Phân tích cung cà phê | Kinh tế vi mô | Trường đại học Thương mại

Phân tích cung cà phê | Kinh tế vi mô | Trường đại học Thương mại được trình bày khoa học, chi tiết giúp cho các bạn sinh viên chuẩn bị bài một cách nhanh chóng và đầy đủ. Các bạn xem, tải về ở bên dưới.

lOMoARcPSD|4053484 8
680000
688400
1. CUNG
a. Diện tích
Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn, diện tích phê
của Việt Nam trong giai đoạn từ 2018-2020 nhiều biến động nhưng nhìn chung
xu hướng tăng. Như vậy, diện tích plớn đã đáp ứng được nhu cầu của thị
trường, không để rơi vào tình trạng thiếu hụt. Tuy nhiên, diện tích gieo trồng
phê năm 2020 giảm nguyên nhân do một số diện tích phê vối tái canh chưa
cho thu hoạch chuyển sang cây trồng hiệu quả như rau, hoa, 1 số yếu tố
khách quan khác….
800000
700000
600000
500000
400000
300000
692600
Column2
200000
100000
0 0
Năm 2018 Năm 2019 Năm 2020
Biểu đồ 1. Diện tích trồng phê của Việt Nam giai đoạn 2018-2020.
Năm 2018, diện tích phê của cả nước rất lớn, khoảng 688.400 ha. Trong
đó, phê Robusta chiếm khoảng 670000 ha. phê Arabica, diện tích vào
khoảng 50.000 ha.
1
lOMoARcPSD|4053484 8
Bảng 1. Diện tích ước tính của phê tại các tỉnh thành năm 2018
Tỉnh
Diện tích
(Nghìn ha)
Lâm
Đồng
Daklak
Quảng Tr
Điện Biên
Sơn La
Arabica
19
4
5
5
14
Robusta
164
206
158
91
17
Từ thống kê có thể thấy, cà phê được trồng nhiều nhất ở các tỉnh Lâm Đồng,
Đaklak, Quảng Trị, Sơn La... Chính vì thế, đây cũng là nơi tập trung nhiều các nhà
máy sản xuất, chế biến phê. Đặc biệt theo phương pháp ướt. Nổi bật hơn cả
với các công ty như Olam, Acom, Hồ Phượng….Chính vậy, những nơi này,
sản lượng cà phê rất lớn.
Năm 2019, diện tích phê giảm nhưng không nhiều, khoảng 692.600 ha.
Theo bộ NN&PTNT, cây phê được trồng tại 20 tỉnh. Nhiều nhất các tỉnh Đak
Lak với gần 203.000 ha, Lâm Đồng hơn 170.000 ha Đak Nông với khoảng trên
130.000 ha. Đặc biệt, việc trồng cây cà phê có nhiều chuyển biến và cải thiện đáng
kể so với năm 2018. Theo báo Lâm Đồng, với việc áp dụng tiêu chuẩn VietGAP,
GlobalGAP chiếm khoảng 75.000 ha phê. Đồng thời, với việc tái canh cải tạo
khoảng 8.300 ha phê, diện tích phê thời điểm này gia tăng đáng kể, lên tới
khoảng 66.000 ha.
2
lOMoARcPSD|4053484 8
Đến năm 2020, diện tích phê xu hướng giảm, giảm còn 680.000 ha
(bộ NN& PTNT), giảm khoảng 3% so với năm 2019. Việc giảm sút xuất hiệncác
tỉnh Lâm Đồng (174.142 ha) một số tỉnh Tây Nguyên. Sở sự giảm sút như
vậy do điều kiện thời tiết không thuận lợi, lượng mưa ít, thời tiết nắng nóng
khô hạn đặc biệt cuộc khủng hoảng cung. Chính thế, người nông dân
chuyển sang trồng các loại cây trồng khác như: bơ, sầu riêng…
b. Sản lượng
1800000
1600000
1400000
1200000
1000000
800000
Column2
600000
400000
200000
0
Năm 2018 Năm 2019 Năm 2020
Biểu đồ 2. Sản lượng phê Việt Nam 2018-2020
Năm 2018, sản lượng phê đạt mức 1.62 triệu tấn, tăng 94000 tấn so với
năm 2017. Các tỉnh Tây Nguyên trên 582000 ha phê, Đak Lak ước đạt trên
450.000 tấn với năng suất đạt bình quân 2,54 tấn/ ha, kể đến là Lâm Đồng với năng
suất trung bình 27 tạ/ha, kế đến lần lượt Đak Nông, Gia Lai,….
ICO ước tính sản xuất tại Việt Nam tăng 4,4% lên 31,2 triệu bao trong
năm2019. Sản lượng phê lên tới 1,788 triệu tấn. Sản ợng sự biến động
trong năm 2019. Những tháng đầu năm, sản lượng xu hướng giảm, giảm 1,3%
3
1788800
1620000
1740000
0
lOMoARcPSD|4053484 8
xuống 30 triệu bao do thời tiết khắc nghiệt. Tuy nhiên, từ T9/2019, sản lượng được
phục hồi nhanh chóng đạt kỉ lục với khoảng 32 triệu bao. Chính vậy, năng
suât phê nước ta đạt khoảng 26 tạ/ ha, gấp 3 lần so với thế giới. phê đã trở
thành một mặt hàng nông sản chiến lược của Việt Nam.
