Phân tích đặc điểm hành chính công. Liên hệ thực tiễn tại Việt Nam. Hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp của nhà nước | Tổng hợp câu hỏi tự luận Luật Hiến Pháp | Học viện Hành Chính Quốc Gia
Phân tích đặc điểm hành chính công. Liên hệ thực tiễn tại Việt Nam. Hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp của nhà nước | Tổng hợp câu hỏi tự luận Luật Hiến Pháp | Học viện Hành Chính Quốc Gia. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF gồm 31 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
Câu 1: Phân tích đặc điểm hành chính công. Liên hệ thực tiễn tại Việt Nam. Trả lời:
1. Khái hành chính công:
Hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp của nhà nước, là
hoạt động chấp hành và điều hành của hệ thống hành chính nhà nước để quản lý xã
hội theo khuôn khổ pháp luật nhà nước nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định
và phát triển của xã hội.
2. Phân tích đặc điểm của hành chính công
a). Tính lệ thuộc vào chính trị
Hành chính công và chính trị luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Không thể có hành chính công và chính trị tách rời nhau. Chính trị liên quan đến
vấn đề giai cấp, giành và giữ quyền lực Nhà nước, thực hiện mục tiêu chính trị.
Hành chính là cụ thể hoá quyền lực chính trị, biến mục tiêu chính trị thành hiện
thực. Chính trị liên quan đến vấn đề phân chia lợi ích cho các nhóm lợi ích, còn
hành chính tạo ra và cung cấp sản phẩm cho các nhóm lợi ích đó. Do đó, hành
chính luôn luôn lệ thuộc vào chính trị và hệ thống chính trị.
Nền hành chính Nhà nước lệ thuộc vào chính trị và thể hiện bản chất Nhà
nước. Nó vừa thực hiện chức năng bảo vệ lợi ích giai cấp vừa thực hiện chức năng
duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội. Vì vậy, bất kỳ nền hành chính quốc
gia nào cũng phục vụ mục tiêu chính trị và thực hiện nhiệm vụ chính trị, biến lợi
ích chính trị của Đảng cầm quyền thành hiện thực. Tính lệ thuộc đó ở từng quốc
gia, vùng lãnh thổ là khác nhau, tuỳ thuộc vào yếu tố lịch sử, văn hoá, tương quan
giai cấp, tầng lớp trong xã hội.
Ở Việt Nam, nền hành chính Nhà nước là yếu tố quan trọng cấu thành nên hệ
thống chính trị theo nguyên tắc: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ. Nền hành chính Việt Nam phục vụ cho lợi ích của nhân dân, dân tộc Việt Nam.
Hành chính Nhà nước lệ thuộc vào chính trị nhưng nó có tính độc lập tương
đối. Hành chính Nhà nước độc lập tương đối với chính trị về các biện pháp tác
nghiệp hành chính, các quy luật quản lý, biện pháp và kỹ thuật tổ chức thực hiện.
Liên hệ thực tiễn đặc điểm này tại hành chính nhà nước Việt Nam
Ở nước ta, nền hành chính nhà nước mang đầy đủ bản chất của một Nhà
nước dân chủ xã hội chủ nghĩa “của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” dựa
trên nền tảng của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp
trí thức do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam nằm trong hệ thống chính trị, có hạt nhân lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt
Nam, các tổ chức chính trị – xã hội giữ vai trò tham gia và giám sát hoạt động của
Nhà nư ớc, mà trọng tâm là nền hành chính.
b) Tính pháp quyền
Hành chính Nhà nước sử dụng quyền lực công để thực hiện chức năng quản
lý. Quyền lực công này không phải tự các cơ quan hành chính Nhà nước có quyền
trao cho mình. Quyền lực công được cụ thể trong Hiến pháp, luật, các văn bản
pháp quy của Nhà nước. Tất cả các cơ quan hành chính Nhà nước chỉ được phép
hoạt động trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền đã được
luật hoá. Không một chủ thể hành chính Nhà nước nào được đứng trên pháp luật
và đứng ngoài pháp luật.
Nền hành chính Nhà nước mang tính pháp quyền đặt ra yêu cầu:
- Trong hoạt động quản lý hành chính Nhà nước pháp luật phải được tôn trọng tối cao.
- Thẩm quyền, địa vị pháp lý của cơ quan hành chính Nhà nước được quy
định cụ thể, có sự phân công, phân cấp rành mạch tránh tình trạng chồng chéo,
trùng lắp chức năng nhiệm vụ quyền hạn giữa các cơ quan.
- Nền hành chính Nhà nước có tính pháp quyền cũng đặt ra yêu cầu các cơ
quan hành chính Nhà nước, cán bộ, công chức hành chính phải bảo đảm quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Liên hệ thực tiễn đặc điểm này tại hành chính nhà nước Việt Nam
Tính pháp quyền tại hành chính nhà nước Việt Nam thể hiện tại các cơ quan
hành chính, công chức phải nắm vững qui định pháp luật, sử dụng đúng quyền lực,
thực hiện đúng chức năng và thẩm quyền trong thực thi công vụ. Mỗi cán bộ, công
chức cần chú trọng vào việc nâng cao uy tín về chính trị, phẩm chất đạo đức và
năng lực thực thi để phục vụ nhân dân. Tính pháp quyền của nền hành chính được
thể hiện trên cả 3 hai phương diện là quản lý nhà nước bằng pháp luật và theo pháp
luật. Điều đó có nghĩa là, một mặt các cơ quan hành chính nhà nước sử dụng luật
pháp là công cụ điều chỉnh các mối quan hệ xã hội mang tính bắt buộc đối với các
đối tượng quản lý; mặt khác các cơ quan hành chính nhà nước cũng như công chức
phải được tổ chức và hoạt động theo pháp luật chứ không được tự do, tuỳ tiện vượt
lên trên hay đứng ngoài pháp luật.
c) Tính liên tục, tương đối ổn định và thích ứng
Hoạt động quản lý hành chính Nhà nước là công việc mang tính thường
xuyên và liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu của công dân và toàn xã hội, phục vụ cho
lợi ích công. Vì các mối quan hệ xã hội, hành vi xã hội, các quá trình xã hội được
pháp luật hành chính điều chỉnh diễn ra hàng ngày, hàng giờ, thường xuyên và
không ngừng vận động. Từ những công việc đơn giản nhất: đánh văn bản, đóng
dấu chứng thực cho đến tổ chức thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia.
