bộ, ngành, địa phương đề ra chỉ tiêu kế hoạch quá xa vời, quá
cao, không phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tiễn, dẫn đến không thực hiện được,
gây ra sự phát triển mất cân đối của nền kinh tế. Chúng ta vận dụng nguyên tắc khách
quan để giải quyết những mối quan hệ biện chứng trong công cuộc đổi mới
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, việc nghiên cứu, quán triệt và vận dụng phép biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin vào giải quyết những vấn đề thực tiễn cách
mạng đặt ra vừa là một khoa học, đồng thời là một nghệ thuật. Để triển khai một cách
hiệu quả, đòi hỏi các thế hệ tương lai hiện nay phải nắm được bản chất của phép biện
chứng duy vật, không ngừng học tập và rèn luyện mới có thể vận dụng một cách đúng
đắn phương pháp biện chứng duy vật vào giải quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra.
Là một sinh viên thì việc vận dụng nguyên tắc khách quan có ý nghĩa rất quan trọng. Các
cá nhân trong học tập phải biết nắm chắc cơ sở lý luận, để từ đó có thể vận dụng một
cách sáng tạo, hợp lý. Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức trong quá trình học
tập, công tác và khiến bản thân trở nên hoàn thiện hơn nữa. 4