Năm 2020, sản lượng giảm xuống khoảng 1,74 triệu tấn. Trước đó hồi tháng
11, USDA dự báo sản lượng phê của Việt Nam niên vụ 2020 - 2021 sẽgiảm
3,5% so với niên vụ 2019/20, xuống còn 30,2 triệu bao (mỗi bao 60 kg). Một số
tỉnh thành dẫn đầu về sản lượng cũng xu hướng giảm: Đak Lak với 476000 tấn,
giảm hơn 1600 tấn( vov.vn); Đak Nông ước lượng khoảng 306.170 tấn, giảm 20-
30% tấn so với niên vụ năm trước ( truyền hình Đak Nông),…
c. Các yếu tố ảnh hưởng tới Cung phê
*Giá của các yếu tố đầu vào (chi phí sản xuất):
Chi phí nhân công giữa các năm sự thay đổi, tuy nhiên thường rơi vào
tình trạng “khát” nhân công thu hái phê. Chẳng hạn năm 2018, giá nhân ng
hái phê rơi vào tầm giá 220.000-240.000 đồng/người/ngày; đến năm 2019, giá
nhân công 260.000-270.000 đồng/người/ngày; năm 2020 giá nhân công đã rơi
vào 290.000 đồng/người/ngày...
thể thấy giá nhân công ngày càng tăng còn thể tiếp tục tăng trong
tương lai. Cùng với đó sự tác động của dịch bệnh Covid-19 trong vài năm gần
đây khiến cho ngành cà phê càng nhiều biến động.
Bên cạnh yếu tố về diện tích trồng phê, chi phí nhân công đã được đề
cập tại trước đó, giá cà phê còn chịu sự chi phối của các yếu tố đầu vào khác, ví dụ
như giá của phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, và các loại hàng hoá phụ trợ. Các loại
hàng hoá này tính chất ổn định, không thay đổi quá nhiều, chính thế ít làm
ảnh hưởng tới giá của phê.
4
lOMoARcPSD|4053484 8
*Chính sách của chính phủ:
Những năm gần đây Chính phủ đã những chính sách nhằm phát triển
ngành phê Việt Nam. Để củng cố vị thế nước xuất khẩu số một thế trước
những đối thủ đang dần lớn mạnh như Indonexia hay Braxin.
Chính sách đất đai: Phối hợp với các quan hữu quan, nghiên cứu, đề
xuất với Chính phủ cácchính sách khuyến khích, hỗ tr nông dân, các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tổ chức sản xuất lớn, an toàn, bền vững như:
Khuyến khích các hộ nông dân trồng phê liên kết sản xuất dưới các hình
thức tổ hợp tác, hợp tác để sản xuất, chế kinh doanh.
Người trồng cà phê trong vùng quy hoạch được dùng quyền sở hữu đất và tài
sản trên đất để góp cổ phần hoặc chuyển nhượng để hình thành các doanh nghiệp
nông nghiệp, hoặc liên doanh liên kết sản xuất với các doanh nghiệp chế biến cùng
kinh doanh và hưởng lợi.
Xây dựng các chính sách hỗ trợ nông dân xây dựng sân phơi cà phê.
Phối hợp với các địa phương giám sát việc trồng mới phê; những diện
tích phê không theo quy hoạch skhông được hưởng các quyền lợi, chính sách
từ phía Nhà nước doanh nghiệp.
Chính sách tài chính, tín dụng: Chính phủ đã thông qua việc gia hạn nợ tín
dụng xuất khẩu cho các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê.
Theo Chỉ thị số 01 ngày 23/02/2016 về việc tổ chức thực hiện chính sách
tiền tệ đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả: Chính sách tín dụng
phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn theo Nghị định số 53/2015/NĐ-CP; Cho
vay phục vụ tái canh cà phê tại các tỉnh khu vực Tây Nguyên…
5
lOMoARcPSD|4053484 8
*Giá của hàng hóa liên quan trong sản xuất:
Giá của hàng hóa thay thế trong sản xuất:
phê thể được xem như một trong những loại thực phẩm quan trọng
đến nỗi tạo ra một nền kinh tế đáng kinh ngạc cho riêng mình. Gcả hàng hóa
phê đã đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu cũng như cho
chính nước nhà của chúng ta. Bên cạnh sự phổ biến rộng rãi của mình, pđã
vấp phải không ít những thông tin nghiên cứu tiêu cực như làm tăng huyết áp, hay
cafein trong phê thể dẫn đến lo lắng, gián đoạn giấc ngủ. còn chất
gây nghiện,... Cũng chính những điều tiêu cực này một số người đã không còn
lựa chọn phê nữa, thay vào đó những thức uống từ nước ép của trái cây ơi,
trà, sữa... Nói cách khác, các loại đồ uống này chính hàng hóa thay thế của
Càphê, đã tác động rất lớn đến giá cả phê trong sản xuất cũng như ảnh
hưởng rất lớn đến lượng Cung.
