Phân tích đặc điểm nhân vật Vũ Nương lớp 9. | Văn mẫu lớp 9

Sau nhiều năm mòn mỏi ở nhà chăm lo mẹ chồng, nuôi dạy con cái và chờ chồng, thì khi chồng trở về lại bị nghi ngờ phẩm hạnh, đánh chửi đến mức phải nhảy sông tự vẫn để chứng minh trong sạch của bản thân. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Thông tin:
5 trang 3 ngày trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phân tích đặc điểm nhân vật Vũ Nương lớp 9. | Văn mẫu lớp 9

Sau nhiều năm mòn mỏi ở nhà chăm lo mẹ chồng, nuôi dạy con cái và chờ chồng, thì khi chồng trở về lại bị nghi ngờ phẩm hạnh, đánh chửi đến mức phải nhảy sông tự vẫn để chứng minh trong sạch của bản thân. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Phân tích đặc điểm nhân vật Vũ Nương lớp 9
Dàn ý Phân tích đặc điểm nhân vật Vũ Nương
a) Mở bài:
Giới thiệu về nhân vật Vũ Nương và tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”.
Nêu được nội dung chính cần phân tích: đặc điểm của nhân vật Vũ Nương
b) Thân bài:
- Phân tích vẻ đẹp phẩm chất của nhân vật Vũ Nương:
Xinh đẹp, nết na (được giới thiệu ở đu câu chuyện, vì phẩm chất y mà Trương
Sinh vốn là con nhà giàu có đã mang tiền sang xin cưới Vũ Nương)
Hiếu thảo (chu đáo chăm sóc mẹ chồng và lo ma chay cho bà)
Chung thủy, son st (suốt nhiều năm chồng ra trn vẫn chung thủy nuôi con chờ
chồng)
Khéo léo, thông minh (tuy chồng là người ít học, nóng tính, hay ghen tuông vô cớ,
nhưng cô vẫn duy trì gia đình không một lần xích mích, cãi vã)
Không tham của cải, phú q(khi chồng ra trn, dặn dò chồng chỉ cần bình an trở về,
không cn chức tước, bổng lộc)
→ Vũ Nương hội tụ đầy đủ những phẩm tt tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam
- Phân tích sphn bi kịch của nhân vật Vũ Nương:
Sau nhiều năm mòn mỏi nhà chăm lo mẹ chồng, nuôi dạy con cái và chờ chồng,
thì khi chồng trvề lại bị nghi ngphm hnh, đánh chửi đến mức phải nhảy sông tự
vẫn để chứng minh trong sạch của bản thân
Nguyên nhân dẫn đến bi kịch của Vũ Nương:
Nguyên nhân trực tiếp: lời nói ngây ngô của bé Đn khiến thói ghen tuông hồ
đồ của Trương Sinh bùng phát
Nguyên nhân gn tiếp: chế độ phong kiến chuyên quyền, chà đạp lên thân
phn người phụ nữ, tước đoạt đi quyền được n tiếng, được tự bảo vệ, tự bào
chữa cho bản thân của họ
c) Kết bài:
Nêu cảm nhận, nhận xét của em về đặc điểm nhân vật Vũ Nương
Liên hệ Vũ Nương với một nhân vật văn học khác có cùng hoàn cảnh và sphn
(Thúy Kiều trong “Truyện Kiều”
Phân tích đặc điểm nhân vật Vũ Nương - Mẫu 1
Nguyễn Dữ là cây bútn xuôi xut sắc nhất của văn học thế kỷ XVI. Ông sốngthời kchế
độ phong kiến bắt đầu bước vào giai đoạn suy vong, các cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn
phong kiến kéo dài liên miên gây đau khổ cho nhân dân. Vốn không đồng tình với chế độ
phong kiến bất công, thối t, ông đã thể hin kín đáo tình cảm ấy của mình qua tác phẩm
Truyền kì mạn lục gồm hai mươi truyện ngn, trong đó tiêu biu là Chuyện người con gái
Nam Xương.
Theo lời kể của tác giả ngay từ đầu tác phẩm thì Vũ Nương là một người con i thuỳ mị, nết
na lại có tư dung tốt đẹp. Và những phẩm hnh y đã được bộc lộ trong những hoàn cnh
khác nhau.