Bởi vậy, cơ cấu tổ chức, đội ngũ cán bộ, công chức hành chính Nhà nước
cũng như hoạt động của nó phải liên tục, thường xuyên để bảo đảm các quá trình
xã hội, sự phát triển xã hội không bị gián đoạn, ngưng trệ trong bất kỳ tình huống nào.
Tính liên tục đặt ra yêu cầu các cơ quan Nhà nước phải luôn xây dựng được
đội ngũ nhân sự có đủ năng lực và trình độ bảo đảm tính kế cận, kế thừa và phát
triển. Để tránh gây ra sự sáo trộn, đột biến trong cơ cấu tổ chức, cơ cấu nhân sự.
Do đó, nó mang tính ổn định tương đối.
Liên hệ thực tiễn đặc điểm này tại hành chính nhà nước Việt Nam
Đặc điểm thể hiện rất rõ rệt tại hành chính nhà nước Việt Nam hiện nay.
Đặc biệt trong thời đại phát triển của khoa học công nghệ, tính liên tục,
tương đối ổn định và thích ứng ngày càng được nhà nước Việt Nam quan tâm và
vận dụng. Điều đó thể hiện ở các chương trình lớn của chính phủ như: - Chuyển đối số :
Cùng với thế giới, ở Việt Nam, việc tiếp cận với chuyển đổi số bắt đầu từ
khoảng năm 2018. Thế nhưng đến ngày 03/6/2020, Thủ tướng Chính phủ mới
quyết định phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia và ngày 10/10/2020
được chọn là ngày chuyển đổi số quốc gia, khởi động cho năm đầu tiên thực
hiện chuyển đổi số quốc gia trên phạm vi cả nước. Tại huyện Cái Nước, việc
chuyển đổi số cũng đã có những bước khởi động đáng ghi nhận.
Chuyển đổi số được xem là bước phát triển tiếp theo của quá trình tin học
hóa hay còn gọi là ứng dụng công nghệ thông tin ở mức độ cao hơn trong cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chuyển đổi số là quá trình thay đổi tổng thể và
toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách sống, cách làm việc và phương thức sản
xuất dựa trên các nền tảng công nghệ số và dữ liệu số. Đó là quá trình ứng dụng
khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo để tạo ra giá trị mới dựa trên các đột phá
về nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ. Đây là bước tiến mới, là xu thế
chung của toàn cầu trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, mà nhiều người
thường gọi là cuộc các mạng 4.0.
- Đối phó với biển đổi khí hậu:
Việt Nam được xác định là một trong số những quốc gia trên thế giới chịu
ảnh hưởng nghiêm trọng nhất của biến đổi khí hậu (BĐKH). Chủ động ứng phó
với BĐKH là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết định sự phát triển
bền vững của đất nước.
Và rất nhiều dự án lớn khác.
Đi cùng với các chương trình, dự án…của nhà nước Việt Nam. Các cơ quan
nhà nước luôn luôn tìm kiếm, xây dựng và đào tạo những cán bộ, nhân viên có
chuyên môn, đạo đức và phẩm chất. Từ đó xây dựng một đội ngũ, cơ cấu tổ
chức nhân sự tương đối ổn định qua các thời kỳ.
d) Tính chuyên môn hoá, kỹ năng hành chính và nghề nghiệp cao
Hoạt động quản lý hành chính Nhà nước là hoạt động mang tính đa dạng,
phức tạp. Nghiệp vụ, kỹ năng quản lý Nhà nước đòi hỏi phải thực sự khoa học, văn
minh hiện đại. Mặt khác, quản lý Nhà nước bao trùm trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Mỗi một lĩnh vực đặt ra yêu cầu về kỹ năng, phương pháp quản lý
nhất định. Nó đặt ra yêu cầu người làm công tác quản lý hành chính trên lĩnh vực
đó phải năm vững được chuyên môn sâu, năng lực thực thi và óc tổ chức khoa học.
Vì vậy, tính chuyên môn hoá và nghề nghiệp cao là yêu cầu bắt buộc đối với
hoạt động quản lý Nhà nước, là điều kiện để xây dựng nền hành chính Nhà nước khoa học, hiện đại.
Cán bộ, công chức làm công tác quản lý hành chính Nhà nước không những
phải bảo đảm yêu cầu về chuyên môn nghiệp vụ mà còn phải tự trang bị cho mình
khối lượng kiến thức xã hội phong phú. Có như vậy, khi thi hành công vụ mới đạt hiệu quả cao.
Liên hệ thực tiễn đặc điểm này tại hành chính nhà nước Việt Nam
Nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề này. Các nghị định, nội dung, chương
trình về bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, công chức, viên chức luôn được nhà nước xây
dựng kịp thời và phù hợp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân sự của hành chính
nhà nước Việt Nam. Điển hình như:
Nghị định 101/2017/NĐ-CP đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức viên chức
Nghị định số 89/2021/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên
chức (sau đây gọi là Nghị định số 89/2021/NĐ-CP) với nhiều nội dung mới, tạo
điều kiện tối đa cho công chức, viên chức được tham gia học tập, cũng như các quy
định nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.
Ngoài ra, các cơ quan nhà nước Việt Nam luôn chú trọng đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao cán bộ, công chức, viên chức người lao động qua các chương trình cụ thể
của từng cơ quan. Điều đó cho thấy hành chính nhà nước Việt Nam thể hiện rõ đặc
điểm tính chuyên môn hoá, kỹ năng hành chính và nghề nghiệp cao.
e) Tính thứ bậc chặt chẽ
Công tác quản lý hành chính Nhà nước được thực hiện thông qua một hệ
thống các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước từ trung ương đến cơ sở. Mỗi cơ
quan hành chính Nhà nước là một mắt khâu, một bộ phận trong hệ thống đảm
nhiệm một chức năng, nhiệm vụ nhất định. Hệ thống hành chính Nhà nước phải
được vận hành một cách thống nhất và thông suốt từ trên xuống dưới, từ trung
ương đến cơ sở. Nó đòi hỏi cơ quan hành chính Nhà nước phải có tính hệ thống
chặt chẽ và phân định rõ thứ bậc cấp trên, cấp dưới, mối quan hệ giữa các cơ quan đồng cấp với nhau.
Tính thứ bậc chặt chẽ thể hiện ở việc yêu cầu tuân thủ triệt để nguyên tắc
cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương chịu sự giám sát, điều hành của trung
ương. Bên cạnh đó, cũng đặt ra yêu cầu xác định rõ địa vị pháp lý của mỗi cơ quan,
cơ chế phối hợp hoạt động giữa các cơ quan hành chính.