Giá của phê ngày càng tăng cộng thêm vào đó những thông tin tiêu
cực, trái chiều liên quan đến sức khỏe của người sử dụng, người tiêu dùng không
khó để nhận ra rằng phê đã đang trở nên đắt đỏ. Nắm bắt được tình hình đó,
cùng khả năng nhanh nhạy của các doanh nghiệp, họ đẩy mạnh sản xuất, tuyên
truyền những mặt hànga thay thế của phê với: giá ổn định, chất lượng tương
đương, thậm chí còn tốt hơn so với phê. Khi đó, thị trường của phê sẽ
thay đổi, số lượng người tiêu dùng ít đi khiến cung bắt buộc phải giảm theo cầu.
nói như vậy nhưng khi nhu cầu của những loại hàng hóa thay thế tăng
lên quá nhiều, cung không đủ cầu dẫn đến giá của chúng cũng sẽ tăng lên. c đó
người tiêu dùng sẽ quay lại sử dụng các sản phẩm phê. lượng cầu phê
tăng, cung nhất định sẽ tăng (đường cung dịch chuyển sang phải).
cũng theo cách lập luận tương tự thì ngược lại. Nếu giá của những hàng
hóa thay thế của phê hạ xuống, khiến cung tăng do nhu cầu sử dụng tăng thì
6
lOMoARcPSD|4053484 8
hiển nhiên, cầu của phê giảm dẫn đến cung giảm đường cung của dịch
chuyển sang trái.
Giá của hàng hóa bổ sung trong sản xuất:
Việt Nam đứng thứ 2 thế giới về sản xuất cà phê, chỉ sau Brazil. Tổ chức Cà
phê quốc tế thông tin xuất khẩu cà phê của Việt Nam vào khoảng 25 triệu bao/năm
với giá trị thu về trung bình 3 tỷ USD. phê trở thành một phần tất yếu trong
cuộc sống của người Việt. Tuỳ vào thói quen sở thích, độ ngon của phê được
mỗi người thưởng thức đánh giá khác nhau. Với những tín đồ ưa thích ngọt thì
một tách phê thêm đường không thể thiếu, bên cạnh đó còn một số nguyên
liệu để tăng hương vị cà phê như sữa, kem thực vật,…
Trong sản xuất, những nguyên liệu bao gồm đường, sữa, kem béo thực vật...
cà phê được coi là hàng hóa bổ sung cho nhau. Khi giá của cà phê tăng lên, nhà
sản xuất phê sẽ tăng lượng cung ra thị trường kéo theo lượng cung hàng hóa
bổ sung: đường, sữa, kem béo thực vật… sẽ tăng lên. Ngược lại, khi giá phê
giảm, lượng cung phê ra thị trường cũng sẽ giảm xuống, nếu nhà sản xuất vẫn
giữ nguyên hoặc gia tăng lượng cung trong khi giá bán ra thị trường quá rẻ thì lợi
nhuận sẽ giảm, thậm chí thua lỗ khi lượng cung phê giảm thì lượng cung
hàng hóa bổ sung như đường, sữa, kem béo thực vật cũng giảm xuống.
hội phát triển kéo theo nhu cầu của con người ngày càng cao, để một
tách cà phê thơm ngon vừa ý lại đáp ứng yêu cầu nhanh gọn, thật đơn giản thì máy
pha phê đã trở thành một trợ thủ đắc lực đối với những tín đồ cà phê.
Chính lẽ đó phê máy pha phê hai hàng hóa bổ sung cho
nhau, khi giá cà phê tăng cao, nhà sản xuất sẽ thúc đẩy sản xuất cà phê, lượng cung
của phê sẽ tăng lên dẫn đến cung của máy pha phê cũng sẽ tăng lên.
Ngược lại, khi giá phê giảm, nhà sản xuất sẽ thu hẹp sản xuất giảm lượng cung
cà phê cung máy pha phê sẽ giảm đi.
7
lOMoARcPSD|4053484 8
*Kỳ vọng về giá:
Cũng giống như người tiêu dùng, các nhà sản xuất cũng đưa ra quyết định
cung cấp dựa vào các vọng. Khi những hạn chế phòng chống Covid-19 được dỡ
bỏ, cho phép các quán phê hoạt động trở lại, các nhà sản xuất lạc quan rằng cầu
phê sẽ tăng lên trong thời gian tới, vậy đã thúc đẩy mở rộng sản xuất, lượng
cung tăng lên và đường cung dịch chuyển qua bên phải.
Ngược lại, khi tình trạng thiếu hụt container rỗng để chở hàng đang trở
thành một nỗi “ám ảnh” với doanh nghiệp vào dịp cao điểm cuối năm và tình trạng
này càng nghiêm trọng hơn trong bối cảnh dịch bệnh. Doanh nghiệp bi quan rằng
không container rỗng để ch hàng, họ sẽ thu hẹp lại sản xuất dẫn đến lượng
cung giảm và đường cung dịch chuyển sang trái.
