Họ và tên sv : Nguyễn Thị Ngọc Hà
Mã sv : 2057080018
Lớp : Quan hệ công chúng k40
Đề bài : Phân ch đặc điểm của thời kì quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội
và liên hệ tới thời kì quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở nước ta ?
BÀI LÀM
I. Đặc điểm của thời kì quá độ lên CNXH
Phạm tthßi kỳ quá độ được C.Mác nêu ra trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh
Gôtha: "Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thßi kỳ
cải biến cách mạng từ hội nọ sang hội kia. Thích ứng với thßi kỳ ấy một
thßi kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thßi kỳ ấy không thể là gì khác hơn là nền
chuyên chính cách giai mạng của cấp sản". Đây một định nghĩa nổi tiếng về
thßi kỳ qđộ. Trong tác phẩm này, C.Mác chỉ thßi k quá độ một số điểm
đáng lưu sau: hội thßi kquá độ hội vừa thoát thai từ hội tư bản chủ
nghĩa, do đó, mọi mặt của nó đều mang dấu ấn sâu sắc ca xã hội tư bản chủ nghĩa;
Thßi kỳ quá độ là thßi kỳ cải biến cách mạng một cách sâu sắc từ xã hội tư bản chủ
nghĩa sang xã hội xã hội chủ nghĩa; Công cụ để thực hiện sự cải biến đó là nhà nước,
đó là nhà nước chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản; Thßi kỳ quá độ là thßi
kỳ sinh đẻ lâu dài và đau đớn.
Kế thừa và phát triển những tư tưáng của C.Mác, V.I. Lênin đã nói một cách cụ thể
hơn về thßi kỳ quá độ: "Danh từ quá độ nghĩa gì? Vận dụng vào kinh tế,
phải nghĩa trong chế độ hiện nay những thành phần, những bộ phận,
những mảnh của cả chnghĩa bản lẫn chủ nghĩa hội không? Bất cứ ai cũng
thừa nhận là có=. Và, V.I. Lênin, nói rõ hơn: về lý luận, không thể nghi ngß gì được
rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có mt thßi kỳ quá độ nhất định.
Thßi kỳ đó không thể không bao gồm những đặc điểm hoặc những đặc trưng của cả
hai kết cấu kinh tế hội y. Thßi kquá độ ấy không thnào lại không phải -
một thßi kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa bản đang giãy chết chủ nghĩa cộng sản
đang phát sinh, hay nói một cách khác, giữa chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng
chưa bị tiêu diệt hẳn, chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh nhưng vẫn còn rất non yếu=.
Như vậy, theo các nhà kinh điển, thßi kỳ qđộ thßi kỳ cải biến cách mạng sâu
sắc, toàn diện từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản. Đó là thßi điểm mà, đồng
thßi cùng tồn tại những đặc điểm, đặc trưng của cả hai kết cấu kinh tế xã hội tư bản -
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa và diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đã
bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh nhưng
còn rất non yếu. Trên cơ sá quan điểm của C.Mác, V.I.Lênin đã chỉ ra bốn đặc đim
cơ bản của thßi kỳ quá độ là:
Thứ nhất, đó là thời kỳ, xét vmọi mặt của đời sống xã hội, đều do nhiều thành phần
không thuần nhất tạo nên. Đó là thßi kỳ sự đan xen, thâm nhp lẫn nhau giữa chủ
nghĩa bản chủ nghĩa hội. Theo V.I. Lênin, trong thßi kỳ này. một mẩu . .
nhỏ của chủ nghĩa tư bản và một mẩu nhỏ của chủ nghĩa xã hội tồn tại cạnh nhau.
Thứ hai,đó thời kỳ, sự phát triển của cái cũ, của những trật tự cũ đôi khi lấn át
những mầm mống của cái mới, những trật tự mới. V.I. Lênin cho rằng những mảnh
vụn của trật tự cũ đôi khi chất đống li một cách nhanh chóng, trong khi những mm
mống của cái mới có khi lại phát triển chậm chạp và không phải bao giß cũng thấy
rõ ngay được.
Thứ ba, đó thời kỳ xét về mọi phương diện, đều sự phát triển của tính tự phát
tiểu tư sản, là thời kỳ chứa đựng mâu thuẫn không thể dung hòa được giữa tính kỷ
luật nghiêm ngặt của giai cấp sản và tính vô chính phủ, kỷ luật của các tầng
lớp tiểu sản. V.I. Lênin khẳng định, mâu thuẫn giữa tính tự phát tiểu sản
tính kluật nghiêm ngặt của giai cấp sản mt trong những đặc điểm nổi bật
của giai đoạn quá độ.
Thứ tư, đó thời kỳ lâu dài, có rất nhiều khó khăn, phức tạp, phải trải qua nhiều
lần thử nghiệm để rút ra những kinh nghiệm, những hướng đi đúng đắn; tuy nhiên,
trong quá trình thử nghiệm ấy có thể phải trả giá cho những sai lầm nghiêm trọng.
V.I. Lênin từng nói, chúng ta biết rằng việc chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
hội là cuộc đấu tranh vô cùng kkhăn. Nhưng chúng ta sẵn sàng chịu hàng nghìn
khó khăn, thực hiện hàng nghìn lần thử, và, khi chúng ta đã thực hiện được mt
nghìn lần thử rồi, thì chúng ta sẽ thực hiện cái lần thử thứ một nghìn lmột.
Đồng thßi, V.I. Lênin, cũng đã sphân chia quá trình hình thành phát triển
của chủ nghĩa cộng sản thành 3 giai đoạn cụ thể như sau: giai đoạn những cơn đau
thai nghén kéo dài; giai đoạn đầu của hội cộng sản chủ nghĩa; giai đoạn cao
của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Theo V.I. Lênin "giai đoạn đầu của xã hội cộng sản
chủ nghĩa= chính là xã hội xã hội chủ nghĩa còn thßi kỳ những cơn đau đẻ kéo dài"
chính thßi kỳ quá độ từ chủ nghĩa bản lên chủ nghĩa xã hội (Trong tác
phẩm Cương lĩnh quân s của cách mạng sản m 1916, lần đầu tiền V.I. Lênin
dùng khái nim: "thßi kỳ quá độ từ hội tư sản sang xã hi xã hội chủ nghĩa"). Như
vậy, thßi kỳ quá độ một giai đoạn độc lập có vị trí riêng biệt nằm giữa chủ nghĩa
tư bản và chủ nghĩa xã hội. Điều này cũng có nghĩa thßi k quá độ chưa phải là chủ
nghĩa xã hội và cũng không nằm á giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản. Xác định
đúng và làm rõ vị trí của thßi k quá độ ý nghĩa lý luận thực tin quan trọng
bái giúp ta xác định được đặc điểm, nội dung nhiệm vụ cũng như mục đích
của thßi k này.
Độ dài của thßi kỳ qđộ bao giß cũng bqui định bái đặc trưng văn hóa xuất
phát điểm khi bước vào thßi kỳ quá độ của mỗi quốc gia cụ thể V.I. Lênin cho rằng,
cần phải có một thßi kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Ông còn nói cụ thể hơn: " .tất yếu phải có một thßi kỳ quá độ lâu dài và phức tạp . .
từ hội tư bản chủ nghĩa (xã hội đó càng ít phát triển, thì thßi kỳ đó ng dài) . .
