Phân tích diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở chọn lọc hay nhất | Ngữ văn 11

Nhà văn Nam Cao tên khai sinh là Trần Hữu Tri, sinh năm 1915, mất năm 1951, quê ở Lý Nhân, Hà Nam. Ông là một trong những cây bút tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán trước 1945, và là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của thế kỉ XX. Nam Cao có đóng góp lớn cho văn học nước nhà, Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Chủ đề:

Văn mẫu 11 295 tài liệu

Môn:

Ngữ Văn 11 1.1 K tài liệu

Thông tin:
4 trang 3 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phân tích diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở chọn lọc hay nhất | Ngữ văn 11

Nhà văn Nam Cao tên khai sinh là Trần Hữu Tri, sinh năm 1915, mất năm 1951, quê ở Lý Nhân, Hà Nam. Ông là một trong những cây bút tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán trước 1945, và là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của thế kỉ XX. Nam Cao có đóng góp lớn cho văn học nước nhà, Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

14 7 lượt tải Tải xuống
Phân ch diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở chọn lọc hay nhất
Chí Phèo là một trong những tác phẩm êu biểu của nhà văn Nam Cao. Trong đó, phân đoạn diễn biến
tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở là một trong những phân đoạn đặc sắc. Hãy cung Luật Minh
Khuê phân ch phân đoạn ấy trong bài viết dưới đây.
Mục lục bài viết
1. Tiểu sử nhà văn Nam Cao và truyện ngắn Chí Phèo
Nhà văn Nam Cao tên khai sinh là Trần Hữu Tri, sinh năm 1915, mất năm 1951, quê ở Lý Nhân,
Nam. Ông là một trong những cây bút êu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán trước 1945, và
là một trong những nhà văn êu biểu nhất của thế kỉ XX. Nam Cao có đóng góp lớn cho văn học nước
nhà, góp phần quan trọng trong việc hoàn thiện phong cách viết truyện ngắn và ểu thuyết Vit
Nam nửa đầu thế kỉ XX.
Nam Cao sinh ra trong một gia đình Công giáo bậc trung. Ông từng làm nhiều nghề đkiếm sống và
với vốn sống phong phú ấy, ông đã cho ra đời nhiều tác phẩm mang giá trị nhân văn sâu sắc. Đối với
Nam Cao, "nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có
thchỉ là ếng đau khổ kia, thoát ra tnhững kiếp lầm than". Ông quan niệm nghệ thuật xuất phát từ
đời sống, không nên xa rời thực tế. Nghệ thuật lấy chất liệu từ cuộc đời và mục đích của nó là phục vụ
cuộc đời. Mỗi một nhà văn trước khi muốn thể hiện cuộc sống trên trang giấy thì cần phải nhìn vào
cuộc sống của nhân dân, phải lên án những thói hư tật xấu, sự bất công trong xã hội, phải đồng cảm
với nhân dân; phải sống đã rồi mới viết. Nghệ thuật phục vụ đời sống, phục vụ con người mới là nghệ
thuật chân chính - "nghệ thuật vị nhân sinh".
Một số tác phẩm êu biểu của Nam Cao có thể kể đến: "Lão Hạc", "Đời thừa", "Giăng sáng", "Đôi
mắt", ểu thuyết "Sống mòn",... Trong đó, êu biểu nổi ếng nhất, gắn liền với tên tuổi Nam Cao
phải kể dến truyện ngắn "Chí Phèo".
Truyện ngắn "Chí Phèo", ban đầu có tên là "Cái lò gạch cũ", xuất bản lần đầu năm 1941. Sau đó, nhà
xuất bản Đời Mới đã tự ý đổi tên thành "Đôi lứa xứng đôi". Sau cùng khi tác phẩm được in lại trong
tập Luống Cày do Hội Văn Hóa Cứu Quốc xuất bản m 1946, Nam Cao đặt lại tên là "Chí Phèo".
Truyện ngắn là bức tranh độc đáo về xã hội phong kiến tàn bạo, nơi lũ cường hào ác bá bóc lột người
nông dân, dồn họ vào bế tắc, bị bần cùng hóa, lưu manh hóa và sau cùng tha hóa. Tác phẩm đã vạch
trn hiện thực xã hội vùng nông thôn trước năm 1945, cho người đọc thấy tấn bị kịch đau đớn của
