Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều | Văn mẫu lớp 9

Đoạn trích Chị em Thúy Kiều của Nguyễn Du nằm ở phần mở đầu Truyện Kiều, khắc họa vô cùng thành công chân dung của hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng độc giả. Mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây để có thêm nhiều ý tưởng mới, ngày càng học tốt môn Văn 9.

Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
1
Sơ đồ tư duy Phân tích Chị em Thúy Kiều
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
2
Dàn ý phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Dàn ý chi tiết số 1
1. M bài
Sơ lược v truyn Kiu.
Gii thiu đoạn trích Ch em Thúy Kiu.
2. Thân bài
a. V trí đoạn trích:
b. Thân phn và v đẹp chung ca hai ch em Thúy Kiu: (Bốn câu thơ đầu)
Con nhà viên ngoi, Kiu là ch, Vân là em.
“Mai cốt cách, tuyết tinh thần”: Vẻ đẹp thanh cao, phú qta hoa mai,
tinh thn trong sáng, thanh khiết ta tuyết.
c. V đẹp của Thúy Vân “Vân xem...màu da”:
Khí chất “trang trọng”, phú quý, nhã nhặn.
Khuôn mt tròn tựa trăng, nét mày ngài đen, rậm, n nang.
Điệu cười tươi nhoa nở, ging nói trong, thanh, ấm như ngọc quý =>
Đoan trang, dịu dàng.
Tóc mây, th hin v đẹp của người con i hin dịu, tình nghĩa, thủy
chung, nước da trắng như tuyết, v đẹp sch s không lm bi trn.
=> Nguyễn Du đã dùng bút pháp ưc l ợng trưng thông qua các hình nh rt
nhã nhn, dịu dàng như trăng, hoa, ngc, mây, tuyết để gợi ra nét đẹp ca mt
ngưi con gái v đẹp quý phái, không qsc sảo, nhưng khiến người ta d
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
3
chu quý mến, điều này gợi ý cho người đọc, cũng như dự đoán trước v
cuộc đời bình đạm và êm m ca nàng Vân.
d. V đẹp ca Thúy Kiều: Làn thu thủy...một chương”: V đẹp hi t tài
và sc.
* Nhan sc:
“Làn thu thủy”: Đôi mắt đẹp, trong như nước mùa thu, lãng mạn, nhưng
cũng là biểu hin của con người đa sầu đa cảm, đào hoa, khổ mnh.
“Nét xuân sơn”: Đôi mày liễu điểm làm cho khuôn mt thêm phn sc
so tựa như nét núi a xuân, thế nhưng lại ng ý v mt cuộc đi trc
tr gp ghnh.
“Hoa ghen thua thắm”: Chỉ đôi môi đỏ như son, khiến hoa cũng không
sánh được, đôi khi ng hiu nhan sắc quá đi rc r ca Kiu, khiến
hoa cũng tự thy xu h, gin di (tham kho v đẹp “tu hoa” của Dương
Qúy phi).
“Liễu hờn kém xanh”: Dáng người thướt tha, uyn chuyn tuyt m khiến
liu vn ni danh mm mại cũng phải hn.
=> “Một hai nghiêng nước nghiêng thành/Sắc đành đòi một tài đành họa hai”, ý
ch v đẹp ca Kiu có l cũng chẳng khác gì những Tây Thi, Điêu Thuyền thu
xưa, hồng nhan thì ha thủy, nghiêng nước nghiêng thành là có tht.
* V đẹp tài trí:
Gii thi ca, âm lut.
Thông thạo món đàn tỳ bà.
Biết sáng tác cm khúc, thế nhưng khúc nhạc “Bc mệnh” buồn thương
ca nàng li th hiện nh đa cảm, đồng thời cũng d báo v mt cuc
đời hng nhan vô phúc ca nàng.
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
4
e. Bốn câu thơ cuối: Nếp sng ca ch em Thúy Kiu
Cuc sng sung túc, êm m.
Hai ch em đã đến tui cập nhưng vn thanh thun, không biết tình ái
là gì, gi gìn nn nếp gia phong mt phép.