*Các yếu tố khác
Dịch bệnh:
Cây phê đã đóng góp lớn trong nền nông nghiệp Việt Nam cả trong đời
sống lẫn kinh tế. Như các loại cây trồng khác, phê cũng gặp phải các loại bệnh
khiến chất lượng, sản lượng cà phê giảm, ảnh hưởng tới nguồn cung cho thị trường
như:
Bệnh rệp sáp: gây hại trên nhiều bộ phận của cây, hút nhựa làm cuống
hoa,quả khô rụng; vào mùa khô, rệp xuống gốc cây chích hút nhựa rễ
gốccây làm cây kém phát triển, còi cọc, vàng chế từ từ...
Bệnh rỉ sắt: gây hại trên lá; Khi bị bệnh sẽ vàng rụng hàng loạt, sau
đócành khô, cây sinh trưởng kém, năng suất giảm.
Bệnh nấm hồng: gây bệnh chủ yếu nơi phân cành giáp với thân. Nơi bị
bệnh một lớp bột màu hồng nhạt, rất mịn, đó các bào tử nấm bệnh. Vết bệnh
lớn dần chạy dọc theo cành sau đó lan dần hết cả cành. Khi vết bệnh đã thì
chuyển sang màu trắng xám. trên cành bị nhiễm bệnh sẽ bị ứa vàng, tiếp đến
quả sẽ bị rụng; Nếu nặng cành sẽ bị chết khô.
8
lOMoARcPSD|4053484 8
Bệnh sâu đục thân:
Sâu đục thân mình hồng: Bướm cái đẻ trứng vào vỏ cây, sâu non đục vào
giữa thân cây đùn mạt gỗ ra ngoài. Cây bị hại dễ bị gãy ngang. Sâu thường phá
hoại thân, hoặc cành cấp 1, cấp 2. Sâu thể phá hoại từ cây này sang cây khác,
gây ảnh hưởng đến những nơi sinh trưởng và phát triển của cây.
Sâu đục thân mình trắng: Sâu non sau khi nở sẽ đục vào gỗ, rồi đục ngoằn
nghèo quanh vòng cây, đục tới đâu đùn phân mạt cưa bịt kín tới đó. Đến tuổi 5,
tuổi 6 sâu đục ra phía gần vỏ tạo một khoảng rộng trong phần gỗ hóa nhộng.
Cây phê bị sâu hại toàn bộ phía trên ngọn bị vàng héo, các cành phía dưới
còn xanh tốt, cây mọc thêm nhiều chồi thân; Trên thân cónhững đường lằn nổi lên
theo vòng, vỏ bị nứt nẻ, có những lỗ đục đường kính 2-3mm; Cây dễ bị gãy gục tại
chỗ bị sâu đục; Chẻ dọc thân cây thấy có đường rãnh sâu đục, phát hiện có sâu non
màu trắng ngà, không có chân, toàn thân gồm nhiều đốt.
Không chỉ riêng những loại bệnh tồn tại trên cây phê ảnh hưởng đến
lượng cung phê ngay chính đại dịch Covid-19 của loài người cũng đã ảnh
hướng rất lớn đến thị trường phê. Suốt 2 năm dịch Covid-19 hoành hành, Chính
phủ Việt Nam đã áp dụng các biện pháp hạn chế di chuyển, tụ tập, thậm chí
nghiêm cấm người dân không được ra đường, các công ty tạm ngưng hoạt động...
Cũng từ đó đã tác động ít nhiều đến việc trồng thu hoạch, chế biết, vận
chuyển phê. Khiến Cung phê không đủ để đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng.
Không chỉ trong nước, mà còn trên toàn thế giới. Việt Nam nước xuất khẩu
phê lớn thứ 2 thế giới nhưng trong 2 năm qua việc đóng cửa Trung tâm xuất khẩu
Thành phố Hồ Chí Minh đóng cửa đã ảnh hưởng đến việc xuất khẩu phê các
loại hàng hóa khác đến c nước trên thế giới. Cụ thể trong tháng 8 vừa qua, sản
lượng xuất khẩu pcủa nước ta giảm 8,7% so với tháng 7 xuống còn 111,697
tấn (trích dữ liệu hải quan).
9
lOMoARcPSD|4053484 8
Thời tiết- Khí hậu:
Với tình hình thời tiêt ngày 1 cực đoan như hiện nay, sản lượng , diện tích,
chất lượng sản phẩm phê đang btác động 1 cách tiêu cực. Theo Trung tâm
Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT), nhiệt độ tăng lượng mưa thay đổi
thể khiến nước ta mất 50% diện tích sản xuất phê Robusta hiện tại vào năm
2050.
Về việc canh tác phê:
Các biện pháp canh tác, thâm canh được áp dụng trong truyền thống đã sử
dụng quá nhiều đầu vào (phân bón, tưới tiêu,...) để đạt được năng suất tối đa. Bên
cạnh đó, những hình thức sản xuất với quy nhỏ, phân tán độc lập của các
hộ nông dân đã dẫn đến tình trạng sản xuất chất lượng thấp không ổn định.