. tiến lên xã hi cộng sản chủ nghĩa=. Như vậy theo V.I. Lênin, bản thân những nước
có đim xut phát khi bước vào thßi kỳ quá độ là từ chủ nghĩa tư bản đã cần phải có
độ dài của thßi k quá độ khá lâu dài thì đối với những nước điểm xuất phát
thấp hơn chủ nghĩa tư bản tiền tư bản chủ nghĩa, thì càng chắc chắn rằng sẽ có thßi -
kỳ quá độ còn phải lâu dài hơn gấp nhiều lần. Bái lẽ, về mặt khách quan, chủ nghĩa
xã hội ra đßi trên cơ sá của sự phát triển chủ nghĩa tư bản; hay nói cách khác, trong
quá trình phát triển mạnh mca mình, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra tiền đề hiện thực
(cả vật chất và tinh thần) cho sự ra đßi của chủ nghĩa xã hội. Đó không chỉ là sự phát
triển của lực lượng sản xuất, của quan hệ sản xuất, nền đại ng nghiệp, phương
pháp quản lý, tổ chức sản xuất và hội còn cả sự phát triển toàn diện của văn
hóa, xã hội và con ngưßi. Đó chính là tiền đề hiện thực của sự ra đßi của xã hội mới
- xã hội chủ nghĩa.
Chưa trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa cũng có nghĩa là chưa có đầy đủ
cơ sá vật chất kỹ thuật, cơ sá xã hội và con ngưßi để tiến lên chủ nghĩa hội một
cách nhanh chóng vững chắc. Tuy nhiên, đối với những nước chưa trải qua quá
trình phát triển chủ nghĩa bản thì, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa hội,
nhất thiết phải thực hiện thßi k quá độ một cách lâu dài với những bước đi thích
hợp và với một khối lượng công việc to ln bao gồm trong đó không chỉ những nội
dung cơ bản của thßi k quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa hội, n
thế, còn phải đồng thßi đạt được cả những thành tựu căn bản chủ nghĩa bản
phải mất hàng trăm năm mi có được. Như vy, đối vi các nước như thế, chắc chắn
thßi kỳ quá độ không chỉ cùng khó khăn, phức tạp mà còn một giai đoạn phát
triển rất lâu dài.
Trong di sản quý báu của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác Lênin về thßi kỳ quá độ -
rất nhiều nội dung phong phú đa dạng, cũng những nội dung các ông đề
xuất khi đó đến nay không còn phợp, nhưng nhìn chung về cơ bản tư tưáng của
các ông về thßi kỳ quá độ cũng như đặc điểm, nội dung và nhiệm vụ của nó hầu như
vẫn giữ nguyên giá tr và vẫn hoàn toàn phù hợp với sự phát triển của hội hiện
đại. Có thể nêu một sni dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, về hội : Trong thßi kỳ quá độ, tất cả các lĩnh vực của đßi sống hội
là sự đan xen lẫn nhau giữa chủ nghĩa tư bản chủ nghĩa hội, giữa i mới
cái cũ, trong khi cái cũ vẫnn rất mạnh mẽ thìi mới còn á dạng mm mống, yếu
ớt, phát triển chậm chạp.
Thứ hai, : về chính trị Thßi kỳ quá độ thßi kỳ đầy kkhăn, phức tạp, trải qua
nhiều bước trung gian, nhiều cuộc thể nghiệm, và đặc bit luôn luôn vấp phải sự
phản kháng nhằm phá hoại, lật đổ chế độ mới, phục hồi, giành lại chính quyn của
giai cấp tư sản vì vy, nếu không tỉnh táo, sáng suốt và quyết liệt giai cấp công nhân
có thể bị thất bại và mất chính quyền công nông.
Thứ ba âm lý - , về t ý thức : Đó là tâm phục t, khôi phục li chính quyền cũ của
giai cấp tư sản; tâm lý vô chính phủ, tập quán tản mạn, tự do buôn bán, hoang mang,
dao động của tầng lớp tiểu tư sản; lối sống thiếu văn hóa, không tuân thủ pháp luật,
tệ tham ô, hối lộ, quan liêu; thói kiêu ngạo cộng sản, m thỏa mãn, hưáng thụ,
lưßi biếng của một bộ phận trong xã hội... Với thực trạng đó rất dễ tạo nên một
xã hội hỗn tạp và rối loạn về xã hội và tâm lý xã hội.
Thứ tư, về kinh tế : Đó là sự cùng tồn tại đan xen, hợp tác cạnh tranh quyết liệt
với nhau của các thành phần, yếu tố kinh tế, quan hệ kinh tế cả bản, tiền tư bản
và xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, việc xóa bỏ quan hệ sản xuất bản chủ nghĩa, thiết
lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa nhất thiết phải trải qua quá trình lâu dài, dần
dần có lộ trình với những bước đi thích hợp thưßng xuyên được điều chỉnh cho
phù hợp với tình hình thực tiễn của từng giai đoạn phát triển.
Thứ năm, về chế độ chính trị : Phải xây dựng và thực hiện chế độ tập trung dân chủ.
Đổi mới xã hội chủ nghĩa đó là sự thống nhất giữa đổi mi kinh tế và đổi mới chính
trị. Xây dựng hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến nhằm p
hợp và đáp ứng kịp thßi những nhiệm vụ cấp thiết và quan trọng của thßi kỳ quá độ.
Đồng thßi, quan tâm xây dựng, củng cố nâng cao vai trò của các tổ chức quần
chúng nhằm đưa các tổ chức này thiết thực góp phần xây dựng hội mới hội
chủ nghĩa và bảo vệ li ích chính đáng của giai cấp ng nhân và nhân dân lao động.
Thứ sáu, v văn hóa, khoa học, kthuật : Đối với việc xây dựng nền văn hóa và khoa
học, kỹ thuật mới xã hội chủ nghĩa trong thßi kỳ quá độ cần phải trên cơ sá kế thừa,
tiếp thu chọn lọc nền văn hóa khoa học, kỹ thuật với cách những thành
tựu mà nhân loại đã sáng tạo tích lũy được hàng nghìn năm qua, nhất những
thành tựu của thßi kỳ phát trin tư bản chủ nghĩa.
I. Sự hệ về thời kỳ quá độ lên liên Chủ nghĩa Xã hội ở nước ta
Từ những năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định con đưßng cách mng
của nước ta là <làm sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã
hội cộng sản=. Theo đó, cách mạng Việt Nam bao gồm hai giai đoạn: cách mạng tư
sản n quyền với nhiệm vụ xóa bỏ ách thống trị ca đế quốc, thực n phong
kiến nhằm giành độc lập dân tộc; cách mạng hội chủ nghĩa với nhiệm vụ đưa
nước ta tiến lên CNXH bỏ qua thßi k phát triển TBCN. Đây đưßng lối chỉ đạo
xuyên suốt cách mạng Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, thực chất của thßi kỳ quá độ
lên chủ nghĩa hội á nước ta là quá trình cải biến nền sản xuất lạc hậu thành nền
sản xuất tiên tiến, hiện đại. Thực chất của quá trình cải tạo và phát triển nền kinh tế
quốc dân cũng là cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp trong điều kiện mới, khi
nhân dân ta hoàn thành bản cách mạng n tộc dân chủ, so sánh lực lượng
trong nước và quốc tế đã có những biến đổi. Điu này đòi hỏi phải áp dụng toàn diện
các hình thức đấu tranh cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm chng lại các
thế lực đi ngược lại con đưßng xã hội chủ nghĩa.
Theo Ngưßi, do những đặc điểm và tính chất quy định, quá độ lên chủ nghĩa hi
á Việt Nam là một quá trình dần dần, khó khăn, phức tạp và lâu dài. Nhiệm vụ lịch
sử của thßi kì quá độ lên chủ nghĩa xã hi á Việt Nam bao gồm hai nội dung lớn:
Một là, y dựng nền tảng vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây dựng các
tin đề kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưáng cho chủ nghĩa xã hội.