3. Kết bài
Nêu cảm nghĩ cá nhân về đon trích.
Dàn ý chi tiết số 2
I. Mở bài
Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du (đại thi hào, danh nhân văn hóa thế
giới).
Truyện Kiều là tác phẩm gây tiếng vang, trở thành kiệt tác văn học Việt
Nam.
Đoạn trích Chị em Thúy Kiều không chỉ khắc họa vẻ đẹp của những trang
tuyệt thế giai nhân mà còn thể hiện tài năng miêu tả chân dung nhân vật
bậc thầy của Nguyễn Du.
II. Thân bài
1. Khái quát vấn đề chung
Miêu tả nhân vật, khắc họa tính cách và số phận của con người là tài năng
của Nguyễn Du, đây là thành công lớn của ông.
Miêu tả nhân vật chính diện: sử dụng bút pháp lý tưởng hóa nhân vật.
Miêu tả nhân vật phản diện: bút pháp hiện thực hóa. Đoạn trích Chị em
Thúy Kiều thể hiện vẻ đẹp toàn bích tới chuẩn mực Á Đông là hai nàng
Vân, Kiều.
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
5
2. Phân tích vẻ đẹp nhân vật Thúy Vân (4 câu)
- Ban đầu, Nguyễn Du gợi tả vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều từ hình ảnh thiên
nhiên: mai, tuyết. Bút pháp ước lệ gợi ấn tượng về vẻ đẹp với cốt cách như mai,
thanh tao, và cốt cách trong trắng, tinh khôi như tuyết
- Bốn câu thơ miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân: thanh cao, duyên dáng, trong trắng.
Câu thơ “Vân xem trang trọng khác vời” khái quát được vẻ đẹp cao sang,
quý phái của nàng.
Vẻ đẹp của Vân sánh với những thứ đẹp nhất từ tự nhiên như hoa, mây
trắng, tuyết, ngọc.
Chân dung của Thúy Vân đẹp từ khuôn mặt, nụ cười, mái tóc, làn da, với
phong thái điềm đạm (các chi tiết so sánh, ẩn dụ thú vị trong thơ).
Vẻ đẹp của Vân hơn mọi chuẩn mực của tự nhiên, khiến tự nhiên cúi đầu
chịu ‘thua”, “nhường”, ắt hẳn cuộc đời nàng sẽ được an ổn, không sóng gió.
3. Phân tích vẻ đẹp của Thúy Kiều (12 câu tiếp theo)
- Tác giả tả vẻ đẹp Thúy Vân trước để làm nổi bật vẻ đẹp Thúy Kiều:
Kiều càng sắc sảo mặn mà: Vẻ đẹp của Thúy Kiều mặn mà về tâm hồn,
sắc sảo về trí tuệ.
Tác giả sử dụng lối ước lệ tượng trưng: thu thủy, xuân sơn để đặc tả riêng
đôi mắt trong sáng, long lanh của Kiều.
Thúy Kiều gợi lên là trang tuyệt thế giai nhân với vẻ đẹp khiến tự nhiên
phải ganh ghét, đố kị: hoa ghen, liễu hờn.
Cái tài của Thúy Kiều đạt đến mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ
phong kiến: cầm, kì, thi, họa.
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
6
Nhấn mạnh tài đàn của nàng, đặc biệt cung đàn bạc mệnh của nàng (Một
thiên bạc mệnh lại càng não nhân) là tiếng lòng của trái tim đa sầu, đa
cảm.
Chân dung Thúy Kiều khiến tạo hóa ganh ghét, tài hoa thiên bẩm, tâm hồn
đa sầu đa cảm dự báo số phận trắc trở, nghiệt ngã đầy sóng gió bởi “Chữ tài chữ
mệnh khéo là ghét nhau”.
- Nguyễn Du miêu tả Thúy Vân trước rồi miêu tả Thúy Kiều, thủ pháp đòn bẩy
này làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều.
- Sử dụng tài tình các tính từ miêu tả vẻ đẹp Vân, Kiều (vẻ đẹp mang số phận):
mặn mà, trang trọng, sắc sảo...