10
| 1/10

Preview text:

lOMoARcPSD|40534848 1. CUNG a. Diện tích
Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, diện tích cà phê
của Việt Nam trong giai đoạn từ 2018-2020 có nhiều biến động nhưng nhìn chung
có xu hướng tăng. Như vậy, diện tích cà phê lớn đã đáp ứng được nhu cầu của thị
trường, không để rơi vào tình trạng thiếu hụt. Tuy nhiên, diện tích gieo trồng cà
phê năm 2020 giảm vì nguyên nhân do một số diện tích cà phê vối tái canh chưa
cho thu hoạch và chuyển sang cây trồng hiệu quả như rau, hoa, và 1 số yếu tố khách quan khác…. 800000 700000 600000 500000 400000 Column2 688400 692600 680000 300000 200000 100000 0 0 Năm 2018 Năm 2019 Năm 2020
Biểu đồ 1. Diện tích trồng cà phê của Việt Nam giai đoạn 2018-2020.
Năm 2018, diện tích cà phê của cả nước rất lớn, khoảng 688.400 ha. Trong
đó, cà phê Robusta chiếm khoảng 670000 ha. Cà phê Arabica, diện tích vào khoảng 50.000 ha. 1 lOMoARcPSD|40534848
Bảng 1. Diện tích ước tính của cà phê tại các tỉnh thành năm 2018 Tỉnh Lâm
Daklak Quảng Trị Điện Biên Sơn La Tỉnh khác Đồng Diện tích (Nghìn ha) Arabica 19 4 5 5 14 4 Robusta 164 206 158 91 17 15
Từ thống kê có thể thấy, cà phê được trồng nhiều nhất ở các tỉnh Lâm Đồng,
Đaklak, Quảng Trị, Sơn La... Chính vì thế, đây cũng là nơi tập trung nhiều các nhà
máy sản xuất, chế biến cà phê. Đặc biệt là theo phương pháp ướt. Nổi bật hơn cả
với các công ty như Olam, Acom, Hồ Phượng….Chính vì vậy, ở những nơi này,
sản lượng cà phê là rất lớn.
Năm 2019, diện tích cà phê giảm nhưng không nhiều, khoảng 692.600 ha.
Theo bộ NN&PTNT, cây cà phê được trồng tại 20 tỉnh. Nhiều nhất ở các tỉnh Đak
Lak với gần 203.000 ha, Lâm Đồng hơn 170.000 ha và Đak Nông với khoảng trên
130.000 ha. Đặc biệt, việc trồng cây cà phê có nhiều chuyển biến và cải thiện đáng
kể so với năm 2018. Theo báo Lâm Đồng, với việc áp dụng tiêu chuẩn VietGAP,
GlobalGAP chiếm khoảng 75.000 ha cà phê. Đồng thời, với việc tái canh cải tạo
khoảng 8.300 ha cà phê, diện tích cà phê thời điểm này gia tăng đáng kể, lên tới khoảng 66.000 ha. 2 lOMoARcPSD|40534848
Đến năm 2020, diện tích cà phê có xu hướng giảm, giảm còn 680.000 ha
(bộ NN& PTNT), giảm khoảng 3% so với năm 2019. Việc giảm sút xuất hiện ở các
tỉnh Lâm Đồng (174.142 ha) và một số tỉnh Tây Nguyên. Sở dĩ có sự giảm sút như
vậy là do điều kiện thời tiết không thuận lợi, lượng mưa ít, thời tiết nắng nóng và
khô hạn và đặc biệt là cuộc khủng hoảng dư cung. Chính vì thế, người nông dân
chuyển sang trồng các loại cây trồng khác như: bơ, sầu riêng… b. Sản lượng 1800000 1600000 1400000 1200000 1000000 1788800 1740000 Column2 1620000 800000 600000 400000 200000 0 0 Năm 2018 Năm 2019 Năm 2020
Biểu đồ 2. Sản lượng cà phê Việt Nam 2018-2020
Năm 2018, sản lượng cà phê đạt mức 1.62 triệu tấn, tăng 94000 tấn so với
năm 2017. Các tỉnh Tây Nguyên có trên 582000 ha cà phê, Đak Lak ước đạt trên
450.000 tấn với năng suất đạt bình quân 2,54 tấn/ ha, kể đến là Lâm Đồng với năng
suất trung bình 27 tạ/ha, kế đến lần lượt là Đak Nông, Gia Lai,….
ICO ước tính sản xuất tại Việt Nam tăng 4,4% lên 31,2 triệu bao trong
năm2019. Sản lượng cà phê lên tới 1,788 triệu tấn. Sản lượng có sự biến động
trong năm 2019. Những tháng đầu năm, sản lượng có xu hướng giảm, giảm 1,3% 3 lOMoARcPSD|40534848
xuống 30 triệu bao do thời tiết khắc nghiệt. Tuy nhiên, từ T9/2019, sản lượng được
phục hồi nhanh chóng và đạt kỉ lục với khoảng 32 triệu bao. Chính vì vậy, năng
suât cà phê nước ta đạt khoảng 26 tạ/ ha, gấp 3 lần so với thế giới. Cà phê đã trở
thành một mặt hàng nông sản chiến lược của Việt Nam.