người nông dân khi sinh ra là người nhưng không được làm người, đồng thời nhấn mạnh hình ảnh và
bản chất tốt đẹp, khao khát sống lương thiện của người nông dân ngay cả khi họ bị xã hội dồn đến
ớc đường cùng. Về mặt nghệ thuật, "Chí Phèo" gây ấn tượng mạnh với nghệ thuật điển hình hóa
nhân vật, nghệ thuật miêu tả tâm lý tài nh, kết cấu trần thuật mới mẻ, linh hoạt, cốt truyện giàu kịch
nh và ngôn ngữ sinh động. Có thể nói rằng, "Chí Phèo" là lời kết tội đanh thép với xã hội thực dân,
phong kiến tàn bạo, đồng thời là một trong những tác phẩm làm nên tên tuổi nhà văn Nam Cao.
2. Phân ch diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở
Trong vườn văn học hiện thực phê phán Việt Nam trước 1945, Nam Cao là đóa hoa nở mun. Trước
Nam Cao, ta đã có những Ngô Tất T, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng,... Tuy là cây bút đến sau, nhưng
Nam Cao vẫn kịp có cho mình những tác phẩm xuất sắc, phản ánh rõ hiện thực xã hội đương thời, lên
án, vạch trần những cái xấu xa, những cái lầm than trong những kiếp người. Tiêu biểu có thể kể đến
truyện ngắn "Chí Phèo" - tác phẩm làm nên tên tuổi nhà văn. Tác phẩm viết về bi kịch của người nông
dân Việt Nam và đánh dấu một bước phát triển đáng kể của văn xuôi Việt Nam. Trong đó, chi ết để
lại ấn tượng sâu đậm nhất trong lòng người đọc có lẽ là diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị
Nở.
Người nông dân Việt Nam với bi kịch tha hóa bước vào trang sách Nam Cao, trở thành Chí Phèo, rồi
Chí Phèo lại từ trang văn Nam Cao bước ra, phản ánh biết bao số phận lầm than ngoài đời thực. Vi
bút phápy dựng nhân vật điển hình, Nam Cao khiến cho nhân vật sống động tới nỗi chỉ cần nghe tới
tên Chí Phèo, trong đầu ta lập tức hiện ra hình ảnh anh nông dân lương thiện bị áp bức, dồn ép thành
một thằng lưu manh và sau cùng chết trong tức tưởi. Lũ chúa đất và nhà tù thực dân biến Chí từ một
chàng thanh niên mồ côi ngờ nghệch phải đi làm thuê ở đợ kiếm cái ăn thành "con quỷ dữ" của làng
Vũ Đại. Trông thấy Chí trong hình hài xăm trổ, gương mặt dọc ngang đầy sẹo trong những lần rạch mặt
ăn vạ, không ếc làm chuyện ác, ta ngỡ như Chí Phèo đã tha hóa hoàn toàn, đã biến đổi, dị dạng cả
nhân hình lẫn nhân nh, bản chất lương thiện dường như đã bị che lấp hoàn toàn. Thế rồi Nam Cao
để Thị Nở đến bên Chí, mở ra cánh cửa lương tri đã bị tội ác của lũ cường hào ác bá đóng vào bấy lâu.
Tình cảm chân thành, hành động ngờ nghệch của Thị thức tỉnh Chí, thức tỉnh con người vốn ngủ sâu
trong hình hài "con quỷ dữ". Nam Cao là thế đó. Ông không bao giờ để nhân vật của mình lặng yên
chìm trong bóng tối mà luôn vùng vẫy, đấu tranh cho những điều tốt đẹp.
Thị Nở - người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn, lại ngờ nghệch như đứa trẻ, y vy mà sống nh cảm. Bởi
vì ngờ nghệch, Thị chẳng sợ Chí như người dân làng này vốn sợ. Thị nhìn hắn với cái nhìn dành cho
con người, chứ không phải nhìn một con quỷ như người ta vẫn hay nhìn hắn. Nam Cao đã đặt vào
trong hình hài xấu xí của thị một vẻ đẹp tâm hồn sâu kín. Hình ảnh của thị với bát cháo hành nghi ngút
khói trên tay đem đến cho Chí khi hắn đang đói cào ruột bởi “trận thổ đêm qua, khi hắn đang bun
bã cô đơn nhất, đang “thèm khát người” nhất, đang đau khổ tuyệt vọng nhất… hình ảnh ấy rung động
người đọc biết bao! Đó là sự rung động của nhân tâm rất tự nhiên, rất vô tư không hề “sợ hãi” như
những người dân khác ở làng Vũ Đại mỗi khi gặp Chí và cũng không hề nh toán thiệt hơn. Thị không