Hai là, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây dựng, trong đó
lấy xây dựng làm trọng tâm làm nội dung cốt yếu nhất, chủ cht, lâu dài
Hồ Chí Minh nhấn mnh đến tính chất tuần tự, dần dần của thßi k quả độ lên chủ
nghĩa hội. Tính chất phức tạp kkhăn của được Ngưßi giải trên các
điểm sau:
Thứ nhất, đây thực sự là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt đßi sống xã hội,
cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sá hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Nó đặt ra và đòi hi đồng thßi giải quyết hàng loạt mâu thuẫn khác nhau. Như trong
Di chúc Hồ Chí Minh đã coi sự nghip xây dựng chủ nghĩahội là một cuộc chiến
đấu khổng lồ của toàn Đảng toàn dân Việt Nam.
Thứ hai, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội Nhà nước, và nhân n ; Đảng,
ta chưa có kinh nghiệm, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Đây là công việc hết sức mi
mẻ đối với Đảng ta nên phải vừa làm vừa học và có thể có vấp váp, thiếu sót. Xây
dựng xã hi mới bao giß cũng khó khăn, phức tạp hơn đánh đổ xã hội cũ đã lỗi thßi.
Thứ ba sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội á nước là luôn luôn bị các thế lực phản
động trong và ngoài nước tìm cách chống phá.
Từ việc chỉ tính chất của thßi kquá độ. Hồ CMinh luôn luôn nhắc nhá n
hộ, đảng viên trong xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thận trọng, tránh nôn nóng, chủ
quan, đốt cháy giai đoạn Vấn đề bản là phải xác định đúng bước đi và hình thức
phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, biết kết hợp các khâu trung gian, q
độ, lun tự từng bước, từ thấp lên cao. Vì vậy, xây dựng chủ nghĩa hội đòi hỏi
một năng lực lãnh đạo mang tính khoa học, vừa hiểu biết các quy luật vận đng
hội, lại phải có nghệ thuật khôn khéo cho thật sát với tình hình thực tế.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội á nước ta là sự nghiệp cách mng mang tính
toàn diện. Hồ Chí Minh đã xác định rõ nhim vụ cụ thể cho từng lĩnh vực:
- Trong lĩnh vực chính tr, nội dung quan trọng nhất là phải giữ vững và phát huy
vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng phải luôn luôn tự đổi mới và tự chỉnh đốn, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, có hình thức tổ chức phù hợp để đáp ứng
các yêu cầu, nhiệm vụ mới. Bước vào thßi kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta
đã trá thành Đảng cầm quyền Mối quan tâm lớn nhất của Ngưßi về Đảng cầm
quyền là làm sao cho Đảng không trá thành Đảng quan liêu, xa dân, thoái hóa, biến
chất, làm mất lòng tin ca dân, có thể dẫn đến nguy cơ sai lầm về đưßng lối, cắt
đứt mối quan hệ máu thịt với nhân dân và để cho chủ nghĩa cá nhân nảy ná dưới
nhiều hình thức. Đồng thßi, củng cố và tăng cưßng vai trò quản lý của nhà nước
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hi ngày càng trá thành nhiệm vụ rất quan
trọng.
Một nội dung chính tr quan trọng trong thßi kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
củng cố và má rộng mặt trận dân tộc thống nhất, nòng cốt là liên minh công nhân,
nông dân và tri thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo; củng cố và tăng cưßng sức mnh
toàn bộ hệ thống chính trị cũng như thành tố của nó.
- Nội dung kinh tế được Hồ Chí Minh đề cập trên các mặt: lực lượng sản xuất,
quan hệ sản xuất, cơ chế quản lý kinh tế. Ngưßi nhấn mạnh đến việc tăng năng suất
lao động trên cơ sá tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đối với cơ cấu
kinh tế Hồ C Minh đề cập cơ cấu ngành và cơ cấu các thành phần kinh tế, cơ cấu
kinh tế vùng lãnh thổ.
Ngưßi quan nim hết sức độc đáo về cơ cấu kinh tế nông công nghiệp, lấy nông -
nghiệp làm mặt trận hàng đầu, củng cố hệ thng thương nghiệp làm cầu nối tốt
nhất giữa các ngành sản xuất xã hội, thỏa mãn nhu cầu thiết yếu của nhân dân.
Đối với kinh tế vùng, lãnh thổ. Hồ Chí Minh lưu ý phải phát triển đồng đều giữa
kinh tế đô thị và kinh tế nông thôn. Ngưßi đặc biệt chú trọng chỉ đạo phát trin
kinh tế vùng núi, hải đảo, vừa tạo điều kiện không ngừng cải thiện và nâng cao đßi
sống của đồng bào, vừa bảo đảm an ninh, quốc phòng cho đất nước.
à nước ta, Hồ C Minh là ngưßi đầu tiên chủ trương phát triển cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần trong suốt thßi kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ngưßi xác định rõ
vị trí và xu hướng vận động của từng thành phần kinh tế. Nước ta cần ưu tiên phát
triền kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vt chất cho chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy
việc cải tạo xã hi chủ nghĩa. Kinh tế hợp tác xã là hình thức sá hữu tập thế của
nhân dân lao động, Nhà nước cần đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ nó
phát triển, về tổ chức hợp tác xã, Hồ C Minh nhấn mnh nguyên tắc dần dần, từ
thấp đến cao, tự nguyện, cùng có lợi, chống chủ quan, gò ép, hình thức. Đối với
ngưßi làm nghề thủ công và lao động riêng lkhác. Nhà nước bao hộ quyền sá hữu
về tư liệu sản xuất, ra sức hướng dẫn và giúp họ cải tiến cách làm ăn. khuyến khích
họ đi vào con đưßng hợp tác. Đối với những nhà tư sản công thương, vì họ đã tham
gia ủng hộ cách mng dân tộc dân chủ nhân dân, có đóng góp nhất định trong khôi
phục kinh té và sẵn sàng tiếp thu, cải tạo đế góp phần xây dựng nước nhà, xây
dựng chủ nghĩa xã hội, nên Nhà nước không xóa bỏ quyền sá hu về tư liệu sản
xuất và của cải khác của họ, mà hướng dẫn họ hoạt động làm lợi cho quốc kế dân
sinh, phù hợp với kinh tế nhà nước, khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo chủ
nghĩa xã hội bằng hình thức tư bản nhà nước.
Bên cạnh chế độ và quan hệ sá hữu. Hồ Chí Minh rất coi trọng quan hệ phân phối
và quản lý kinh tế. Qun kinh tế phải dựa trên cơ sá hạch toán, đem lại hiệu quả
cao, sử dụng tốt các đòn bẩy trong phát triển sản xuất Ngưßi chủ trương và chi rõ
các điều kiện thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động: làm nhiều hưáng
nhiều, làm ít hưáng ít, không làm không hưáng. Gắn liền với nguyên tắc phân phối
theo lao động, Hồ Chí Minh bước đầu đề cập vấn đề khoán trong sản xuất, "Chế độ
làm khoán là một điều kiện của chủ nghĩa xã hội. nó khuyến khích ngưßi công
nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ. Làm khoán là ích chung và là lợi
riêng...: làm khoán tốt thích hợp và công bằng dưới chế độ ta hiện nay"
- Trong lĩnh vực văn hóa - xã hi, H Chí Minh nh n m n v xây d ng ạnh đế ấn đề
con ngưß ới. Đặ nh đềi m c bit, H Chí Mi cao vai trò can hóa, giáo dc và
khoa h c k thu t trong xã h i xã h i ch nghĩa. Ngưßi cho r ng, mu n xây d ng
ch nghĩa xã hội nhất định ph i có h c th c, c n ph i hc c văn hóa, chính tr, k
thut và ch nghĩa xã hội c ng v i khoa h c ch c ch ắn đưa loài ngưßi đến hnh
phúc vô t n. H Chí Minh r t coi tr ng vi o và s d ng ệc nâng cao dan trí, đào tạ
nhân tai, kh nh vai trò to l n c i s ng xã hẳng đị ủa văn hóa trong đß i.