Năm 2020, sản lượng giảm xuống khoảng 1,74 triệu tấn. Trước đó hồi tháng
11, USDA dự báo sản lượng cà phê của Việt Nam niên vụ 2020 - 2021 sẽgiảm
3,5% so với niên vụ 2019/20, xuống còn 30,2 triệu bao (mỗi bao 60 kg). Một số
tỉnh thành dẫn đầu về sản lượng cũng có xu hướng giảm: Đak Lak với 476000 tấn,
giảm hơn 1600 tấn( vov.vn); Đak Nông ước lượng khoảng 306.170 tấn, giảm 20-
30% tấn so với niên vụ năm trước ( truyền hình Đak Nông),…
c. Các yếu tố ảnh hưởng tới Cung cà phê
*Giá của các yếu tố đầu vào (chi phí sản xuất):
Chi phí nhân công giữa các năm có sự thay đổi, tuy nhiên thường rơi vào
tình trạng “khát” nhân công thu hái cà phê. Chẳng hạn năm 2018, giá nhân công
hái cà phê rơi vào tầm giá 220.000-240.000 đồng/người/ngày; đến năm 2019, giá
nhân công là 260.000-270.000 đồng/người/ngày; năm 2020 giá nhân công đã rơi
vào 290.000 đồng/người/ngày...
Có thể thấy giá nhân công ngày càng tăng và còn có thể tiếp tục tăng trong
tương lai. Cùng với đó là sự tác động của dịch bệnh Covid-19 trong vài năm gần
đây khiến cho ngành cà phê càng nhiều biến động.
Bên cạnh yếu tố về diện tích trồng cà phê, và chi phí nhân công đã được đề
cập tại trước đó, giá cà phê còn chịu sự chi phối của các yếu tố đầu vào khác, ví dụ
như giá của phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, và các loại hàng hoá phụ trợ. Các loại
hàng hoá này có tính chất ổn định, không thay đổi quá nhiều, chính vì thế ít làm
ảnh hưởng tới giá của cà phê. 4 lOMoARcPSD|40534848
*Chính sách của chính phủ:
Những năm gần đây Chính phủ đã có những chính sách nhằm phát triển
ngành cà phê Việt Nam. Để củng cố vị thế là nước xuất khẩu số một thế trước
những đối thủ đang dần lớn mạnh như Indonexia hay Braxin.
Chính sách đất đai: Phối hợp với các cơ quan hữu quan, nghiên cứu, đề
xuất với Chính phủ cácchính sách khuyến khích, hỗ trợ nông dân, các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tổ chức sản xuất lớn, an toàn, bền vững như:
Khuyến khích các hộ nông dân trồng cà phê liên kết sản xuất dưới các hình
thức tổ hợp tác, hợp tác xã để sản xuất, sơ chế và kinh doanh.
Người trồng cà phê trong vùng quy hoạch được dùng quyền sở hữu đất và tài
sản trên đất để góp cổ phần hoặc chuyển nhượng để hình thành các doanh nghiệp
nông nghiệp, hoặc liên doanh liên kết sản xuất với các doanh nghiệp chế biến cùng
kinh doanh và hưởng lợi.
Xây dựng các chính sách hỗ trợ nông dân xây dựng sân phơi cà phê.
Phối hợp với các địa phương giám sát việc trồng mới cà phê; những diện
tích cà phê không theo quy hoạch sẽ không được hưởng các quyền lợi, chính sách
từ phía Nhà nước và doanh nghiệp.
Chính sách tài chính, tín dụng: Chính phủ đã thông qua việc gia hạn nợ tín
dụng xuất khẩu cho các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê.
Theo Chỉ thị số 01 ngày 23/02/2016 về việc tổ chức thực hiện chính sách
tiền tệ và đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả: Chính sách tín dụng
phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn theo Nghị định số 53/2015/NĐ-CP; Cho
vay phục vụ tái canh cà phê tại các tỉnh khu vực Tây Nguyên… 5 lOMoARcPSD|40534848
*Giá của hàng hóa liên quan trong sản xuất:
Giá của hàng hóa thay thế trong sản xuất:
Cà phê có thể được xem như một trong những loại thực phẩm quan trọng
đến nỗi nó tạo ra một nền kinh tế đáng kinh ngạc cho riêng mình. Giá cả hàng hóa
Cà phê đã đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu cũng như cho
chính nước nhà của chúng ta. Bên cạnh sự phổ biến rộng rãi của mình, Cà phê đã
vấp phải không ít những thông tin nghiên cứu tiêu cực như làm tăng huyết áp, hay
cafein có trong Cà phê có thể dẫn đến lo lắng, gián đoạn giấc ngủ. Nó còn là chất
gây nghiện,... Cũng chính những điều tiêu cực này mà một số người đã không còn
lựa chọn Cà phê nữa, thay vào đó là những thức uống từ nước ép của trái cây tươi,
trà, sữa... Nói cách khác, các loại đồ uống này chính là hàng hóa thay thế của
Càphê, và đã tác động rất lớn đến giá cả Cà phê trong sản xuất cũng như ảnh
hưởng rất lớn đến lượng Cung.