biết nh toán và cũng chẳng cần nh toán. Cái nghĩa nh có ai nh toán bao giờ. Tình cảm của thị thô
mộc, nguyên sơ khiến ta cảm động quá!
Tỉnh dậy sau đêm say sưa gặp Thị Nở, điều đầu ên Nam Cao để cho Chí nhận ra ấy là thực tại của bản
thân mình. Hắn sống trong một túp lều, túp lều mà hắn đã phải đánh đổi bằng máu, bằng lương tri,
làm tay sai cho bá Kiến mà có được. Một túp lều ẩm thấp, tối tăm: “Ở đây người ta thấy chiều lúc xế
trưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng”. Đây không phải nơi ở của con người, nó là địa ngục trn
gian mà Chí đang chết dần chết mòn trong đó. Vậy mà chưa bao giờ Chí Phèo nhận thấy thế bởi Chí
Phèo chưa bao giờ hết say. Đây là lần đâu ên Chí nhận ra cái hiện thực cay đắng phũ phàng ấy. Hắn
bắt đầu cảm nhận được cuộc sống xung quanh mình và có những cảm xúc của một con người. Lần đầu
ên từ khi ra tù, Chí Phèo tỉnh rượu và có cái cảm giác “miệng đắng, lòng mơ hồ buồn. Lần đầu ên,
Chí Phèo nghe được những âm thanh quen thuộc của cuộc sống hằng ngày xung quanh hắn : “ếng
chim hót ngoài kia vui vẻ quá”, “ếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”, ếng trò chuyện của
những người đi chợ về…Những âm thanh ấy đã gợi nhớ trong hắn ước mơ giản dị từ thuở xa xưa :
có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”. Quá khứ tuy nghèo khổ ấy nay với
Chí cũng là một điều thật xa vời. Thực tại giờ đây của hắn là “già mà vẫn còn cô độc”. Điu ấy khiến
hắn buồn và lo lắng cho tương lai : đói rét, ốm đau và cô độc sẽ đày đọa hắn khi về già. Và hắn sợ nht
là cô độc. Một kẻ chbiết sống bằng giật cướp và dọa nạt, một kẻ đã làm đổ máu và nước mắt của bao
nhiêu người lương thiện, vậy mà giờ đây cũng biết sợ, mà lại sợ nhất là cô độc. Hình như, bản chất
người trong hắn đang mơ hồ tỉnh dậy.
Và khi Chí đang nhìn về tương lai đen tối kia với tâm trạng cô độc, sợ hãi, cũng may là Thị Nở đến nếu
không thì Chí khóc mất. Thị Nở ớc vào cùng với bát cháo hành, một hình tượng đẹp nhất, một chi
ết nghệ thuật đem đến nhiều mĩ cảm. Chí Phèo ngạc nhiên, hết ngạc nhiên thì mắt Chí ươn ướt. Có
lẽ vì đây là lần đầu ên Chí được một người đàn bà cho ăn, bởi vì xưa nay Chí vẫn phải “dọa nạt hay
giật cướp” của người khác thì mới có được. Bát cháo hành ấy là đại diện cho nh cảm mc mạc của
Thị Nở dành cho Chí, đánh thức trọn vẹn trong Chí lương tri và lương tâm của một con người. Bát
cháo hành chan chứa nh người, thứ nh cảm rất thật, hồn nhiên, không vụ lợi. Nó chỉ đơn giản
bởi Thị thy Chí bị “thổ một trận nhọc” mà không có người chăm sóc, bởi Thị nghĩ ốm như thế thì chỉ
có ăn cháo hành. Và rất hồn nhiên Thị nấu cháo hành mang sang.
Bát cháo hành ấy là vị thuốc giải độc cho cuộc đời Chí. Không chỉ giải cảm, bát cháo hành là nh người
duy nhất đã gợi thức phần lương tri ngủ quên trong lốt “con quỷ dữ Chí Phèo. Từ ăn năn, hối hận, Chí
bỗng thấy thèm lương thiện, thèm trở về cuộc sống ngày trước. Bát cháo hành đã dẫn đường cho hi
vọng hoàn lương: Thị Nở có thể làm hòa với hắn thì mọi người cũng có thể làm hòa với hắn. Khát
khao lương thiện bùng dậy mãnh liệt đã khiến Chí dồn hết hi vọng vào Thị Nở – về cây cầu đưa hắn về
với cuộc đời lương thiện. Bát cháo hành đã hoàn thành thiên chức gọi chất người, khơi hòn than đỏ
vùi trong lớp tro tàn đang âm ỉ, nó đưa Chí qua một cuộc lột xác để về với sự lương thiện.
Lúc này, Chí Phèo đã hoàn toàn thức tỉnh, hắn từ "con quỷ dữ" trở lại là người: "Trời ơi! Hắn thèm
lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọ người". Mà đã là người, ai chẳng mưu cầu hạnh phúc? Hắn
