












Preview text:
lOMoAR cPSD| 60860503
Câu 2 (): Anh (chị) hãy phân tích các đặc trưng cơ bản của Nghệ thuật
diễn xướng dân gian Việt Nam? 1.3.1. Tính nguyên hợp
Đây là một trong những đặc trưng cơ bản nhất của nghệ thuật diễn
xướng dân gian. Tính nguyên hợp là sự gắn bó hữu cơ những giá trị thẩm mỹ,
trí tuệ, trình diễn... của nhiều thành tố, là sự kết hợp hài hòa thống nhất tính
cách hồn nhiên và tính cách nâng cao sáng tạo trong diễn xướng dân gian.
Mỗi loại hình diễn xướng dân gian bao giờ cũng được tiếp nhận, cảm thụ và
biến hóa bằng tất cả các giác quan cùng một lúc.
Tính nguyên hợp có nguồn gốc từ đặc điểm hình thành của nghệ thuật
nguyên thủy. Gọi là tính nguyên hợp vì nhận thức thẩm mỹ nguyên hợp có từ
thời nguyên thủy và tồn tại qua các thời kỳ lịch sử. Ví dụ "Đẻ đất đẻ nước" là
áng sử thi - thần thoại của người Việt - Mường, ban đầu do các thầy mo hát
bên thi hài người chết giúp cho hồn người chết ôn lại sự việc ở trần gian từ
khi khai thiên lập địa cho đến lúc bản Mường được ổn định, chế độ xã hội
được hình thành và mỗi chặng hát như vậy có những quy trình lễ thức, diễn xướng kèm theo.
Tính nguyên hợp là một hiện tượng tự nhiên vốn có của văn hoá dân
gian nói chung và nghệ thuật diễn xướng dân gian nói riêng. Nó là một vấn
đề thuộc bản chất tồn tại chứ không phải do ai tự ý đặt ra. Từ đó cho thấy
rằng: diễn xướng dân gian là những loại hình nghệ thuật nguyên hợp cả về
nội dung lẫn hình thức phản ánh.
Về nội dung, diễn xướng dân gian phản ánh nhiều phương diện khác
nhau của đời sống vật chất và tinh thần trong xã hội, do vậy nó vừa thực hiện
chức năng của văn học (thẩm mĩ), của sử học (phản ánh lịch sử), của dân tộc
học (phong tục, tập quán, tôn giáo), của triết học, tâm lí học...nghĩa là cùng lOMoAR cPSD| 60860503
một lúc tổng kết các tri thức của nhân dân thuộc nhiều lĩnh vực khoa học tự
nhiên và khoa học xã hội khác nhau trong dạng thức còn chưa phân chia tách
bạch (nghĩa là trong trạng thái nguyên hợp). Diễn xướng dân gian gắn với tôn
giáo khi nó được dùng như một phương tiện thể hiện thế giới quan, nhân sinh
quan của người xưa. Ví dụ: các vị Thần trong thần thoại là biểu hiện của thế giới quan thần linh.
Về hình thức, khác với nghệ thuật ngôn từ chỉ được diễn đạt bằng
phương tiện ngôn ngữ, diễn xướng sử dụng rất nhiều phương tiện như ngôn
ngữ, âm nhạc, vũ điệu, động tác, hóa trang...để phản ảnh các giá trị tinh thần,
nghệ thuật, hình tượng, cảm xúc..v..v. Tính nguyên hợp chi phối tất cả các
thành phần nghệ thuật, các yếu tố chất liệu tạo nên bản thân nó như ngôn từ,
nhạc, vũ, động tác, nghệ thuật
tạo hình... Vì vậy, phải quan sát đời sống thực, môi trường diễn xướng của
từng loại hình nghệ thuật dân gian qua việc gìn giữ, lưu truyền và
biểu diễn của nhân dân mới dễ dàng nhận rõ tính nguyên hợp (hơn là văn bản
được sưu tầm). Bởi diễn xướng dân gian vốn là những sinh hoạt nghệ thuật
tổng hợp sống đầy đủ, tự nhiên và mạnh mẽ trong môi trường phù hợp với chức năng của nó
Từ tính chất và phương diện biểu hiện của tính nguyên hợp của diễn
xướng như trên, có thể thấy rõ một đặc điểm nữa đó là tính đa chức năng của
diễn xướng theo từng loại hình, từng tác phẩm. Đứng ở một góc độ nào đó,
tính đa chức năng chính là hệ quả của tính nguyên hợp, hay nói cách khác,
mỗi một yếu tố hợp thành tính nguyên hợp sẽ tạo nên những chức năng tương
ứng. Tính nguyên hợp và tính đa chức năng vừa khác nhau vừa quan hệ mật
thiết nhau. Trong đó, chức năng nhận thức, chức năng mỹ học và chức năng
sinh hoạt thực hành gắn bó mật thiết với nhau không thể tách rời. lOMoAR cPSD| 60860503 1.3.2. Tính tập thể
Diễn xướng dân gian là sản phẩm sáng tạo của nhiều người, thuộc
nhiều thế hệ qua những thời gian và không gian khác nhau.