- Các biện pháp so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, đối xứng, liệt kê, tăng tiến, điển tích
điển cố... được sử dụng linh hoạt trong đoạn trích.
→ Bút pháp ước lệ tượng trưng là cách thể hiện con người quen thuộc trong thơ
ca trung đại (miêu tả qua những công thức, chuẩn mực sẵn được quy ước
trong nghệ thuật)
III. Kết bài
Đoạn trích khắc họa rõ nét chân dung chị em Thúy Kiều nhờ bút pháp
ước lệ tượng trưng, thủ pháp đòn bẩy và các biện pháp tu từ.
Nguyễn Du thể hiện cảm hứng nhân văn qua việc đề cao con người, ca
ngợi vẻ đẹp tài năng của con người và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc
mệnh.
Dàn ý chi tiết số 3
I. Mở bài
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
7
Giới thiệu về đoạn trích "Chị em Thúy Kiều":
Nguyễn Du đại thi hào của dân tộc, ông đã viết những bài thơ thể hiện thân
phận khổ cực hẩm hiu của con người nhất của người phụ nữ. tấm lòng
nhân đạo của ông đã được thể hiện rất sâu sắc qua các bài thơ sâu sắc nhất
được thể hiện qua tác phẩm Truyện Kiều. Tác phẩm nói về một nhân vật tài
sắc vẹn toàn nhưng chữ hiếu đã hi sinh bản thân mình. vẻ đẹp sâu sắc của
Thúy Kiều được thể hiện qua đoạn trích Chị em Thúy Kiều.
II. Thân bài
1. Vị trí của đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Nằm đoạn mở đầu của "Truyện Kiều".
Giới thiệu về hoàn cảnh, gia thế và vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều.
2. Vẻ đẹp chung của hai chị em Thúy Kiều
Cả hai chị em đều có vẻ đẹp thanh cao, cốt cách và hoàn hảo đêm tác giả
phải thốt rằng “ mười phân vẹn mười”.
Nhưng trong vẻ đẹp chung ấy mỗi người có một vẻ đẹp riêng, mỗi người
một vẻ rất rõ ràng.
3. Vẻ đẹp riêng của hai chị em
* Thúy Vân:
- Câu thơ mở đầu: “Vân xem trang trọng khác vời” - gợi vẻ đẹp sang trọng, cao
quý.
- Vẻ đẹp của Thúy Vân được so sánh với nhiều hình ảnh:
“khuôn trăng đầy đặn” - gợi khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu.
“nét ngài nở nang”: gợi lông mày hơi đậm.
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
8
=> Vẻ đẹp phúc hậu, dịu dàng của Thúy Vân.
“hoa cười ngọc thốt đoan trang”: gợi tả giọng nói, nụ cười e thẹn, nhẹ
nhàng và mang nét đoan trang.
“mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” - vẻ đẹp của mái tóc, làn da
cũng khiến thiên nhiên phải nhường nhịn.
* Thúy Kiều:
- Nhận xét chung: “Kiều càng sắc sảo mặn mà/So bề tài sắc lại là phần hơn”. Từ
đó, gợi vẻ đẹp của Thúy Kiều nổi bật hơn so với Thúy Vân.
- Ngoại hình:
“Làn thu thủy”: làn nước mùa thu, “nét xuân sơn”: nét núi mùa xuân - ý
nói về vẻ đẹp của đôi mắt trong như làn nước mùa thu, đôi lông mày đẹp
thanh thoát như nét núi mùa xuân.
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh: vẻ đẹp của Kiều còn khiến thiên
nhiên phải ghen tị “ghen” - “hờn”. Đó giống như một lời dự báo trước về
cuộc đời đầy truân chuyên.
“Nghiêng nước nghiêng thành” - vẻ đẹp tuyệt sắc của người phụ nữ có
thể làm khuynh đảo đất nước.
- Tài năng:
“Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”: sắc đẹp và tài năng đều khó có ai
sánh nổi.
“Thông minh vốn sẵn tính trời”: một người phụ nữ thông minh, hiểu biết
“Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”: am hiểu về âm nhạc, thơ ca
- Hai câu cuối: Miêu tả tiếng đàn của Thúy Kiều “Một thiên bạc mệnh lại càng
não nhân” - tiếng đàn của một trái tim đa sầu đa cảm.