Trong cuộc sống gia đình, Vũ Nương là người vợ hin thục. Nàng lấy chồng là Trương Sinh,
vốn là một người ít học, lại có tính đa nghi, phòng nga quá mức. Vì thế, nàng đã biết la
tính chồng, giữ cho khỏi bất hòa, gia đình luôn được trong ấm, ngoài êm. Ta thấy Vũ Nương
qu là một người vợ hin, có ý thức giữ gìn hạnh phúc gia đình. Thế rồi đất nước xảy ra nạn
binh đao, Trương Sinh phải đi lính, nàng lại càng bộc lộ rõ hơn phẩm chất tốt đẹp của mình.
Lời nói, lời dặn dò trong cảnh tiễn chồng của nàng đã khiến mọi người cm động: chỉ xin
ngày về mang theo hai chữ bình yên. Vũ Nương là người không ham danh vọng mà luôn
khao khát hạnh phúc gia đình, không những thế, nàng còn hiu, thông cảm cho nỗi vất vả
gian lao của chồng: chỉ e vic quân khó liệu, thế gic khôn lường, gic cuồng còn lẩn lút,
quân triu còn gian lao...
Thế rồi, nàng bày tỏ nỗi nhớ nhung khôn xiết của người vợ yêu chồng thuỷ chung: nhìn trăng
soi thành của, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa...
Khi xa chồng, Vũ Nương luôn làm tròn bổn phận của người vợ hin, dâu thảo. Nàng sinh
con, quán xuyến công vic gia đình, chăm sóc mẹ già đau ốm. Đặc biệt khi người mẹ mất,
nàng dã lo ma chay chu đáo như với cha mẹ của mình. Qua lời trăng trối của bà mẹ trước
lúc lâm nguy tác gi đã gửi gắm tình hình của mình đối với nhân vật Vũ Nương, khẳng định
công lao, nhân cách của Vũ Nương đối với gia đình: Tri xét lòng lành, ban cho phúc đức,
giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con không
phụ mẹ.
Ta thấy ở Vũ Nương tập trung những phẩm chất cao quý truyền thống của người phụ nữ Vit
Nam. Nàng xứng đáng đượcởng cuộc sống hạnh phúc. Thế nhưng thực tế oan nghiệt đã
đẩy nàngo cảnh ngộ bất hạnh, éo le, oan khuất. Nàng vốn dĩ là một nời phụ nữ rt mực
thuỷ chung, vậy mà bây giờ đây lại bị nghi oan thất tiết. Chỉ vì lời nói vô tình ngây thơ ca
con trẻ mà Vũ Nương bị chồng ruồng rẫy, hắt hủi, đánh đập đuổi đi, bị gán cho tội nhục nhã
nht đối với đức hnh của người phụ nữ. Trương Sinh quả thực đã hồ đồ, cả ghen, không
cho vợ được thanh minh. Những lời bênh vực của bà con hàng xóm cùng những lời phân
trn gi bày hết sức thê thảm không cứu đượcng thoát khỏi nỗi nhục nhã, vì mất danh
dự, Vũ Nương hết lòng hàn gn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ bằng những lời than
thấu tận trời xanh:ch biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đỡ nguôi lòng,
ngõ liễu tường hoa chưa h bén gót.
Thế nhưng, lời lẽ không làm lung lay được thói độc đoán, gia tởng hồ đồ của người chồng
có u ghen tuông mù quáng. Vũ Nương đã phi đau đớn, thất vọng đến tột ng vì bị đối
xử bất công, vì bất lực không có khảng bảo vệ danh dự, nim khát khao hạnh phúc gia
đình bị tan vỡ: Nay đã bình rơi trâm y, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liu tàn trước
gió... đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.
Thế nhưng, lời nguyền thảm thương của Vũ Nương không giúp nàng thoát khỏi án oan
nghit n. Là một người phụ nữ có ý thức sâu sc về phm giá, Vũ Nương đã quyết liệt tìm
đến cái chết đ bảo toàn danh dự chkhông chịu sống nhục. Nàng đã gieo mình xuống
sông, kết thúc cuộc đời người phụ nữ bất hạnh.