Bước vào th i k i m i, vß đổ ới phương châm, quan điểm đổi mi toàn din các mt,
các lĩnh vự ạt độ a đß ội, trong đó và trướ ết là đc ho ng c i sng xã h c h i mới tư duy
luận, Đảng ta đã nhận th c m t cách sâu s n c ắc hơn luậ a ch nghĩa Mác -
Lênin, tưáng H C minh v TKQĐ lên CNXH con đưßng đi n CNXH á
nước ta u : như sa
Một là, về tính chất lâu dài, khó khăn, phức tạp của TKQĐ :
Tại Đại hi VI (1986), Đảng ta xác định rằng, từ CNTB lên CNXH phải trải tất yếu
qua một TKQĐ và độ dài của thßi kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị,
xã hội cụ thể của mỗi nước. Đối với nước ta, do xuất phát điểm về các lĩnh vực của
đßi sống xã hi đều rất thấp m, nên TKQĐ rất lâu dàikhó khăn, bao hàm nhiu
chặng đưßng, nhiều bước quá độ nhỏ với những nhiệm vụ tương ứng. <Thßi kỳ quá
độ á nước ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hi từ mt nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai
đoạn phát triển bản chủ nghĩa, đương nhiên phải u dài rất khó khăn. Ðó
một thßi kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu
một chế độ xã hội mới cả vlực lưng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng=. Nhận thức này khắc phục được tưáng chủ quan, nóng vội, giản đơn về
TKQĐ.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội (Cương
lĩnh 1991) đã xác định: <Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản,
từ một xã hội vn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp=.
Tổng kết 15 năm đổi mi, tại Đại hội IX, Đảng ta đã nhn thức về TKQĐ: y dựng
CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tạo ra sự biến đổi về chất của hội trên tất cả các
lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thßi kỳ q
độ lâu dài với nhiều chng đưßng, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, hội tính
chất quá độ. Tới Đại hội XI, Đảng ta đã khái quát về TKQĐ lên CNXH <là một quá
trình cách mạng sâu sắc, trit để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mi nhm tạo
ra sbiến đổi về chất trên tất cả mọi lĩnh vực của đßi sống xã hội, nhất thiết phi trải
qua một thßi kỳ qđộ lâu i với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức
kinh tế, hội đan xen=. TKQĐ một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu
tranh phức tạp giữa cái và cái mới. Đồng thßi, với sự lâu dài đó, TKQĐ phải trải
qua nhiều bước phát trin với nhiều hình thức tổ chức kinh tế, hội đan xen cùng
phát triển. tưáng này đã định hướng các nhiệm vụ, nội dung của TKQĐ á nước
ta.
Hai là, về mục tiêu và các giai đoạn phát triển của TKQĐ :
Trên cơ tính chất đặc đim của TKQĐ, Cương lĩnh 1991 xác định <Mục tiêu
tổng quát= phải đạt tới khi kết thúc thßi kquá độ là xây dựng xong về cơ bản những
cơ sá kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưáng,
văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trá thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh=.
Đồng thßi, xác định rõ hơn mục tiêu của các giai đoạn phát triển trong TKQĐ.
Trên cơ đó và căn cứ vào tình hình thực tiễn đất nước, Đại hội VII đã đề ra mục
tiêu tổng quát của 5 năm (1991-1995) là: <vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và
phát triển kinh tế xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công -
xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay=. Và nhiệm v
bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đưßng đầu tiên là ổn
định mọi mặt tình hình kinh tế hội, tiếp tục xây dựng những tin đề cần thiết -
cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đưßng tiếp theo.
Đây được coi lànhững dấu mốc, mục tiêu cần đạt được củachặng đưßng đầu trong
TKQĐ.
Với snỗ lực của toàn Đảng, toàn dân ta, 10 năm đầu đổi mới đã đạt đượcnhữ ng
thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng.Đại hội VIII (1996) của Đảng nhận định
nước ta đã kết thúc chặng đường đầu tiên bắt đầu bước vào chặng đường tiếp
theo của TKQĐ đi lên CNXH vi nội dung trọng tâm đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước.
Đại hội X của Đảng đề ra quyết tâm: <sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại=.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát trin
năm 2011) đã chỉ rõ: <Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ nước ta
xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng
tầng về chính trị, tư tưáng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sá để nước ta trá thành một nước
hội chủ nghĩa ngày ng phồn vinh, hạnh phúc=. Như vậy, thể hình dung lộ
trình, bước đi và mục tiêu của các giai đoạn phát triển trong TKQĐ là tương đối rõ
ràng. Đó là những định hướng, những tiêu chí cơ bản để toàn Đảng, toàn n phấn
đấu trong suốt TKQĐ á nước ta. Chính vic xác định cụ thể mục tiêu phát triển kinh
tế xã hội cho từng giai đoạn là sự thể hiện nhận thức mới của Đảng về TKQĐ lên -
CNXH á nước ta.
Ba là, về cơ cấu kinh tế, xã hội và các hình thức sở hữu trong TKQĐ :
Về cấu hội, trên nền tảng quan đim của chủ nghĩa Mác Lênin tưáng -
Hồ CMinh, Ðảng Cộng sản Việt Nam nhận thức n trong TKQĐ, nhiều
hình thức sá hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp
hội khác nhau, những cơ cấu, tính chất, vị tcác giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi
nhiều cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế, hội. Mối quan hệ giữa các giai
cấp, các tầng lớp xã hội là mối quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân,
đoàn kết hợp tác u dài trong sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc dưới s
lãnh đạo ca Ðảng. Li ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc
trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Ðộng lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn
kết toàn dân tộc trên sá liên minh giữa công nhân với ng n tthức do
Ðảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi
tim năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.
Về cơ cấu kinh tế và các hình thức sá hữu trong TKQĐ, Đảng ta xác định nền kinh
tế của Việt Nam là nền kinh tế có nhiu hình thức sá hữu, nhiu thành phần kinh tế
cùng tồn tại và phát triển, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày ng trá thành nền tảng vững chắc, chế độ sá hữu
công cộng (công hữu) về liệu sản xuất chủ yếu từng bước được xác lập sẽ
chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa hội được xây dựng xong về bản. Xây
dựng nền kinh tế thị trưßng theo định hướng XHCN, có sự quản của Nnước.
Thực hiện chế độ phân phối theo kết quả lao độngvà hiệu qu kinh tế, đồng thßi phân
phối theo mức đóng góp vốn các nguồn lực vào sản xuất, kinh doanh thông
qua phúc lợi xã hội.
Về phương diện xã hội, văn hoá, tư tưởng, TKQĐ là thßi kỳ đan xen các giá trị văn
hóa XHCN và cả những giá trị văn hóa phi XHCN, cả những nhân tố mới tích cực
cả những nhân tố tiêu cực vẫn còn tồn tại. Trong xã hội còn đan xen các luồng tư
tưáng khác nhau nhưng lý luận ca chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưáng Hồ Chí minh là -
nền tảng tưáng của hội. Tăng trưáng kinh tế đi đôi với phát triển văn h
giáo dục, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng
cao dân trí, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước.
Bốn là, về cách thức bỏ qua chế độ TBCN trong TKQĐ :
Những năm đầu đổi mới, chúng ta xác định <bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa=, đến Đại hội IX, sau 15 năm đổi mới, Đảng ta có bước phát triển mới về nhận
thức bỏ qua chế độ TBCN <tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành
tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và
công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại=.
