-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật “Đọc Tiểu Thanh kí” | Văn mẫu 11 Cánh diều
Phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật “Đọc Tiểu Thanh kí” là tài liệu học tập mới gồm dàn ý và văn mẫu được biên soạn, giúp các bạn học tốt môn Ngữ văn lớp 11. Mời các bạn tham khảo!
Văn mẫu 11 256 tài liệu
Ngữ Văn 11 1.1 K tài liệu
Phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật “Đọc Tiểu Thanh kí” | Văn mẫu 11 Cánh diều
Phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật “Đọc Tiểu Thanh kí” là tài liệu học tập mới gồm dàn ý và văn mẫu được biên soạn, giúp các bạn học tốt môn Ngữ văn lớp 11. Mời các bạn tham khảo!
Chủ đề: Văn mẫu 11 256 tài liệu
Môn: Ngữ Văn 11 1.1 K tài liệu
Sách: Cánh diều
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
I. Dàn ý Phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật “Đọc Tiểu Thanh kí” I. Mở bài:
Dẫn dắt và giới thiệu về tác phẩm “Đọc Tiểu Thanh kí” II. Thân bài: 1. Khái quát chung: a. Tác giả:
- Nguyễn Du (1765 - 1820), quê quán ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
- Nguyễn Du sinh ra và lớn lên trong một gia đình đại quý tộc nhiều đời
làm quan và có truyền thống văn chương.
- Ông là đại thi hào và một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của dân tộc Việt Nam.
- Thời đại Nguyễn Du sống là giai đoạn lịch sử đầy biến động nên cuộc
đời ông cũng trải qua nhiều thăng trầm. b. Tác phẩm:
- “Đọc Tiểu Thanh kí” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của thơ văn Nguyễn Du.
- Tác phẩm là tiếng nói đồng cảm với thân phận người phụ nữ bất hạnh trong xã hội phong kiến.
- Bố cục: Đề - thực - luận - kết. 2. Phân tích:
Tìm hiểu khái quát về cuộc đời nàng Tiểu Thanh
- Tiểu Thanh là người con gái có thật, sống ở tỉnh Giang Tô, Trung Quốc.
- Tuy có tài sắc vẹn toàn nhưng phải chịu số phận làm lẽ cô đơn, bất hạnh,
- Trước khi lâm bệnh mất vì buồn rầu năm 18 tuổi, nàng có để lại một
tập thơ sau bị vợ cả đốt, hiện chỉ còn sót lại một số bài được tập hợp trong "phần dư".
=> Tiểu Thanh là người con gái tài sắc, bạc mệnh. Phân tích tác phẩm: a. Hai câu đề:
"Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư"
- “Tây Hồ hoa uyển” - “thành khư” Hình ảnh thơ đối lập giữa quá khứ và hiện tại.
- “tẫn”: đến cùng, triệt để, hết.
=> Nguyễn Du mượn sự thay đổi của cảnh sắc để nói lên được sự thay
đổi của cuộc sống: Hồ Tây là một cảnh đẹp xưa kia thì giờ đây trở thành một bãi gò hoang.
=> Đau xót, ngậm ngùi cho vẻ đẹp chỉ còn trong dĩ vãng.
"Độc điếu song tiền nhất chỉ thư"
- "độc điếu": một mình viếng - "thổn thức": trạng thái thương xót, đồng cảm.
- "nhất chỉ thư": một tập sách - "mảnh giấy tàn": bài viếng nàng Tiểu Thanh của Nguyễn Du.
=> Một mình nhà thơ ngậm ngùi đọc một tập sách (di cảo của Tiểu Thanh).
=> Nhấn mạnh sự cô đơn lắng sâu trầm tư, sự xót thương với người xưa. b. Hai câu thực:
"Chi phấn hữu thần liên tử hậu"
- "Chi phấn": Vật trang điểm, tượng trưng cho vẻ đẹp, sắc đẹp của người phụ nữ.
- “liên tử hậu”: Sự ghen ghét, đố kị của người đời dành cho nàng.
"Văn chương vô mệnh lụy phần dư"
- "Văn chương vô mệnh": Tài năng văn chương không có tội tình gì.