Bằng cách xây dựng tình tiết truyện đặc sắc đầy kịch tính, tác giả cho ta thấy những cố gng
hết sức nhưng không thành của một người phụ nữ, để rồi phải chấp nhận số phận và nàng
đã phải gii thoát kịch của cuộc đời mình bằng cái chết oan khuất. Sự vic này đã đẩy câu
chuyện đến đỉnh điểm của sự vic. Đến khi Trương Sinh hiểu ra nỗi oan của vợ cũng bằng s
vic hết sức ngẫu nhiên mà hợp lí. Đó là khi bé Đn chỉ Trương Sinh cái bóng trên tường
chính là cha của mình. Điu đó có ý nghĩa tố cáo vô cùng mạnh mẽ đối với chế độ phong
kiến, chỉ một cái bóng cũng có thể quyết định số phn một con người, đẩy người phụ nữ nết
na bất hạnh vào bi kịch không lối thoát.
Qua việc xây dựng bi kịch của Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã bày tỏ thái độ xót xa thương cảm
cùng niềm trân trọng đối với người phụ nữ. Thông qua bi kịch của Vũ Nương, nhà văn phản
ánh bi kịch chung về số phn người phụ nữ ới chế độ phong kiến. Những người phụ nữ ấy
nết na, đức hạnh như bị đối xử bất công, vô nhân đạo không có quyền sống hạnh phúc,
không được che chở, bảo vệ sphn vô cùng mỏng manh, yếu t. Có lẽ vì thế mà truyện đã
in sâu đậm vào trái tim người đọc, khiến ta mãi day dứt, xót xa, trào dâng nim thương cảm
nghẹn ngào.
Phân tích đặc điểm nhân vật Vũ Nương - Mẫu 2
Vũ Nương là nhân vt tu biểu cho người phụ nữ đức hạnh ở xã hội phong kiến nhưng phải
chịu số phn oan khuất. Câu chuyện vừa có ý nghĩa ca ngợi vẻ đẹp của lòng vị tha, đức
hạnh vừa thể hin ước mơ muôn thủa của con người, người tốt bao giờ cũng được đền tr
xứng đáng dù chỉ là một thế giới huyền bí,o nh.
Vũ Nương là người phụ nữ có phẩm chất đức hạnh. Tác gi giới thiệu là người phụ nữ thùy
mị, nết na lại thêm tư dung tốt đẹp. Và để làm nổi bật vẻ đẹp này nhà văn đã đặt nhân vật
vào các hoàn cảnh tình huống cthể. Khi mới ly chồng Vũ Nương cư xử đúng mực, nhường
nhịn, giữ gìn khuôn phép lên chồng nàngtính đa nghi đối với vợ, phòng ngừa quá mức
nhưng gia đình vẫn chưa từng phải đến bất hòa.
Khi chồng đi lính Vũ Nương rót chén rượu đầy dặn dò chồng những lời tình nghĩa đằm thắm
thiết, nàng không mong vinh hin mà chỉ cầu mong chồng được trvề bình yên. Cảm thông
với những vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng nơi trn mạc nói lên nỗi khắc khoải
nhớ nhung của mình. Những lời nói ân tình của nàng khiến mọi người đều xúc động.
Khi Trương Sinh ở ngoài mặt trận Vũ Nương càng tỏ rõ mình là người vợ thủy chung yêu
thương chồng hết mực. Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn – Cảnh vui mùa xuân hay mây che
n núi – Cảnh buồn mùa đông. Nàng lại chảy nỗi buồn thương, nhớ nhung da diết li thổn
thức tâm tình, tiết hạnh của nàng còn được khẳng định: Trong câu nói sau này của chồng
cách biệt ba năm giữn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngliu tường hoa
chưa hền gót.
Khi chồng đi vắng nàng sinh con một mình, vừa nuôi con nhỏ vừa chăm lo săn sóc mẹ
chồng khi g yếu ốm đau hết sức thuốc thang lễ bái thần phật, lấy lời ngọt ngào khuyên
bảo. Phẩm hnh của nàng được ghi nhận trong lời trăn trối của mẹ chồng. Đó là sự đánh
khách quan. Khi mẹ chồng mất ng hết lòng lo việc ma chay, tế lễ lo liệu như cha mẹ đẻ.
