Phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật “Ai đã đặt tên cho dòng sông” | Văn mẫu 11 Chân trời sáng tạo

Phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật “Ai đã đặt tên cho dòng sông” gồm dàn ý và văn mẫu được biên soạn, sát với chương trình Ngữ văn lớp 11. Mời các bạn tham khảo!

Dàn ý Phân tích, đánh giá nội dung nghệ thuật “Ai đã đặt tên cho
dòng sông
I. Mở bài
Dẫn dắt và giới thiệu về tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông”.
II. Thân bài
1. Khái quát:
a. Tác giả:
- Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại Huế.
- Năm 1966, ông tham gia kháng chiến chỗng Mĩ.
- Sở trường của ông là thể loại bút kí.
- Ông là một người nghệ sĩ có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực.
Tác phẩm của ông có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ
tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều.
b. Tác phẩm:
- “Ai đã đặt tên cho dòng sông” được viết ngày 4/1/1981 và in trong tập
sách cùng tên.
- Đoạn trích thể hiện vẻ đẹp nên thơ của dòng sông Hương, Huế và tình
yêu thương của tác giả đối với thiên nhiên đất nước.
2. Phân tích
a. Nhan đề
- Thể hiện rõ chủ đề tác phẩm và phong cách của tác giả.
- Nhấn mạnh vào vẻ đẹp huyền thoại của sông Hương và khơi gợi lòng
biết ơn, niềm tự hào của con người đối với văn hóa, lịch sử của xứ Huế.
b. Phân tích
- Dòng sông thiên nhiên có vẻ đẹp tự nhiên:
+ Ở thượng nguồn: “bản trường ca của rừng già”, “cô gái Di-gan”,
“người con gái của rừng già”, “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ
sở”.
+ Từ thượng nguồn đến Huế: sông Hương như người con gái lần đầu
đến với tình yêu một mặt rất e lệ, một mặt táo bạo chủ động.
+ Trong lòng Huế: như một người con gái đắm say tình tứ khi bên người
mình yêu, người con gái tài hoa “tài nữ đánh đàn trong đêm khuya”.
+ Từ biệt Huế ra biển: như một người con gái lưu luyến, thủy chung từ
biệt người yêu.
Tác giả chủ yếu cảm nhận vẻ đẹp sông Hương từ góc độ tình yêu
khiến sông Hương hiện lên như một người con gái chung tình hết lòng vì
tình yêu.
- Dòng sông lịch sử:
+ Sông Hương là một nhân chứng lịch sử của Huế, của đất nước: “soi
bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ”, chứng
kiến những mất mát đau thương của các cuộc khởi nghĩa thế kỉ XIX,...
+ Sông Hương như một công dân có ý thức trách nhiệm sâu sắc với đất
nước: “biết hiến đời mình để làm nên chiến công”,...
+ Là một người con gái anh hùng: cùng gắn bó với Huế qua nhiều cuộc
chiến đấu anh hùng trong thời kì trung đại, đến cách mạng tháng Tám
cũng có nhưng chiến công vang dội,...
- Dòng sông văn hóa:
+ Sông Hương là “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”: toàn bộ
âm nhạc cổ điển Huế, những bản đàn theo suốt cuộc đời Kiều và bản Tứ
đại cảnh đều được sinh thành trên sông nước sông Hương.
+ Là người tài nữ đánh đàn trong đêm khuya: không bao giờ lặp lại
trong cảm hứng của các thi nhân.
Sông Hương chính là người con gái phóng khoáng, chung thủy trong
tình yêu, anh dũng kiên cường trong lịch sử, tài hoa sáng tạo trong âm
nhạc, trong văn hóa, khiêm nhường trong đời thường, là hiện thân cho
vẻ đẹp người con gái Huế.
c. Cái tôi nghệ thuật của tác giả
- Quan sát dòng sông trên nhiều góc độ khác nhau, miêu tả dòng sông
trên nhiều phương diện.
- Có những liên tưởng, so sánh, độc đáo, lối viết tài hoa, uyên bác.