Tuy nhiên, tính thứ bậc chặt chẽ không làm quan liêu hoá, cứng nhắc bộ máy
hành chính, nó phải đặt trong tính chủ động, sáng tạo và linh hoạt mới có thể đem
lại hiệu quả trong hoạt động quản lý hành chính Nhà nước.
Liên hệ thực tiễn đặc điểm này tại hành chính nhà nước Việt Nam
ộ máy nhà nước là tổng thể các cơ quan nhà nước từ Trung ương tới địa phương,
được tổ chức, hoạt động theo những nguyên tắc thống nhất, tạo thành cơ chế đồng
bộ nhằm thực hiện nhiệm vụ, chức năng của nhà nước.
Trong đó, Cơ quan nhà nước là bộ phận cấu thành của Bộ máy nhà nước, đây là tổ
chức (hoặc cá nhân) mang quyền lực nhà nước được thành lập và có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật với mục đích nhằm thực hiện nhiệm vụ và chức năng của nhà nước.
Bộ máy Nhà nước Việt Nam theo Hiến pháp bao gồm: Quốc hội, Chủ tịch nước,
Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, Chính quyền địa phương.
Quốc hội:
Trong bộ máy Nhà nước Việt Nam, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của
Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định
các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
Chính phủ
Trong bộ máy Nhà nước Việt Nam, Chính phủ là cơ quan hành pháp. Chính phủ là
cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội,
Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ
trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
Cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ do Quốc hội quyết định.
Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số.
Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Quốc
hội về hoạt động của Chính phủ và những nhiệm vụ được giao; báo cáo công tác
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Phó Thủ tướng Chính phủ giúp Thủ tướng Chính phủ làm nhiệm vụ theo sự phân
công của Thủ tướng Chính phủ và chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về
nhiệm vụ được phân công. Khi Thủ tướng Chính phủ vắng mặt, một Phó Thủ
tướng Chính phủ được Thủ tướng Chính phủ ủy nhiệm thay mặt Thủ tướng Chính
phủ lãnh đạo công tác của Chính phủ.
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ
tướng Chính phủ, Chính phủ và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công phụ
trách, cùng các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ.
Tòa án nhân dân
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định.
Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Viện kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện
kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật định.
Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Chính quyền địa phương
Trong bộ máy Nhà nước Việt Nam còn có chính quyền địa phương. Chính quyền
địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Các cấp đơn vị hành chính bao gồm: Cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã.
Hiện nay, Việt Nam có 05 thành phố trực thuộc Trung ương gồm Hà Nội, Thành
phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ và 58 tỉnh.
Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được
tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh
tế đặc biệt do luật định.
- Hội đồng nhân dân
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý
chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra,
chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát
việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết
của Hội đồng nhân dân.
- Ủy ban nhân dân
Ủy ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp
bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.
Ủy ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ
chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ
quan nhà nước cấp trên giao.
Người đứng đầu các cơ quan trong bộ máy Nhà nước Việt Nam hiện nay là ai?
Theo quy định của Hiến pháp 2013, người đứng đầu các cơ quan trong bộ máy nhà
nước Việt Nam hiện nay gồm:
Quốc hội:
Quốc hội hiện nay là Quốc hội Việt Nam khóa XV (nhiệm kỳ 2021-2026) với 499 đại biểu.
Chủ tịch Quốc hội hiện nay là ông Vương Đình Huệ
Chủ tịch nước: quy định tại Điều 86 Hiến pháp 2013
Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.
Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm
kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu ra Chủ tịch nước.
Tại Nhiệm kỳ 2021-2026, Chủ tịch nước là ông Nguyễn Xuân Phúc. Tuy nhiên,
Ngày 17/01/2023, Quốc hội đã miễn nhiệm Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc.
Chiều ngày 18/01/2023, Quốc hội có cuộc họp đột xuất để quyết định về việc bổ
nhiệm Chủ tịch nước. Theo như kết quả của cuộc họp bất thường thì bà Võ Thị
Ánh Xuân sẽ giữ quyền Chủ tịch nước cho đến khi Quốc hội xem xét, bổ nhiệm Chủ tịch nước mới.
Ngày 1/3, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định giới thiệu nhân sự để
bầu giữ chức Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhiệm kỳ 2021 - 2026.
Sáng 2/3/2023, Quốc hội đã thảo luận, biểu quyết thông qua nghị quyết bầu Chủ
tịch nước đối với ông Võ Văn Thưởng.
Chính phủ: được quy định tại Điều 95 Hiến pháp 2013
Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Quốc
hội về hoạt động của Chính phủ và những nhiệm vụ được giao; báo cáo công tác
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Thủ tướng Chính phủ hiện nay là ông Phạm Minh Chính.
Tòa án nhân dân:
Nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Việc
bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án khác do luật định.
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là ông Nguyễn Hòa Bình.
Viện kiểm sát nhân dân:
Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện
kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật định.
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao hiện nay là ông Lê Minh Trí. f) Tính không vụ lợi
Khác với các tổ chức khác, các cơ quan Nhà nước nói chung, cơ quan hành
chính Nhà nước nói riêng hoạt động vì lợi ích công cộng, vì lợi ích xã hội. Hoạt
động quản lý Nhà nước là hoạt động không vụ lợi. Các sản phẩm và lợi ích mà nó
tạo ra không phục vụ cho lợi ích tự thân. Hoạt động quản lý hành chính Nhà nước
tạo ra sản phẩm và dịch vụ phục vụ cho lợi ích của công dân và toàn xã hội, duy trì
trật tự an ninh, an toàn xã hội.
Tính không vụ lợi đòi hỏi trong hoạt động quản lý hành chính, các cơ quan
hành chính Nhà nước; cán bộ, công chức hành chính phải hoàn toàn công tâm,
khách quan, công khai, minh bạch, không theo đuổi mục tiêu lợi nhuận không đòi
hỏi người được hưởng sự phục vụ phải trả thù lao.
Tính không vụ lợi, hoạt động vì lợi ích xã hội cũng đòi hỏi các cơ quan hành
chính Nhà nước khi xem xét, giải quyết các vấn đề, nhất là các vấn đề liên quan
đến lợi ích quốc gia và toàn xã hội phải đặt lợi ích của nhân dân, lợi ích của xã hội lên trên hết.
Liên hệ thực tiễn đặc điểm này tại hành chính nhà nước Việt Nam
Tính không vụ lợi tại hành chính nhà nước Việt Nam thể hiện ở rất nhiều
mặt. Một trong số đó có thể kể đến đó chính nỗ lực cung cấp điện cho địa phương
vùng sâu, vùng xa, hải đảo...