Khi chiến tranh kết thúc Trương Sinh trở v lẽ ra nàng được đón nhận một cuộc sống hạnh
phúc. Tuy nhiên vì lời nói vô tình ngây thơ của con, một sự hiu nhầm bởi tính đa nghi quá
mức. Phải kết thúc cuộc đời mình khi quá tr.
người chồng thất học lại hay ghen, độc đoán truyền quyền đã không bộc bạch lời nói của
con cho mình biết lại còn không chịu nghe lời giãi bày phân trn, không chịu động lòng
trước thái độ khổ đau của vợ. “Cách biệt 3 năm… cho thiếp”. Lời nói này của Vũ Nương
không chỉ nhm minh oan màng còn cố gắng tìm mọi cách để hàn gắn hạnh phúc gia
đình đang có nguy cơ tan v. Nhưng điều đó đâu có được Trương Sinh chấp nhận, khi họ
hàng làng xóm bênh vực cho nàng nhưng Trương Sinh không tin. Như vậy, ngay cả quyền tự
bảo vệ mình và được người khác làm chứng minh oan cũng không có, nàng đau đớn thất
vọng mà than: “Thú vui nghi gia nghi tht… ngay cả ước nguyện cũng không được giãi bày”.
Mọi cố gắng của Vũ Nương đều không được chấp nhận. Tiết hạnh không được tỏ bày, thất
vọng tột ng nàng mượn dòng sông Hoàng Giang minh chứng tấm lòng trong sáng, ra
sạch tiếng nhơ oan ức. “Kẻ bạc mệnh này… khắp mọi người phỉ nhổ”. Lời than vừa là lời giãi
bày vừa là lời thề nguyền cùng trời đất của k bạc mnh đầy đau khổ.i chết đau đớn ca
Vũ Nương cũng là sự đầu hàng của con người trước số phn. Nguyễn Dữ đã thốt lên:
“Đau đớn thay thân phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Qua câu truyện từ nhiu thế kỉ trước bằng năng lựcng to của mình Nguyễn Dữ đã xây
dựng nhân vật có chiu sâu hơn, các chi tiết kì ảo được mô tả vừa lung linh vừa hin thực
tạo lên vẻ đẹp riêng của tác phẩm. Vũ Nương là người phụ nữ thủy chung, đức hạnh vẹn
toàn mà vô cùng bất hạnh. Tác phẩm là lời tố cáo hiện thực xã hội phong kiến đương thời
u bt thân phận nỗi đau của người phụ nữ trong bi kch gia đình.
| 1/5

Preview text:

Phân tích đặc điểm nhân vật Vũ Nương lớp 9
Dàn ý Phân tích đặc điểm nhân vật Vũ Nương a) Mở bài:
• Giới thiệu về nhân vật Vũ Nương và tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”.
• Nêu được nội dung chính cần phân tích: đặc điểm của nhân vật Vũ Nương b) Thân bài:
- Phân tích vẻ đẹp phẩm chất của nhân vật Vũ Nương:
• Xinh đẹp, nết na (được giới thiệu ở đầu câu chuyện, vì phẩm chất này mà Trương
Sinh vốn là con nhà giàu có đã mang tiền sang xin cưới Vũ Nương)
• Hiếu thảo (chu đáo chăm sóc mẹ chồng và lo ma chay cho bà)
• Chung thủy, son sắt (suốt nhiều năm chồng ra trận vẫn chung thủy nuôi con chờ chồng)
• Khéo léo, thông minh (tuy chồng là người ít học, nóng tính, hay ghen tuông vô cớ,
nhưng cô vẫn duy trì gia đình không một lần xích mích, cãi vã)
• Không tham của cải, phú quý (khi chồng ra trận, dặn dò chồng chỉ cần bình an trở về,
không cần chức tước, bổng lộc)
→ Vũ Nương hội tụ đầy đủ những phẩm tất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam
- Phân tích số phận bi kịch của nhân vật Vũ Nương:
• Sau nhiều năm mòn mỏi ở nhà chăm lo mẹ chồng, nuôi dạy con cái và chờ chồng,