- Cái tôi nghệ sĩ có tình yêu tha thiết, say đắm với thiên nhiên Huế và đất
nước.
d. Tổng kết:
- Giá trị nội dung
- Giá trị nghệ thuật
III. Kết bài
Văn mẫu Phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật “Ai đã đặt tên
cho dòng sông”
“Một lần anh đến Huế thơ
Gặp cô gái đẹp say mơ giấc nồng
Sông Hương quyến rũ lạ lùng
Em choàng tỉnh giấc ngượng ngùng nhìn tôi
Chng biết tự bao giờ, sông Hương – xứ Huế đã đi vào những thơ ca,
nhạc họa và trở thành nguồn cảm hứng cho rất nhiều nghệ sĩ. Nhưng có
lẽ, chỉ Hoàng Phủ Ngọc Tường - một cây bút tài hoa lãng mạn, một
người con thân yêu của Huế mới có thể khiến sông Hương hiện lên với
vẻ đẹp toàn bích. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?là bài bút kí xuất sắc
của Hoàng Phủ Ngọc Tường, thể hiện nét độc đáo trong phong cách
nghệ thuật của ông.
Hoàng Phủ Ngọc Tường được coi là “Nhà văn của những dòng sông kỉ
niệm”. Là con người đa tài, phóng khoáng, nhà văn đã đặt chân đến
nhiều vùng đất nhưng Huế mộng mơ và dòng Hương giang huyền ảo
vẫn luôn có một vị trí đặc biệt trong lòng nhà văn. Những kí ức tuổi thơ,
hoài niệm về quá khứ, suy tư về cuộc đời,…tất cả đều được ông gửi vào
điệu chảy êm đềm dưới cầu Trường Tiền ấy. Thể kí đến với ông cũng là
mối lương duyên tiền định. Bút kí cho cái tôi uyên bác, tài hoa của
Hoàng Phủ Ngọc Tường một không gian tự do để tung hoành sáng tạo.
Trong tác phẩm, nhà văn đã gắn bó lòng yêu nước, tinh thần dân tộc với
tình yêu dành cho thiên nhiên và văn hóa lịch sử của Huế.
Nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là câu hỏi của một nhà thơ Hà
Nội khi lặng ngắm dòng sông. Tác giả đã lý giải tên dòng sông bằng câu
chuyện dân gian lấp lánh sắc màu huyền thoại. Người làng Thành Chung
có nghề trồng rau thơm. Nhân dân hai bờ sông đã nấu nước của trăm loài
hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước thơm tho mãi mãi. Không phải
một nhà hiền triết uyên thâm hay vị tao nhân mặc khách nào mà chính
những người dân bình thường đã sáng tạo, bồi đắp cho mảnh đất văn hóa
ấy. Cách lí giải này cho thấy tình yêu tha thiết của nhà văn dành cho cố
đô Huế và sông Hương, đồng thời thể hiện lòng biết ơn, ngưỡng mộ
dành cho những con người đã khai phá vùng đất này.
Trong tác phẩm, sông Hương được tác giả miêu tả với ba trạng thái ở ba
chặng khác nhau gồm khi ở thượng nguồn, ở trong lòng thành phố và
ngoại vi thành phố.
Đầu tiên, sông Hương có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn.
Trường Sơn là chứng nhân lịch sử cho những năm tháng gian lao và hào
hùng của dân tộc nên ở đây, sông Hương cũng mang dáng vẻ dữ dội,
mạnh mẽ tựa như một “bản trường ca của rừng già”. Sự kết hợp của
những hình ảnh ấn tượng như“ghềnh thác”, “đại ngàn”, “cơn lốc”, “đáy
vực” và hệ thống từ giàu tính biểu cảm “rầm rộ”, “cuộn xoáy”, “mãnh
liệt”, “dịu dàng”, “say đắm”, “chói lọi” diễn tả sức mạnh của dòng chảy.
Bên cạnh đó, các gam màu rực rỡ như màu xanh của bóng cây, màu đỏ
của hoa đỗ quyên khiến bức tranh sông Hương tràn đầy sức sống. Nhà
văn so sánh dòng sông với “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”,
cho thấy vẻ đẹp khỏe khoắn, trong sáng và phóng khoáng vô cùng. Và
quả thực, giống như những thiếu nữ có tâm hồn kín đáo và thanh khiết,
sông Hương chng chịu phô bày mình. Dòng sông bèn đóng cửa lòng
mình ở cửa rừng và ném chiếc chìa khóa vào những hang đá ở chân núi
Kim Phụng. Chi tiết này gợi liên tưởng đến những tiểu thư đài các xưa
kia thường giấu mình đằng sau những khuê phòng “trướng rủ màn che”.
Nếu ta chỉ “mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành” mà không chú ý
tìm hiểu sông Hương từ nguồn cội thì chng thể nào nắm bắt được bản
chất của nó. Cái hay của Hoàng Phủ Ngọc Tường nằm ở chỗ dù miêu tả
sự hào hùng nhưng giọng văn của ông vẫn đượm chất trữ tình, mượt mà
và lãng mạn.