Đặc biệt, trong quá trình vận dụng và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tưáng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã có những nhn thức mới như gii quyết mối quan
hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Đó là khi lực lượng sản xuất bị kìm
hãm không chỉ trong trưßng hợp quan hệ sản xuất lạc hu, cả khi quan hệ sản
xuất phát triển không đồng bộ,những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Đây là một sự phát hin, bổ sung đáng kể vào lý luận Mác -
Lênin, là kết quả của sự đổi mi tư duy của Đảng ta về CNXH, về mối quan hệ giữa
CNXH CNTB, sự tiếp nối các giá trị phát triển của văn minh nhân loại để từ
đó bước lên nấc thang cao hơn là CNXH. Nhận thức này đã góp phần khắc phục tư
duy giáo điều, duy ý c, nóng vội, phi quy luật mà trước đây đã mắc phải.
Trong gần 30 năm đổi mới, Đảng ta đã nhận thức vận dụng sáng tạo, phát trin
nhiều vấn đề lý luận về bản chất, đặc điểm, nội dung và các giai đoạn phát triển trong
TKQĐ, có những đóng góp vào lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Mặc dù quá trình
nhận thức, vận dụng lý luận về TKQĐ lên CNXH á các giai đoạn lịch sử có những
lúc, những việc chưa thành công nhưng về bản, đó quá trình hoàn thiện, bổ
sung, phát triển ng tạo. Đó là nhân tố quyết định thành công của công cuộc phát
triển kinh tế xã hi á Việt Nam.-

Preview text:

Họ và tên sv : Nguyễn Thị Ngọc Hà Mã sv : 2057080018
Lớp : Quan hệ công chúng k40
Đề bài : Phân tích đặc điểm của thời kì quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội
và liên hệ tới thời kì quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở nước ta ? BÀI LÀM I.
Đặc điểm của thời kì quá độ lên CNXH
Phạm trù thßi kỳ quá độ được C.Mác nêu ra trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh
Gôtha
là: "Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thßi kỳ
cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thßi kỳ ấy là một
thßi kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thßi kỳ ấy không thể là gì khác hơn là nền
chuyên chính cách
mạng của giai cấpsản". Đây là một định nghĩa nổi tiếng về
thßi kỳ quá độ. Trong tác phẩm này, C.Mác chỉ rõ thßi kỳ quá độ có một số điểm
đáng lưu sau: xã hội thßi kỳ quá độ là xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ
nghĩa, do đó, mọi mặt của nó đều mang dấu ấn sâu sắc của xã hội tư bản chủ nghĩa;
Thßi kỳ quá độ là thßi kỳ cải biến cách mạng một cách sâu sắc từ xã hội tư bản chủ
nghĩa sang xã hội xã hội chủ nghĩa; Công cụ để thực hiện sự cải biến đó là nhà nước,
đó là nhà nước chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản; Thßi kỳ quá độ là thßi
kỳ sinh đẻ lâu dài và đau đớn.
Kế thừa và phát triển những tư tưáng của C.Mác, V.I. Lênin đã nói một cách cụ thể
hơn về thßi kỳ quá độ: "Danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có
phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận,
những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng
thừa nhận là có=. Và, V.I. Lênin, nói rõ hơn: về lý luận, không thể nghi ngß gì được
rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có một thßi kỳ quá độ nhất định.
Thßi kỳ đó không thể không bao gồm những đặc điểm hoặc những đặc trưng của cả
hai kết cấu kinh tế - xã hội ấy. Thßi kỳ quá độ ấy không thể nào lại không phải là
một thßi kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang giãy chết và chủ nghĩa cộng sản
đang phát sinh, hay nói một cách khác, giữa chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng
chưa bị tiêu diệt hẳn, và chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh nhưng vẫn còn rất non yếu=.
Như vậy, theo các nhà kinh điển, thßi kỳ quá độ là thßi kỳ cải biến cách mạng sâu
sắc, toàn diện từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản. Đó là thßi điểm mà, đồng
thßi cùng tồn tại những đặc điểm, đặc trưng của cả hai kết cấu kinh tế - xã hội tư bản
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa và diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đã
bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn và chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh nhưng
còn rất non yếu. Trên cơ sá quan điểm của C.Mác, V.I.Lênin đã chỉ ra bốn đặc điểm
cơ bản của thßi kỳ quá độ là:
Thứ nhất, đó là thời kỳ, xét về mọi mặt của đời sống xã hội, đều do nhiều thành phần
không thuần nhất tạo nên. Đó là thßi kỳ có sự đan xen, thâm nhập lẫn nhau giữa chủ
nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Theo V.I. Lênin, trong thßi kỳ này. . . một mẩu
nhỏ của chủ nghĩa tư bản và một mẩu nhỏ của chủ nghĩa xã hội tồn tại cạnh nhau.
Thứ hai,đó là thời kỳ, sự phát triển của cái cũ, của những trật tự cũ đôi khi lấn át
những mầm mống của cái mới, những trật tự mới. V.I. Lênin cho rằng những mảnh
vụn của trật tự cũ đôi khi chất đống lại một cách nhanh chóng, trong khi những mầm
mống của cái mới có khi lại phát triển chậm chạp và không phải bao giß cũng thấy rõ ngay được.
Thứ ba, đó là thời kỳ xét về mọi phương diện, đều có sự phát triển của tính tự phát
tiểu tư sản, là thời kỳ chứa đựng mâu thuẫn không thể dung hòa được giữa tính kỷ
luật nghiêm ngặt của giai cấp vô sản và tính vô chính phủ, vô kỷ luật của các tầng
lớp tiểu tư sản. V.I. Lênin khẳng định, mâu thuẫn giữa tính tự phát tiểu tư sản và
tính kỷ luật nghiêm ngặt của giai cấp vô sản là một trong những đặc điểm nổi bật
của giai đoạn quá độ.
Thứ tư, đó là thời kỳ lâu dài, có rất nhiều khó khăn, phức tạp, phải trải qua nhiều
lần thử nghiệm để rút ra những kinh nghiệm, những hướng đi đúng đắn; tuy nhiên,
trong quá trình thử nghiệm ấy có thể phải trả giá cho những sai lầm nghiêm trọng.
V.I. Lênin từng nói, chúng ta biết rằng việc chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội là cuộc đấu tranh vô cùng khó khăn. Nhưng chúng ta sẵn sàng chịu hàng nghìn
khó khăn, thực hiện hàng nghìn lần thử, và, khi chúng ta đã thực hiện được một
nghìn lần thử rồi, thì chúng ta sẽ thực hiện cái lần thử thứ một nghìn lẻ một.
Đồng thßi, V.I. Lênin, cũng đã có sự phân chia quá trình hình thành và phát triển
của chủ nghĩa cộng sản thành 3 giai đoạn cụ thể như sau: giai đoạn những cơn đau
thai nghén kéo dài; giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa; và giai đoạn cao
của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Theo V.I. Lênin "giai đoạn đầu của xã hội cộng sản
chủ nghĩa= chính là xã hội xã hội chủ nghĩa còn thßi kỳ những cơn đau đẻ kéo dài"
chính là thßi kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội (Trong tác
phẩm Cương lĩnh quân sự của cách mạngsản năm 1916, lần đầu tiền V.I. Lênin
dùng khái niệm: "thßi kỳ quá độ từ xã hội tư sản sang xã hội xã hội chủ nghĩa"). Như
vậy, thßi kỳ quá độ là một giai đoạn độc lập có vị trí riêng biệt nằm giữa chủ nghĩa
tư bản và chủ nghĩa xã hội. Điều này cũng có nghĩa thßi kỳ quá độ chưa phải là chủ
nghĩa xã hội và cũng không nằm á giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản. Xác định
đúng và làm rõ vị trí của thßi kỳ quá độ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng
bái nó giúp ta xác định được đặc điểm, nội dung và nhiệm vụ cũng như mục đích của thßi kỳ này.