- “lụy phần dư”: Sự vùi dập phũ phàng mà nàng Tiểu Thanh phải hứng
chịu, kể cả chết rồi cũng không tha.
=> Gợi lại cuộc đời và số phận bi thương của Tiểu Thanh, ca ngợi,
khẳng định tài sắc của Tiểu Thanh đồng thời xót xa cho số phận bi thảm
của nàng - cái nhìn nhân đạo mới mẻ, tiến bộ. c. Hai câu luận:
"Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư"
- “Cổ kim hận sự”: Mối hận xưa và nay, mối hận muôn đời của những
người tài hoa mà bạc mệnh.
- "Thiên nan vấn": Khó mà hỏi trời được.
- "Kỳ oan": nỗi oan lạ lùng
- "Ngã": ta (chỉ bản thể cá nhân)
=> Câu thơ cho thấy nỗi oan khiên lạ lùng vì nết phong nhã và số phận
cay đắng của những con người tài hoa trong xã hội xưa. d. Hai câu kết:
"Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hà hà nhân khấp Tố Như"
- "Tam bách dư niên": Con số mang tính ước lệ, ý chỉ thời gian dài.
- "Tố Như": Tên chữ của Nguyễn Du
Tiếng khóc cho nàng Tiểu Thanh nay đã có tác giả thấu hiểu và giải oan
cho nàng, ông băn khoăn không biết hậu thế ai sẽ khóc ông.
=> Ý thơ chuyển đột ngột từ “thương người” sang “thương mình” với
khát vọng tìm được sự đồng cảm nơi hậu thế.
- Câu hỏi tu từ “Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”: Sự cô độc của chính
tác giả trong hiện tại và mong muốn tìm được tấm lòng tri kỉ giữa cuộc đời.
=> Tấm lòng nhân đạo mênh mông vượt qua mọi không gian và thời gian. 3. Tổng kết: - Nội dung:
+ Thể hiện niềm thương cảm của Nguyễn Du trước số phận bất hạnh của
những con người tfai hoa bạc mệnh.
+ Thể hiện sự trân trọng của nhà thơ trước tài năng, vẻ đẹp của con người.
+ Lên án, tố cáo xã hội phong kiến.
- Đặc sắc nghệ thuật:
+ Thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, + Nghệ thuật đối + Câu hỏi tu từ
+ Hình ảnh giàu tính ẩn dụ tượng trưng. III. Kết bài
II. Văn mẫu Phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật “Đọc Tiểu Thanh kí”
1. Phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật Đọc Tiểu Thanh kí mẫu 1
Xuyên suốt chiều dài của văn học trung đại Việt Nam, người phụ nữ đã
xuất hiện rất nhiều dưới những ngòi bút khác nhau. Đó là hình ảnh
người phụ nữ được ví von như một chiếc bánh trôi nước dưới góc nhìn
của Hồ Xuân Hương, là nàng Kiều tài sắc vẹn toàn dưới những dòng thơ
“thần” của Nguyễn Du. Và lại một lần nữa, bằng ngòi bút mang cái
“hồn” ấy, Nguyễn Du đã “khai sinh” ra một đứa con tinh thần mới khiến
trái tim người đọc muôn đời không khỏi tiếc thương khi nhớ về số phận
bất hạnh của người phụ nữ xã hội cũ qua tác phẩm “Độc tiểu thanh ký”.
Cuộc đời Nguyễn Du đã trảo qua rất nhiều thăng trầm, từ cuộc sống quý
tộc xa hoa cho đến nông thôn nghèo khó. Và chính sự phiêu bạt khắp
nhân gian ấy đã giúp Nguyễn Du có một vốn sống phong phú, trở thành
nguồn tư liệu và cảm hứng để ông sáng tác cả một kho tàng văn chương
bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm.
Nguyễn Du viết bài thơ “Độc tiểu thanh kí” trước khi đi sứ ở Trung
Quốc. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật và
được chia thành bốn phần theo bố cục đề - thực - luận - kết hoặc hai
phần đăng đối. Bốn câu đầu là khóc người, thương người, là lệ dành cho
Tiểu Thanh, còn bốn câu sau Nguyễn Du trở về niềm tự thương, là lệ dành cho chính mình.