Trong hành trình theo chân con sông xuôi về đồng bằng, Hoàng Phủ
Ngọc Tường đã phát hiện ra sự thay đổi tính cách của sông Hương. Toàn
bộ thuỷ trình của dòng sông được tác giả cảm nhận như “một cuộc tìm
kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của cô gái trong câu chuyện
tình yêu nhuốm màu cổ tích”:
“Sông Hương tìm đến Huế
Hương Giang ơi, dòng sông êm
Quả tim ta vẫn ngày đêm tự tình.”
(Tố Hữu)
Không gian mở ra đẹp như huyền thoại: “Phải nhiều thế kỉ đi qua, người
tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh
đồng châu hóa đầy hoa dại”. Ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông
Hương đã “chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột
ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Dòng sông như bừng
lên sức trẻ, niềm khao khát tình yêu, không thể chờ đợi thêm để có thể
gặp được Huế. “Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua
điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng
qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình
cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về
Huế”. Câu văn dài, liệt kê nhiều địa danh khiến người đọc có cảm giác
được ngồi trên du thuyền mà chiêm ngưỡng danh lam xứ Huế. Nhà văn
đã vận dụng những kiến thức văn hóa trên nhiều lĩnh vực, kết hợp giữa
kể và tả để làm nổi bật từng bước đi của sông Hương.
Bức tranh sông Hương có thêm đường nét, có hình khối. “Sắc nước tr
nên xanh thm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành
quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu
Bảo mà từ đó, người ta luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa với
những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng con thoi”. Qua những dãy
đồi phía Tây Nam thành phố, sông Hương “ánh lên những phản quang
rực rỡ. Nếu ta từng yêu cái xanh mướt mát như ngọc trong khu vườn
thôn Vĩ, ắt hn cũng sẽ say mê sắc màu “sớm xanh, trưa vàng, chiều
tím” của sông Hương. Xanh, vàng, tím đều là những gam màu quen
thuộc nhưng qua con mắt của Hoàng Phủ Ngọc Tường bỗng trở thành
đặc trưng của không gian Huế “mà chng nơi nào có được”. Lạc đến
những lăng tẩm, đền đài sông Hương mang vẻ đẹp trầm mặc “như triết
lí, như cổ thi”. Lướt mình dưới chân những rừng thông u tịch, dòng sông
khẽ khàng đi qua những lăng mộ của các vua chúa triều Nguyễn. Mặt
nước phng lặng, êm ái. Tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân dài, tiếng gà
gáy vng đến từ các thôn xóm. Không gian thật thanh bình và cổ kính.
Hoàng Phủ Ngọc Tường trở thành một họa sĩ chuyên nghiệp khi có th
khắc họa những đường uốn lượn của dòng sông.
Nhà văn đang đóng vai một người kể chuyện, đôi khi tập trung vào
những chi tiết rồi lại kéo ta trở về với hành trình chính. Đắm mình trong
tiếng chuông chùa, ta giật mình nhận ra những xóm làng đã lùi xa. Sông
Hương đã gặp Huế. Sông Hương “vui tươi hn lên giữa những biền bãi
xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”. Như những người yêu nhau
không thể kìm lòng trong giây phút gặp mặt, dòng sông “kéo một nét
thng thực yên tâm theo hướng Tây Nam, Đông - Bắc” khi nhìn thấy
“chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như một
vành trăng non”. Càng đến gần thành phố, sông Hương càng phô bày hết
vẻ nữ tính, yêu kiều. “Khi đã giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông
Hương Uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến, đường cong ấy làm
cho dòng sông mềm hn đi như một tiếng “vâng” không nói ra của tình
yêu”. Tiếng “vâng” ở đây chính là sự đồng điệu của hai trái tim cùng
chung nhịp đập. Chứng kiến câu chuyện tình yêu giữa sông Hương và
Huế, ngắm nhìn dòng sông khi đã ở trong lòng thành phố của nó, ta mới
thấy hết được vẻ đẹp, sức sống “bình dị nhưng không tầm thường, trầm
mặc nhưng không ủy mị, dịu dàng nhưng vẫn tiềm ẩn khí mạnh của đất
đai” mà Hoàng Phủ Ngọc Tường từng ngợi ca trong “Sử thi buồn”.