Đưa điện lưới quốc gia về các vùng nông thôn, bản, làng vùng cao, vùng
sâu, vùng hải đảo xa xôi là hành trình đầy gian nan, vất vả. Đưa điện lưới quốc gia
về các vùng nông thôn, bản, làng vùng cao, vùng sâu, vùng hải đảo xa xôi là hành
trình đầy gian nan, vất vả. Đặc biệt, với các dự án này, Tập đoàn Điện lực Việt
Nam (EVN) chịu không ít áp lực về cân đối hiệu quả kinh tế.
Xác định đây là một trong những nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng,
được Đảng, Nhà nước giao phó, những năm qua, EVN luôn nâng cao trách nhiệm,
nỗ lực thực hiện thành công nhiều dự án đưa điện về nông thôn, miền núi, hải đảo.
Dòng điện đã đánh thức tiềm năng của các địa phương, góp phần giữ vững chủ quyền, an ninh quốc gia.
Trong điều kiện của một nước đang phát triển, phải đối diện với rất nhiều
rào cản về công nghệ, nguồn vốn, trình độ quản lý, tỷ lệ 100% số xã có điện, số hộ
dân có điện đạt hơn 99,47%; trong đó, 99,18% số hộ nông dân có điện có thể xem
như là một thành quả “thần kỳ” của EVN. Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế,
mức độ phủ điện đến các hộ dân vùng sâu, vùng xa, vùng hải đảo của Việt Nam là
thành tựu mà không nhiều quốc gia trên thế giới đạt được. g) Tính nhân đạo
Nền hành chính Nhà nước có tính nhân đạo là nền hành chính tôn trọng con
người, phục vụ con người và lấy mục tiêu phát triển con người là thước đo trình độ quản lý.
Tính nhân đạo yêu cầu các cơ quan hành chính Nhà nước, cán bộ, công chức
Nhà nước phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe và tôn trọng ý kiến của
nhân dân; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện nghiêm túc: “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Thực hiện tính nhân đạo trong nền hành chính Nhà nước yêu cầu mọi công
dân phải được đối xử bình đẳng trước pháp luật. Các cơ quan quản lý hành chính
tạo điều kiện cho người dân có cơ hội tiếp cận các dịch vụ, đáp ứng các lợi ích hợp
pháp phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của người dân. Các cơ quan hành chính Nhà
nước luôn quan tâm, chăm lo thực thi các chính sách an sinh xã hội, chính sách đối
với các đối tượng thiệt thòi trong xã hội.
Liên hệ thực tiễn đặc điểm này tại hành chính nhà nước Việt Nam
Tính nhân đạo của hành chính nhà nước ta hiện nay thể hiện rất nhiều khía
cạnh. Một trong số đó nổi bật hơn hẳn đó là chính sách xóa đói giảm nghèo.
Ở Việt Nam , đói, nghèo vẫn đang là vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc. Xóa
đói, giảm nghèo toàn diện, bền vững luôn luôn được Đảng, Nhà nước ta hết sức
quan tâm và xác định là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã
hội và là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong gần 20 năm đổi mới, nhờ thực hiện cơ chế, chính sách phù hợp với
thực tiễn nước ta, công cuộc xóa đói, giảm nghèo đã đạt được thành tựu đáng kể,
có ý nghĩa to lớn cả về kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh - quốc phòng, phát huy
được bản chất tốt đẹp của dân tộc ta và góp phần quan trọng trong sự nghiệp phát
triển đất nước bền vững. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh trong khoảng thời gian 5 năm
từ 17,2% năm 2001 với 2,8 triệu hộ, xuống còn 8,3% năm 2004 với 1,44 triệu hộ,
bình quân mỗi năm giảm 34 vạn hộ, đến cuối năm 2005 còn khoảng dưới 7% với
1,1 triệu hộ. "Những thành tựu giảm nghèo của Việt Nam là một trong những câu
chuyện thành công nhất trong phát triển kinh tế". Đó là đánh giá trong "Báo cáo
phát triển Việt Nam năm 2004" của Ngân hàng thế giới.
Do đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện, cùng với định hướng
chung là từng bước tiếp cận với trình độ của các nước đang phát triển trong khu
vực, nên chuẩn nghèo đã được điều chỉnh lại, trong đó có tính đến các nhân tố ảnh
hưởng. Chuẩn nghèo mới áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010 quy định: Hộ nghèo
là những hộ ở khu vực nông thôn có thu nhập bình quân 200.000 đồng/người/tháng
trở xuống, đối với những hộ ở khu vực thành thị có thu nhập bình quân từ 260.000
đồng/người/tháng trở xuống. Theo quy định này, ước tính năm 2005 cả nước ta có
khoảng 3,9 triệu hộ nghèo, chiếm 22% số hộ trong toàn quốc; Các vùng có tỷ lệ hộ
nghèo cao là vùng Tây Bắc (44%) và Tây Nguyên (40%); vùng có tỉ lệ hộ nghèo
thấp nhất là vùng Đông Nam Bộ (9%).
Câu 2: Phân tích đặc điểm mô hình quản trị nhà nước tốt. Liên hệ thực tiễn tại Việt Nam.
1. Quan niệm về quản trị nhà nước tốt:
- Theo UNDP, quản trị nhà nước là việc thực thi các loại quyền lực như kinh
tế, chính trị và hành chính để quản lý mọi vấn đề của đất nước ở tất các cấp chính
quyền. Quản trị đất nước bao gồm các cơ chế, quy trình và thể chế thông qua đó
công dân và các tổ chức có thể thể hiện nguyện vọng và thực hiện quyền hợp pháp,
hoàn thành nghĩa vụ và trung hoà sự khác nhau
- Hiện nay chưa có một định nghĩa chung về thuật ngữ “quản trị nhà nước
tốt”, có thể hiểu chung quản trị nhà nước tốt là việc thực hiện các công việc của
nhà nước một cách có hiệu quả với sự tham gia của nhiều chủ thể trong xã hội,
thỏa mãn nhu cầu và bảo đảm quyền của công dân, tổ chức.