Tiểu Thanh là người tỉnh Giang Tô, Trung Quốc. Từ nhỏ, nàng đã am
hiểu các cầm kỳ thi họa, lại có nhan sắc hơn người. Năm mười sáu tuổi,
nàng được gả làm vợ lẽ cho một nhà quyền quý. Người vợ cả cay nghiệt,
bắt ra ở Cô Sơn cạnh Tây Hồ. Vì cô đơn, buồn đau nên cô gái ấy lìa đời
ở tuổi mười tám. Khi nàng chết, vợ cả còn tìm đến đốt cả chân dung và
những bài thơ của nàng. Cuộc đời và số phận của Tiểu Thanh đã đánh
thức tình thương, sự đồng cảm của Nguyễn Du để viết nên áng thơ này.
Mở đầu bài thơ là khung cảnh hoang tàn, hiu hắt của một vườn hoa,
khiến lòng người như thắt lại:
“Tây hồ hoa uyển tẫn thành khư”
Tây Hồ là một cảnh đẹp và cũng là nơi Tiểu Thanh bị người vợ cả ép
sống. Khung cảnh nên thơ của vườn hóa ấy giờ đã trở thành gò hoang.
TS Lã Nhâm Thìn đã nhận định: “Nguyễn Du đến với Tiểu Thanh trong
một hoàn cảnh có phần giống Kiều đến với Đạm Tiên. Nấm mồ Đạm
Tiên “Sè sè nấm đất bên đường” gợi lên ở Kiều bao nỗi thương tâm. Cái
gò hoang nơi chôn Tiểu Thanh gợi lên ở Nguyễn Du bao điều thổn
thức”. Ở đây, tác giả đã sử dụng hình ảnh thơ đối lập giữa quá khứ và
hiện tại. Quá khứ là “Tây Hồ hoa uyển” lộng lẫy còn hiện tại là “thành
khư” lạnh lẽo. Cùng với đó, động từ “tẫn” đã thể hiện sự triệt tiêu, tan
biến đến cùng của sự vật. Tất cả mọi thứ đã đổi thay, không còn là vườn
hoa như thơ, như mộng nữa.
Trước tình cảnh ấy, Nguyễn Du chỉ biết tưởng nhớ người cũ cảnh xưa
bằng cách đọc bài thơ cũ còn sót lại:
“Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”
“Tiểu Thanh kí” chính là nơi nàng tái hiện lại nỗi xót xa của đời mình.
Nguyễn Du như đang xem lại thước phim cuộc đời nàng và khóc thương
cho thân phận đáng thương ấy. “Nhất chỉ thư” ấy vừa là chứng tích của
một thời biến động, vừa là chứng tích của một bi kịch đau khổ. Từ
“Độc” đặt đầu câu thơ thứ hai như mở ra một biển lớn tâm trạng. Ta đã
từng gặp gỡ từ “Độc” rất nhiều trong Đường thi. “Độc” cũng có nghĩa là
đọc, nhưng cũng có thể chỉ sự cô độc. Hai từ “độc” và “nhất” đã trở
thành một điểm sáng nghệ thuật dưới ngòi bút Nguyễn Du. Giữa dòng
đời mênh mang, một con người cô độc đã lỡ va vào một hồn thơ đau đáu
để rồi niềm xúc động trào lên càng da diết!
Càng đọc, Nguyễn Du lại càng thổn thức. Số phận Tiểu Thanh càng
được hé lộ, nhà thơ lại càng thấy đau đáu thay cho nàng:
“Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư”
Lời thơ bàn về cái oan, cái hận của cuộc đời Tiểu Thanh. Một cô gái đẹp
có tài mà lại phải chết trẻ, văn chương bị đốt dở dang. “Chi phấn” là
phấn son, tượng trưng cho sắc đẹp của người con gái. Còn “văn chương”
lại tượng trưng cho tài năng, trí tuệ của con người. Việc sử dụng từ hoán
dụ như vậy đã gợi tả người con gái vừa có tài, vừa có sắc, hoàn hảo, rất
đáng trân trọng. “Chôn” và “đốt” là hai động từ chỉ sự ganh ghét, vùi
dập phũ phàng. Đó chính là sự chôn vùi số phận mà cô vợ cả dành cho
nàng Tiểu Thanh. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng các từ ngữ diễn tả
cảm xúc như “hận”, “vương” để thể hiện sự phẫn nộ, day dứt và sự nuối
tiếc của mình. Đó là sự tiếc nuối, xót xa cho tài năng và dung mạo của
người thiếu nữ hồng nhan bạc mệnh. Tiểu Thanh chính là một bức tranh
khắc họa đầy đủ sự độc địa của xã hội phong kiến khi xưa. Ở đó, họ
không chấp nhận những con người tài sắc vẹn toàn như nàng, chỉ chực
chờ tìm cách vùi dập, đè nén họ đến đường cùng của sự uất ức.