Vốn sống phong phú, kiến thức uyên bác của nhà văn được thể hiện trực
tiếp nhất ở đoạn miêu tả sông Hương khi chảy vào thành phố Huế. Tác
giả miêu tả chi tiết những phong tục, lễ hội của người dân nơi
đây.Nhưng nếu chỉ kể, tả, Hoàng Phủ Ngọc Tường mới chỉ là một người
ghi chép. Ông thổi hồn vào từng ánh hoa đăng bồng bềnh “chao nhẹ trên
mặt nước như những vương vấn của một nỗi lòng”. Kiến thức về âm
nhạc đã giúp nhà văn tìm được cách biểu đạt gợi cảm, trữ tình, lãng mạn
nhất để nói về “điệu Slow tình cảm” dành riêng cho Huế của sông
Hương. Thiên tình ca vẫn được tiếp tục. Ngắm dòng sông, mà ta thấy
được bao triết lí về tình yêu và con người. Cách nói “dành riêng cho
Huế” đem đến cảm giác dòng sông đã thay dòng để đắm mình với cảnh
sắc Huế cũng như con người khi yêu bỗng biết thay đổi để hòa hợp. Bên
cạnh đó, tác giả còn so sánh sông Hương với sông Xen của Pari, sông
Đa nuýp của Bu- đa – pét, dòng sông Nê-va để thể hiện tình yêu, niềm
tự hào về quê hương xứ sở.
Khi xa Huế, sông Hương xiết bao thương nhớ. Dù chếch về hướng chính
Bắc nhưng dòng sông vẫn “ôm lấy đảo cồn Hến quanh năm mơ màng
trong sương khói”. Con sông chng muốn rời xa Huế, vẫn để lại chút lưu
luyến giữa màu xanh biếc của tre trúc và những vườn cau vùng ngoại ô
Vĩ Dạ. Như bước chân “Xăm xăm băng lối” của nàng Kiều thuở xưa,
dòng sông “đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng Đông -Tây để gặp
lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ”. Sự thủy chung,
son sắt của sông Hương dành cho Huế cũng chính là “tấm lòng người
dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”.
Là nhà văn của những dòng sông, Hoàng Phủ Ngọc Tường từng nhận
xét: “Sông Hồng là nỗi nhớ về phù sa của đời người, sông Cửu Long
sức mạnh đi tới biển và sông Hương như nỗi hoài vọng về một cái đẹp
không thể đạt tới”. Có lẽ, sông Hương có “cái đẹp không thể đạt tới ấy”
bởi nó hàm chứa trong mình rất nhiều giá trị về văn hóa, lịch sử đằng
sau vẻ nên thơ khiến ta mãi hoài vọng, băn khoăn. Sông Hương gắn với
âm nhạc cổ điển Huế, trở thành “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”.
Những âm thanh trong trẻo, quý báu trở thành di sản đã lớn lên từ những
khoang thuyền, những mái chèo khuya. Điều này khiến tác giả liên
tưởng tới việc có người nghệ nhân già gần thế kỷ chơi đàn, một đêm
nghe con gái đọc Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua/Đục như tiếng
suối mới sa nửa vời”.
Soi chiếu con sông từ góc độ thi ca, tác giả cho rằng đây là con sông
“không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các thi sĩ”. Này là
“Dòng sông trắng lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà, này là
“Kiếm dựng trời xanh” trong khí phách Cao Bá Quát,… Sông Hương trở
thành mạch nguồn cho vô vàn sáng tạo nghệ thuật.
Trong mối quan hệ với lịch sử đất nước, sông Hương trở thành “sử thi
viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Nhà văn đã đưa người đọc trở về với quá
khứ gian lao mà hào hùng của đất nước để cảm nhận giá trị của sông
Hương. Dòng sông ấy đã có từ thời các vua Hùng, về sau lại chiến đấu
oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc. Bước vào thế kỉ
XVIII, sông Hương vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người
anh hùng Nguyễn Huệ. Khi cả nước giương cao ngọn cờ độc lập, tự do,
đánh đuổi thực dân Pháp, sông Hương cũng có cho mình những chiến
công rung chuyển. Lời phát biểu của đại tướng Võ Nguyên Giáp đã để
lại trong ta bao xúc động nghẹn ngào: “Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét
son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất
xứng đáng cho tổ quốc”.
“Ai đã đặt tên cho dòng sông” là bài kí dài nhất của Hoàng Phủ Ngọc
Tường viết về Huế. Bằng tất cả tình yêu của mình, nhà văn đã khắc họa
dòng sông trên tất cả các phương diện. Với ngôn ngữ trong sáng, lối
hành văn tài hoa lãng mạn, hình ảnh phong phú, liên tưởng đặc sắc, kết
hợp hài hoà giữa cảm xúc và trí tuệ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết nên
bản tình ca nồng nàn về thiên nhiên và con người cố đô:
“Sao thèm một điệu gì xưa lắm
Thèm đọc một đoạn văn Hoàng Phủ Ngọc Tường
Có ai đó rót chiều vào chén ngọc
Huế dịu dàng xây bằng khói và sương.”
| 1/11

Preview text:

Dàn ý Phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật “Ai đã đặt tên cho dòng sông” I. Mở bài
Dẫn dắt và giới thiệu về tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông”. II. Thân bài 1. Khái quát: a. Tác giả:
- Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại Huế.
