Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc lịch sử - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Quan điểm lịch sử cụ thể là quan điểm mà khi nghiên cứu và xem xét hiện tượng, sự vậthay sự việc chúng ta phải quan tâm đến tất cả các yếu tố từ khách quan đến chủ quan cóliên quan đến sự vật. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

1. Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc lịch sử - cụ thể. Vì sao trong nhận thức
trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải tôn trọng nguyên tắc lịch sử - cụ
thể? Hãy vận dụng nguyên tắc này trong công cuộc đổi mới nước ta hiện
nay?
Quan điểm lịch sử cụ thể quan điểm khi nghiên cứuxem xét hiện tượng, sự vật
hay sự việc chúng ta phải quan tâm đến tất cả các yếu tố từ khách quan đến chủ quan
liên quan đến sự vật.
sở luận của nguyên tắc lịch sử cụ thể bao gồm toàn bộ nội dung của hai nguyên
lý là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển
Hai nguyên của phép biện chứng duy vật hai nguyên bản đóng vai trò
xương sống trong phép duy vật biện chứng của triết học Mác Lênin khi xem xét, kiến
giải sự vật, hiện tượng. Trong hệ thống đó nguyên về mối liên hệ phổ biến nguyên
về sự phát triển hai nguyên khái quát nhất. Nội dung hai nguyên bản như
sau:
Nguyên về mối liên hệ phổ biến nguyên tắc luận xem xét sự vật, hiện
tượng khách quan tồn tại trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn nhau tác động, ảnh
hưởng lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của
một hiện tượng trong thế giới.
Nguyên lý về sự phát triển là nguyên tắc lý luận mà trong trong đó khi xem xét sự
vật, hiện tượng khách quan phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn luôn vận động
và phát triển (vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém
hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật).
Trong hoạt động nhận thứcthực tiễn nếu tôn trọng nguyên tắc lịch sử – cụ thể sẽ giúp
nhận thấy:
Sự vật đang (đã hay sẽ) tồn tại thông qua những chất, lượng nào; thể hiện qua
những độ nào; đang (đã hay sẽ) thực hiện những bước nhảy nào để tạo nên những
chất, lượng mới nào…
Sự vật đang (đã hay sẽ) bị tác động bởi những mâu thuẫn nào; những mâu thuẫn
đó đang nằm giai đoạn nào, vai trò như thế nào đến sự vận động, phát triển
của sự vật…
Sự vật đang (đã hay sẽ) trải qua những lần phủ định biện chứng nào; cái nào
đang (đã hay sẽ) phải mất đi, cái mới nào đang (đã hay sẽ) xuất hiện…
Trong mối quan hệ với những sự vật khác, những điều được coi những cái
riêng hay cái đơn nhất, điều cái chung hay cái đặc thù/ cái phổ biến; chung
quy định nhau, chuyển hóa lẫn nhau như thế nào
Bản chất của sự vật là gì,được thể hiện qua những hiện tượng nào; hiện tượng
nào là giả tưởng, hiện tượng nào là điển hình
Nội dung của sự vật gì, đang (đã hay sẽ) tồn tại thông qua những hình thức
nào; hình thức nào phù hợp với nội dung của sự vật, hình thức nào không phù hợp
với nội dung, cái gì làm cho nội dung của sự vật biến đổi
Trong bản thân sự vật, hiện thực gì; hiện thực đó đang (đã hay sẽ) nảy sinh ra
những khả năng nào; mỗi khả năng đó trong những điều kiện cụ thể nào độ tất
yếu hiện thực hóa ra sao…
Tóm lại, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn nếu không tôn trọng nguyên tắc lịch sử –
cụ thể sẽ mang lại những hậu quả rất nghiệm trọng, ta sẽ luôn nhìn nhận sự vật hiện
tượng một cách phiến diện, trừu tượng sẽ không bao giờ giải quyết được các mâu
thuẫn; sẽ không bao giờ được những phương hướng, hành động đúng khi giải quyết
vấn đề.
Đảng nhấn mạnh hơn nhiều đến sự cần thiết phải nắm vững các nguyên tắc phương
pháp luận biện chứng duy vật vào phân tích, đánh giá thực tiễn, phải thấm nhuần nguyên
tắc toàn diện và nguyên tắc lịch sử cụ thể trong nghiên cứu, nhận định tính hình phát triển
kinh tế, chính trị, văn hóa, hội, công tác luận, khoa học, giáo dục, để vận dụng tốt
hơn vào xây dựng đấy nước.
Vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể từ năm 1930, Đảng ta đã lựa chọn con đường đi lên
chủ nghĩa hội. Ngày nay để xây dựng thành công chủ nghĩ hội, Đảng ta đã đề ra
đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; ưu
tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo
định hướng hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên
ngoài chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, hiệu quả bên vững;
thực hiện tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống
vật chất đời sống tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ công bằng hội, bảo vệ
cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế hội tăng cường quốc phòng an ninh;
bảo vệ và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
Vận dụng nguyên tắc lịch sử cụ thể đã giúp đất nước chúng ta đạt được những thành tựu
trong quá trình đổi mới kinh tế -xã hội. Vận dụng phương pháp luận biện chứng của chủ
nghĩa duy vật về quan điểm toàn diện quan điểm lịch sử cụ thể Đảng đã đổi mới
duy lý luận về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bắt đầu từ đại hội VI (1986)
Đảng ta đã đề ra phương hướng đổi mới toàn diện dần hoàn thiện qua các đại hội
đại hội đổi đường lối đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa, nhiều thành phần, cho phép
khuyến khích kinh tế nhân, thể phát triển, chủ ý đảm bảo hợp lợi ích nhân
làm động lực trực tiếp cho phát triển kinh tế, điều chỉnh cơ cấu kinh tế vĩ mô, sắp xếp lại
các lĩnh vực khu vực sản xuất chính, chính sách biến đổi dịch vụ sản xuất kinh
doanh và đời sốngđời sống thành một bộ phận quan trọng trongcấu kinh tế, do đất
nước đã xây dựng được nền kinh tế có cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp – dịch vụ tương
đối hợp lý, gắn liền với trong nước và thị trường quốc tế
2. Tại sao trong nhận thức trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải dựa trên
nguyên tắc thống nhất giữa luận thực tiễn? Hãy vận dụng nguyên tắc
này trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay?
Trong quá trình hoạt động để phát triển tồn tại thì để thỏa mãn nhu cầu hiểu biết của
mình về thế giới con người luôn tìm mọi cách để thỏa mãn nhu cầu đó để nhằm mục đích
cải biến thế giới. Các nhà khoa học đã phân sự hiểu biết của con người dựa trên các cấp
độ khác nhau để đo lường chúng.
Kinh nghiệm được xem cấp độ thấp của nhận thức. Vậy kinh nghiệm được hiểu theo
một cách đơn giản nhất đó chính việc con người nhận thức này sẽ hình thành từ sự
quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, hội hay trong các thí nghiệm
khoa học. Đến cuối cùng thì tri thức kinh nghiệm là kết quả đạt được của nhận thức kinh
nghiệm. Từ đó các nhà kho học đã phân chia tri thức kinh nghiệm thành hai loại: tri thức
kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa học.
Sự không ngừng phát triển trong sự tác động lẫn nhau của thực tiễn và lý luận đã thể hiện
được sự tống nhất giữ chúng. Trong quá trình tác động lẫn nhau thì thực tiễn đóng vai trò
là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, củaluận và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân
lý.
Như đã khẳng định ở trên là thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận
thức. Tai sao lại được nhận định như vậy là vì:
Thực tiến được con người dùng để liên hệ vói thế giới bên ngoài, bởi thế giới khách
quan bên ngoài chỉ được nhận thức khi thông qua hoạt động thực tiễn. Bởi vì những nhu
cầu, nhiệm vụ, cách thức khuynh hướng vận động, phát triển của nhận thức đều được
thực tiễn đề ra và nó được xác định là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức.
Những nhu cầu khách quan còn người tạo ra đó chính cải tạo thế giới phải giải
thích. Chính nhu cầu này bắt buộc con người phải tác động trực tiếp vào các sự vật,
hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Đồng thời sẽ làm cho sự vật biến đổi
vận động qua đó bộc lộ các thuộc tính, những mối liên hệ bên trong giúp con người nhận
thức được bản chất, quy luật vận động phát triển của thế giới. Dựa vào đó để con
người có thể hình thành các lý luậnlý thuyết kho học nhất định. Đó chính là sự thống
nhất giữ lý thuyết và thực tiễn.
Từ những điểm trên, chúng ta cần quán triệt những điểm vận dụng sau:
Một là, nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn.