2. Phân tích đặc điểm của mô hình quản trị nhà nước tốt
Một là, Huy động sự tham gia của các chủ thể trong xã hội vào hoạt động
quản lý của nhà nước: Tăng cường sự tham gia của xã hội đối với hoạt động của
hệ thống hành chính từ trung ương đến địa phương. Các cá nhân, tổ chức trong xã
hội có thể tham gia vào hoạt động của Chính phủ (cụ thể là việc ban hành các
quyết định hành chính, các chính sách, biện pháp hành động) một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp thông qua người đại diện hoặc các tổ chức hợp pháp. Khi ban hành
và tổ chức thực hiện các quyết định hành chính, các chính sách, những đối tượng
dể tổn thương nhất trong xã hội được các chủ thể quản lý quan tâm hợp lý. Các tổ
chức chức năng phải thông báo và sắp xếp các buổi gặp gỡ với công dân để bảo
đảm quyền tự do ngôn luận, bảo đảm mọi nguyện vọng của nhân dân được bày tỏ và thực hiện.
Liên hệ thực tiễn việc áp dụng đặc điểm này tại cơ quan hành chính nhà nước tại Việt Nam.
Góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền là một trong những phương
thức quan trọng để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện nhiệm vụ tham gia xây
dựng Đảng, xây dựng Nhà nước. Cùng với đó, Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày
12/12/2013 của Bộ Chính trị ban hành Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng,
xây dựng chính quyền (Quyết định số 218-QĐ/TW) từ khi ra đời đã tạo ra cơ chế
và những định hướng cụ thể để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội
các cấp tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, đồng thời là cơ sở
chính trị quan trọng cho công tác này được thực hiện một cách hiệu quả hơn trong đời sống xã hội.
Qua nhiều năm, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân cả nước đã nỗ lực đạt
được nhiều kết quả quan trọng trên các lĩnh vực; kinh tế tiếp tục phát triển; xây
dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả quan trọng; văn hóa - xã hội có chuyển biến
tiến bộ, an sinh xã hội được đảm bảo; quốc phòng, an ninh được tăng cường; sức
mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy, quyền làm chủ của nhân dân
được tăng cường; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị có nhiều đổi mới;
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, hiệu quả quản lý, điều hành của
chính quyền, chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội được nâng lên.
Hai là quản lý theo các quy định của pháp luật: Các quy định pháp luật
không chỉ đầy đủ mà còn phải bảo đảm tính khách quan và công bằng. Pháp luật
phải tạo thành hành lang pháp lý an toàn để bảo vệ quyền con người, đặc biệt là
bảo vệ quyền lợi của dân tộc thiểu số, những đối tượng chịu thiệt thòi trong xã hội.
Việc thực hiện pháp luật phải có sự độc lập tương đối với hoạt động tư pháp, hoạt
động của lực lượng vũ trang.
Liên hệ thực tiễn việc áp dụng đặc điểm này tại cơ quan hành chính nhà nước tại Việt Nam.
Quản lý xã hội bằng pháp luật là việc nhà nước sử dụng các quy định pháp
luật để điều chỉnh quan hệ xã hội. Lấy pháp luật là thước đo các hành vi trong xã
hội, những hành vi lệch chuẩn đều bị xử lý theo quy định của pháp luật. Thông qua
pháp luật, nhà nước điều hành xã hội phát triển theo ý chí của mình.
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật bằng việc ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật quy định về các vấn đề trong xã hội. Những vấn đề trong xã hội đã
tồn tại lâu dài nhưng không còn phù hợp sẽ được nhà nước xem xét ra những quy
định cụ thể để điều chỉnh các hành động theo khuôn khổ và quản lý xã hội.
Ví dụ: Trong hôn nhân và gia đình thì nhà nước sẽ có những quy định cụ thể
về kết hôn như độ tuổi kết hôn là nam từ đủ 20 tuổi nữ từ đủ 18 tuổi để quản lý xã
hội hạn chế tình trạng tảo hôn, kết hôn quá sớm ảnh hưởng đến sức khoẻ cũng như
tinh thần của trẻ. Ngoài ra sau khi ly hôn pháp luật cũng điều chỉnh, quản lý xã hội
bằng cách yêu cầu người không trực tiếp nuôi con phải chu cấp cho việc nuôi dưỡng con.
Thứ ba là tính công bằng, minh bạch: Chính phủ phục vụ công bằng, bình
đẳng với mọi đối tượng khác nhau trong xã hội, không phân biệt giai cấp, dân tộc,
tôn giáo. Các hoạt động của Chính phủ phải liên tục được thông tin chính xác tới
mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội; và các thông tin đó phải đầy đủ, dễ truy cập và dễ hiểu.
Hiện nay qua chính sách của cơ quan có thẩm quyền ở Việt Nam, hàng
triệu người khiếm thính đã có thể theo dõi thường xuyên thông tin, đặc biệt là
những tin tức về tình hình dịch COVID-19 trên Đài Truyền hình Việt Nam, cụ thể
là chương trình "Việt Nam hôm nay" trên kênh VTV1. Như vậy, ngoài chương
trình Thời sự 19h được phát lại 22h hàng ngày trên kênh VTV2, Việt Nam hôm
nay là chương trình thứ 2 có ngôn ngữ ký hiệu của Đài Truyền hình Việt Nam.
Chương trình Việt Nam hôm nay phát sóng vào lúc 17h30 hàng ngày trên
kênh VTV1. Trong suốt 50 phút phát sóng, người phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu
xuất hiện ở một góc màn hình.
Kể từ khi dịch COVID-19 bùng phát, những người khuyết tật vận động bắt
đầu tự thiết kế những bản tin trên mạng xã hội để cung cấp thông tin cho nhau. Giờ
đây, họ sẽ có thêm một nguồn tin đáng tin cậy để theo dõi và cũng dựa vào đó để
tiếp tục tìm cách truyền thông hiệu quả hơn nữa trong cộng đồng mình.
Hiện Việt Nam có khoảng 2,5 triệu người khiếm thính. Việc tổ chức các hình
thức truyền thông đặc thù là rất cần thiết để trong cuộc chiến phòng chống dịch
bệnh, sẽ không ai bị bỏ lại phía sau vì thiếu thông tin.
Liên hệ thực tiễn việc áp dụng đặc điểm này tại cơ quan hành chính nhà nước tại Việt Nam.
Thứ tư: sự thích ứng linh hoạt đối với sự thay đổi của môi trường quản lý:
N hững thay đổi đó có thể diễn ra bên trong hay bên ngoài hệ thống chính phủ
của mỗi quốc gia, cũng có thể do sự tác động của môi trường quốc tế. Sự thích ứng
của CP không chỉ thể hiện ở sự kịp thời, đúng đắn các quy định pháp luật được ban
hành mà còn biểu hiện rõ nét ở sự sáng tạo, linh hoạt của các cá nhân, tổ chức thực thi pháp luật.
Liên hệ thực tiễn việc áp dụng đặc điểm này tại cơ quan hành chính nhà nước tại Việt Nam.