làm nũng với Thị Nở như đứa trẻ con làm nũng mẹ. Hắn ao ước một mái ấm gia đình, hắn thực sự
mong muốn xây dựng gia đình với Thị Nở: "Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?" Chí Phèo và Thị Nở, hai
mảnh đời bất hạnh gặp nhau rồi yêu nhau. Họ mở ra con đường giải thoát cho nhau, "làm ơn" và
"chịu ơn" lẫn nhau. Họ sống với nhau như vợ chồng. Nhưng chỉ được năm ngày. Năm ngày ấy có lẽ là
năm ngày hạnh phúc nhất cuộc đời Chí. Sau năm ngày ấy, Thị Nổ nhớ ra mình còn một người cô ở đời.
Thphải "đừng yêu để hỏi cô thị đã".
Nghiệt ngã thay! Chí đã thức tỉnh lương tri, đã trở lại là người, khao khát sống cuộc đời lương thiện,
nhưng điều y không ai biết. Bà cô Thị Nở lại càng không biết. Bà nghe cháu gái nhắc đến Chí Phèo thì
xỉa xói ngay vào mặt cháu gái rằng lấy ai không lấy lại đi lấy thằng Chí Phèo, một thằng "không cha,
suốt ngày chỉ có một việc là rạch mặt ăn vạ". Thị Nở uất lắm. Bao nhiêu uất giận y Thị trút cả vào Chí,
từ chối sự níu kéo của Chí, rồi vùng vằng bỏ về. Những lời nói và hành động của Thị Nở như cái tát vào
mặt Chí Phèo, khiến hắn nhận ra bi kịch đời mình. Hắn không còn cái cơ hội được trở lại làm con
người nữa. Người ta xem hắn là "con quỷ", hắn mãi mãi là thằng Chí Phèo gieo rắc bất hạnh lên cuộc
sống của bao nhiêu con người ở làng Vũ Đại. Người duy nhất xem hắn là người, gần gũi với hắn, cũng
quyết tuyệt từ chối hắn. Tuyệt vọng, hắn uống rượu nhưng càng uống càng tỉnh và thoang thoảng cứ
thấy “hơi cháo hành”. Lương tri và lương tâm đã thức tỉnh không cho phép hắn trở lại làm một con
qu. Hắn m say để lại sống cuộc đời khi trước, nhưng "hơi cháo hành", hay ếng gọi của nh người,
của lương tri cứ ám ảnh lấy hắn, không cho phép hắn bỏ quên con người đã thức tỉnh. Hắn đi đòi
lương thiện. Nhưng chao ôi, còn ai trả lại cho hắn được sự lương thiện ngày xưa nữa? Nhân dạng hắn
đã đánh mất từ lâu rồi: những vết sẹo trên mặt đã khiến gương mặt hắn không rõ hình hài là mặt
người hay mặt thú. Người ta ghê sợ hắn. Câu hỏi "Ai cho tao lương thiện?" vang lên trong tức tưởi,
phản ánh bước đường cùng của cuộc đời một người nông dân bị tha hóa. Sự bế tắc và bi kịch tột cùng
ấy đưa hắn đến nhà Bá Kiến, và sau cùng, đưa hắn đến cái chết đầy đau đớn.
Truyện ngắn khép lại bằng hình ảnh Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng và trong đầu thấp thoáng hiện ra
cái lò gạch cũ. Hình ảnh ấy tạo cho tác phẩm kết cấu vòng tròn, đầu cuối tương ứng đổng thời cũng gọi
ra cái vòng luẩn quẩn tối tăm của người nông dân nghèo. Hiện thực xã hội đã được phơi bày trọn vẹn
trong tác phẩm.
Thông qua diễn biến tâm lý của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở, ta thấy được khả năng xây dựng tâm lý
nhân vật tài nh của Nam Cao. Nhà văn thể hiện lòng nhân ái, lòng n vào trái m lương thiện của con
người trước hiện thực éo le.
Qua Chí Phèo, Nam Cao đã đóng góp cho dòng văn học hiện thực phê phán nói riêng và văn học Việt
Nam nói chung một ếng nói nhân đạo, một nhân vật mang nh điển hình cho người nông dân trước
Cách mạng bị bần cùng hóa, lưu manh hóa đến tha hóa nhưng luôn dám đấu tranh để chống lại bất
công. Nỗ lực không ngừng, cái tâm - cái tài của Nam Cao đã được chi nhận xứng đáng:Trong văn hóa
Việt Nam, với ngòi bút Nam Cao ta bắt đầu thấy thật có sự sống, thật có con người trong truyện ngắn”
(Nguyên Hồng).
Luật Minh Khuê vừa chia sẻ với quý bạn đọc bài viết Phân ch diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi
gặp Thị Nở chọn lọc hay nhất. Hy vọng bài viết đã cung cấp cho bạn đọc những thông n hữu ích. Luật
Minh Khuê xin trân trọng cảm ơn!
| 1/4