Hai là, nhận thức phải dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn.
Ba là, phải coi trọng công tác tổng kết kinh nghiệm thực tiễn.
Trong thực tiễn thì hoạt động bản, đầu tiên của đó chính hoạt động sản xuất.
Trong hoạt động này con người s dụng những phương tiện thích hợp tác động vào tự
nhiên để tạo ra của cải vật chất. Từ đó, nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của con người
và xã hội.
Những hoạt động của các tổ chức cộng đồng người khác nhau nhằm cải biến các mối
quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển thì được gọi chung lại thành hoạt động chính
trị xã hội. Đây là những hoạt động làm cải biến mối quan hệ xã hội, làm thay đổi các chế
độ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển.
Vận dụng nguyên tắc này trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay:
Việc Đảng ta tổng kết những bài học Đại hội VI, lần đầu tiên chỉ sai lầm chủ quan,
duy ý chí, coi thường các quy luật khách quan dẫn tới làm sai, làm hỏng và phải sửa chữa
trong các chính sách xây dựng kinh tế, phát triền văn hoá có ý nghĩa tự giải phóng và mở
đường cho sự phát triển mới rất to lớn.
Trên thực tế, đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo một sự tương đồng về hoàn
cảnh, nội dung ý nghĩa như”Chính sách kinh tế mới của Lênin” (NEP). Với đổi mới,
quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta đã ngày
được xác định hơn. thấm nhuần quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm thực tiễn
quan điểm phát triển.
Lý luận về thực tiễn trong sự nghiệp phát triển kinh tế và đổi mới kinh tế hiện nay:
Công cuộc đổi mới chính thức bắt đầu từ việc Đảng ta thừa nhận cho phép phát triển
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo chế thị trường. Đó một tất yếu
khách quan khi vào thời kỳ quá độ như nước ta hiện nay. Phải dung hoà tồn tại
nhiều thành phần kinh tế một tất yếu do lịch sử để lại song đưa chúng cùng tồn tại
phát triển mới một vấn đề nan giải, khó khăn. Bên cạnh việc thừa nhận sự tồn tại của
kinh tế tư bản tư nhân, đương nhiên phải thường xuyên đấu tranh với xu hướng tự phát tư
bản chủ nghĩa những mặt tiêu cực trong các thành phần kinh tế, giải quyết mâu thuẫn
tồn tại trong sản xuất giữa chúng để cùng phát triển.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta cung cấp một bài học to lớn về nhận thức. Đóbài học về
quán triệt quan điểm thực tiễn -nguyên tắc bản của chủ nghĩa Mác -Lênin, quan điểm
cơ bản và hàng đầu của triết học Mác xít. Sự nghiệp đổi mới với tính chất mới mẻ và khó
khăn của đòi hỏi phải luận khoa học soi sáng. Sự khám phá về luận phải trở
thành tiền đề và điều kiện cơ bản làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động thức tiễn. Tuy
nhiên, luận không bỗng nhiên cũng không thể chờ chuẩn bị xong xuôi về
luận rồi mới tiến hành đổi mới. Hơn nữa, thực tiễn lại là cơ sở để nhận thức, của lý luận.
Phải qua thực tiễn rồi mới có kinh nghiệm, mới có cơ sở đề khái quát thành lý luận.
Vì vậy, quá trình đổi mới ở nước ta chính là quá trình vừa học vừa làm, vừa làm vừa tổng
kết luận, đúc rút thành quan điểm, thành đường lối để rồi quay trở lại quá trình đổi
mới. Có những điều chúng ta phải mò mẫm trong thực tiễn, phải trải qua thể nghiệm, phải
làm rồi mới biết, thậm chí có nhiều điều phải chờ thực tiễn. Ví dụ như vấn đè chống lạm
phát, vấn đề khoán trong nông nghiệp, vấn đề phân phối sản phẩm... Trong quá trình đó,
tất nhiên sẽ không tránh khỏi việc phải trả giá cho những khuyết điểm, lệch lạc nhất định.
đây, việc bám sát thực tiễn, phát huy óc sáng tạo của cán bộ nhân dân rất quan
trọng. Trên cơ sở, phương hướng chiến lược đúng, hãy làm rồi thực tiễn sẽ cho ta hiểu
sự vật hơn nữa -đó là bài học không chỉ của sự nghiệp kháng chiến chống ngoại xâm
còn là bài học của sự nghiệp đổi mới vừa qua và hiện nay.