Nhà mỹ học Hume đã từng nói rằng: “Cái đẹp không phải là phẩm chất
tồn tại trong bản thân sự vật, nó tồn tại chủ yếu trong tâm linh người
quan sát nó”.Thật đúng vậy khi cái đẹp được xem như một “sợi dây
thần” dẫn dắt người nghệ sĩ hòa mình vào một nhân vật, một cuộc đời.
Vì thế, từ bốn câu thơ đầu, giọt nước mắt của Nguyễn Du rỏ xuống cho
Tiểu Thanh thì bốn câu sau giọt lệ ấy như chảy ngược vào tâm can của ông:
“Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kỳ oan ngã tự cư”
“Cổ kim hận sự” là nỗi hờn, nỗi oan xưa nay chưa thể gột rửa, nỗi hận
muôn đời của kiếp người tài hoa bạc mệnh. Cái hận ấy triền miên, theo
đuổi không thôi. Câu thơ đã khái quát chung sự hòa hợp giữa thi nhân và
kiếp người. Đó không chỉ là nỗi hận của riêng Tiểu Thanh mà là nỗi hận
của tất cả những người tài hoa bị xã hội phong kiến vùi dập tàn nhẫn.
Cái hận ấy tự dằn vặt trong mình, không hỏi trời được “thiên nan vấn”.
Hỏi trời ấy mà trời cao đâu có thấu. Ba chữ “thiên nan vấn” vang lên đầy
xót xa, day dứt và tận cùng là bất lực. Đó là lời chất vấn, phê phán
những điều phi lý. Từ “ngã” ở đây chính là chỉ bản thể cá nhân Nguyễn
Du. Ông không đứng bên ngoài đau xót nữa mà ông chủ động tìm sự tri
âm để kết nối với nàng, với kiếp người tài hoa bạc mệnh cõi trần gian
đang kêu cứu cho số phận.
Cái “hồn” của Nguyễn Du và linh hồn Tiểu Thanh như cùng lên tiếng
cho biết bao số phận, ông kết thúc bài thơ như một lời di chúc, một câu
hỏi ẩn ý dành cho cõi trần:
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”
Khóc cho nàng Tiểu Thanh ba trăm năm trước bằng những giọt nước
mắt chân thành, dòng suy tư đẩy nhà thơ tới ba trăm năm sau với đầy
nghi vấn. “Bất tri” là không biết, hai tiếng vang lên như một niềm tự
thương, tự đau lẻ loi. Ở đây, ta có thể nhận thấy Nguyễn Du không hỏi
quá khứ hay hiện tại mà hỏi tương lai. Nếu ở hai câu thực câu hỏi vang
lên tận trời xanh thì đến đây nhà thơ không hỏi trời mà hỏi đời, hỏi
người. Đó là nỗi trăn trở sâu sắc, là khát vọng tri âm giữa cuộc đời. Nó
cũng như một lời tố cáo những điều phi lý và bất công của cuộc đối với kiếp người tài hoa.
Nhà thơ bộc bạch với trần gian bằng cái tên “Tố Như”. Tố Như là tên tự
của Nguyễn Du. “Khấp” là khóc, là tận cùng của nỗi đau đớn. Câu thơ
cũng là tâm trạng u uất của nhà thơ trước cuộc đời. Vậy khóc cho ai? Đó
là những giọt nước mắt dành cho Nguyễn Du với bao kiếp người tài hoa
như ông. Với Tiểu Thanh, ba trăm năm sau đã có một Nguyễn Du “thổn
thức bên song” với “mảnh giấy tàn”. Còn Nguyễn Du liệu có ai khóc, ai
đau cho phận đời trôi nổi? Không phải đợi đến ba trăm năm sau, ánh
sáng của thời đại mới đã mãi mãi vinh danh và lưu truyền tên tuổi
Nguyễn Du trong lòng dân tộc, hai tiếng Tố Như vang lên sáng ngời
niềm tự hào dân tộc Việt Nam.