Độ dài của thßi kỳ quá độ bao giß cũng bị qui định bái đặc trưng văn hóa và xuất
phát điểm khi bước vào thßi kỳ quá độ của mỗi quốc gia cụ thể V.I. Lênin cho rằng,
cần phải có một thßi kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Ông còn nói cụ thể hơn: " . . .tất yếu phải có một thßi kỳ quá độ lâu dài và phức tạp
từ xã hội tư bản chủ nghĩa (xã hội đó càng ít phát triển, thì thßi kỳ đó càng dài) . .
.
tiến lên xã hội cộng sản chủ nghĩa=. Như vậy theo V.I. Lênin, bản thân những nước
có điểm xuất phát khi bước vào thßi kỳ quá độ là từ chủ nghĩa tư bản đã cần phải có
độ dài của thßi kỳ quá độ là khá lâu dài thì đối với những nước có điểm xuất phát
thấp hơn chủ nghĩa tư bản - tiền tư bản chủ nghĩa, thì càng chắc chắn rằng sẽ có thßi
kỳ quá độ còn phải lâu dài hơn gấp nhiều lần. Bái lẽ, về mặt khách quan, chủ nghĩa
xã hội ra đßi trên cơ sá của sự phát triển chủ nghĩa tư bản; hay nói cách khác, trong
quá trình phát triển mạnh mẽ của mình, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra tiền đề hiện thực
(cả vật chất và tinh thần) cho sự ra đßi của chủ nghĩa xã hội. Đó không chỉ là sự phát
triển của lực lượng sản xuất, của quan hệ sản xuất, nền đại công nghiệp, phương
pháp quản lý, tổ chức sản xuất và xã hội mà còn cả sự phát triển toàn diện của văn
hóa, xã hội và con ngưßi. Đó chính là tiền đề hiện thực của sự ra đßi của xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
Chưa trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa cũng có nghĩa là chưa có đầy đủ
cơ sá vật chất kỹ thuật, cơ sá xã hội và con ngưßi để tiến lên chủ nghĩa xã hội một
cách nhanh chóng và vững chắc. Tuy nhiên, đối với những nước chưa trải qua quá
trình phát triển chủ nghĩa tư bản thì, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội,
nhất thiết phải thực hiện thßi kỳ quá độ một cách lâu dài với những bước đi thích
hợp và với một khối lượng công việc to lớn bao gồm trong đó không chỉ những nội
dung cơ bản của thßi kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mà hơn
thế, còn phải đồng thßi đạt được cả những thành tựu căn bản mà chủ nghĩa tư bản
phải mất hàng trăm năm mới có được. Như vậy, đối với các nước như thế, chắc chắn
thßi kỳ quá độ không chỉ vô cùng khó khăn, phức tạp mà còn là một giai đoạn phát triển rất lâu dài.
Trong di sản quý báu của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin về thßi kỳ quá độ
có rất nhiều nội dung phong phú và đa dạng, cũng có những nội dung các ông đề
xuất khi đó đến nay không còn phù hợp, nhưng nhìn chung về cơ bản tư tưáng của
các ông về thßi kỳ quá độ cũng như đặc điểm, nội dung và nhiệm vụ của nó hầu như
vẫn giữ nguyên giá trị và vẫn hoàn toàn phù hợp với sự phát triển của xã hội hiện
đại. Có thể nêu một số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, về xã hội : Trong thßi kỳ quá độ, tất cả các lĩnh vực của đßi sống xã hội
là sự đan xen lẫn nhau giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, giữa cái mới và
cái cũ, trong khi cái cũ vẫn còn rất mạnh mẽ thì cái mới còn á dạng mầm mống, yếu
ớt, phát triển chậm chạp.
Thứ hai, về chính trị : Thßi kỳ quá độ là thßi kỳ đầy khó khăn, phức tạp, trải qua
nhiều bước trung gian, nhiều cuộc thể nghiệm, và đặc biệt là luôn luôn vấp phải sự
phản kháng nhằm phá hoại, lật đổ chế độ mới, phục hồi, giành lại chính quyền của
giai cấp tư sản vì vậy, nếu không tỉnh táo, sáng suốt và quyết liệt giai cấp công nhân
có thể bị thất bại và mất chính quyền công nông.
Thứ ba, về tâm lý - ý thức : Đó là tâm lý phục thù, khôi phục lại chính quyền cũ của
giai cấp tư sản; tâm lý vô chính phủ, tập quán tản mạn, tự do buôn bán, hoang mang,
dao động của tầng lớp tiểu tư sản; lối sống thiếu văn hóa, không tuân thủ pháp luật,
tệ tham ô, hối lộ, quan liêu; thói kiêu ngạo cộng sản, tâm lý thỏa mãn, hưáng thụ,
lưßi biếng của một bộ phận trong xã hội... Với thực trạng đó nó rất dễ tạo nên một
xã hội hỗn tạp và rối loạn về xã hội và tâm lý xã hội.
Thứ tư, về kinh tế : Đó là sự cùng tồn tại đan xen, hợp tác và cạnh tranh quyết liệt
với nhau của các thành phần, yếu tố kinh tế, quan hệ kinh tế cả tư bản, tiền tư bản
và xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, việc xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, thiết
lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa nhất thiết phải trải qua quá trình lâu dài, dần
dần có lộ trình với những bước đi thích hợp và thưßng xuyên được điều chỉnh cho
phù hợp với tình hình thực tiễn của từng giai đoạn phát triển.
Thứ năm, về chế độ chính trị : Phải xây dựng và thực hiện chế độ tập trung dân chủ.
Đổi mới xã hội chủ nghĩa đó là sự thống nhất giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sá nhằm phù
hợp và đáp ứng kịp thßi những nhiệm vụ cấp thiết và quan trọng của thßi kỳ quá độ.
Đồng thßi, quan tâm xây dựng, củng cố và nâng cao vai trò của các tổ chức quần
chúng nhằm đưa các tổ chức này thiết thực góp phần xây dựng xã hội mới xã hội
chủ nghĩa và bảo vệ lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Thứ sáu, về văn hóa, khoa học, kỹ thuật : Đối với việc xây dựng nền văn hóa và khoa
học, kỹ thuật mới xã hội chủ nghĩa trong thßi kỳ quá độ cần phải trên cơ sá kế thừa,
tiếp thu có chọn lọc nền văn hóa và khoa học, kỹ thuật với tư cách là những thành
tựu mà nhân loại đã sáng tạo và tích lũy được hàng nghìn năm qua, nhất là những
thành tựu của thßi kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa. I.
Sự liên hệ về thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở nước ta
Từ những năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ con đưßng cách mạng
của nước ta là hội cộng sản=. Theo đó, cách mạng Việt Nam bao gồm hai giai đoạn: cách mạng tư
sản dân quyền với nhiệm vụ xóa bỏ ách thống trị của đế quốc, thực dân và phong
kiến nhằm giành độc lập dân tộc; cách mạng xã hội chủ nghĩa với nhiệm vụ đưa
nước ta tiến lên CNXH bỏ qua thßi kỳ phát triển TBCN. Đây là đưßng lối chỉ đạo
xuyên suốt cách mạng Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, thực chất của thßi kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội á nước ta là quá trình cải biến nền sản xuất lạc hậu thành nền
sản xuất tiên tiến, hiện đại. Thực chất của quá trình cải tạo và phát triển nền kinh tế
quốc dân cũng là cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp trong điều kiện mới, khi
mà nhân dân ta hoàn thành cơ bản cách mạng dân tộc dân chủ, so sánh lực lượng
trong nước và quốc tế đã có những biến đổi. Điều này đòi hỏi phải áp dụng toàn diện
các hình thức đấu tranh cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm chống lại các
thế lực đi ngược lại con đưßng xã hội chủ nghĩa.