Về nội dung, diễn xướng dân gian phải phản ánh được nhiều nét sinh
hoạt, tình cảm, nguyện vọng và mơ ước, cách nhìn nhận về cuộc đời và con
người của đông đảo quần chúng nhân dân lao động.
Về hình thức, loại hình, tác phẩm diễn xướng phải kết tinh được thị
hiếu thẩm mĩ, tài năng sáng tạo của quần chúng nhân dân thuộc về một dân
tộc nhất định và với tư cách như một chỉnh thể có chung điều kiện sinh hoạt,
lao động, tranh đấu và sáng tạo nghệ thuật. Tính tập thể của diễn xướng dân
gian thể hiện trong hai quá trình, đó là quá trình sáng tạo và quá trình tiếp
nhận. Điều đó có nghĩa là tác phẩm folklore bao giờ cũng là sự kết tinh của
nhiều người, nhiều thế hệ, nhiều vùng quê. Tất nhiên, sự sáng tạo tập thể đó
không thể diễn ra cùng một lúc, mà phải diễn ra lần lượt theo 3 bước :
Bước1:Sáng tạo của cá thể. Trước tiên, tác phẩm folkore phải do một
cá nhân nào đó trong tập thể khởi xướng và sáng tác nên, coi như đó là bản
gốc của tác phẩm. Nhưng cá nhân tác giả này chưa ý thức được về sự sáng tác
cá nhân của mình. Người ta sáng tác không đòi hỏi về quyền tác giả, thậm chí
còn cố giấu đi cái quyền đó, không thừa nhận mình là người sáng tác.
Bước 2: Xã hội hóa sáng tạo của cá thể. Nếu sáng tác của cá nhân đó
phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của tập thể, phù hợp với tâm lý và thẩm mỹ
của cộng đồng thì lập tức sáng tác ấy được mọi người học thuộc và trình diễn,
và dần dần biến thành “của chung”, của tất cả mọi người.
Bước 3: Sáng tạo của xã hội trên cơ sở bản gốc của tác phẩm. Bước
này được diễn ra dưới sự chi phối mạnh mẽ của tính cộng đồng. Vì sáng tạo
cá thể đã biến thành của chung, nên khi trình diễn nó mọi người đều tự ý đưa lOMoAR cPSD| 60860503
vào những sáng tạo của riêng mình trên cơ sở bản gốc của tác phẩm. Kiểu này
được gọi là ứng tác, và nếu sáng tác mới ấy phù hợp với tâm lý, thẩm mỹ của
cộng đồng, thì nó lại biến thành của chung một lần nữa, tức xã hội hóa thêm
một lần nữa.. Như vậy cũng có nghĩa là tính tập thể trong sáng tác folklore đã
làm nảy sinh một đặc trưng khác, đó là tính dị bản. Hay nói cách khác, tính dị
bản là hệ quả của tính tập thể. Vì có kiểu “sáng tạo đi sáng tạo lại” nên tác
phẩm folklore không bao giờ tồn tại dưới hình thức một văn bản duy nhất. Có
thể có rất nhiều văn bản khác nhau của cùng một tác phẩm.. Trên cơ sở lòng
bản, người ta có thể tạo ra những dị bản khác nhau nhưng vẫn đảm bảo những
đặc trưng chung của mô hình. Hình thức
thì có thể thay đổi chút ít, nhưng nội dung ý tứ thì vẫn được giữ nguyên.