Bài thơ “Đọc tiểu thanh ký” đã thể hiện lòng thương cảm của Nguyễn
Du trước số phận những người tài hoa bạc mệnh trong xã hội phong
kiến, từ đó làm sáng ngời chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc trong sáng tác của
Nguyễn Du. “Độc Tiểu Thanh kí” mãi là bài thơ hay bởi vì đó là tiếng
khóc cho người, cho ta. Viết về những nàng Kiều, nàng Tiểu Thanh với
"Nỗi hờn kim cổ" của họ, Nguyễn Du đã thực sự tạo ra những “Tiếng
khóc vĩ đại” của thời đại!
2. Phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật Đọc Tiểu Thanh kí mẫu 2
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc là danh nhân văn hóa thế giới, là nhà
thơ tiêu biểu trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Ông để lại cho đời
số lượng lớn bài thơ trong đó có những sáng tác đạt đến trình độ cổ điển
và mẫu mực, Trong đó phải kể đến bài thơ " Độc tiểu thanh kí", bài thơ
được khơi nguồn từ hình ảnh người con gái tài hoa bạc mệnh.
Tương truyền Tiểu Thanh là một cô gái Trung Quốc có tài và có sắc,
sống khoảng đầu thời Minh. Cô được biết đến là người con gái thông
mình, nhiều tài nghệ thuật như thi ca, âm nhạc. 16 tuổi cô về làm vợ lẽ
cho một nhà quyền quý. Vì vợ cả hay ghen bắt cô phải sống một mình
trên Cô Sơn, cạnh Tây Hồ. Sống trong sự cô đơn, buồn tủi, Tiêu Thanh
sinh bệnh và từ giã cuộc đời ở năm 18 tuổi. Vì quá thương thay cho thân
phận người con gái tài hoa bạc mệnh nên Nguyễn Du đã viết nên bài thơ
này. Mở đầu bài thơ với hai câu đề đã như tiếng trút lòng của Tiểu Thanh
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
(Tây hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn)
Câu thơ không nhằm mục đích miêu tả cảnh đẹp Tây Hồ mà ngụ ý tác
giả chỉ là mượn không gian để nói lên suy nghĩ, cảm nhận về sự biến đổi
trong cuộc sống. Tây Hồ vốn được biết đến là cảnh đẹp có tiếng nhưng
với cuộc đời của nàng Tiểu Thanh thì cảnh đẹp nơi ấy "hóa gò hoang".
Người nằm dưới lòng "gò hoang" kia là nàng Tiểu Thanh bạc mệnh chỉ
để lại trên trần thế "mảnh giấy tàn" là phần di sản của Tiểu Thanh.
Trong không gian điêu tàn ấy, con người xuất hiện với dáng vẻ cô đơn
qua từ ngữ "độc điếu". Hai hình ảnh "gò hoang" và "mảnh giấy tàn" đã
làm cho nhà thơ cảm giác "thổn thức bên song". Hai câu đầu chỉ là lời
giới thiệu thì sang hai cậu thực nhà thơ đã làm sáng tỏ hơn cảm giác
buồn thương ngậm ngùi trong hai câu đề
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
(Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương)
Mượn hình ảnh "son phấn" và " văn chương" ngụ ý nhắc đến nàng Tiểu
Thanh. Cả cuộc đời nàng chỉ biết làm bạn với son phấn và văn chương
để vơi đi những buồn tủi, bất hạnh. Nhà thơ dùng từ "son phấn" để ẩn dụ
khi nói về nhan sắc của nàng Tiểu Thanh nhưng cái đẹp ấy lại bị vùi dập không thương tiếc.