Trong khi đề cao vai trò của thực tiễn, Đảng ta không hề hạ thấp, không hề coi nhẹ
luận. Quá trình đổi mới quá trình Đảng ta không ngừng nâng cao trình độ luận của
mình, cố gắng phát triển lý luận, đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nó được thể hiện qua năm bước chuyển của đổi mới tư
duy phù hợp với sự vận động của thực tiễn cuộc sống trong những hoàn cảnh điều
kiện mới
1. Bước chuyển thứ nhất:
Từ duy, dựa trên hình kinh tế hiện vật với sự tuyệt đối hoá sở hữu hội (Nhà
nước tập thể) với sự phát triển vượt trước của quan hệ sản xuất đối với sự phát triền
của lực lượng sản xuất dẫn tới hậu quả kìm hãm sự phát triển sản xuất... sang tư duy mới.
Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo trong sự thống nhất biện chứng với tính đa dạng các hình thức sở hữu, đa dạng
các hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động làm đặc trưng chủ yếu nhằm thúc
đẩy sản xuất phát triển.
Đây chính là bước chuyển căn bản mà có ý nghĩa sâu xa vì nó là tôn trọng quy luật khách
quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất lực lượng sản xuất; tuỳ thuộc vào trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất mà từng bước thiết lập quan hệ sản xuất cho phù hợp .
2. Bước chuyển thứ hai:
Từ tư duy quản lý dựa trên mô hình một nền kinh tế chỉ huy tập trung, kế hoạch hoá tuyệt
đối với chế bao cấp bình quân sang duy quản mới thích ứng với nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa
3. Bước chuyển thứ ba:
Đó là tiến hành đổi mới hệ thống chính trị, từ chế độ tập trung quan liêu với phương thức
quản hành chính mệnh lệnh sang dân chủ hoá các lĩnh vực của đời sống hội, thực
hiện dân chủ toàn diện.
4. Bước chuyển thứ tư:
Đổi mới quan niệm về sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa hội ở một nước phải
xuất phát từ chủ nghĩa Mác -Lê nin trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước đó.
Và đây cũng chính là tính khách quan, là cơ sở khách quan quy định nhận thức và những
tìm tòi sáng tạo của chủ thể lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nó cũng đồng
thời một lần nữa làm sáng tỏ quan điểm thực tiễn chi phối sự hoạch định đường lối chính
sách.
5. Bước chuyển thứ năm:
Đó sự hình thành quan niệm mới của Đảng ta về Chủ nghĩa hội những nhận thức
mới về nhân tố con người.
Sức mạnh của chủ nghĩa Mác - nin chỗ trong khi khái quát thực tiễn cách mạng,
lịch sử hội, vạch quy luật khách quan của sự phát triển, dự kiến những khuynh
hướng bản của sự tiến hoá hội. Trong giai đoạn hiện nay của sự nghiệp xây dựng
kinh tế hội đòi hỏi phải nắm vững vận dụng sáng tạo góp phần phát triển chủ
nghĩa Mác -Lênin. Để khắc phục những quan niệm lạc hậu trước đây cần chúng ta phải
đẩy mạnh công tác nghiên cứu luận, tổng kết hệ thống sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới. Có như vậy, lý luận mới thực hiện vai trò tích
cực của mình đối với thực tiễn.
Đổi mới nhận thức lý luận và công tác lý luận là một quá trình phức tạp, đòi hỏi phải đấu
tranh với tính bảo thủsức ỳ của những quan niệm lý luận cũ. đồng thời, đấu tranh với
những tư tưởng, quan niệm cực đoan từ bỏ những nguyên tắc bản của chủ nghĩa Mác
-Lê nin, phủ định sạch trơn mọi giá trị, mọi thành tựu của chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại đổi mới tư duy chỉ đạo trong sự nghiệp đổi mới nói chung là một bộ phận không
thể thiếu được của sự phát triển xã hội cũng như sự phát triển kinh tế xã hội nước ta hiện
nay. Điều đó còn cho thấy rằng chỉ gắn luận với thực tiễn mới thể hành động
đúng đắn phù hợp với quá trình đổi mới nước ta hiện nay. Sự khám phá về luận
phải trở thành tiền đề làm sở cho sự đổi mới trong hoạt động thực tiễn. Thực tiễn
chính động lực, sở của nhận thức, luận. vậy cần khắc phục ngay những
khiếm khuyết sai lầm song cũng phải tìm ra giải pháp khắc phục để hạn chế sự sai sót
thiệt hại.
| 1/6

Preview text:

1. Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc lịch sử - cụ thể. Vì sao trong nhận thức
và trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải tôn trọng nguyên tắc lịch sử - cụ
thể? Hãy vận dụng nguyên tắc này trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay?