- Năm 1966, ông tham gia kháng chiến chỗng Mĩ.
- Sở trường của ông là thể loại bút kí.
- Ông là một người nghệ sĩ có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực.
Tác phẩm của ông có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ
tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều. b. Tác phẩm:
- “Ai đã đặt tên cho dòng sông” được viết ngày 4/1/1981 và in trong tập sách cùng tên.
- Đoạn trích thể hiện vẻ đẹp nên thơ của dòng sông Hương, Huế và tình
yêu thương của tác giả đối với thiên nhiên đất nước. 2. Phân tích a. Nhan đề
- Thể hiện rõ chủ đề tác phẩm và phong cách của tác giả.
- Nhấn mạnh vào vẻ đẹp huyền thoại của sông Hương và khơi gợi lòng
biết ơn, niềm tự hào của con người đối với văn hóa, lịch sử của xứ Huế. b. Phân tích
- Dòng sông thiên nhiên có vẻ đẹp tự nhiên:
+ Ở thượng nguồn: “bản trường ca của rừng già”, “cô gái Di-gan”,
“người con gái của rừng già”, “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”.
+ Từ thượng nguồn đến Huế: sông Hương như người con gái lần đầu
đến với tình yêu một mặt rất e lệ, một mặt táo bạo chủ động.
+ Trong lòng Huế: như một người con gái đắm say tình tứ khi bên người
mình yêu, người con gái tài hoa “tài nữ đánh đàn trong đêm khuya”.
+ Từ biệt Huế ra biển: như một người con gái lưu luyến, thủy chung từ biệt người yêu.
⇒Tác giả chủ yếu cảm nhận vẻ đẹp sông Hương từ góc độ tình yêu
khiến sông Hương hiện lên như một người con gái chung tình hết lòng vì tình yêu. - Dòng sông lịch sử:
+ Sông Hương là một nhân chứng lịch sử của Huế, của đất nước: “soi
bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ”, chứng
kiến những mất mát đau thương của các cuộc khởi nghĩa thế kỉ XIX,...
+ Sông Hương như một công dân có ý thức trách nhiệm sâu sắc với đất
nước: “biết hiến đời mình để làm nên chiến công”,...
+ Là một người con gái anh hùng: cùng gắn bó với Huế qua nhiều cuộc
chiến đấu anh hùng trong thời kì trung đại, đến cách mạng tháng Tám
cũng có nhưng chiến công vang dội,... - Dòng sông văn hóa:
+ Sông Hương là “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”: toàn bộ
âm nhạc cổ điển Huế, những bản đàn theo suốt cuộc đời Kiều và bản Tứ
đại cảnh đều được sinh thành trên sông nước sông Hương.
+ Là người tài nữ đánh đàn trong đêm khuya: không bao giờ lặp lại
trong cảm hứng của các thi nhân.
⇒ Sông Hương chính là người con gái phóng khoáng, chung thủy trong
tình yêu, anh dũng kiên cường trong lịch sử, tài hoa sáng tạo trong âm
nhạc, trong văn hóa, khiêm nhường trong đời thường, là hiện thân cho
vẻ đẹp người con gái Huế.
c. Cái tôi nghệ thuật của tác giả
- Quan sát dòng sông trên nhiều góc độ khác nhau, miêu tả dòng sông
trên nhiều phương diện.
- Có những liên tưởng, so sánh, độc đáo, lối viết tài hoa, uyên bác.
- Cái tôi nghệ sĩ có tình yêu tha thiết, say đắm với thiên nhiên Huế và đất nước. d. Tổng kết: - Giá trị nội dung - Giá trị nghệ thuật III. Kết bài
Văn mẫu Phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật “Ai đã đặt tên cho dòng sông”
“Một lần anh đến Huế thơ
Gặp cô gái đẹp say mơ giấc nồng
Sông Hương quyến rũ lạ lùng
Em choàng tỉnh giấc ngượng ngùng nhìn tôi”
Chẳng biết tự bao giờ, sông Hương – xứ Huế đã đi vào những thơ ca,
nhạc họa và trở thành nguồn cảm hứng cho rất nhiều nghệ sĩ. Nhưng có
lẽ, chỉ Hoàng Phủ Ngọc Tường - một cây bút tài hoa lãng mạn, một
người con thân yêu của Huế mới có thể khiến sông Hương hiện lên với
vẻ đẹp toàn bích. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là bài bút kí xuất sắc
của Hoàng Phủ Ngọc Tường, thể hiện nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của ông.