Theo Ngưßi, do những đặc điểm và tính chất quy định, quá độ lên chủ nghĩa xã hội
á Việt Nam là một quá trình dần dần, khó khăn, phức tạp và lâu dài. Nhiệm vụ lịch
sử của thßi kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội á Việt Nam bao gồm hai nội dung lớn:
Một là, xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây dựng các
tiền đề kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưáng cho chủ nghĩa xã hội.
Hai là, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây dựng, trong đó
lấy xây dựng làm trọng tâm làm nội dung cốt yếu nhất, chủ chốt, lâu dài
Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến tính chất tuần tự, dần dần của thßi kỳ quả độ lên chủ
nghĩa xã hội. Tính chất phức tạp và khó khăn của nó được Ngưßi lý giải trên các điểm sau:
Thứ nhất, đây thực sự là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt đßi sống xã hội,
cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sá hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Nó đặt ra và đòi hỏi đồng thßi giải quyết hàng loạt mâu thuẫn khác nhau. Như trong
Di chúc Hồ Chí Minh đã coi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc chiến
đấu khổng lồ của toàn Đảng toàn dân Việt Nam.
Thứ hai, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; Đảng, Nhà nước, và nhân dân
ta chưa có kinh nghiệm, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Đây là công việc hết sức mới
mẻ đối với Đảng ta nên phải vừa làm vừa học và có thể có vấp váp, thiếu sót. Xây
dựng xã hội mới bao giß cũng khó khăn, phức tạp hơn đánh đổ xã hội cũ đã lỗi thßi.
Thứ ba sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội á nước là luôn luôn bị các thế lực phản
động trong và ngoài nước tìm cách chống phá.
Từ việc chỉ rõ tính chất của thßi kỳ quá độ. Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhá cán
hộ, đảng viên trong xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thận trọng, tránh nôn nóng, chủ
quan, đốt cháy giai đoạn Vấn đề cơ bản là phải xác định đúng bước đi và hình thức
phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, biết kết hợp các khâu trung gian, quá
độ, luận tự từng bước, từ thấp lên cao. Vì vậy, xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi
một năng lực lãnh đạo mang tính khoa học, vừa hiểu biết các quy luật vận động xã
hội, lại phải có nghệ thuật khôn khéo cho thật sát với tình hình thực tế.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội á nước ta là sự nghiệp cách mạng mang tính
toàn diện. Hồ Chí Minh đã xác định rõ nhiệm vụ cụ thể cho từng lĩnh vực:
- Trong lĩnh vực chính trị, nội dung quan trọng nhất là phải giữ vững và phát huy
vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng phải luôn luôn tự đổi mới và tự chỉnh đốn, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, có hình thức tổ chức phù hợp để đáp ứng
các yêu cầu, nhiệm vụ mới. Bước vào thßi kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta
đã trá thành Đảng cầm quyền Mối quan tâm lớn nhất của Ngưßi về Đảng cầm
quyền là làm sao cho Đảng không trá thành Đảng quan liêu, xa dân, thoái hóa, biến
chất, làm mất lòng tin của dân, có thể dẫn đến nguy cơ sai lầm về đưßng lối, cắt
đứt mối quan hệ máu thịt với nhân dân và để cho chủ nghĩa cá nhân nảy ná dưới
nhiều hình thức. Đồng thßi, củng cố và tăng cưßng vai trò quản lý của nhà nước
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày càng trá thành nhiệm vụ rất quan trọng.
Một nội dung chính trị quan trọng trong thßi kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
củng cố và má rộng mặt trận dân tộc thống nhất, nòng cốt là liên minh công nhân,
nông dân và tri thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo; củng cố và tăng cưßng sức mạnh
toàn bộ hệ thống chính trị cũng như thành tố của nó.
- Nội dung kinh tế được Hồ Chí Minh đề cập trên các mặt: lực lượng sản xuất,
quan hệ sản xuất, cơ chế quản lý kinh tế. Ngưßi nhấn mạnh đến việc tăng năng suất
lao động trên cơ sá tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đối với cơ cấu
kinh tế Hồ Chí Minh đề cập cơ cấu ngành và cơ cấu các thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ.
Ngưßi quan niệm hết sức độc đáo về cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp, lấy nông
nghiệp làm mặt trận hàng đầu, củng cố hệ thống thương nghiệp làm cầu nối tốt
nhất giữa các ngành sản xuất xã hội, thỏa mãn nhu cầu thiết yếu của nhân dân.
Đối với kinh tế vùng, lãnh thổ. Hồ Chí Minh lưu ý phải phát triển đồng đều giữa
kinh tế đô thị và kinh tế nông thôn. Ngưßi đặc biệt chú trọng chỉ đạo phát triển
kinh tế vùng núi, hải đảo, vừa tạo điều kiện không ngừng cải thiện và nâng cao đßi
sống của đồng bào, vừa bảo đảm an ninh, quốc phòng cho đất nước.
à nước ta, Hồ Chí Minh là ngưßi đầu tiên chủ trương phát triển cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần trong suốt thßi kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ngưßi xác định rõ
vị trí và xu hướng vận động của từng thành phần kinh tế. Nước ta cần ưu tiên phát
triền kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy
việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Kinh tế hợp tác xã là hình thức sá hữu tập thế của
nhân dân lao động, Nhà nước cần đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ nó
phát triển, về tổ chức hợp tác xã, Hồ Chí Minh nhấn mạnh nguyên tắc dần dần, từ
thấp đến cao, tự nguyện, cùng có lợi, chống chủ quan, gò ép, hình thức. Đối với
ngưßi làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác. Nhà nước bao hộ quyền sá hữu
về tư liệu sản xuất, ra sức hướng dẫn và giúp họ cải tiến cách làm ăn. khuyến khích
họ đi vào con đưßng hợp tác. Đối với những nhà tư sản công thương, vì họ đã tham
gia ủng hộ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, có đóng góp nhất định trong khôi
phục kinh té và sẵn sàng tiếp thu, cải tạo đế góp phần xây dựng nước nhà, xây
dựng chủ nghĩa xã hội, nên Nhà nước không xóa bỏ quyền sá hữu về tư liệu sản
xuất và của cải khác của họ, mà hướng dẫn họ hoạt động làm lợi cho quốc kế dân
sinh, phù hợp với kinh tế nhà nước, khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo chủ
nghĩa xã hội bằng hình thức tư bản nhà nước.
Bên cạnh chế độ và quan hệ sá hữu. Hồ Chí Minh rất coi trọng quan hệ phân phối
và quản lý kinh tế. Quản lý kinh tế phải dựa trên cơ sá hạch toán, đem lại hiệu quả
cao, sử dụng tốt các đòn bẩy trong phát triển sản xuất Ngưßi chủ trương và chi rõ
các điều kiện thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động: làm nhiều hưáng
nhiều, làm ít hưáng ít, không làm không hưáng. Gắn liền với nguyên tắc phân phối
theo lao động, Hồ Chí Minh bước đầu đề cập vấn đề khoán trong sản xuất, "Chế độ
làm khoán là một điều kiện của chủ nghĩa xã hội. nó khuyến khích ngưßi công
nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ. Làm khoán là ích chung và là lợi
riêng...: làm khoán tốt thích hợp và công bằng dưới chế độ ta hiện nay"
- Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vấn đề xây dựng
con ngưßi mới. Đặc biệt, Hồ Chí Minh đề cao vai trò của văn hóa, giáo dục và
khoa học – kỹ thuật trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Ngưßi cho rằng, muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội nhất định phải có học thức, cần phải học cả văn hóa, chính trị, kỹ
thuật và chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học chắc chắn đưa loài ngưßi đến hạnh
phúc vô tận. Hồ Chí Minh rất coi trọng việc nâng cao dan trí, đào tạo và sử dụng
nhân tai, khẳng định vai trò to lớn của văn hóa trong đßi sống xã hội.