Một trong những thách thức lớn nhất với các nước hiện nay, đó chính là vấn
đề BĐKH. Đứng trước tình hình đó, nhà nước ta đặc biệt là các cơ quan có trách
nhiệm và thẩm quyền luôn có sự linh hoạt trong khâu quản lý. Vừa qua, Bộ Tài
nguyên và Môi trường phối hợp cùng Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc
(UNDP) và Tổ chức Hợp tác quốc tế Đức (GIZ) tổ chức hội thảo tham vấn dự thảo
Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050.
Quan điểm xuyên suốt của dự thảo Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu
giai đoạn đến năm 2050 khẳng định, biến đổi khí hậu là xu thế không thể đảo
ngược và là thách thức lớn nhất đối với nhân loại. Thích ứng với biến đổi khí hậu
và mục tiêu phát thải ròng bằng "0" là cơ hội để phát triển bền vững, ưu tiên cao
nhất trong mọi quyết sách phát triển, tiêu chuẩn đạo đức cao nhất của mọi cấp, mọi
ngành, mọi doanh nghiệp và mọi người dân.
Việt Nam sẽ ứng phó với biến đổi khí hậu trên nguyên tắc công lý, công bằng,
với cách tiếp cận toàn cầu và toàn dân; dựa trên thể chế đồng bộ, chính sách, pháp
luật hiệu lực và hiệu quả, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, phát huy nội
lực và hợp tác quốc tế.
Thứ năm, Sự định hướng và đồng thuận: Tìm được sự đồng thuận của xã
hội đối với CP thông qua những hoạt động nhằm điều hòa lợi ích của cá nhân công
dân, của các tổ chức và nhà nước. Chính phủ cũng quan tâm tới những chính sách
mang tầm chiến lược để hướng tới một sự phát triển bền vững, vừa giữ được ổn
định xã hội, tăng trưởng kinh tế, vừa giữ gìn một môi trường trong sách cho thế hệ tương lai.
Liên hệ thực tiễn việc áp dụng đặc điểm này tại cơ quan hành chính nhà nước tại Việt Nam.
Chính phủ đã ban hành Quyết định 841/QĐ-TTg ngày 14/7/2023 ban
hành Lộ trình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững Việt Nam đến năm 2030
Cụ thể, ban hành kèm theo Quyết định này Lộ trình thực hiện các mục tiêu
phát triển bền vững Việt Nam đến năm 2030 quy định tại Quyết định số 622/QĐ-
TTg ngày 10/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch hành động
quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững (Lộ trình).
Quyết định đưa ra lộ trình cụ thể, cơ quan chủ trì để thực hiện 17 mục tiêu
phát triển bền vững Việt Nam đến năm 2030 với 117 chỉ tiêu như: đến 2030, tỷ lệ
nghèo đa chiều duy trì mức giảm 1-1,5%/năm; tỷ lệ lực lượng lao động trong độ
tuổi tham gia bảo hiểm xã hội 60%; thu nhập bình quân đầu người khu vực nông
thôn tăng hơn 2,5 đến 3 lần so với năm 2020; tổng sản phẩm trong nước (GDP)
bình quân đầu người 7500 USD; trị giá hàng hóa xuất khẩu tăng trưởng bình quân
5 - 6%/năm giai đoạn 2026-2030;...
Các cơ quan được giao chủ trì thực hiện các chỉ tiêu chủ động phối hợp với các bộ,
ngành, địa phương để triển khai các hoạt động nhằm đạt được Lộ trình đến năm
2025 và 2030; theo dõi, đánh giá và báo cáo kết quả thực hiện chỉ tiêu gửi Bộ Kế
hoạch và Đầu tư để tổng hợp, báo cáo Chính phủ, Quốc hội theo quy định tại
Quyết định số 622/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; tiếp tục tăng cường số hóa,
úng dụng công nghệ thông tin để thu thập, chia sẻ dữ liệu phục vụ cho công tác
giám sát, đánh giá kết quả thực hiện đối với từng chỉ tiêu.
Thứ sáu: trách nhiệm báo cáo và giải trình: Các chủ thể ban hành và thực
hiện quy định pháp luật không chỉ có trách nhiệm giải trình đối với cơ quan cấp
trên, đối với các cơ quan dân cử mà còn có trách nhiệm giải trình đối với khu vực
tư nhân, các tổ chức xã hội, công chúng và các bên liên quan đến các quy định đó.
Trách nhiệm giải trình không thể thực hiện nếu thiếu đi tính minh bạch và hệ thống
các quy định pháp luật đầy đủ, chính xác.
Liên hệ thực tiễn việc áp dụng đặc điểm này tại cơ quan hành chính nhà nước tại Việt Nam.
Ở nước ta, trong khoản 8 Điều 2 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và
Hội đồng nhân dân năm 2015 quy định “Giải trình là việc cơ quan, cá nhân hữu
quan giải thích, làm rõ trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn được giao theo yêu cầu của chủ thể giám sát quy định tại Luật này”. Khoản 5
Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định “Trách nhiệm giải
trình là việc cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền làm rõ thông tin, giải
thích kịp thời, đầy đủ về quyết định, hành vi của mình trong khi thực hiện nhiệm
vụ, công vụ được giao”. Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 không đưa ra khái
niệm về giải trình hay trách nhiệm giải trình. Khoản 1 Điều 3 Nghị định số
90/2013/NĐ-CP ngày 8/8/2013 của Chính phủ quy định “Giải trình là việc cơ
quan nhà nước cung cấp, giải thích, làm rõ các thông tin về thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn được giao và trách nhiệm của mình trong việc thực hiện, nhiệm vụ,
quyền hạn đó”.
Các quy định của pháp luật nêu trên cho thấy, pháp luật Việt Nam mới chỉ
nhận diện trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước (trong đó có Chính phủ) ở
góc độ giải thích, cung cấp, làm rõ thông tin mà chưa nhìn nhận trách nhiệm giải
trình là một nghĩa vụ(của Chính phủ). Do đó, trách nhiệm giải trình rất dễ bị đánh
đồng với hoạt động công khai, minh bạch thông tin. Thiết nghĩ, trách nhiệm giải
trình của Chính phủ cần được hiểu là nghĩa vụ của Chính phủ trong việc cung cấp,
giải thích, làm rõ các thông tin về quyết định, hoạt động của mình theo chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ khi được chủ thể có thẩm quyền yêu cầu.