Hoàng Phủ Ngọc Tường được coi là “Nhà văn của những dòng sông kỉ
niệm”. Là con người đa tài, phóng khoáng, nhà văn đã đặt chân đến
nhiều vùng đất nhưng Huế mộng mơ và dòng Hương giang huyền ảo
vẫn luôn có một vị trí đặc biệt trong lòng nhà văn. Những kí ức tuổi thơ,
hoài niệm về quá khứ, suy tư về cuộc đời,…tất cả đều được ông gửi vào
điệu chảy êm đềm dưới cầu Trường Tiền ấy. Thể kí đến với ông cũng là
mối lương duyên tiền định. Bút kí cho cái tôi uyên bác, tài hoa của
Hoàng Phủ Ngọc Tường một không gian tự do để tung hoành sáng tạo.
Trong tác phẩm, nhà văn đã gắn bó lòng yêu nước, tinh thần dân tộc với
tình yêu dành cho thiên nhiên và văn hóa lịch sử của Huế.
Nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là câu hỏi của một nhà thơ Hà
Nội khi lặng ngắm dòng sông. Tác giả đã lý giải tên dòng sông bằng câu
chuyện dân gian lấp lánh sắc màu huyền thoại. Người làng Thành Chung
có nghề trồng rau thơm. Nhân dân hai bờ sông đã nấu nước của trăm loài
hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước thơm tho mãi mãi. Không phải
một nhà hiền triết uyên thâm hay vị tao nhân mặc khách nào mà chính
những người dân bình thường đã sáng tạo, bồi đắp cho mảnh đất văn hóa
ấy. Cách lí giải này cho thấy tình yêu tha thiết của nhà văn dành cho cố
đô Huế và sông Hương, đồng thời thể hiện lòng biết ơn, ngưỡng mộ
dành cho những con người đã khai phá vùng đất này.
Trong tác phẩm, sông Hương được tác giả miêu tả với ba trạng thái ở ba
chặng khác nhau gồm khi ở thượng nguồn, ở trong lòng thành phố và ngoại vi thành phố.
Đầu tiên, sông Hương có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn.
Trường Sơn là chứng nhân lịch sử cho những năm tháng gian lao và hào
hùng của dân tộc nên ở đây, sông Hương cũng mang dáng vẻ dữ dội,
mạnh mẽ tựa như một “bản trường ca của rừng già”. Sự kết hợp của
những hình ảnh ấn tượng như“ghềnh thác”, “đại ngàn”, “cơn lốc”, “đáy
vực” và hệ thống từ giàu tính biểu cảm “rầm rộ”, “cuộn xoáy”, “mãnh
liệt”, “dịu dàng”, “say đắm”, “chói lọi” diễn tả sức mạnh của dòng chảy.
Bên cạnh đó, các gam màu rực rỡ như màu xanh của bóng cây, màu đỏ
của hoa đỗ quyên khiến bức tranh sông Hương tràn đầy sức sống. Nhà
văn so sánh dòng sông với “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”,
cho thấy vẻ đẹp khỏe khoắn, trong sáng và phóng khoáng vô cùng. Và
quả thực, giống như những thiếu nữ có tâm hồn kín đáo và thanh khiết,
sông Hương chẳng chịu phô bày mình. Dòng sông bèn đóng cửa lòng
mình ở cửa rừng và ném chiếc chìa khóa vào những hang đá ở chân núi
Kim Phụng. Chi tiết này gợi liên tưởng đến những tiểu thư đài các xưa
kia thường giấu mình đằng sau những khuê phòng “trướng rủ màn che”.
Nếu ta chỉ “mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành” mà không chú ý
tìm hiểu sông Hương từ nguồn cội thì chẳng thể nào nắm bắt được bản
chất của nó. Cái hay của Hoàng Phủ Ngọc Tường nằm ở chỗ dù miêu tả
sự hào hùng nhưng giọng văn của ông vẫn đượm chất trữ tình, mượt mà và lãng mạn.
