Phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật bài thơ Nắng mới Ngữ Văn 10 Chân Trời Sáng Tạo

Xin gửi tới các bạn bài viết văn mẫu Phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm trữ tình: bài thơ Nắng mới - Lưu Trọng Lư. Mời các bạn cùng tham khảo.

PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ NỘI DUNG, NGH THUT
BÀI THƠ NẮNG MI - LƯU TRỌNG LƯ
Vào những m 1932 - 1945, phong trào Thơ mới đã thổi vào nền văn học nước
nhà mt lung gió mi lạ, đánh thức c mt nền thơ đang “triền miên trong cõi chết”.
Mt trong s nhng nhà thơ tiên phong góp phần m nên chiến thng không nh
trong phong trào Thơ mới phi k đến Lưu Trọng Lư. Năm 1939, ông cho ra đi tập thơ
đầu tay “Tiếng thu” gây nhiu tiếng vang nht bi chất thơ cất lên t nhng k nim thi
thơ u, v quê hương, dòng sông, nh diều,... Trong đó phi k đến “Nng mi”, mt
trong nhng thi phm thành công, ni bt của phong trào thơ mới.
Bài thơ là hi c ca tác gi v ngươi mẹ thân yêu ca mình, một đề tài không h
mi l nhưng vẫn lay động tâm hồn người đọc bi nhng xúc cm chân thành kết hp vi
ngh thuật thơ đặc sc.
Với tình yêu cái đp tâm hn nhy cm, Lưu Trọng luôn đi tìm kiếm
chắt chiu cái đẹp, t nhng v đẹp thanh cao đến bình dị, đời thường. Thiên nhiên trong
thơ ông tất thy đều thi v và thật nên thơ. M đầu bài thơ là hình ảnh quê hương trong vẻ
đẹp ca nng mi:
“Mi ln nng mi ht bên song
Xao xác gà trưa gáy não nùng”
Nng đây không tươi tắn như nắng trong thơ của Hàn Mc T: “Nhìn nắng hàng
cau nng mới lên”. Nng mi đây s giao thoa gia m và lnh, nắng mưa,
sáng ti, khô ẩm, mới, vãng hiện tại. Lúc này không gian đã chuyển
màu sang thi gian, rồi ngược li thi gianng lánh: ht bên song biên gii gia trong
nhà ngoài sân, giữa riêng ta tr. Cng ng vi ánh nng soi ri tim thc y
là tiếng gà trưa xao xác, não nùng. Hai ty trong cùng một câu thơ khiến giọng thơ như
trm hn xuống, trĩu nặng.
Nhà thơ chập chn nh sng li c tươi sáng v người m trong nhng ngày
nng mi:
“Lòng rượi bun theo thi dĩ vãng
Chp chn sng li những ngày không”.
Nh v thi “dĩ vàng” nh v quá khứ, ơi đẹp đến my nhưng cũng đã
mãi mãi li tàn không th quay tr li. Nhng “ngày không”, l nhng ngày u
thơ khi tác giả còn nhỏ, được sng cùng m và chưa phải lo nghĩ, vướng bận điều gì.
T ni nh v ngày thơ bé, hình ảnh ngưi m thân yêu, gin d hin lên ngày
càng rõ nét:
“Tôi nh m tôi thu thiếu thi
Lúc người còn sống, tôi lên mười
Mi ln nng mi reo ngoài ni
Áo đ người đưa trước giậu phơi.”
Ngưi m đã không còn nữa, tt c nhng gì còn li chk nim nhạt nhòa đọng
lại trong tâm trí đứa tr lên mười. Cũng “nng mi”, nhưng trong quá khứ, nng
không “hắt n song” tràn đầy sc sng, nim vui “reo ngoài nội” ánh nắng đó
đến vào nhng ngày còn m. T “reo” như một nt nhc bay bng, lnh lót, tươi vui
gia mt bn nhc trm lng, da diết phần não nùng. Câu thơ nbng lên sc sng
vui tươi, khác l. Trong kh thơ, hình nh m gián tiếp xut hin thp thoáng sau màu o
đỏ, trước giậu phơi. l đó chính nh nh thân thuc nhất đng li trong tâm trí
người con.
Hình nh người m hiền lương - người gn sâu nng nht vi tác giả, đã chu
biết bao kh cc trong cuc sng hin lên trong nhng ng thơ nh nhàng đy cm
xúc. Chi tiết miêu t ngoi hình ca m ch xut hiện trong hai dòng thơ cuối, nhưng đó
là hình ảnh đẹp nht:
“Nét cười đen nhánh sau tay áo
Trong ánh trưa hè, trưc giậu thưa”
Buổi trưa thời gian ngưng đọng nhất. Lưu Trọng đã đi rt xa v quá kh để
nh t m cảnh người m đưa áo ra dậu phơi mỗi khi có nng mi. Cái nng mi ca hoài
nim y nao nức, tươi vui bởi gn vi mt cậu lên mười, vi một người m tr chăm
chút, hin du, n i tỏa sáng trên gương mặt. Không gian màu đỏ ca nng áo tr
thành một điểm son trong ni nh v tuổi thơ của tác gi. Bài thơ kết thúc bng hình nh
“nét cười đen nhánh” để lại vị, cm xúc vn ơng, lan tỏa trong lòng người đọc.