Thứ bảy, Hiệu lực và hiệu quả: Quản trị tốt có nghĩa là kết quả của quá trình
ban hành và thực hiện các quy định pháp luật phải bảo đảm sự tuân thủ đối với các
đối tượng chịu sự điều chỉnh.
Kết quả đạt được phải đáp ứng được nhu cầu của xã hội trong việc sử dụng
hợp lý và tiết kiệm nhất các nguồn lực. Tính hiệu quả bao gồm việc sử dụng bền
vững nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường sinh thái.
Liên hệ thực tiễn việc áp dụng đặc điểm này tại cơ quan hành chính nhà nước tại Việt Nam.
Với chủ đề “Đại dương: Sự sống và sinh kế”, Ngày Đại dương thế giới (8/6)
năm nay đưa ra thông điệp làm nổi bật sự đa dạng hệ sinh thái biển, lan tỏa ý nghĩa
của đại dương đối với hoạt động sinh kế của con người và nguồn sống của các loài
sinh vật trên Trái đất.
Cùng lan tỏa thông điệp trên, Tuần lễ Biển và hải đảo Việt Nam năm 2021 (từ
ngày 1 đến 8/6) cũng lựa chọn chủ đề “Bảo vệ đại dương và phát triển bền vững
sinh kế biển Việt Nam”. Đây là một trong những mục tiêu đặt ra nhằm cụ thể hóa
các nội dung trong Nghị quyết 26/NQ-CP của Chính phủ về ban hành Kế hoạch
tổng thể và kế hoạch 5 năm của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW của
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược
phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Câu 3: Phân tích đặc điểm của mô hình quản lý công mới. Liên hệ thực tiễn tại Việt Nam.
1. Bối cảnh ra đời của mô hình quản lý công mới:
- Mô hình quản lý công mới (New Public Management) là cụm từ viết tắt của
nhóm các xu hướng cải cách hành chính thuộc chương trình cải cách của các nước
(OECD) những năm 1970. Người đưa ra ý tưởng này là bà Magerete Thatcher- thủ
tướng Anh và tổng thống Ronald Reagan của Mỹ.
- Trải qua thời gian dài áp dụng mô hình hành chính công truyền thống đã bộc
lộ những hạn chế nhất định. Như bộ máy đồ sộ, phức tạp, nhiều tầng nấc trung gian
làm cho bộ máy cứng nhắc và kém năng động; Hệ thống thủ tục rườm rà và phức
tạp; Đội ngũ nhân sự kém năng động, bảo thủ và trì trệ; Lãng phí trong sử dụng nguồn lực công.
- Sự ra đời của một số lý thuyết kinh tế gây áp lực phải thay đổi cách thức
quản lý. Một số lý thuyết: Lý thuyết về sự lựa chọn công cộng; lý thuyết chủ- tớ…
Ngoài ra, có thể kể tới mô hình “Sáng tạo lại Chính phủ- Reinventing
Government” của hai nhà tư tưởng Osborne và Gaebler.
- Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật.
- Sự phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế buộc các quốc
gia phải tham gia sân chơi toàn cầu và xây dựng nền kinh tế thị trường.
- Xu hướng dân chủ hóa đời sống chính trị do trình độ dân trí cao.
- Sự cạnh tranh mạnh mẽ của khu vực tư nhân, sự tham gia của các tổ chức xã hội.
2. Phân tích các đặc điểm của mô hình quản lý công mới:
- Xây dựng nền hành chính hoạt động hiệu quả: chú trọng tới việc so sánh
kết quả đầu ra của nền hành chính với kết quả đầu vào. Nếu như trước kia, trong
nền hành chính truyền thống quan tâm nhiều tới hiệu lực – tức là tới các yếu tố đầu
vào và kiểm soát quá trình chấp hành và điều hành của nền hành chính. Thì trong
mô hình mới quan tâm hơn tới hiệu quả đem lại, tới chi phí bỏ ra để đạt được mục tiêu.
Liên hệ thực tiễn việc áp dụng đặc điểm này tại cơ quan hành chính nhà nước cụ thể.
Qua hơn 36 năm đổi mới, việc cải cách hành chính trên một số lĩnh vực có
bước đột phá. Hệ thống thể chế hành chính nhà nước được cải cách, sửa đổi, bổ
sung cho phù hợp với tình hình mới, tinh thần dân chủ trong cải cách hành chính
được đề cao. Chính phủ đã ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính
trong từng giai đoạn cụ thể, đồng thời tiến hành đánh giá, xếp loại công tác cải
cách hành chính và công bố kết quả rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại
chúng. Hệ thống tổ chức hành chính nhà nước từng bước được tinh gọn từ Chính
phủ đến chính quyền địa phương, nhiều thủ tục hành chính được cắt giảm, chính
phủ số, nền hành chính số từng bước định hình hướng tới một nền hành chính hiện
đại. Trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức được nâng lên nhằm đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Chính phủ đã tiến hành tinh giản biên chế gắn
với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm. Các nguồn
lực vật chất cần thiết được bảo đảm cho việc thực hiện nhiệm vụ quản lý hành
chính nhà nước; các cơ quan, đơn vị đã chủ động tổ chức thực hiện các nhiệm vụ,
không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động...
- Phi quy chế hóa: Mô hình hành chính công truyền thống, đòi hỏi phải có
những quy tắc chuẩn mực quy định hành vi ứng xử, hành vi thực hiện mệnh lệnh
được giao. Mọi vấn đề đều được văn bản hóa một cách cứng nhắc và chặt chẽ. Mô
hình quản lý công mới thay vào đó là cơ chế mềm dẻo, linh hoạt và thích ứng với
những biến đổi nhanh chóng của môi trường bên ngoài. Công chức không nhất
thiết phải gắn liền với biên chế suốt đời mà họ có thể chuyển sang làm hợp đồng.
Người dân không còn là thụ động đi xin dịch vụ của nhà nước. Mà trong mối quan
hệ công dân với nhà nước là quan hệ khách hàng và nhà cung cấp.
Phi quy chế hóa không có nghĩa là không mà là thực hiện đơn giản, tinh gọn,
nhanh chóng các quy trình thủ tục hành chính.
Liên hệ thực tiễn việc áp dụng đặc điểm này tại cơ quan hành chính nhà nước cụ thể.