Preview text:

Phân tích diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở chọn lọc hay nhất
Chí Phèo là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Nam Cao. Trong đó, phân đoạn diễn biến
tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở là một trong những phân đoạn đặc sắc. Hãy cung Luật Minh
Khuê phân tích phân đoạn ấy trong bài viết dưới đây.

Mục lục bài viết
1. Tiểu sử nhà văn Nam Cao và truyện ngắn Chí Phèo
Nhà văn Nam Cao tên khai sinh là Trần Hữu Tri, sinh năm 1915, mất năm 1951, quê ở Lý Nhân, Hà
Nam. Ông là một trong những cây bút tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán trước 1945, và
là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của thế kỉ XX. Nam Cao có đóng góp lớn cho văn học nước
nhà, góp phần quan trọng trong việc hoàn thiện phong cách viết truyện ngắn và tiểu thuyết ở Việt
Nam nửa đầu thế kỉ XX.

Nam Cao sinh ra trong một gia đình Công giáo bậc trung. Ông từng làm nhiều nghề để kiếm sống và
với vốn sống phong phú ấy, ông đã cho ra đời nhiều tác phẩm mang giá trị nhân văn sâu sắc. Đối với
Nam Cao, "nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có
thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than". Ông quan niệm nghệ thuật xuất phát từ
đời sống, không nên xa rời thực tế. Nghệ thuật lấy chất liệu từ cuộc đời và mục đích của nó là phục vụ
cuộc đời. Mỗi một nhà văn trước khi muốn thể hiện cuộc sống trên trang giấy thì cần phải nhìn vào
cuộc sống của nhân dân, phải lên án những thói hư tật xấu, sự bất công trong xã hội, phải đồng cảm
với nhân dân; phải sống đã rồi mới viết. Nghệ thuật phục vụ đời sống, phục vụ con người mới là nghệ
thuật chân chính - "nghệ thuật vị nhân sinh".

Một số tác phẩm tiêu biểu của Nam Cao có thể kể đến: "Lão Hạc", "Đời thừa", "Giăng sáng", "Đôi
mắt", tiểu thuyết "Sống mòn",... Trong đó, tiêu biểu và nổi tiếng nhất, gắn liền với tên tuổi Nam Cao
phải kể dến truyện ngắn "Chí Phèo".

Truyện ngắn "Chí Phèo", ban đầu có tên là "Cái lò gạch cũ", xuất bản lần đầu năm 1941. Sau đó, nhà
xuất bản Đời Mới đã tự ý đổi tên thành "Đôi lứa xứng đôi". Sau cùng khi tác phẩm được in lại trong
tập Luống Cày do Hội Văn Hóa Cứu Quốc xuất bản năm 1946, Nam Cao đặt lại tên là "Chí Phèo".
Truyện ngắn là bức tranh độc đáo về xã hội phong kiến tàn bạo, nơi lũ cường hào ác bá bóc lột người
nông dân, dồn họ vào bế tắc, bị bần cùng hóa, lưu manh hóa và sau cùng tha hóa. Tác phẩm đã vạch
trần hiện thực xã hội ở vùng nông thôn trước năm 1945, cho người đọc thấy tấn bị kịch đau đớn của
người nông dân khi sinh ra là người nhưng không được làm người, đồng thời nhấn mạnh hình ảnh và
bản chất tốt đẹp, khao khát sống lương thiện của người nông dân ngay cả khi họ bị xã hội dồn đến
bước đường cùng. Về mặt nghệ thuật, "Chí Phèo" gây ấn tượng mạnh với nghệ thuật điển hình hóa
nhân vật, nghệ thuật miêu tả tâm lý tài tình, kết cấu trần thuật mới mẻ, linh hoạt, cốt truyện giàu kịch
tính và ngôn ngữ sinh động. Có thể nói rằng, "Chí Phèo" là lời kết tội đanh thép với xã hội thực dân,
phong kiến tàn bạo, đồng thời là một trong những tác phẩm làm nên tên tuổi nhà văn Nam Cao.