Không phi “n ời” hay “ming cười” ch “nét cười” - s kín đáo, nh nhàng
và cũng thật nhanh, như chỉ t qua ch chưa kịp đọng li trên khuôn mt m. Hình nh
ấy cũng gợi nh đến hình nh những cô hàng xén trong thơ Hoàng Cầm:
“Những cô hàng xén răng đen
ời như mùa thu tỏa nắng”
(Bên kia sông Đuống)
Bài thơ không ch hp dẫn độc gi bi tình cm tha thiết, chân thành ni nh
sâu sc của người con hướng v người m tn to sm hôm còn bi ngh thut, tài
năng ngòi bút Lưu Trọng Lư. Nghệ thuật đảo ng được nhà thơ sử dng góp phn m
tăng khả năng biểu đạt ca ngôn ng thơ. Giọng điệu thơ giãi y, bộc bch nhng m
tình sâu kín, ch th tôi” trc tiếp th hin nhng cm xúc chân thực, lay động lòng
người. Ngôn ng thơ giản d, t nhiên, gần gũi với bạn đọc,...
Đọc bài thơ, ta càng thấm thía hơn về tình mu t - th tình cm thiêng liêng, cao
quý trong mỗi con ngưi. Bên cnh những dòng thơ chan chứa tình cm, cm xúc v m
- người ph n c đời tn to hi sinh của nhà thơ, người đọc còn cm nhận được s tinh
tế, tâm hn nhy cm của Lưu Trong trước thiên nhiên, đất tri. l bi vy
nhiều m trôi qua nhưng sc sng của bài thơ vẫn tràn đầy, để li nhng n tượng nh
nhàng mà đậm sâu trong lòng độc gi.
| 1/3

Preview text:


PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ NỘI DUNG, NGHỆ THUẬT
BÀI THƠ NẮNG MỚI - LƯU TRỌNG LƯ
Vào những năm 1932 - 1945, phong trào Thơ mới đã thổi vào nền văn học nước
nhà một luồng gió mới lạ, đánh thức cả một nền thơ đang “triền miên trong cõi chết”.
Một trong số những nhà thơ tiên phong và góp phần làm nên chiến thắng không nhỏ
trong phong trào Thơ mới phải kể đến Lưu Trọng Lư. Năm 1939, ông cho ra đời tập thơ
đầu tay “Tiếng thu” gây nhiều tiếng vang nhất bởi chất thơ cất lên từ những kỉ niệm thời
thơ ấu, về quê hương, dòng sông, cánh diều,... Trong đó phải kể đến “Nắng mới”, một
trong những thi phẩm thành công, nổi bật của phong trào thơ mới.
Bài thơ là hồi ức của tác giả về ngươi mẹ thân yêu của mình, một đề tài không hề
mới lạ nhưng vẫn lay động tâm hồn người đọc bởi những xúc cảm chân thành kết hợp với
nghệ thuật thơ đặc sắc.
Với tình yêu cái đẹp và tâm hồn nhạy cảm, Lưu Trọng Lư luôn đi tìm kiếm và
chắt chiu cái đẹp, từ những vẻ đẹp thanh cao đến bình dị, đời thường. Thiên nhiên trong
thơ ông tất thảy đều thi vị và thật nên thơ. Mở đầu bài thơ là hình ảnh quê hương trong vẻ đẹp của nắng mới:
“Mỗi lần nắng mới hắt bên song
Xao xác gà trưa gáy não nùng”
Nắng ở đây không tươi tắn như nắng trong thơ của Hàn Mặc Tử: “Nhìn nắng hàng
cau nắng mới lên”. “Nắng mới” ở đây là sự giao thoa giữa ấm và lạnh, nắng và mưa,
sáng và tối, khô và ẩm, cũ và mới, dĩ vãng và hiện tại. Lúc này không gian đã chuyển
màu sang thời gian, rồi ngược lại thời gian lóng lánh: hắt bên song – biên giới giữa trong
nhà và ngoài sân, giữa riêng ta và vũ trụ. Cộng hưởng với ánh nắng soi rọi tiềm thức ấy
là tiếng gà trưa xao xác, não nùng. Hai từ láy trong cùng một câu thơ khiến giọng thơ như
trầm hẳn xuống, trĩu nặng.