Giá của Cà phê ngày càng tăng cộng thêm vào đó là những thông tin tiêu
cực, trái chiều liên quan đến sức khỏe của người sử dụng, người tiêu dùng không
khó để nhận ra rằng Cà phê đã và đang trở nên đắt đỏ. Nắm bắt được tình hình đó,
cùng khả năng nhanh nhạy của các doanh nghiệp, họ đẩy mạnh sản xuất, tuyên
truyền những mặt hàng hóa thay thế của Cà phê với: giá ổn định, chất lượng tương
đương, thậm chí là còn tốt hơn so với Cà phê. Khi đó, thị trường của Cà phê sẽ
thay đổi, số lượng người tiêu dùng ít đi khiến cung bắt buộc phải giảm theo cầu.
Dù nói như vậy nhưng khi nhu cầu của những loại hàng hóa thay thế tăng
lên quá nhiều, cung không đủ cầu dẫn đến giá của chúng cũng sẽ tăng lên. Lúc đó
người tiêu dùng sẽ quay lại sử dụng các sản phẩm Cà phê. Mà lượng cầu Cà phê
tăng, cung nhất định sẽ tăng (đường cung dịch chuyển sang phải).
Và cũng theo cách lập luận tương tự thì ngược lại. Nếu giá của những hàng
hóa thay thế của Cà phê hạ xuống, khiến cung tăng do nhu cầu sử dụng tăng thì 6 lOMoARcPSD|40534848
hiển nhiên, cầu của Cà phê giảm dẫn đến cung giảm và đường cung của nó dịch chuyển sang trái.
Giá của hàng hóa bổ sung trong sản xuất:
Việt Nam đứng thứ 2 thế giới về sản xuất cà phê, chỉ sau Brazil. Tổ chức Cà
phê quốc tế thông tin xuất khẩu cà phê của Việt Nam vào khoảng 25 triệu bao/năm
với giá trị thu về trung bình 3 tỷ USD. Cà phê trở thành một phần tất yếu trong
cuộc sống của người Việt. Tuỳ vào thói quen và sở thích, độ ngon của cà phê được
mỗi người thưởng thức và đánh giá khác nhau. Với những tín đồ ưa thích ngọt thì
một tách cà phê thêm đường là không thể thiếu, bên cạnh đó còn một số nguyên
liệu để tăng hương vị cà phê như sữa, kem thực vật,…
Trong sản xuất, những nguyên liệu bao gồm đường, sữa, kem béo thực vật...
và cà phê được coi là hàng hóa bổ sung cho nhau. Khi giá của cà phê tăng lên, nhà
sản xuất cà phê sẽ tăng lượng cung ra thị trường và kéo theo lượng cung hàng hóa
bổ sung: đường, sữa, kem béo thực vật… sẽ tăng lên. Ngược lại, khi giá cà phê
giảm, lượng cung cà phê ra thị trường cũng sẽ giảm xuống, nếu nhà sản xuất vẫn
giữ nguyên hoặc gia tăng lượng cung trong khi giá bán ra thị trường quá rẻ thì lợi
nhuận sẽ giảm, thậm chí thua lỗ và khi lượng cung cà phê giảm thì lượng cung
hàng hóa bổ sung như đường, sữa, kem béo thực vật cũng giảm xuống.
Xã hội phát triển kéo theo nhu cầu của con người ngày càng cao, để có một
tách cà phê thơm ngon vừa ý lại đáp ứng yêu cầu nhanh gọn, thật đơn giản thì máy
pha cà phê đã trở thành một trợ thủ đắc lực đối với những tín đồ cà phê.
Chính vì lẽ đó mà cà phê và máy pha cà phê là hai hàng hóa bổ sung cho
nhau, khi giá cà phê tăng cao, nhà sản xuất sẽ thúc đẩy sản xuất cà phê, lượng cung
của cà phê sẽ tăng lên và dẫn đến cung của máy pha cà phê cũng sẽ tăng lên.
Ngược lại, khi giá cà phê giảm, nhà sản xuất sẽ thu hẹp sản xuất giảm lượng cung
cà phê và cung máy pha cà phê sẽ giảm đi. 7 lOMoARcPSD|40534848
*Kỳ vọng về giá:
Cũng giống như người tiêu dùng, các nhà sản xuất cũng đưa ra quyết định
cung cấp dựa vào các kì vọng. Khi những hạn chế phòng chống Covid-19 được dỡ
bỏ, cho phép các quán cà phê hoạt động trở lại, các nhà sản xuất lạc quan rằng cầu
cà phê sẽ tăng lên trong thời gian tới, vì vậy đã thúc đẩy mở rộng sản xuất, lượng
cung tăng lên và đường cung dịch chuyển qua bên phải.
Ngược lại, khi tình trạng thiếu hụt container rỗng để chở hàng đang trở
thành một nỗi “ám ảnh” với doanh nghiệp vào dịp cao điểm cuối năm và tình trạng
này càng nghiêm trọng hơn trong bối cảnh dịch bệnh. Doanh nghiệp bi quan rằng
không có container rỗng để chở hàng, họ sẽ thu hẹp lại sản xuất dẫn đến lượng
cung giảm và đường cung dịch chuyển sang trái. *Các yếu tố khác Dịch bệnh:
Cây cà phê đã có đóng góp lớn trong nền nông nghiệp Việt Nam cả trong đời
sống lẫn kinh tế. Như các loại cây trồng khác, Cà phê cũng gặp phải các loại bệnh
khiến chất lượng, sản lượng cà phê giảm, ảnh hưởng tới nguồn cung cho thị trường như:
Bệnh rệp sáp: gây hại trên nhiều bộ phận của cây, hút nhựa làm cuống
hoa,quả khô rụng; vào mùa khô, rệp bò xuống gốc cây chích hút nhựa ở rễ và
gốccây làm cây kém phát triển, còi cọc, lá vàng chế từ từ...