Quan điểm lịch sử cụ thể là quan điểm mà khi nghiên cứu và xem xét hiện tượng, sự vật
hay sự việc chúng ta phải quan tâm đến tất cả các yếu tố từ khách quan đến chủ quan có liên quan đến sự vật.
Cơ sở lý luận của nguyên tắc lịch sử – cụ thể bao gồm toàn bộ nội dung của hai nguyên
lý là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển
Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật là hai nguyên lý cơ bản và đóng vai trò
xương sống trong phép duy vật biện chứng của triết học Mác – Lênin khi xem xét, kiến
giải sự vật, hiện tượng. Trong hệ thống đó nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên
lý về sự phát triển là hai nguyên lý khái quát nhất. Nội dung hai nguyên lý cơ bản như sau:
 Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là nguyên tắc lý luận xem xét sự vật, hiện
tượng khách quan tồn tại trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn nhau tác động, ảnh
hưởng lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của
một hiện tượng trong thế giới.
 Nguyên lý về sự phát triển là nguyên tắc lý luận mà trong trong đó khi xem xét sự
vật, hiện tượng khách quan phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn luôn vận động
và phát triển (vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém
hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật).
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn nếu tôn trọng nguyên tắc lịch sử – cụ thể sẽ giúp nhận thấy:
 Sự vật đang (đã hay sẽ) tồn tại thông qua những chất, lượng nào; thể hiện qua
những độ nào; đang (đã hay sẽ) thực hiện những bước nhảy nào để tạo nên những chất, lượng mới nào…
 Sự vật đang (đã hay sẽ) bị tác động bởi những mâu thuẫn nào; những mâu thuẫn
đó đang nằm ở giai đoạn nào, có vai trò như thế nào đến sự vận động, phát triển của sự vật…
 Sự vật đang (đã hay sẽ) trải qua những lần phủ định biện chứng nào; cái cũ nào
đang (đã hay sẽ) phải mất đi, cái mới nào đang (đã hay sẽ) xuất hiện…
 Trong mối quan hệ với những sự vật khác, những điều gì được coi là những cái
riêng hay cái đơn nhất, điều gì là cái chung hay cái đặc thù/ cái phổ biến; chung
quy định nhau, chuyển hóa lẫn nhau như thế nào
 Bản chất của sự vật là gì, nó được thể hiện qua những hiện tượng nào; hiện tượng
nào là giả tưởng, hiện tượng nào là điển hình
 Nội dung của sự vật là gì, nó đang (đã hay sẽ) tồn tại thông qua những hình thức
nào; hình thức nào phù hợp với nội dung của sự vật, hình thức nào không phù hợp
với nội dung, cái gì làm cho nội dung của sự vật biến đổi
 Trong bản thân sự vật, hiện thực là gì; hiện thực đó đang (đã hay sẽ) nảy sinh ra
những khả năng nào; mỗi khả năng đó trong những điều kiện cụ thể nào có độ tất
yếu hiện thực hóa ra sao…
Tóm lại, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn nếu không tôn trọng nguyên tắc lịch sử –
cụ thể sẽ mang lại những hậu quả rất nghiệm trọng, ta sẽ luôn nhìn nhận sự vật hiện
tượng một cách phiến diện, trừu tượng và sẽ không bao giờ giải quyết được các mâu
thuẫn; sẽ không bao giờ có được những phương hướng, hành động đúng khi giải quyết vấn đề.
Đảng nhấn mạnh hơn nhiều đến sự cần thiết phải nắm vững các nguyên tắc và phương
pháp luận biện chứng duy vật vào phân tích, đánh giá thực tiễn, phải thấm nhuần nguyên
tắc toàn diện và nguyên tắc lịch sử cụ thể trong nghiên cứu, nhận định tính hình phát triển
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, công tác lý luận, khoa học, giáo dục, để vận dụng tốt
hơn vào xây dựng đấy nước.
Vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể từ năm 1930, Đảng ta đã lựa chọn con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội. Ngày nay để xây dựng thành công chủ nghĩ xã hội, Đảng ta đã đề ra
đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; ưu
tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo
định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên
ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, hiệu quả và bên vững;
thực hiện tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống
vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội, bảo vệ
cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế xã hội tăng cường quốc phòng an ninh;
bảo vệ và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
Vận dụng nguyên tắc lịch sử cụ thể đã giúp đất nước chúng ta đạt được những thành tựu
trong quá trình đổi mới kinh tế -xã hội. Vận dụng phương pháp luận biện chứng của chủ
nghĩa duy vật về quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể Đảng đã đổi mới tư
duy lý luận về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bắt đầu từ đại hội VI (1986)
Đảng ta đã đề ra phương hướng đổi mới toàn diện và dần hoàn thiện qua các kì đại hội
đại hội đổi đường lối đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa, nhiều thành phần, cho phép
và khuyến khích kinh tế tư nhân, cá thể phát triển, chủ ý đảm bảo hợp lý lợi ích cá nhân
làm động lực trực tiếp cho phát triển kinh tế, điều chỉnh cơ cấu kinh tế vĩ mô, sắp xếp lại
các lĩnh vực và khu vực sản xuất chính, có chính sách biến đổi dịch vụ sản xuất kinh
doanh và đời sống là đời sống thành một bộ phận quan trọng trong cơ cấu kinh tế, do đất
nước đã xây dựng được nền kinh tế có cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp – dịch vụ tương
đối hợp lý, gắn liền với trong nước và thị trường quốc tế
2. Tại sao trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải dựa trên
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn? Hãy vận dụng nguyên tắc
này trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay?

Trong quá trình hoạt động để phát triển và tồn tại thì để thỏa mãn nhu cầu hiểu biết của
mình về thế giới con người luôn tìm mọi cách để thỏa mãn nhu cầu đó để nhằm mục đích
cải biến thế giới. Các nhà khoa học đã phân sự hiểu biết của con người dựa trên các cấp
độ khác nhau để đo lường chúng.
Kinh nghiệm được xem là cấp độ thấp của nhận thức. Vậy kinh nghiệm được hiểu theo
một cách đơn giản nhất đó chính là việc con người có nhận thức này sẽ hình thành từ sự
quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội hay trong các thí nghiệm
khoa học. Đến cuối cùng thì tri thức kinh nghiệm là kết quả đạt được của nhận thức kinh
nghiệm. Từ đó các nhà kho học đã phân chia tri thức kinh nghiệm thành hai loại: tri thức
kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa học.
Sự không ngừng phát triển trong sự tác động lẫn nhau của thực tiễn và lý luận đã thể hiện
được sự tống nhất giữ chúng. Trong quá trình tác động lẫn nhau thì thực tiễn đóng vai trò
là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, của lí luận và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Như đã khẳng định ở trên là thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận
thức. Tai sao lại được nhận định như vậy là vì:
Thực tiến được con người dùng để liên hệ vói thế giới bên ngoài, bởi bì thế giới khách
quan bên ngoài chỉ được nhận thức khi thông qua hoạt động thực tiễn. Bởi vì những nhu
cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động, phát triển của nhận thức đều được
thực tiễn đề ra và nó được xác định là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức.
Những nhu cầu khách quan mà còn người tạo ra đó chính là cải tạo thế giới và phải giải
thích. Chính nhu cầu này mà bắt buộc con người phải tác động trực tiếp vào các sự vật,
hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Đồng thời sẽ làm cho sự vật biến đổi và
vận động qua đó bộc lộ các thuộc tính, những mối liên hệ bên trong giúp con người nhận
thức được bản chất, quy luật vận động và phát triển của thế giới. Dựa vào đó để con
người có thể hình thành các lý luận và lý thuyết kho học nhất định. Đó chính là sự thống
nhất giữ lý thuyết và thực tiễn.
Từ những điểm trên, chúng ta cần quán triệt những điểm vận dụng sau:
Một là, nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn.
Hai là, nhận thức phải dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn.
Ba là, phải coi trọng công tác tổng kết kinh nghiệm thực tiễn.
Trong thực tiễn thì hoạt động cơ bản, đầu tiên của nó đó chính là hoạt động sản xuất.