2. Phân tích diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở
Trong vườn văn học hiện thực phê phán Việt Nam trước 1945, Nam Cao là đóa hoa nở muộn. Trước
Nam Cao, ta đã có những Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng,... Tuy là cây bút đến sau, nhưng
Nam Cao vẫn kịp có cho mình những tác phẩm xuất sắc, phản ánh rõ hiện thực xã hội đương thời, lên
án, vạch trần những cái xấu xa, những cái lầm than trong những kiếp người. Tiêu biểu có thể kể đến
truyện ngắn "Chí Phèo" - tác phẩm làm nên tên tuổi nhà văn. Tác phẩm viết về bi kịch của người nông
dân Việt Nam và đánh dấu một bước phát triển đáng kể của văn xuôi Việt Nam. Trong đó, chi tiết để
lại ấn tượng sâu đậm nhất trong lòng người đọc có lẽ là diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở.

Người nông dân Việt Nam với bi kịch tha hóa bước vào trang sách Nam Cao, trở thành Chí Phèo, rồi
Chí Phèo lại từ trang văn Nam Cao bước ra, phản ánh biết bao số phận lầm than ngoài đời thực. Với
bút pháp xây dựng nhân vật điển hình, Nam Cao khiến cho nhân vật sống động tới nỗi chỉ cần nghe tới
tên Chí Phèo, trong đầu ta lập tức hiện ra hình ảnh anh nông dân lương thiện bị áp bức, dồn ép thành
một thằng lưu manh và sau cùng chết trong tức tưởi. Lũ chúa đất và nhà tù thực dân biến Chí từ một
chàng thanh niên mồ côi ngờ nghệch phải đi làm thuê ở đợ kiếm cái ăn thành "con quỷ dữ" của làng
Vũ Đại. Trông thấy Chí trong hình hài xăm trổ, gương mặt dọc ngang đầy sẹo trong những lần rạch mặt
ăn vạ, không tiếc làm chuyện ác, ta ngỡ như Chí Phèo đã tha hóa hoàn toàn, đã biến đổi, dị dạng cả
nhân hình lẫn nhân tính, bản chất lương thiện dường như đã bị che lấp hoàn toàn. Thế rồi Nam Cao
để Thị Nở đến bên Chí, mở ra cánh cửa lương tri đã bị tội ác của lũ cường hào ác bá đóng vào bấy lâu.
Tình cảm chân thành, hành động ngờ nghệch của Thị thức tỉnh Chí, thức tỉnh con người vốn ngủ sâu
trong hình hài "con quỷ dữ". Nam Cao là thế đó. Ông không bao giờ để nhân vật của mình lặng yên
chìm trong bóng tối mà luôn vùng vẫy, đấu tranh cho những điều tốt đẹp.

Thị Nở - người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn, lại ngờ nghệch như đứa trẻ, ấy vậy mà sống tình cảm. Bởi
vì ngờ nghệch, Thị chẳng sợ Chí như người dân làng này vốn sợ. Thị nhìn hắn với cái nhìn dành cho
con người, chứ không phải nhìn một con quỷ như người ta vẫn hay nhìn hắn. Nam Cao đã đặt vào
trong hình hài xấu xí của thị một vẻ đẹp tâm hồn sâu kín. Hình ảnh của thị với bát cháo hành nghi ngút
khói trên tay đem đến cho Chí khi hắn đang đói cào ruột bởi “trận thổ đêm qua”, khi hắn đang buồn
bã cô đơn nhất, đang “thèm khát người” nhất, đang đau khổ tuyệt vọng nhất… hình ảnh ấy rung động
người đọc biết bao! Đó là sự rung động của nhân tâm rất tự nhiên, rất vô tư không hề “sợ hãi” như
những người dân khác ở làng Vũ Đại mỗi khi gặp Chí và cũng không hề tính toán thiệt hơn. Thị không
biết tính toán và cũng chẳng cần tính toán. Cái nghĩa tình có ai tính toán bao giờ. Tình cảm của thị thô
mộc, nguyên sơ khiến ta cảm động quá!