thì khi chồng trở về lại bị nghi ngờ phẩm hạnh, đánh chửi đến mức phải nhảy sông tự
vẫn để chứng minh trong sạch của bản thân
• Nguyên nhân dẫn đến bi kịch của Vũ Nương:
• Nguyên nhân trực tiếp: lời nói ngây ngô của bé Đản khiến thói ghen tuông hồ
đồ của Trương Sinh bùng phát
• Nguyên nhân gián tiếp: chế độ phong kiến chuyên quyền, chà đạp lên thân
phận người phụ nữ, tước đoạt đi quyền được lên tiếng, được tự bảo vệ, tự bào
chữa cho bản thân của họ c) Kết bài:
• Nêu cảm nhận, nhận xét của em về đặc điểm nhân vật Vũ Nương
• Liên hệ Vũ Nương với một nhân vật văn học khác có cùng hoàn cảnh và số phận
(Thúy Kiều trong “Truyện Kiều”
Phân tích đặc điểm nhân vật Vũ Nương - Mẫu 1
Nguyễn Dữ là cây bút văn xuôi xuất sắc nhất của văn học thế kỷ XVI. Ông sống ở thời kỳ chế
độ phong kiến bắt đầu bước vào giai đoạn suy vong, các cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn
phong kiến kéo dài liên miên gây đau khổ cho nhân dân. Vốn không đồng tình với chế độ
phong kiến bất công, thối nát, ông đã thể hiện kín đáo tình cảm ấy của mình qua tác phẩm
Truyền kì mạn lục gồm hai mươi truyện ngắn, trong đó tiêu biểu là Chuyện người con gái Nam Xương.
Theo lời kể của tác giả ngay từ đầu tác phẩm thì Vũ Nương là một người con gái thuỳ mị, nết
na lại có tư dung tốt đẹp. Và những phẩm hạnh ấy đã được bộc lộ trong những hoàn cảnh khác nhau.
Trong cuộc sống gia đình, Vũ Nương là người vợ hiền thục. Nàng lấy chồng là Trương Sinh,
vốn là một người ít học, lại có tính đa nghi, phòng ngừa quá mức. Vì thế, nàng đã biết lựa
tính chồng, giữ cho khỏi bất hòa, gia đình luôn được trong ấm, ngoài êm. Ta thấy Vũ Nương
quả là một người vợ hiền, có ý thức giữ gìn hạnh phúc gia đình. Thế rồi đất nước xảy ra nạn
binh đao, Trương Sinh phải đi lính, nàng lại càng bộc lộ rõ hơn phẩm chất tốt đẹp của mình.
Lời nói, lời dặn dò trong cảnh tiễn chồng của nàng đã khiến mọi người cảm động: chỉ xin
ngày về mang theo hai chữ bình yên. Vũ Nương là người không ham danh vọng mà luôn
khao khát hạnh phúc gia đình, không những thế, nàng còn hiểu, thông cảm cho nỗi vất vả
gian lao của chồng: chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, giặc cuồng còn lẩn lút,
quân triều còn gian lao...
Thế rồi, nàng bày tỏ nỗi nhớ nhung khôn xiết của người vợ yêu chồng thuỷ chung: nhìn trăng
soi thành của, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa...
Khi xa chồng, Vũ Nương luôn làm tròn bổn phận của người vợ hiền, dâu thảo. Nàng sinh
con, quán xuyến công việc gia đình, chăm sóc mẹ già đau ốm. Đặc biệt khi người mẹ mất,
nàng dã lo ma chay chu đáo như với cha mẹ của mình. Qua lời trăng trối của bà mẹ trước
lúc lâm nguy tác giả đã gửi gắm tình hình của mình đối với nhân vật Vũ Nương, khẳng định
công lao, nhân cách của Vũ Nương đối với gia đình: Trời xét lòng lành, ban cho phúc đức,
giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con không phụ mẹ.