Tính tập thể trong sáng tác nghệ thuật dân gian còn được hiểu ở phương
diện thẩm mỹ. Đối tượng của những sáng tác nghệ thuật dân gian là toàn bộ
những gì liên quan đến cộng đồng tập thể. Và vì thế, diễn xướng dân gian rất
coi trọng, hành động và tâm lý tập thể. Cơ sở của tâm lý tập thể là tính tập thể
của những hoạt động sản xuất, hoạt động xã hội của con người trong những
giai đoạn khác nhau của lịch sử nhân loại.
Đặc trưng tập thể không phải là biểu hiện của trình độ thấp của sự phát
triển so với tính cá nhân trong sáng tác chuyên nghiệp. Nhờ có tính tập thể
nên tác phẩm folklore đã đạt được những đỉnh cao nghệ thuật mà nghệ thuật
bác học khó có thể vượt qua. Sáng tạo tập thể là quá trình chọn lọc, hoàn thiện
không ngừng theo thời gian và không gian. Quá trình này về cơ bản làm cho
tác phẩm nghệ thuật diễn xướng dân gian được gọt rũa cả về nội dung lẫn
hình thức, không phải diễn ra trong một vài năm mà là hàng thế kỷ, không
phải ở một nơi mà ở nhiều địa phương. Sở dĩ có việc chọn lọc như vậy là bởi
có liên quan đến quyền sở hữu tập thể. lOMoAR cPSD| 60860503
Tóm lại, tính tập thể của nghệ thuật diễn xướng dân gian biểu hiện
trong quá trình sáng tác, biểu diễn và lưu truyền tác phẩm, trong nội dung và
hình thức sáng tác, biểu diễn. Tính tập thể còn quyết định sự ra đời và tồn tại
của tác phẩm và hình thức, cách thức biểu diễn. Tác phẩm nghệ thuật dân gian
được tập thể sáng tác bằng miệng và lưu truyền bằng miệng, truyền dạy trực
tiếp, trực hệ. Và điều này liên quan đến tính truyền miệng sẽ được trình bày dưới đây. 1.3.3. Tính truyền miệng
Truyền miệng, tức là không phải dưới hình thức chữ viết. Sáng tác dân
gian đi từ người này sang người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác dưới
hình thức truyền miệng.
Tính truyền miệng chính là một đặc trưng cơ bản của diễn xướng dân
gian, nó khác với tính cố định của nghệ thuật bác học.
Truyền miệng khi tách rời khỏi môi trường diễn xướng thì sẽ không
còn là truyền miệng nữa. Truyền miệng không gắn với phòng kín mà gắn
với những hoạt động bên ngoài của cuộc sống
Truyền miệng chính là hình thức bảo lưu lan tỏa của nghệ thuật diễn
xướng dân gian.. Quá trình ghi nhận lại được chuyển hóa thành quá trình diễn
xướng. Đó là hai quá trình chuyển đổi liên tiếp nhau, là hai khâu cơ bản của
quá trình truyền miệng. Nếu thiếu một trong hai khâu, truyền miệng sẽ bị gián
đoạn và tác phẩm sẽ bị lãng quên.
Truyền miệng cũng chính là phương thức sáng tác của nghệ thuật diễn
xướng dân gian. Đó là sáng tác ngẫu hứng và ứng tác. Đây chính là một đặc
điểm cơ bản của nghệ thuật không chuyên. Tác giả dân gian chỉ sáng tác khi
nào thực sự có tình huống đòi hỏi, như cách nói của đại văn hào lOMoAR cPSD| 60860503
L.Tôn-xtôi “tình yêu bao giờ cũng biến kẻ đang yêu thành thi sĩ”.
1.3.4. Tính bản địa và vùng miền
Như đã biết, đất nước ta rất đa dạng về địa lý; thành phần dân tộc; điều
kiện tự nhiên; ngôn ngữ...vì vậy nghệ thuật diễn xướng dân gian cũng có sự
đa sắc, sinh động, muôn hình muôn vẻ. Nó vừa mang vẻ độc đáo riêng biệt
từng bản địa nhưng lại tạo nên sự thống nhất hài hòa trong bức tranh tổng thể của văn hóa dân gian.
Nước ta có 54 dân tộc, trong đó có 53 dân tộc thiểu số, có 54 nền văn
hoá dân tộc, cũng tức là có 54 nền âm nhạc dân tộc khác nhau.