Trong hành trình theo chân con sông xuôi về đồng bằng, Hoàng Phủ
Ngọc Tường đã phát hiện ra sự thay đổi tính cách của sông Hương. Toàn
bộ thuỷ trình của dòng sông được tác giả cảm nhận như “một cuộc tìm
kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của cô gái trong câu chuyện
tình yêu nhuốm màu cổ tích”:
“Sông Hương tìm đến Huế
Hương Giang ơi, dòng sông êm
Quả tim ta vẫn ngày đêm tự tình.” (Tố Hữu)
Không gian mở ra đẹp như huyền thoại: “Phải nhiều thế kỉ đi qua, người
tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh
đồng châu hóa đầy hoa dại”. Ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông
Hương đã “chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột
ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Dòng sông như bừng
lên sức trẻ, niềm khao khát tình yêu, không thể chờ đợi thêm để có thể
gặp được Huế. “Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua
điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng
qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình
cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về
Huế”. Câu văn dài, liệt kê nhiều địa danh khiến người đọc có cảm giác
được ngồi trên du thuyền mà chiêm ngưỡng danh lam xứ Huế. Nhà văn
đã vận dụng những kiến thức văn hóa trên nhiều lĩnh vực, kết hợp giữa
kể và tả để làm nổi bật từng bước đi của sông Hương.
Bức tranh sông Hương có thêm đường nét, có hình khối. “Sắc nước trở
nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành
quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu
Bảo mà từ đó, người ta luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa với
những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng con thoi”. Qua những dãy
đồi phía Tây Nam thành phố, sông Hương “ánh lên những phản quang
rực rỡ. Nếu ta từng yêu cái xanh mướt mát như ngọc trong khu vườn
thôn Vĩ, ắt hẳn cũng sẽ say mê sắc màu “sớm xanh, trưa vàng, chiều
tím” của sông Hương. Xanh, vàng, tím đều là những gam màu quen
thuộc nhưng qua con mắt của Hoàng Phủ Ngọc Tường bỗng trở thành
đặc trưng của không gian Huế “mà chẳng nơi nào có được”. Lạc đến
những lăng tẩm, đền đài sông Hương mang vẻ đẹp trầm mặc “như triết
lí, như cổ thi”. Lướt mình dưới chân những rừng thông u tịch, dòng sông
khẽ khàng đi qua những lăng mộ của các vua chúa triều Nguyễn. Mặt
nước phẳng lặng, êm ái. Tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân dài, tiếng gà
gáy vẳng đến từ các thôn xóm. Không gian thật thanh bình và cổ kính.
Hoàng Phủ Ngọc Tường trở thành một họa sĩ chuyên nghiệp khi có thể
khắc họa những đường uốn lượn của dòng sông.
Nhà văn đang đóng vai một người kể chuyện, đôi khi tập trung vào
những chi tiết rồi lại kéo ta trở về với hành trình chính. Đắm mình trong
tiếng chuông chùa, ta giật mình nhận ra những xóm làng đã lùi xa. Sông
Hương đã gặp Huế. Sông Hương “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi
xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”. Như những người yêu nhau
không thể kìm lòng trong giây phút gặp mặt, dòng sông “kéo một nét
thẳng thực yên tâm theo hướng Tây – Nam, Đông - Bắc” khi nhìn thấy
“chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như một
vành trăng non”. Càng đến gần thành phố, sông Hương càng phô bày hết
vẻ nữ tính, yêu kiều. “Khi đã giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông
Hương Uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến, đường cong ấy làm
cho dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng “vâng” không nói ra của tình
yêu”. Tiếng “vâng” ở đây chính là sự đồng điệu của hai trái tim cùng
chung nhịp đập. Chứng kiến câu chuyện tình yêu giữa sông Hương và
Huế, ngắm nhìn dòng sông khi đã ở trong lòng thành phố của nó, ta mới
thấy hết được vẻ đẹp, sức sống “bình dị nhưng không tầm thường, trầm
mặc nhưng không ủy mị, dịu dàng nhưng vẫn tiềm ẩn khí mạnh của đất
đai” mà Hoàng Phủ Ngọc Tường từng ngợi ca trong “Sử thi buồn”.