Nhà thơ chập chờn nhớ sống lại kí ức tươi sáng về người mẹ trong những ngày nắng mới:
“Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng
Chập chờn sống lại những ngày không”.
Nhớ về thời “dĩ vàng” là nhớ về quá khứ, dù tươi đẹp đến mấy nhưng cũng đã
mãi mãi lụi tàn và không thể quay trở lại. Những “ngày không”, có lẽ là những ngày ấu
thơ khi tác giả còn nhỏ, được sống cùng mẹ và chưa phải lo nghĩ, vướng bận điều gì.
Từ nỗi nhớ về ngày thơ bé, hình ảnh người mẹ thân yêu, giản dị hiện lên ngày càng rõ nét:
“Tôi nhớ mẹ tôi thuở thiếu thời
Lúc người còn sống, tôi lên mười
Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội
Áo đỏ người đưa trước giậu phơi.”
Người mẹ đã không còn nữa, tất cả những gì còn lại chỉ là kỉ niệm nhạt nhòa đọng
lại trong tâm trí đứa trẻ lên mười. Cũng là “nắng mới”, nhưng trong quá khứ, nắng
không “hắt bên song” mà tràn đầy sức sống, niềm vui “reo ngoài nội” vì ánh nắng đó
đến vào những ngày còn mẹ. Từ “reo” như một nốt nhạc bay bổng, lảnh lót, tươi vui
giữa một bản nhạc trầm lắng, da diết có phần não nùng. Câu thơ như bừng lên sức sống
vui tươi, khác lạ. Trong khổ thơ, hình ảnh mẹ gián tiếp xuất hiện thấp thoáng sau màu ảo
đỏ, trước giậu phơi. Có lẽ đó chính là hình ảnh thân thuộc nhất đọng lại trong tâm trí người con.
Hình ảnh người mẹ hiền lương - người gắn bó sâu nặng nhất với tác giả, đã chịu
biết bao khổ cực trong cuộc sống hiện lên trong những dòng thơ nhẹ nhàng mà đầy cảm
xúc. Chi tiết miêu tả ngoại hình của mẹ chỉ xuất hiện trong hai dòng thơ cuối, nhưng đó
là hình ảnh đẹp nhất:
“Nét cười đen nhánh sau tay áo
Trong ánh trưa hè, trước giậu thưa”
Buổi trưa là thời gian ngưng đọng nhất. Lưu Trọng Lư đã đi rất xa về quá khứ để
nhớ tỉ mỉ cảnh người mẹ đưa áo ra dậu phơi mỗi khi có nắng mới. Cái nắng mới của hoài
niệm này nao nức, tươi vui bởi gắn với một cậu bé lên mười, với một người mẹ trẻ chăm
chút, hiền dịu, nụ cười tỏa sáng trên gương mặt. Không gian màu đỏ của nắng và áo trở
thành một điểm son trong nỗi nhớ về tuổi thơ của tác giả. Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh
“nét cười đen nhánh” để lại dư vị, cảm xúc vấn vương, lan tỏa trong lòng người đọc.
Không phải “nụ cười” hay “miệng cười” mà chỉ là “nét cười” - sự kín đáo, nhẹ nhàng
và cũng thật nhanh, như chỉ lướt qua chứ chưa kịp đọng lại trên khuôn mặt mẹ. Hình ảnh
ấy cũng gợi nhớ đến hình ảnh những cô hàng xén trong thơ Hoàng Cầm:
“Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng”
(Bên kia sông Đuống)
Bài thơ không chỉ hấp dẫn độc giả bởi tình cảm tha thiết, chân thành và nỗi nhớ
sâu sắc của người con hướng về người mẹ tần tảo sớm hôm mà còn bởi nghệ thuật, tài
năng ngòi bút Lưu Trọng Lư. Nghệ thuật đảo ngữ được nhà thơ sử dụng góp phần làm
tăng khả năng biểu đạt của ngôn ngữ thơ. Giọng điệu thơ giãi bày, bộc bạch những tâm
tình sâu kín, chủ thể “tôi” trực tiếp thể hiện những cảm xúc chân thực, lay động lòng
người. Ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên, gần gũi với bạn đọc,...
Đọc bài thơ, ta càng thấm thía hơn về tình mẫu tử - thứ tình cảm thiêng liêng, cao
quý trong mỗi con người. Bên cạnh những dòng thơ chan chứa tình cảm, cảm xúc về mẹ
- người phụ nữ cả đời tần tảo hi sinh của nhà thơ, người đọc còn cảm nhận được sự tinh
tế, tâm hồn nhạy cảm của Lưu Trong Lư trước thiên nhiên, đất trời. Có lẽ bởi vì vậy mà
nhiều năm trôi qua nhưng sức sống của bài thơ vẫn tràn đầy, để lại những ấn tượng nhẹ
nhàng mà đậm sâu trong lòng độc giả.