Dù đã chết "chôn" nhưng linh hồn nàng vẫn chưa siêu thoát vẫn ôm một
nỗi "hận" trần thế. "Hận" vì sự ghen tuông vô lý của bà vợ cả đã đẩy
nàng vào cái chết khi tuổi vừa mới 18 đôi mươi, hận vì những trang văn
vốn chẳng có tội tình gì cũng bị đốt cháy nhưng như còn chút nuối tiếc "
còn vương" nên vẫn còn lại một số bài. Từ số phận của nàng Tiểu
Thanh, Nguyễn Du đã khái quát thành cái nhìn về con người trong xã
hội phong kiến trong hai câu luận tiếp theo:
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang)
Dường như nỗi oan ức của Tiểu Thanh không phải chỉ của riêng mỗi
nàng mà là cái án, cái kết thúc chung của những con người "tài hoa bạc
mệnh" có từ thời "cổ" chí "kim". Nhà thơ dùng từ "hận sự" như muốn
nhắc đến một mối hận suốt đời nhắm mắt cũng không thể quên. Có tài,
có sắc nhưng lại không thể an yên, vui vẻ với kiếp người. Khi đọc những
vần thơ trên người đọc còn sẽ liên tưởng đến hình ảnh nàng Kiều của
Nguyễn Du. Đó cũng là một số phận sinh ra trong xã hội phong kiến tài
sắc chẳng kém ai vậy mà cuộc đời nàng lênh đênh, bạc mệnh quá. Nhà
thơ Nguyễn Du đã từng viết 2 câu thơ ngậm ngùi, xót xa:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Những oan khuất của nghìn đời ấy chỉ có trời mới hiểu "trời khôn hỏi"
nhưng dẫu có biết thì cũng không thể làm gì được. Đó như một cái án
của nhiều nạn nhân, nhiều con người trong cái xã hội lúc bấy giờ phải
"tự mang". Hai câu thơ khóc thương người nhưng dường như cũng để
thương mình của Nguyễn Du đã thể hiện được tầm vóc lớn lao của chủ
nghĩa nhân đạo và cách nhìn sâu sắc của ông. Khép lại bài thơ với hai
câu kết là những dòng suy tư, cảm nghĩ của chính nhà thơ về thời thế, thời cuộc:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng)
Khóc cho Tiểu Thanh của ba trăm năm trước bằng sự đồng điệu về suy
nghĩ, thấu hiểu về cảm xúc nhưng nhà thơ đã tự vấn, hoài nghi và đặt
câu hỏi cho chính mình. Một câu hỏi chứa đựng nhiều xót xa, nếu như
ba trăm năm sau những vần thơ của Tiểu Thanh vẫn còn có Nguyễn Du
thương cảm nhưng liệu ba trăm năm sau có còn "ai khóc Tố Như chăng".
Người đời khi ấy liệu có nhớ hay đã quên đến ông, câu hỏi như xoáy sâu
vào suy nghĩ của người đọc. Câu thơ như bộc lộ nỗi bi phẫn của nhà thơ
trước thời cuộc để rồi khóc thương người, nhà thơ tự khóc thương chính mình.
Nhưng đến ngày hôm nay, ai trong chúng ta đều biết đến, đều ghi nhớ
đến Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc, một tượng đài bất từ của
nền văn học Việt Nam bởi những tác phẩm đồ sộ mang giá trị cao đã và
đang được lưu truyền cho các thế hệ sau.
“Độc tiểu thanh ký” là một bài thơ để lại những thương cảm trong lòng
người đọc về số phận bất hạnh của những con người tài hoa nhưng bạc
mệnh. Đồng thời qua đây, tác giả cũng đã phản ánh thực trạng xã hội
phong kiến tàn ác đã đẩy con người vào những bước đường cùng, chà
đạp lên nhân phẩm và lãng quên những giá trị mà họ đã để lại cho đời.
3. Phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật Đọc Tiểu Thanh kí mẫu 3
Nguyễn Du được xem là một thiên tài văn học, một nhà nhân đạo chủ
nghĩa lớn của dân tộc. Ông được mệnh danh là đại thi hào của văn học
Việt Nam. Trong suốt cuộc đời sáng tác của mình, ông đã để lại vô vàn
những tác phẩm có giá trị ở cả chữ Hán và chữ Nôm. Tác phẩm của ông
luôn chan chứa tình yêu thương con người, trân trọng những điều tốt đẹp bên trong con người.