Tỉnh dậy sau đêm say sưa gặp Thị Nở, điều đầu tiên Nam Cao để cho Chí nhận ra ấy là thực tại của bản
thân mình. Hắn sống trong một túp lều, túp lều mà hắn đã phải đánh đổi bằng máu, bằng lương tri,
làm tay sai cho bá Kiến mà có được. Một túp lều ẩm thấp, tối tăm: “Ở đây người ta thấy chiều lúc xế
trưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng”. Đây không phải nơi ở của con người, nó là địa ngục trần
gian mà Chí đang chết dần chết mòn trong đó. Vậy mà chưa bao giờ Chí Phèo nhận thấy thế bởi Chí
Phèo chưa bao giờ hết say. Đây là lần đâu tiên Chí nhận ra cái hiện thực cay đắng phũ phàng ấy. Hắn
bắt đầu cảm nhận được cuộc sống xung quanh mình và có những cảm xúc của một con người. Lần đầu
tiên từ khi ra tù, Chí Phèo tỉnh rượu và có cái cảm giác “miệng đắng, lòng mơ hồ buồn”. Lần đầu tiên,
Chí Phèo nghe được những âm thanh quen thuộc của cuộc sống hằng ngày xung quanh hắn : “tiếng
chim hót ngoài kia vui vẻ quá”, “tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”, tiếng trò chuyện của
những người đi chợ về…Những âm thanh ấy đã gợi nhớ trong hắn ước mơ giản dị từ thuở xa xưa :
“có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”. Quá khứ tuy nghèo khổ ấy nay với

Chí cũng là một điều thật xa vời. Thực tại giờ đây của hắn là “già mà vẫn còn cô độc”. Điều ấy khiến
hắn buồn và lo lắng cho tương lai : đói rét, ốm đau và cô độc sẽ đày đọa hắn khi về già. Và hắn sợ nhất
là cô độc. Một kẻ chỉ biết sống bằng giật cướp và dọa nạt, một kẻ đã làm đổ máu và nước mắt của bao
nhiêu người lương thiện, vậy mà giờ đây cũng biết sợ, mà lại sợ nhất là cô độc. Hình như, bản chất
người trong hắn đang mơ hồ tỉnh dậy.

Và khi Chí đang nhìn về tương lai đen tối kia với tâm trạng cô độc, sợ hãi, cũng may là Thị Nở đến nếu
không thì Chí khóc mất. Thị Nở bước vào cùng với bát cháo hành, một hình tượng đẹp nhất, một chi
tiết nghệ thuật đem đến nhiều mĩ cảm. Chí Phèo ngạc nhiên, hết ngạc nhiên thì mắt Chí ươn ướt. Có
lẽ vì đây là lần đầu tiên Chí được một người đàn bà cho ăn, bởi vì xưa nay Chí vẫn phải “dọa nạt hay
giật cướp” của người khác thì mới có được. Bát cháo hành ấy là đại diện cho tình cảm mộc mạc của
Thị Nở dành cho Chí, đánh thức trọn vẹn trong Chí lương tri và lương tâm của một con người. Bát
cháo hành chan chứa tình người, thứ tình cảm rất thật, hồn nhiên, không vụ lợi. Nó chỉ đơn giản là
bởi Thị thấy Chí bị “thổ một trận nhọc” mà không có người chăm sóc, bởi Thị nghĩ ốm như thế thì chỉ
có ăn cháo hành. Và rất hồn nhiên Thị nấu cháo hành mang sang.

Bát cháo hành ấy là vị thuốc giải độc cho cuộc đời Chí. Không chỉ giải cảm, bát cháo hành là tình người
duy nhất đã gợi thức phần lương tri ngủ quên trong lốt “con quỷ dữ Chí Phèo”. Từ ăn năn, hối hận, Chí
bỗng thấy thèm lương thiện, thèm trở về cuộc sống ngày trước. Bát cháo hành đã dẫn đường cho hi
vọng hoàn lương: Thị Nở có thể làm hòa với hắn thì mọi người cũng có thể làm hòa với hắn. Khát
khao lương thiện bùng dậy mãnh liệt đã khiến Chí dồn hết hi vọng vào Thị Nở – về cây cầu đưa hắn về
với cuộc đời lương thiện. Bát cháo hành đã hoàn thành thiên chức gọi chất người, khơi hòn than đỏ
vùi trong lớp tro tàn đang âm ỉ, nó đưa Chí qua một cuộc lột xác để về với sự lương thiện.

Lúc này, Chí Phèo đã hoàn toàn thức tỉnh, hắn từ "con quỷ dữ" trở lại là người: "Trời ơi! Hắn thèm
lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọ người". Mà đã là người, ai chẳng mưu cầu hạnh phúc? Hắn
làm nũng với Thị Nở như đứa trẻ con làm nũng mẹ. Hắn ao ước một mái ấm gia đình, hắn thực sự
mong muốn xây dựng gia đình với Thị Nở: "Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?" Chí Phèo và Thị Nở, hai
mảnh đời bất hạnh gặp nhau rồi yêu nhau. Họ mở ra con đường giải thoát cho nhau, "làm ơn" và
"chịu ơn" lẫn nhau. Họ sống với nhau như vợ chồng. Nhưng chỉ được năm ngày. Năm ngày ấy có lẽ là
năm ngày hạnh phúc nhất cuộc đời Chí. Sau năm ngày ấy, Thị Nổ nhớ ra mình còn một người cô ở đời.
Thị phải "đừng yêu để hỏi cô thị đã".