Bệnh rỉ sắt: gây hại trên lá; Khi bị bệnh lá sẽ vàng và rụng hàng loạt, sau
đócành khô, cây sinh trưởng kém, năng suất giảm.
Bệnh nấm hồng: gây bệnh chủ yếu ở nơi phân cành giáp với thân. Nơi bị
bệnh có một lớp bột màu hồng nhạt, rất mịn, đó là các bào tử nấm bệnh. Vết bệnh
lớn dần chạy dọc theo cành và sau đó lan dần hết cả cành. Khi vết bệnh đã cũ thì
chuyển sang màu trắng xám. Lá trên cành bị nhiễm bệnh sẽ bị ứa vàng, tiếp đến lá
và quả sẽ bị rụng; Nếu nặng cành sẽ bị chết khô. 8 lOMoARcPSD|40534848 Bệnh sâu đục thân:
Sâu đục thân mình hồng: Bướm cái đẻ trứng vào vỏ cây, sâu non đục vào
giữa thân cây và đùn mạt gỗ ra ngoài. Cây bị hại dễ bị gãy ngang. Sâu thường phá
hoại thân, hoặc cành cấp 1, cấp 2. Sâu có thể phá hoại từ cây này sang cây khác,
gây ảnh hưởng đến những nơi sinh trưởng và phát triển của cây.
Sâu đục thân mình trắng: Sâu non sau khi nở sẽ đục vào gỗ, rồi đục ngoằn
nghèo quanh vòng cây, đục tới đâu đùn phân và mạt cưa bịt kín tới đó. Đến tuổi 5,
tuổi 6 sâu đục ra phía gần vỏ tạo một khoảng rộng trong phần gỗ và hóa nhộng.
Cây cà phê bị sâu hại toàn bộ lá phía trên ngọn bị vàng héo, các cành lá phía dưới
còn xanh tốt, cây mọc thêm nhiều chồi thân; Trên thân cónhững đường lằn nổi lên
theo vòng, vỏ bị nứt nẻ, có những lỗ đục đường kính 2-3mm; Cây dễ bị gãy gục tại
chỗ bị sâu đục; Chẻ dọc thân cây thấy có đường rãnh sâu đục, phát hiện có sâu non
màu trắng ngà, không có chân, toàn thân gồm nhiều đốt.
Không chỉ riêng những loại bệnh tồn tại trên cây cà phê ảnh hưởng đến
lượng cung cà phê mà ngay chính đại dịch Covid-19 của loài người cũng đã ảnh
hướng rất lớn đến thị trường cà phê. Suốt 2 năm dịch Covid-19 hoành hành, Chính
phủ Việt Nam đã áp dụng các biện pháp hạn chế di chuyển, tụ tập, thậm chí là
nghiêm cấm người dân không được ra đường, các công ty tạm ngưng hoạt động...
Cũng từ đó mà đã tác động ít nhiều đến việc trồng và thu hoạch, chế biết, vận
chuyển cà phê. Khiến Cung cà phê không đủ để đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng.
Không chỉ trong nước, mà còn trên toàn thế giới. Việt Nam là nước xuất khẩu cà
phê lớn thứ 2 thế giới nhưng trong 2 năm qua việc đóng cửa Trung tâm xuất khẩu
Thành phố Hồ Chí Minh đóng cửa đã ảnh hưởng đến việc xuất khẩu cà phê và các
loại hàng hóa khác đến các nước trên thế giới. Cụ thể trong tháng 8 vừa qua, sản
lượng xuất khẩu cà phê của nước ta giảm 8,7% so với tháng 7 xuống còn 111,697
tấn (trích dữ liệu hải quan). 9 lOMoARcPSD|40534848
Thời tiết- Khí hậu:
Với tình hình thời tiêt ngày 1 cực đoan như hiện nay, sản lượng , diện tích,
chất lượng sản phẩm cà phê đang bị tác động 1 cách tiêu cực. Theo Trung tâm
Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT), nhiệt độ tăng và lượng mưa thay đổi có
thể khiến nước ta mất 50% diện tích sản xuất cà phê Robusta hiện tại vào năm 2050.
Về việc canh tác cà phê:
Các biện pháp canh tác, thâm canh được áp dụng trong truyền thống đã sử
dụng quá nhiều đầu vào (phân bón, tưới tiêu,...) để đạt được năng suất tối đa. Bên
cạnh đó, những hình thức sản xuất với quy mô nhỏ, phân tán và độc lập của các
hộ nông dân đã dẫn đến tình trạng sản xuất chất lượng thấp và không ổn định. 10