Trong hoạt động này con người sử dụng những phương tiện thích hợp tác động vào tự
nhiên để tạo ra của cải vật chất. Từ đó, nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội.
Những hoạt động của các tổ chức cộng đồng người khác nhau nhằm cải biến các mối
quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển thì được gọi chung lại thành hoạt động chính
trị xã hội. Đây là những hoạt động làm cải biến mối quan hệ xã hội, làm thay đổi các chế
độ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển.
Vận dụng nguyên tắc này trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay:
Việc Đảng ta tổng kết những bài học ở Đại hội VI, lần đầu tiên chỉ rõ sai lầm chủ quan,
duy ý chí, coi thường các quy luật khách quan dẫn tới làm sai, làm hỏng và phải sửa chữa
trong các chính sách xây dựng kinh tế, phát triền văn hoá có ý nghĩa tự giải phóng và mở
đường cho sự phát triển mới rất to lớn.
Trên thực tế, đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo có một sự tương đồng về hoàn
cảnh, nội dung và ý nghĩa như”Chính sách kinh tế mới của Lênin” (NEP). Với đổi mới,
quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta đã ngày
được xác định rõ hơn. Nó thấm nhuần quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm thực tiễn và quan điểm phát triển.
 Lý luận về thực tiễn trong sự nghiệp phát triển kinh tế và đổi mới kinh tế hiện nay:
Công cuộc đổi mới chính thức bắt đầu từ việc Đảng ta thừa nhận và cho phép phát triển
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là một tất yếu
khách quan khi ở vào thời kỳ quá độ như ở nước ta hiện nay. Phải dung hoà và tồn tại
nhiều thành phần kinh tế là một tất yếu do lịch sử để lại song đưa chúng cùng tồn tại và
phát triển mới là một vấn đề nan giải, khó khăn. Bên cạnh việc thừa nhận sự tồn tại của
kinh tế tư bản tư nhân, đương nhiên phải thường xuyên đấu tranh với xu hướng tự phát tư
bản chủ nghĩa và những mặt tiêu cực trong các thành phần kinh tế, giải quyết mâu thuẫn
tồn tại trong sản xuất giữa chúng để cùng phát triển.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta cung cấp một bài học to lớn về nhận thức. Đó là bài học về
quán triệt quan điểm thực tiễn -nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác -Lênin, quan điểm
cơ bản và hàng đầu của triết học Mác xít. Sự nghiệp đổi mới với tính chất mới mẻ và khó
khăn của nó đòi hỏi phải có lý luận khoa học soi sáng. Sự khám phá về lý luận phải trở
thành tiền đề và điều kiện cơ bản làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động thức tiễn. Tuy
nhiên, lý luận không bỗng nhiên mà có và cũng không thể chờ chuẩn bị xong xuôi về lý
luận rồi mới tiến hành đổi mới. Hơn nữa, thực tiễn lại là cơ sở để nhận thức, của lý luận.
Phải qua thực tiễn rồi mới có kinh nghiệm, mới có cơ sở đề khái quát thành lý luận.
Vì vậy, quá trình đổi mới ở nước ta chính là quá trình vừa học vừa làm, vừa làm vừa tổng
kết lý luận, đúc rút thành quan điểm, thành đường lối để rồi quay trở lại quá trình đổi
mới. Có những điều chúng ta phải mò mẫm trong thực tiễn, phải trải qua thể nghiệm, phải
làm rồi mới biết, thậm chí có nhiều điều phải chờ thực tiễn. Ví dụ như vấn đè chống lạm
phát, vấn đề khoán trong nông nghiệp, vấn đề phân phối sản phẩm... Trong quá trình đó,
tất nhiên sẽ không tránh khỏi việc phải trả giá cho những khuyết điểm, lệch lạc nhất định.
Ở đây, việc bám sát thực tiễn, phát huy óc sáng tạo của cán bộ và nhân dân là rất quan
trọng. Trên cơ sở, phương hướng chiến lược đúng, hãy làm rồi thực tiễn sẽ cho ta hiểu rõ
sự vật hơn nữa -đó là bài học không chỉ của sự nghiệp kháng chiến chống ngoại xâm mà
còn là bài học của sự nghiệp đổi mới vừa qua và hiện nay.