. Tuy nhiên, trong sự phong phú và đa dạng ấy, chúng ta có thể tìm thấy
những nét chung về văn hoá nói chung và diễn xướng nói riêng của các dân
tộc Việt nam. Những nét chung ấy bắt nguồn từ chỗ các dân tộc Việt Nam đều
là con cháu của chủ nhân một nền văn hoá cơ tầng ( culture substratum ) thời
cổ đại ở Đông Nam Á với sự tiếp nối của các giai đoạn Hoà Bình, Bắc Sơn
và Đông Sơn, Sa Huỳnh, Óc Eo. Những nét chung ấy còn là kết quả của một
quá trình lịch sử mà trong đó, các dân tộc Việt Nam đã đoàn kết trong sự
nghiệp giữ nước và dựng nước, dẫn đến một quá trình tiếp xúc và tiếp biến
văn hoá ( Acculturation ) giữa các dân tộc. Vì vậy, có thể nói đến văn hoá đa
dân tộc Việt Nam có tính thống nhất cao, nhưng lại giàu sắc thái và đa dạng
về tính địa phương và tính tộc người.
. Tính bản địa, vùng miền của sáng tác folklor được thể hiện trên nhiều
phương diện, điều này bị chi phối bởi nhiều yếu tố, như lịch sử, địa lý, tính
cách con người của mỗi vùng. Chẳng hạn, nghệ thuật Múa rối nước là một
sáng tạo độc đáo của chỉ riêng cư dân đồng bằng châu thổ Bắc Bộ... Đặc trưng lOMoAR cPSD| 60860503
của vùng châu thổ Bắc Bộ là nhiều nhiều hồ, đặc biệt, làng truyền thống Bắc
Bộ thường được đặc trưng bởi cây đa, giếng nước, mái đình, hồ bán nguyệt
Đặc trưng về giọng nói, hoặc phương ngữ của mỗi vùng cũng chi phối
nhiều tới tính địa phương của nghệ thuật diễn xướng dân gian. Chẳng hạn, xứ
Huế, và nhất là xứ Nghệ, có hệ thống phương ngữ rất đậm đặc, âm vực của
giọng nói cạn hẹp nhất nước, cho nên dân ca của họ cũng mang thổ âm, thổ
ngữ rất rõ. Người nơi khác khi nghe một bài hát Giặm nhiều khi không thể
hiểu được nội dung ca từ, còn để bắt chước người Huế hay người Nghệ hát
dân ca của họ thì cũng rất khó mà đúng được chất Nghệ, chất Huế, thường thì
nghe cứ bị “trạy bẹ”. Cho nên, tuy cùng là Lý ngựa ô, nhưng giai điệu của Lý
ngựa ô Nam Bộ đã khác xa so với Lý ngựa ô của Huế...
1.3.5. Tính phi lợi nhuận
có thể nói các loại hình diễn xướng dân gian sơ khai là những những
sinh hoạt ca, múa, diễn gắn liền với sinh hoạt đời thường, hoạt động lao động,
hoạt động tín ngưỡng...để từ đó quần chúng nhân dân xây dựng đời sống tinh
thần, gắn kết cộng đồng, tái sản xuất sức lao động và tận hưởng niềm vui
trong những lúc nhàn rỗi. Diễn xướng dân gian phần lớn phục vụ cho nhu cầu
thưởng thức tại chỗ của những người trong cộng đồng làng xã, dòng họ nên
tính tự túc vô tư rất rõ nét. Diễn xướng dân gian cơ bản không phải là phương
thức làm ra của cải vật chất, nó không sinh lợi nhuận kinh tế mà đem lại những
giá trị tinh thần là chủ yếu. Ngay cả khi nghệ thuật diễn xướng dân gian phát
triển cả về quy mô và hình thức thì vẫn mang tính chất của hoạt động văn
nghệ quần chúng phục vụ cho đời sống tinh thần của đông đảo người dân. lOMoAR cPSD| 60860503
Câu 7 (04 điểm): Anh (chị) hãy cho biết hát Chầu Văn thuộc thể loại âm nhạc gì? Hãy
trình bày các thành phần tham gia, các hình thức và đặc điểm nghệ thuật của hát Chầu Văn? -
Chầu văn thuộc thể loại : lOMoAR cPSD| 60860503 lOMoAR cPSD| 60860503 + hệ thống làn điệu lOMoAR cPSD| 60860503 lOMoAR cPSD| 60860503