Ta thấy ở Vũ Nương tập trung những phẩm chất cao quý truyền thống của người phụ nữ Việt
Nam. Nàng xứng đáng được hưởng cuộc sống hạnh phúc. Thế nhưng thực tế oan nghiệt đã
đẩy nàng vào cảnh ngộ bất hạnh, éo le, oan khuất. Nàng vốn dĩ là một người phụ nữ rất mực
thuỷ chung, vậy mà bây giờ đây lại bị nghi oan thất tiết. Chỉ vì lời nói vô tình ngây thơ của
con trẻ mà Vũ Nương bị chồng ruồng rẫy, hắt hủi, đánh đập đuổi đi, bị gán cho tội nhục nhã
nhất đối với đức hạnh của người phụ nữ. Trương Sinh quả thực đã hồ đồ, cả ghen, không
cho vợ được thanh minh. Những lời bênh vực của bà con hàng xóm cùng những lời phân
trần giãi bày hết sức thê thảm không cứu được nàng thoát khỏi nỗi nhục nhã, vì mất danh
dự, Vũ Nương hết lòng hàn gắn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ bằng những lời than
thấu tận trời xanh: Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đỡ nguôi lòng,
ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót.
Thế nhưng, lời lẽ không làm lung lay được thói độc đoán, gia trưởng hồ đồ của người chồng
có máu ghen tuông mù quáng. Vũ Nương đã phải đau đớn, thất vọng đến tột cùng vì bị đối
xử bất công, vì bất lực không có khả năng bảo vệ danh dự, niềm khát khao hạnh phúc gia
đình bị tan vỡ: Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước
gió... đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.
Thế nhưng, lời nguyền thảm thương của Vũ Nương không giúp nàng thoát khỏi án oan
nghiệt ngã. Là một người phụ nữ có ý thức sâu sắc về phẩm giá, Vũ Nương đã quyết liệt tìm
đến cái chết để bảo toàn danh dự chứ không chịu sống nhục. Nàng đã gieo mình xuống
sông, kết thúc cuộc đời người phụ nữ bất hạnh.
Bằng cách xây dựng tình tiết truyện đặc sắc đầy kịch tính, tác giả cho ta thấy những cố gắng
hết sức nhưng không thành của một người phụ nữ, để rồi phải chấp nhận số phận và nàng
đã phải giải thoát kịch của cuộc đời mình bằng cái chết oan khuất. Sự việc này đã đẩy câu
chuyện đến đỉnh điểm của sự việc. Đến khi Trương Sinh hiểu ra nỗi oan của vợ cũng bằng sự
việc hết sức ngẫu nhiên mà hợp lí. Đó là khi bé Đản chỉ Trương Sinh cái bóng trên tường
chính là cha của mình. Điều đó có ý nghĩa tố cáo vô cùng mạnh mẽ đối với chế độ phong
kiến, chỉ một cái bóng cũng có thể quyết định số phận một con người, đẩy người phụ nữ nết
na bất hạnh vào bi kịch không lối thoát.
Qua việc xây dựng bi kịch của Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã bày tỏ thái độ xót xa thương cảm
cùng niềm trân trọng đối với người phụ nữ. Thông qua bi kịch của Vũ Nương, nhà văn phản
ánh bi kịch chung về số phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Những người phụ nữ ấy
nết na, đức hạnh như bị đối xử bất công, vô nhân đạo không có quyền sống hạnh phúc,
không được che chở, bảo vệ số phận vô cùng mỏng manh, yếu ớt. Có lẽ vì thế mà truyện đã
in sâu đậm vào trái tim người đọc, khiến ta mãi day dứt, xót xa, trào dâng niềm thương cảm nghẹn ngào.
Phân tích đặc điểm nhân vật Vũ Nương - Mẫu 2
Vũ Nương là nhân vật tiêu biểu cho người phụ nữ đức hạnh ở xã hội phong kiến nhưng phải
chịu số phận oan khuất. Câu chuyện vừa có ý nghĩa ca ngợi vẻ đẹp của lòng vị tha, đức
hạnh vừa thể hiện ước mơ muôn thủa của con người, người tốt bao giờ cũng được đền trả
xứng đáng dù chỉ là một thế giới huyền bí, ảo ảnh.
Vũ Nương là người phụ nữ có phẩm chất đức hạnh. Tác giả giới thiệu là người phụ nữ thùy
mị, nết na lại thêm tư dung tốt đẹp. Và để làm nổi bật vẻ đẹp này nhà văn đã đặt nhân vật
vào các hoàn cảnh tình huống cụ thể. Khi mới lấy chồng Vũ Nương cư xử đúng mực, nhường
nhịn, giữ gìn khuôn phép lên chồng nàng có tính đa nghi đối với vợ, phòng ngừa quá mức
nhưng gia đình vẫn chưa từng phải đến bất hòa.