“Độc Tiểu Thanh kí” là một trong số những sáng tác bằng chữ Hán tiêu
biểu của Nguyễn Du. Độc Tiểu Thanh kí phân tích Nó đã thể hiện được
những cảm xúc, suy tư của tác giả về số phận bất hạnh của người phụ nữ
xã hội cũ. Đồng thời qua tác phẩm, chúng ta có thể cảm nhận sâu sắc và
trân trọng tấm lòng nhân đạo, yêu thương con người của ông.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã khắc hoạ nên hoàn cảnh, bối cảnh sác tác:
“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.”
Ở đây, tác giả đã sử dụng hình ảnh thơ đối lập giữa quá khứ và hiện tại:
“Tây Hồ hoa uyển” (vườn hoa bên Tây Hồ) với “thành khư” (gò hoang).
Cùng với đó, động từ “tẫn” nhằm thể hiện sự triệt để đến cùng của sự
vật. Từ đó, câu thơ đã gợi ra một nghịch cảnh giữa quá khứ và hiện tại:
Vườn hoa bên Tây Hồ xưa kia nay đã thành bãi đất hoang, không có sự
sống. Vì vậy lời thơ khơi gợi sự xót xa của nhà thơ trước sự đổi thay, sự
tàn phá của thời gian đối với cái đẹp.
Tác giả cũng rất tài tình khi sử dụng các từ chỉ sự đơn độc: “độc điếu”
(một mình viếng) và “nhất chỉ thư” (một tập sách). Với hai hình ảnh đó,
tác giả như muốn nhấn mạnh sự cô đơn tột cùng của con người. Đồng
thời cũng nhấn mạnh cả sự tương xứng trong cuộc gặp gỡ này. Đó là
cuộc gặp gỡ của một người mang trạng thái cô đơn với một kiếp bất hạnh, đơn độc.
Độc Tiểu Thanh kí phân tích Chỉ với hai câu thơ, tâm trạng của tác giả
đã được thể hiện một cách rõ ràng. Tác giả đã ngỡ ngàng trước cảnh
tượng thiên nhiên hoang vắng, tàn tạ và cũng vô cùng xót xa, tiếc nuối
cho số phận éo le của nàng Tiểu Thanh.
Tiếp theo, tác giả miêu tả rõ nét số phận của nàng Tiểu Thanh thông qua hai câu thơ tả thực:
“Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.”
Đến đây, tác giả đã sử dụng nghệ thuật hoán dụ rất tài tình. Hình ảnh
“chi phấn” là tượng tượng trưng cho vẻ đẹp, sắc đẹp của người phụ nữ.
Còn “văn chương” lại tượng trưng cho tài năng, trí tuệ của con người.
Việc sử dụng từ hoán dụ như vậy đã gợi tả người con gái vừa có tài, vừa
có sắc, hoàn hảo, rất đáng trân trọng.
Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng các từ ngữ diễn tả cảm xúc như “hận”,
“vương” để thể hiện tình cảm của mình. Đó là sự tiếc nuối, xót xa cho
tài năng và dung mạo của người thiếu nữ bạc mệnh. Các từ “chôn”,
“đốt” đều là những động từ cụ thể hóa sự ghen ghét, sự vùi dập vô cùng
phũ phàng của người vợ cả đối với nàng Tiểu Thanh. Đây cũng là điển
hình cho thái độ của xã hội phong kiến khi xưa. Ở đó, họ không chấp
nhận những con người tài sắc vẹn toàn như nàng, chỉ chực tìm cách vùi
dập, đè nén những số phận bất hạnh ấy.
Thông qua lời thơ, Nguyễn Du cũng bộc lộ triết lí của mình về số phận
con người trong xã hội phong kiến. Với ông, họ là những người tài hoa
nhưng bạc mệnh, “tài mệnh tương đố”, “hồng nhan đa truân”. Và khi có
tài, có sắc, họ sẽ bị vùi dập không thương tiếc:
“Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần (Truyện Kiều)
Qua hai câu thơ, Nguyễn Du đã cực tả nỗi đau về số phận bất hạnh của
nàng Tiểu Thanh tài sắc. Đồng thời cũng bộc lộ tấm lòng ca ngợi, trân
trọng nhan sắc và đề cao tài năng, trí tuệ của nàng Tiểu Thanh. Không
những thế, nó còn có sức tố cáo mạnh mẽ đối với xã hội phong kiến bấy
giờ khi vùi kiếp người xuống dưới bùn đen.