Bước vào thßi kỳ đổi mới, với phương châm, quan điểm đổi mới toàn diện các mặt,
các lĩnh vực hoạt động của đßi sống xã hội, trong đó và trước hết là đổi mới tư duy
lý luận, Đảng ta đã nhận thức một cách sâu sắc hơn lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưáng Hồ Chí minh về TKQĐ lên CNXH và con đưßng đi lên CNXH á nước ta như sau :
Một là, về tính chất lâu dài, khó khăn, phức tạp của TKQĐ :
Tại Đại hội VI (1986), Đảng ta xác định rằng, từ CNTB lên CNXH tất yếu phải trải
qua một TKQĐ và độ dài của thßi kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị,
xã hội cụ thể của mỗi nước. Đối với nước ta, do xuất phát điểm về các lĩnh vực của
đßi sống xã hội đều rất thấp kém, nên TKQĐ rất lâu dài và khó khăn, bao hàm nhiều
chặng đưßng, nhiều bước quá độ nhỏ với những nhiệm vụ tương ứng. độ á nước ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn. Ðó là
một thßi kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu
một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng=. Nhận thức này khắc phục được tư tưáng chủ quan, nóng vội, giản đơn về TKQĐ.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương
lĩnh 1991) đã xác định: từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp=.
Tổng kết 15 năm đổi mới, tại Đại hội IX, Đảng ta đã nhận thức về TKQĐ: Xây dựng
CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các
lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thßi kỳ quá
độ lâu dài với nhiều chặng đưßng, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính
chất quá độ. Tới Đại hội XI, Đảng ta đã khái quát về TKQĐ lên CNXH trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo
ra sự biến đổi về chất trên tất cả mọi lĩnh vực của đßi sống xã hội, nhất thiết phải trải
qua một thßi kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức
kinh tế, xã hội đan xen=. TKQĐ là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu
tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới. Đồng thßi, với sự lâu dài đó, TKQĐ phải trải
qua nhiều bước phát triển với nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen cùng
phát triển. Tư tưáng này đã định hướng các nhiệm vụ, nội dung của TKQĐ á nước ta.
Hai là, về mục tiêu và các giai đoạn phát triển của TKQĐ :
Trên cơ sá tính chất và đặc điểm của TKQĐ, Cương lĩnh 1991 xác định tổng quát= phải đạt tới khi kết thúc thßi kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản những
cơ sá kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưáng,
văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trá thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh=.
Đồng thßi, xác định rõ hơn mục tiêu của các giai đoạn phát triển trong TKQĐ.
Trên cơ sá đó và căn cứ vào tình hình thực tiễn đất nước, Đại hội VII đã đề ra mục
tiêu tổng quát của 5 năm (1991-1995) là: phát triển kinh tế-xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công
xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay=. Và nhiệm vụ
bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đưßng đầu tiên là ổn
định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết
cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đưßng tiếp theo.
Đây được coi lànhững dấu mốc, mục tiêu cần đạt được củachặng đưßng đầu trong TKQĐ.
Với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân ta, 10 năm đầu đổi mới đã đạt đượcnhững
thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng.Đại hội VIII (1996) của Đảng nhận định
nước ta đã kết thúc chặng đường đầu tiên và bắt đầu bước vào chặng đường tiếp
theo của TKQĐ đi lên CNXH với nội dung trọng tâm là đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Đại hội X của Đảng đề ra quyết tâm: triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại=.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển
năm 2011) đã chỉ rõ: là
xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng
tầng về chính trị, tư tưáng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sá để nước ta trá thành một nước
xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc=. Như vậy, có thể hình dung lộ
trình, bước đi và mục tiêu của các giai đoạn phát triển trong TKQĐ là tương đối rõ
ràng. Đó là những định hướng, những tiêu chí cơ bản để toàn Đảng, toàn dân phấn
đấu trong suốt TKQĐ á nước ta. Chính việc xác định cụ thể mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội cho từng giai đoạn là sự thể hiện nhận thức mới của Đảng về TKQĐ lên CNXH á nước ta.
Ba là, về cơ cấu kinh tế, xã hội và các hình thức sở hữu trong TKQĐ :
Về cơ cấu xã hội, trên nền tảng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưáng
Hồ Chí Minh, Ðảng Cộng sản Việt Nam nhận thức rõ hơn trong TKQĐ, có nhiều
hình thức sá hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã
hội khác nhau, những cơ cấu, tính chất, vị trí các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi
nhiều cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế, xã hội. Mối quan hệ giữa các giai
cấp, các tầng lớp xã hội là mối quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân,
đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự
lãnh đạo của Ðảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc
trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Ðộng lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn
kết toàn dân tộc trên cơ sá liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do
Ðảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi
tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.
Về cơ cấu kinh tế và các hình thức sá hữu trong TKQĐ, Đảng ta xác định nền kinh
tế của Việt Nam là nền kinh tế có nhiều hình thức sá hữu, nhiều thành phần kinh tế
cùng tồn tại và phát triển, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trá thành nền tảng vững chắc, chế độ sá hữu
công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất chủ yếu từng bước được xác lập và sẽ
chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản. Xây
dựng nền kinh tế thị trưßng theo định hướng XHCN, có sự quản lý của Nhà nước.
Thực hiện chế độ phân phối theo kết quả lao độngvà hiệu quả kinh tế, đồng thßi phân
phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội.
Về phương diện xã hội, văn hoá, tư tưởng, TKQĐ là thßi kỳ đan xen các giá trị văn
hóa XHCN và cả những giá trị văn hóa phi XHCN, cả những nhân tố mới tích cực
và cả những nhân tố tiêu cực vẫn còn tồn tại. Trong xã hội còn đan xen các luồng tư
tưáng khác nhau nhưng lý luận của chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưáng Hồ Chí minh là
nền tảng tư tưáng của xã hội. Tăng trưáng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá và
giáo dục, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng
cao dân trí, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước.
Bốn là, về cách thức bỏ qua chế độ TBCN trong TKQĐ :
Những năm đầu đổi mới, chúng ta xác định nghĩa=, đến Đại hội IX, sau 15 năm đổi mới, Đảng ta có bước phát triển mới về nhận
thức bỏ qua chế độ TBCN xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành
tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và
công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại=.
Đặc biệt, trong quá trình vận dụng và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưáng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã có những nhận thức mới như giải quyết mối quan
hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Đó là khi lực lượng sản xuất bị kìm
hãm không chỉ trong trưßng hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản
xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Đây là một sự phát hiện, bổ sung đáng kể vào lý luận Mác -
Lênin, là kết quả của sự đổi mới tư duy của Đảng ta về CNXH, về mối quan hệ giữa
CNXH và CNTB, là sự tiếp nối các giá trị phát triển của văn minh nhân loại để từ
đó bước lên nấc thang cao hơn là CNXH. Nhận thức này đã góp phần khắc phục tư
duy giáo điều, duy ý chí, nóng vội, phi quy luật mà trước đây đã mắc phải.
Trong gần 30 năm đổi mới, Đảng ta đã nhận thức và vận dụng sáng tạo, phát triển
nhiều vấn đề lý luận về bản chất, đặc điểm, nội dung và các giai đoạn phát triển trong
TKQĐ, có những đóng góp vào lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Mặc dù quá trình
nhận thức, vận dụng lý luận về TKQĐ lên CNXH á các giai đoạn lịch sử có những
lúc, những việc chưa thành công nhưng về cơ bản, đó là quá trình hoàn thiện, bổ
sung, phát triển sáng tạo. Đó là nhân tố quyết định thành công của công cuộc phát
triển kinh tế - xã hội á Việt Nam.