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
9
4. Nghệ thuật
Miêu tả tượng trưng ước lệ.
Nghệ thuật đòn bẩy độc đáo của tác giả.
III. Kết bài
Nêu cảm nghĩ của em về đoạn trích Chị em Thúy Kiều.
Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” làm nổi bật vẻ đẹp tài sắc vẹn toàn của
hai chị em kiều. làm ta cảm thấy một vẻ đẹp vô cùng hoàn mỹ và đáng
ngưỡng mộ.
Phân tích Chị em Thúy Kiều ngắn gọn
Nguyễn Du nhà thơ thiên tài của dân tc ta. Truyn kiu kit tác ca
nguyn Du ca nn thi ca c đin dân tc, sáng ngi tinh thần nhân đo. C
trên phương din ngh thuật, áng thơ ny là mu mc tuyt vi v ngôn ng, v
t cnh, t người, t tình, t sư,v..v.. .đem li cho nhân dân ta nhiu thú v văn
chương. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” một trong những đoạn tuyt bút ca
thi hào Nguyễn Du. Mượn vt t người, ly ý ha hình qu thc là sc mnh phi
thưng trong ngòi bút ca thiên tài Nguyn Du.
Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp nht
trong “Truyện Kiều”. Thúy Kiều là nhân vt trung tâm ca truyện thơ, một thiếu
n tài, sc vẹn toàn đã được thi hào khc ha mt cách thần tình, mĩ lệ.
Hai ch em Thúy Kiu mang v đp thanh cao, trinh trắng như “mai”, như
“tuyết”, mỗi người mt v đẹp riêng nhưng vẻ đẹp nào cũng toàn thin, toàn
bích:
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
10
“Mai cốt cách, tuyết tinh thn.
Mỗi người mt vẻ, mười phân vẹn mười”.
Tiếp sau v đẹp ca hai ch em, Nguyn Du v ra trước mắt người đọc bc chân
dung tuyệt mĩ ca Thúy Vân:
Vân xem trang trng khác vi,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài n nang.
Hoa cười, ngc thốt, đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Sắc đẹp ca Thúy Vân sắc đp ca mt thiếu n “đoan trang”, “trang trng
khác vời”; rất quý phái. Nàng s hu khuôn mặt “đầy đặn”, tươi sáng như vng
trăng, mắt phượng, mày ngài, miệng cười tươi như hoa, giọng nói trong như
tiếng ngọc,… Lại còn thêm mái tóc suôn ợt hơn mây, làn da trắng sáng hơn
tuyết. Qu là mĩ miều xưa nay hiếm có.
Nhà thơ đã sử dng biện pháp ước, l ợng trưng, to nên nhng hình nh n
d đy gi cm. Bc chân dung ca Thúy Vân hin lên cao khiết, trinh sch
gần gũi trong ánh nhìn ởng tượng. V đẹp y hòa hp vi trn thế, khiến
cho vn vật tôn vinh, ngưỡng m. Vi ch miêu t y, Nguyn Du ngm d
báo Thúy vân s có mt cuộc đời êm đẹp, hnh phúc.
Không h dài dòng, tiếp ngay sau đó, tác giả miêu t tiếp v đẹp ca Thúy Kiu.
Ánh sáng bừng lên, vũ trụ hân hoan khi từng đường nét Thúy Kiu hin lên trên
ngòi bút ca bc thiên tài:
Kiu càng sc so mn mà,
So b tài sc vn là phần hơn.
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thm, liu hn kém xanh.
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
11
T Thúy Vân trước, t Thúy Kiu sau là mt dng ý ngh thut ca tác gi. Trên
cái nn v đẹp ca Thúy Vân, Thúy Kiu ta hin vi v đẹp lng ly th
khiến cho thành nghiêng nước đổ. Khác vi bc chân dung ca Thúy Vân,
bc chân dung ca Thúy Kiu, Nguyn Du ch miêu t hai đặc đim. Mt nàng
trong như sắc nước mùa thu, Hàng chân mày thanh tú, dim l như dáng núi
mùa xuân. Ch hai thôi đã l sắc đẹp phi thường ca nàng ri, thc
bút.