Nghiệt ngã thay! Chí đã thức tỉnh lương tri, đã trở lại là người, khao khát sống cuộc đời lương thiện,
nhưng điều ấy không ai biết. Bà cô Thị Nở lại càng không biết. Bà nghe cháu gái nhắc đến Chí Phèo thì
xỉa xói ngay vào mặt cháu gái rằng lấy ai không lấy lại đi lấy thằng Chí Phèo, một thằng "không cha,
suốt ngày chỉ có một việc là rạch mặt ăn vạ". Thị Nở uất lắm. Bao nhiêu uất giận ấy Thị trút cả vào Chí,
từ chối sự níu kéo của Chí, rồi vùng vằng bỏ về. Những lời nói và hành động của Thị Nở như cái tát vào
mặt Chí Phèo, khiến hắn nhận ra bi kịch đời mình. Hắn không còn cái cơ hội được trở lại làm con
người nữa. Người ta xem hắn là "con quỷ", hắn mãi mãi là thằng Chí Phèo gieo rắc bất hạnh lên cuộc
sống của bao nhiêu con người ở làng Vũ Đại. Người duy nhất xem hắn là người, gần gũi với hắn, cũng
quyết tuyệt từ chối hắn. Tuyệt vọng, hắn uống rượu nhưng càng uống càng tỉnh và thoang thoảng cứ
thấy “hơi cháo hành”. Lương tri và lương tâm đã thức tỉnh không cho phép hắn trở lại làm một con
quỷ. Hắn tìm say để lại sống cuộc đời khi trước, nhưng "hơi cháo hành", hay tiếng gọi của tình người,
của lương tri cứ ám ảnh lấy hắn, không cho phép hắn bỏ quên con người đã thức tỉnh. Hắn đi đòi
lương thiện. Nhưng chao ôi, còn ai trả lại cho hắn được sự lương thiện ngày xưa nữa? Nhân dạng hắn

đã đánh mất từ lâu rồi: những vết sẹo trên mặt đã khiến gương mặt hắn không rõ hình hài là mặt
người hay mặt thú. Người ta ghê sợ hắn. Câu hỏi "Ai cho tao lương thiện?" vang lên trong tức tưởi,
phản ánh bước đường cùng của cuộc đời một người nông dân bị tha hóa. Sự bế tắc và bi kịch tột cùng
ấy đưa hắn đến nhà Bá Kiến, và sau cùng, đưa hắn đến cái chết đầy đau đớn.

Truyện ngắn khép lại bằng hình ảnh Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng và trong đầu thấp thoáng hiện ra
cái lò gạch cũ. Hình ảnh ấy tạo cho tác phẩm kết cấu vòng tròn, đầu cuối tương ứng đổng thời cũng gọi
ra cái vòng luẩn quẩn tối tăm của người nông dân nghèo. Hiện thực xã hội đã được phơi bày trọn vẹn trong tác phẩm.

Thông qua diễn biến tâm lý của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở, ta thấy được khả năng xây dựng tâm lý
nhân vật tài tình của Nam Cao. Nhà văn thể hiện lòng nhân ái, lòng tin vào trái tim lương thiện của con
người trước hiện thực éo le.

Qua Chí Phèo, Nam Cao đã đóng góp cho dòng văn học hiện thực phê phán nói riêng và văn học Việt
Nam nói chung một tiếng nói nhân đạo, một nhân vật mang tính điển hình cho người nông dân trước
Cách mạng bị bần cùng hóa, lưu manh hóa đến tha hóa nhưng luôn dám đấu tranh để chống lại bất
công. Nỗ lực không ngừng, cái tâm - cái tài của Nam Cao đã được chi nhận xứng đáng: “Trong văn hóa
Việt Nam, với ngòi bút Nam Cao ta bắt đầu thấy thật có sự sống, thật có con người trong truyện ngắn” (Nguyên Hồng).

Luật Minh Khuê vừa chia sẻ với quý bạn đọc bài viết Phân tích diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi
gặp Thị Nở chọn lọc hay nhất. Hy vọng bài viết đã cung cấp cho bạn đọc những thông tin hữu ích. Luật
Minh Khuê xin trân trọng cảm ơn!