Vốn sống phong phú, kiến thức uyên bác của nhà văn được thể hiện trực
tiếp nhất ở đoạn miêu tả sông Hương khi chảy vào thành phố Huế. Tác
giả miêu tả chi tiết những phong tục, lễ hội của người dân nơi
đây.Nhưng nếu chỉ kể, tả, Hoàng Phủ Ngọc Tường mới chỉ là một người
ghi chép. Ông thổi hồn vào từng ánh hoa đăng bồng bềnh “chao nhẹ trên
mặt nước như những vương vấn của một nỗi lòng”. Kiến thức về âm
nhạc đã giúp nhà văn tìm được cách biểu đạt gợi cảm, trữ tình, lãng mạn
nhất để nói về “điệu Slow tình cảm” dành riêng cho Huế của sông
Hương. Thiên tình ca vẫn được tiếp tục. Ngắm dòng sông, mà ta thấy
được bao triết lí về tình yêu và con người. Cách nói “dành riêng cho
Huế” đem đến cảm giác dòng sông đã thay dòng để đắm mình với cảnh
sắc Huế cũng như con người khi yêu bỗng biết thay đổi để hòa hợp. Bên
cạnh đó, tác giả còn so sánh sông Hương với sông Xen của Pari, sông
Đa – nuýp của Bu- đa – pét, dòng sông Nê-va để thể hiện tình yêu, niềm
tự hào về quê hương xứ sở.
Khi xa Huế, sông Hương xiết bao thương nhớ. Dù chếch về hướng chính
Bắc nhưng dòng sông vẫn “ôm lấy đảo cồn Hến quanh năm mơ màng
trong sương khói”. Con sông chẳng muốn rời xa Huế, vẫn để lại chút lưu
luyến giữa màu xanh biếc của tre trúc và những vườn cau vùng ngoại ô
Vĩ Dạ. Như bước chân “Xăm xăm băng lối” của nàng Kiều thuở xưa,
dòng sông “đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng Đông -Tây để gặp
lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ”. Sự thủy chung,
son sắt của sông Hương dành cho Huế cũng chính là “tấm lòng người
dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”.
Là nhà văn của những dòng sông, Hoàng Phủ Ngọc Tường từng nhận
xét: “Sông Hồng là nỗi nhớ về phù sa của đời người, sông Cửu Long là
sức mạnh đi tới biển và sông Hương như nỗi hoài vọng về một cái đẹp
không thể đạt tới”. Có lẽ, sông Hương có “cái đẹp không thể đạt tới ấy”
bởi nó hàm chứa trong mình rất nhiều giá trị về văn hóa, lịch sử đằng
sau vẻ nên thơ khiến ta mãi hoài vọng, băn khoăn. Sông Hương gắn với
âm nhạc cổ điển Huế, trở thành “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”.
Những âm thanh trong trẻo, quý báu trở thành di sản đã lớn lên từ những
khoang thuyền, những mái chèo khuya. Điều này khiến tác giả liên
tưởng tới việc có người nghệ nhân già gần thế kỷ chơi đàn, một đêm
nghe con gái đọc Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua/Đục như tiếng
suối mới sa nửa vời”.
Soi chiếu con sông từ góc độ thi ca, tác giả cho rằng đây là con sông
“không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các thi sĩ”. Này là
“Dòng sông trắng lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà, này là
“Kiếm dựng trời xanh” trong khí phách Cao Bá Quát,… Sông Hương trở
thành mạch nguồn cho vô vàn sáng tạo nghệ thuật.
Trong mối quan hệ với lịch sử đất nước, sông Hương trở thành “sử thi
viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Nhà văn đã đưa người đọc trở về với quá
khứ gian lao mà hào hùng của đất nước để cảm nhận giá trị của sông
Hương. Dòng sông ấy đã có từ thời các vua Hùng, về sau lại chiến đấu
oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc. Bước vào thế kỉ
XVIII, sông Hương vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người
anh hùng Nguyễn Huệ. Khi cả nước giương cao ngọn cờ độc lập, tự do,
đánh đuổi thực dân Pháp, sông Hương cũng có cho mình những chiến
công rung chuyển. Lời phát biểu của đại tướng Võ Nguyên Giáp đã để
lại trong ta bao xúc động nghẹn ngào: “Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét
son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất
xứng đáng cho tổ quốc”.
“Ai đã đặt tên cho dòng sông” là bài kí dài nhất của Hoàng Phủ Ngọc
Tường viết về Huế. Bằng tất cả tình yêu của mình, nhà văn đã khắc họa
dòng sông trên tất cả các phương diện. Với ngôn ngữ trong sáng, lối
hành văn tài hoa lãng mạn, hình ảnh phong phú, liên tưởng đặc sắc, kết
hợp hài hoà giữa cảm xúc và trí tuệ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết nên
bản tình ca nồng nàn về thiên nhiên và con người cố đô:
“Sao thèm một điệu gì xưa lắm
Thèm đọc một đoạn văn Hoàng Phủ Ngọc Tường
Có ai đó rót chiều vào chén ngọc
Huế dịu dàng xây bằng khói và sương.”