Đó một v đp vừa đm thm va sc so, mn mà, ẩn đầy ni lc tn sinh.
Phía sau v đẹp hình thc mt ngun sc mnh huyn bí, sc lôi cun
quyến đến di. Bi thế, v đẹp ca Thúy Kiều đã khiến cho đất tri phi
“ghen”, phải “hờn”.
đây, ngòi bút tả ngưi ca thi hào s biến hóa đa dạng. Kết hp thn tình
các bin pháp ngh thut n d nhân hóa, vn dng tinh tế hiu qu thi liu
c đin to nên sc mnh biu đạt lạ. Cao hơn thé, thi hào còn mnh m
khẳng định: “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”. Nghĩa là, nếu sắc đẹp ca
Thúy Kiu hiếm thì tài năng tuyệt của nàng chưa từng có, chưa
tng xut hiện trên cõi đi này. Phải chăng, điều đó như dự báo rng cuc đời
Thúy Kiu s gp nhiu trc trở, tai ương bởi nhng phm chất năng lực
ngoi hng ca mình.
Sau bc chân dung tuyt sc ca hai đại nhân, Nguyễn Du dành nhiều hơn
để miêu t tài năng của Thúy Kiu:
Thông minh vn sn tính tri,
Pha ngh thi ho đủ mùi ca ngâm.
Cung, thương làu bậc ngũ âm,
Ngh riêng ăn đứt H cm một trương.
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
12
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên “Bạc mệnh” lại càng não nhân.
Trước hết, nàng là người rt thông minh. Va s hu v đẹp trác vit, va thông
minh tuyệt đỉnh, qu thực người như thế xưa nay hiếm lm. Nguyn Du có l đã
quá ưu ái cho nhân vật của mình chăng? Mọi thú tiêu dao của người xưa, nàng
đều thông thuc, thậm chí đạt đến tuyệt tài hoa. Cầm, kì, thi, ha, âm lut,
thi lut, k c tác thuật nàng đu sành sỏi. Người như thế, ai chng say mê.
Bc chân dung ca Thúy Kiều đã đạt đến mc toàn thiện, vượt qua tt c
ngưng hình dung của con người. Nàng chính thn tiên trên mặt đất. Bi
thn tiên nên nàng không th nào hòa hp vi lut l ca chn trn gian vn
khc nghit và gi di nên cuộc đời mi trm luân, dâu b đến thế chăng?
Tóm li, Thúy Kiu mt nhân vt tuyệt đẹp trong “Đoạn trường tân thanh”.
Thi hào Nguyn Du vi cm hứng nhân đao và tài nghệ thơ ca trác việt đã miêu
t Thúy Kiu bng nhng vần thơ lục bát đẹp đến nhun nh, thu cm lòng
người. Ông đã dành cho nhân vt bao tình cm yêu mến, trân trng sâu sc. S
kết hợp tài tình bút pháp ước lệ, tượng trưng, s dng sáng to các bin pháp tu
t, nht phép n d, so sánh, lp ngôn ng thơ tinh luyện, hàm súc, hình
ng gi cảm, tài năng miêu tả người xut chúng v nên bc chân dung ca
bc tuyt thế giai nhân bằng thơ sáng giá nhất trong nền văn học nước nhà.
Xưa nay, chưa từng có người đẹp như thế.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều hay
Nếu Xuân Diu - nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mi ca nền văn học Vit
Nam hiện đại ly con ngưi làm chun mc cho v đp của thiên nhiên thì đi
thi hào Nguyn Du li lấy thiên nhiên làm thước đo cho vẻ đẹp của con người.
S khác biệt này đưc ông th hiện tài hoa qua đoạn trích "Ch em Thúy Kiu".
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
13
Đây một trong những đoạn trích tiêu biu nht ca tác phm bt h mang tên
"Truyn Kiu". Tác phẩm này đã làm nên tên tui Nguyễn Du và lưu danh ông
đến hàng thế k sau.