Khi chồng đi lính Vũ Nương rót chén rượu đầy dặn dò chồng những lời tình nghĩa đằm thắm
thiết, nàng không mong vinh hiển mà chỉ cầu mong chồng được trở về bình yên. Cảm thông
với những vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng nơi trận mạc nói lên nỗi khắc khoải
nhớ nhung của mình. Những lời nói ân tình của nàng khiến mọi người đều xúc động.
Khi Trương Sinh ở ngoài mặt trận Vũ Nương càng tỏ rõ mình là người vợ thủy chung yêu
thương chồng hết mực. Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn – Cảnh vui mùa xuân hay mây che
kín núi – Cảnh buồn mùa đông. Nàng lại chảy nỗi buồn thương, nhớ nhung da diết lại thổn
thức tâm tình, tiết hạnh của nàng còn được khẳng định: Trong câu nói sau này của chồng
cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngỡ liễu tường hoa chưa hề bén gót.
Khi chồng đi vắng nàng sinh con một mình, vừa nuôi con nhỏ vừa chăm lo săn sóc mẹ
chồng khi già yếu ốm đau hết sức thuốc thang lễ bái thần phật, lấy lời ngọt ngào khuyên
bảo. Phẩm hạnh của nàng được ghi nhận trong lời trăn trối của mẹ chồng. Đó là sự đánh
khách quan. Khi mẹ chồng mất nàng hết lòng lo việc ma chay, tế lễ lo liệu như cha mẹ đẻ.
Khi chiến tranh kết thúc Trương Sinh trở về lẽ ra nàng được đón nhận một cuộc sống hạnh
phúc. Tuy nhiên vì lời nói vô tình ngây thơ của con, một sự hiểu nhầm bởi tính đa nghi quá
mức. Phải kết thúc cuộc đời mình khi quá trẻ.
Vì người chồng thất học lại hay ghen, độc đoán truyền quyền đã không bộc bạch lời nói của
con cho mình biết lại còn không chịu nghe lời giãi bày phân trần, không chịu động lòng
trước thái độ khổ đau của vợ. “Cách biệt 3 năm… cho thiếp”. Lời nói này của Vũ Nương
không chỉ nhằm minh oan mà nàng còn cố gắng tìm mọi cách để hàn gắn hạnh phúc gia
đình đang có nguy cơ tan vỡ. Nhưng điều đó đâu có được Trương Sinh chấp nhận, khi họ
hàng làng xóm bênh vực cho nàng nhưng Trương Sinh không tin. Như vậy, ngay cả quyền tự
bảo vệ mình và được người khác làm chứng minh oan cũng không có, nàng đau đớn thất
vọng mà than: “Thú vui nghi gia nghi thất… ngay cả ước nguyện cũng không được giãi bày”.
Mọi cố gắng của Vũ Nương đều không được chấp nhận. Tiết hạnh không được tỏ bày, thất
vọng tột cùng nàng mượn dòng sông Hoàng Giang minh chứng tấm lòng trong sáng, rửa
sạch tiếng nhơ oan ức. “Kẻ bạc mệnh này… khắp mọi người phỉ nhổ”. Lời than vừa là lời giãi
bày vừa là lời thề nguyền cùng trời đất của kẻ bạc mệnh đầy đau khổ. Cái chết đau đớn của
Vũ Nương cũng là sự đầu hàng của con người trước số phận. Nguyễn Dữ đã thốt lên:
“Đau đớn thay thân phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.

Qua câu truyện từ nhiều thế kỉ trước bằng năng lực sáng tạo của mình Nguyễn Dữ đã xây
dựng nhân vật có chiều sâu hơn, các chi tiết kì ảo được mô tả vừa lung linh vừa hiện thực
tạo lên vẻ đẹp riêng của tác phẩm. Vũ Nương là người phụ nữ thủy chung, đức hạnh vẹn
toàn mà vô cùng bất hạnh. Tác phẩm là lời tố cáo hiện thực xã hội phong kiến đương thời
nêu bật thân phận nỗi đau của người phụ nữ trong bi kịch gia đình.