Tiếp đó, tác giả suy ngẫm rộng ra về số phận con người, với cuộc đời:
“Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kỳ oan ngã tự cư.”
Cụm từ “cổ kim hận sự” nhằm diễn tả mối hận xưa và nay. Đó không
chỉ là mối hận nhất thời mà là mối hận muôn đời, mối hận truyền kiếp.
Và cũng chính là mối hận của những người tài hoa mà bạc mệnh đối với
cuộc đời đầy rẫy những bất công. Nỗi hận ấy thật sự là “thiên nan vấn”,
khó mà có thể hỏi trời được. Câu thơ này đã mang tính khái quát cao,
biểu trưng cho cả xã hội. Nỗi hận kia không phải là nỗi hận của riêng
nàng Tiểu Thanh hay của tác giả Nguyễn Du mà còn là của tất cả những
con người tài hoa trong xã hội phong kiến cũ. Câu thơ đã thể hiện rõ nét
sự đau đớn và phẫn uất cao độ trước một thực tế vô lí của cuộc đời. Đó
là người có nhan sắc thì bất hạnh, nghệ sĩ có tài năng lại thường cô độc.
Nỗi trái ngang ấy, không biết phải làm sao được.
Nhấn mạnh thêm nỗi đau đớn của số phận Tiểu Thanh, tã giả sử dụng từ
“kì oan”, là nỗi oan lạ lùng, hiếm gặp. Kết hợp với đó, từ “ngã” nhẳm
chỉ bản thể cá nhân. Đây là cái khẳng định mình đầy táo bạo so với thời
đại Nguyễn Du đang sống. Tác giả đã không đứng bên ngoài mà nhìn
vào nữa, mà giờ đây ông trở nên chủ động, tự mình đi tìm sự tri âm với
nàng, với những người tài hoa nhưng bạc mệnh. Qua đó, ta thấy được
tấm lòng trân trọng cái đẹp của nhà thơ. Ông không chỉ xót thương riêng
cho nàng Tiểu Thanh mà còn bàn ra tới nỗi hận của muôn người, muôn
đời. Và trong đó có chính bản thân nhà thơ. Qua đó, thể hiện sự cảm
thông của nhà thơ đối với nhân vật đã đến độ “tri âm tri kỉ”, thấu hiểu và tìm được điểm chung.
Sau cùng, tác giả sử dụng hai câu kết để khóc cho người, khó cho mình ở tương lai:
“Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”
Đến đây, Nguyễn Du đã sử dụng câu hỏi tu từ một cách độc đáo.
Nguyễn Du khóc nàng Tiểu Thanh, đồng thời cũng băn khoăn và khóc
thương cho chính mình. Ông băn khoăn, trăn trở rồi hậu thế ai sẽ khóc
thương ông, liệu có ai đồng cảm với ông hay không? Điều này đã thể
hiện nỗi cô đơn của nghệ sĩ lớn “Tiếng chim cô lẻ giữa trời thu khuya”
(Xuân Diệu). Ông cảm thấy mình lạc lõng vô cùng ở hiện tại và đã tìm
thấy được một người làm tri âm, tri kỉ ở quá khứ. Thế nhưng bản thân
vẫn ước mong, mong ngóng một tấm lòng thấu hiểu mình trong tương
lai, như mình đã tìm đến và thấu hiểu nàng Tiểu Thanh Vậy. Điều này
đã cho thấy vượt qua mọi không gian, thời gian, trái tim yêu thương và
tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Nguyên du vẫn còn tồn tại mãi.
Khép lại bài thơ Độc Tiểu Thanh kí, ta vẫn không khỏi xót xa cho nàng
Tiểu Thanh tài giỏi nhưng bạc mệnh. Đồng thời thấy tấm lòng yêu
thương, vị tha, thấu cảm của Nguyễn Du với những con người bất hạnh trong xã hội cũ.