Ở Việt Nam, sau gần 35 năm đổi mới, mối quan hệ giữa Nhà nước, doanh
nghiệp và người dân từng bước được điều chỉnh phù hợp với trình độ của nền kinh
tế và cam kết hội nhập quốc tế, song vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra đang cản trở sự
phát triển của đất nước. Bài viết phân tích những kết quả đạt được cũng như những
hạn chế và nguyên nhân trong mối quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp, người
dân ở Việt Nam, từ đó đưa ra những khuyến nghị giải quyết hài hòa mối quan hệ
này trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Mối quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp (DN) và người dân ở Việt Nam là
mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, Nhà nước là “bà đỡ”,
chủ thể chính xây dựng và duy trì “luật chơi”, kiểm tra, giám sát và trọng tài khi
xảy ra các xung đột về lợi ích. Còn DN là chủ thể chính tạo ra của cải vật chất cho
xã hội, thực hiện sản xuất kinh doanh trên cơ sở thị trường và chính sách, pháp luật
của Nhà nước. Người dân là lực lượng lao động trực tiếp tại các doanh nghiệp, là
chủ thể sáng tạo, là lực lượng tiêu dùng chủ yếu của xã hội.
- Đẩy mạnh phân quyền: Phân quyền thẩm quyền (chức năng, nhiệm vụ);
phân quyền các điều kiện đảm bảo hoạt động (nhân sự, tài chính). Chính phủ và cơ
quan nhà nước cấp trên không ôm đồm mọi việc mà phân cấp quản lý cho chính
quyền địa phương và các cơ quan cấp dưới. Một mặt vừa giảm gánh nặng cho cấp
trung ương một mặt tăng cường trách nhiệm cho cấp dưới đồng thời phát huy tính
tích cực và chủ động của cấp dưới. Phân quyền gồm: phân quyền lãnh thổ và phân quyền chức năng.
Liên hệ thực tiễn việc áp dụng đặc điểm này tại cơ quan hành chính nhà nước cụ thể.
Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết 04/NQ-CP về đẩy mạnh phân cấp, phân
quyền trong quản lý Nhà nước.
Theo đó, đẩy mạnh và hoàn thiện cơ chế phân cấp, phân quyền nhằm phân
định rõ nhiệm vụ và quyền hạn, thẩm quyền và trách nhiệm giữa Chính phủ với các
bộ, ngành; giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền
địa phương gắn với hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ thống nhất, kịp
thời, khả thi, ổn định, công khai, minh bạch, có sức cạnh tranh quốc tế, lấy quyền
và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm, bảo
đảm phát huy tính chủ động, sáng tạo, đề cao tinh thần trách nhiệm của từng cấp,
từng ngành, nhất là người đứng đầu; đồng thời, tăng cường thanh tra, kiểm tra,
giám sát, kiểm soát việc thực hiện quyền lực Nhà nước chặt chẽ bằng các quy định
của Đảng, của pháp luật, góp phần xây dựng nền hành chính Nhà nước dân chủ,
chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và phục vụ nhân dân.
- Áp dụng một số yếu tố của cơ chế thị trường: như cạnh tranh, đấu thầu,
khoán chi hành chính; chú trọng hiệu quả, lượng hóa các mục tiêu, coi công dân
cũng là “khách hàng” của nền hành chính.
Liên hệ thực tiễn việc áp dụng đặc điểm này tại cơ quan hành chính nhà nước cụ thể.
Bộ Nội vụ vừa ban hành Văn bản số 6076/BNV-CCHC về việc tổ chức triển
khai đo lường sự hài lòng của người dân đối với sự phục vụ của cơ quan hành
chính nhà nước năm 2022 tại 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Thực hiện Quyết định số 115/QĐ-BNV ngày 24/02/2022 của Bộ Nội vụ ban
hành Kế hoạch triển khai Đề án “Hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin đánh giá
cải cách hành chính và đo lường sự hài lòng của người dân đối với sự phục vụ của
cơ quan hành chính nhà nước giai đoạn 2021 - 2030” năm 2022, Bộ Nội vụ tổ chức
triển khai đo lường sự hài lòng của người dân đối với sự phục vụ của cơ quan hành
chính nhà nước năm 2022 tại 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
- Xây dựng đội ngũ công chức nhà nước mang tính chuyên nghiệp với tiêu
chuẩn và thuớc đo rõ ràng về thực thi công vụ.
Liên hệ thực tiễn việc áp dụng đặc điểm này tại cơ quan hành chính nhà nước cụ thể.
Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ ban hành Chương
trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030 đã nhấn mạnh
một trong những trọng tâm của cải cách hành chính giai đoạn 2021-2030 là xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, có năng lực, phẩm chất
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và sự phát triển đất nước. Đây là nhiệm vụ vừa cấp
bách, vừa thường xuyên và lâu dài, đòi hỏi phải được nghiên cứu, đưa ra các giải
pháp có tính khả thi cao để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững theo con
đường xã hội chủ nghĩa.
- Tư nhân hóa một phần các hoạt động của nhà nước đặc biệt là đối với các
dịch vụ công. Nhà nước chỉ tập trung vào làm những việc mà tư nhân không muốn
làm (vì không có lợi nhuận, vì lý do an ninh quốc gia,…), tư nhân không thể làm
(vì vốn lớn,..) còn những việc mà tư nhân và các tổ chức xã hội có thể làm và làm
tốt hơn thì nhà nước chuyển giao cho tư nhân và tổ chức xã hội thực hiện.
Liên hệ thực tiễn việc áp dụng đặc điểm này tại cơ quan hành chính nhà nước cụ thể.
- Hành chính công không tích khỏi hành chính tư và vận dụng nhiều
phương pháp quản lý doanh nghiệp vào thực tiễn hoạt động của mình: các tổ
chức nhà nước ngày càng sử dụng nhiều biện pháp quản lý mà các doanh nghiệp sử
dụng để quản lý nhà nước. Ví dụ: hệ thống quản lý ISO, quản lý theo mục tiêu,…
Liên hệ thực tiễn việc áp dụng đặc điểm này tại cơ quan hành chính nhà nước cụ thể.
- Quốc tế hóa: Do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa, các
quốc gia không thể không tham gia sân chơi khu vực và quốc tế. Mặt khác, ngày
nay các vấn đề toàn cầu: ô nhiễm môi trường, tài nguyên nước, di dân tự do, các
dịch bệnh toàn cầu,… buộc các quốc gia phải liên kết với nhau mới giải quyết được.
Liên hệ thực tiễn việc áp dụng đặc điểm này tại cơ quan hành chính nhà nước cụ thể.
Nhận thức được mức độ nghiêm trọng của biến đổi khí hậu, Việt Nam đã sớm
tham gia các cơ chế, thỏa thuận liên quan, như Công ước khung của Liên hợp quốc
về biến đổi khí hậu, Nghị định thư Kyoto, Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu, đã