Trong khi đề cao vai trò của thực tiễn, Đảng ta không hề hạ thấp, không hề coi nhẹ lý
luận. Quá trình đổi mới là quá trình Đảng ta không ngừng nâng cao trình độ lý luận của
mình, cố gắng phát triển lý luận, đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nó được thể hiện qua năm bước chuyển của đổi mới tư
duy phù hợp với sự vận động của thực tiễn cuộc sống trong những hoàn cảnh và điều kiện mới
1. Bước chuyển thứ nhất:
Từ tư duy, dựa trên mô hình kinh tế hiện vật với sự tuyệt đối hoá sở hữu xã hội (Nhà
nước và tập thể) với sự phát triển vượt trước của quan hệ sản xuất đối với sự phát triền
của lực lượng sản xuất dẫn tới hậu quả kìm hãm sự phát triển sản xuất... sang tư duy mới.
Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo trong sự thống nhất biện chứng với tính đa dạng các hình thức sở hữu, đa dạng
các hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động làm đặc trưng chủ yếu nhằm thúc
đẩy sản xuất phát triển.
Đây chính là bước chuyển căn bản mà có ý nghĩa sâu xa vì nó là tôn trọng quy luật khách
quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất; tuỳ thuộc vào trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất mà từng bước thiết lập quan hệ sản xuất cho phù hợp . 2. Bước chuyển thứ hai:
Từ tư duy quản lý dựa trên mô hình một nền kinh tế chỉ huy tập trung, kế hoạch hoá tuyệt
đối với cơ chế bao cấp và bình quân sang tư duy quản lý mới thích ứng với nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa 3. Bước chuyển thứ ba:
Đó là tiến hành đổi mới hệ thống chính trị, từ chế độ tập trung quan liêu với phương thức
quản lý hành chính mệnh lệnh sang dân chủ hoá các lĩnh vực của đời sống xã hội, thực
hiện dân chủ toàn diện. 4. Bước chuyển thứ tư:
Đổi mới quan niệm về sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội ở một nước phải
xuất phát từ chủ nghĩa Mác -Lê nin trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước đó.
Và đây cũng chính là tính khách quan, là cơ sở khách quan quy định nhận thức và những
tìm tòi sáng tạo của chủ thể lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nó cũng đồng
thời một lần nữa làm sáng tỏ quan điểm thực tiễn chi phối sự hoạch định đường lối chính sách.
5. Bước chuyển thứ năm:
Đó là sự hình thành quan niệm mới của Đảng ta về Chủ nghĩa Xã hội những nhận thức
mới về nhân tố con người.
Sức mạnh của chủ nghĩa Mác - Lê nin là ở chỗ trong khi khái quát thực tiễn cách mạng,
lịch sử xã hội, nó vạch rõ quy luật khách quan của sự phát triển, dự kiến những khuynh
hướng cơ bản của sự tiến hoá xã hội. Trong giai đoạn hiện nay của sự nghiệp xây dựng
kinh tế xã hội đòi hỏi phải nắm vững và vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ
nghĩa Mác -Lênin. Để khắc phục những quan niệm lạc hậu trước đây cần chúng ta phải
đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết có hệ thống sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới. Có như vậy, lý luận mới thực hiện vai trò tích
cực của mình đối với thực tiễn.
Đổi mới nhận thức lý luận và công tác lý luận là một quá trình phức tạp, đòi hỏi phải đấu
tranh với tính bảo thủ và sức ỳ của những quan niệm lý luận cũ. đồng thời, đấu tranh với
những tư tưởng, quan niệm cực đoan từ bỏ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác
-Lê nin, phủ định sạch trơn mọi giá trị, mọi thành tựu của chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại đổi mới tư duy chỉ đạo trong sự nghiệp đổi mới nói chung là một bộ phận không
thể thiếu được của sự phát triển xã hội cũng như sự phát triển kinh tế xã hội nước ta hiện
nay. Điều đó còn cho thấy rằng chỉ có gắn lý luận với thực tiễn mới có thể hành động
đúng đắn và phù hợp với quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay. Sự khám phá về lý luận
phải trở thành tiền đề và làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động thực tiễn. Thực tiễn
chính là động lực, là cơ sở của nhận thức, lý luận. Vì vậy cần khắc phục ngay những
khiếm khuyết sai lầm song cũng phải tìm ra giải pháp khắc phục để hạn chế sự sai sót và thiệt hại.