M đầu đoạn trích, tác gi đã gii thiu mt cách trc tiếp v thân thế, th
bậc trong gia đình của ch em Thúy Kiu:
u lòng hai t nga
Thuý Kiu là ch, em là Thúy Vân
Mai ct cách tuyết tinh thn
Mỗi người mt v i phân vẹn mười".
H con gái đu lòng của Vương viên ngoại - mt gia đình xếp vào hng
"thường thường bc trung" ca triu nhà Minh Trung Quc. Thúy Kiu ch
c, tiếp đến là cô em gái Thúy Vân. C hai nàng đều là những người con gái đẹp.
V đẹp ấy được so sánh ngang bng vi v đẹp ca công chúa Hng Nga trên
cung trăng. Dáng vóc của hai nàng thanh như cành mai, tinh thn, tâm hn
trong trắng như tuyết. Tuy rng mỗi người những nét đẹp khác nhau nhưng
đó đều v đp toàn diện "mưi phân vẹn mười". Th hi trong nhân gian
mấy ai đẹp mt cách hoàn hảo đến như thế?
Theo trình t thông thường, đáng l ra Nguyn Du phi miêu t lần lượt v đẹp
của người ch ri mi miêu t v đẹp của người em nhưng đây ông đã làm
điều ngược li. Phải chăng đây một dng ý ca tác giả? Thúy Vân được
Nguyn Du dành trn bốn câu thơ để khc ha v đẹp "trang trng" của người
con gái:
"Vân xem trang trng khác vi
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài n nang
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
14
Hoa cười ngc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da".
Thúy Vân đp mt cách "trang trọng", "đoan trang" khác với người ph n bình
thưng. Khuôn mặt nàng tròn, đầy đặn như ánh trăng đêm rm mi tháng. Ni
bật trên gương mt thanh tú ấy là đôi lông mày cong, n nang. V đẹp ca Thuý
Vân khiến hoa, ngọc cũng mỉm cười để nhưng ch cho nàng. Đến c mây cũng
thua nàng v s óng , mềm mượt ca mái tóc, tuyết cũng thua nàng về độ trng
của màu da. "Trăng", "hoa", "ngọc", mây", "tuyết" được coi chun mc ca
cái đẹp trong quan niệm xưa. Nguyễn Du dùng nhng th ấy để miêu t v đẹp
của nàng Vân đã giúp chúng ta nhn thấy Thuý Vân đẹp mt cách cao sang,
quyền quý. Dân gian ta thường hay ví trắng như tuyết, dường như tuyết trng
nht. Vy màu da ca Thúy Vân khiến tuyết cũng phải nhường. v như
thiên nhiên đều cúi đầu, nép mình trước v đẹp kiêu sa, đứng đắn ca nàng. Hai
động t "thua", "nhường" đã thể hin rất điều ấy. Con người thường hay tin
vào s phận, đã nhiều người đọc đến những câu thơ này cho rng Thúy Vân
s mt cuộc đời êm ấm, ít sóng gió hơn ngưi ch gái ca mình bi v đẹp
làm thiên nhiên thán phc.
Khác vi v đẹp quý phái ca Thúy Vân, Kiều đẹp mt v "sc so mn mà":
"Kiu càng sc so mn mà
So b tài sc li là phần hơn
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thm liu hn kém xanh".
"Mỗi người mt v i phân vẹn mười" nhưng "so bề tài sc" thì Thúy Kiu
li phần đẹp hơn, tài năng hơn em gái. Tác gi ch khc ha vài nét tiêu
biểu trên gương mặt Thúy Kiều nhưng cũng đủ để bạn đọc thấy được v đẹp
cun hút của nàng. Điểm cun hút nht khi chúng ta nhìn vào ngoi hình ca
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
15
người con gái đó đôi mt. Kiu s hu mt đôi mắt trong như làn nước mùa
thu và đôi lông mày thanh như dáng núi mùa xuân. Đôi lông mày của nàng được
Thanh Tâm Tài Nhân miêu t: "Thúy Kiu mày nhdài, mt trong mà sáng,
mạo ntrăng thu, sắc tựa hoa đào". Chính v đẹp riêng bit ấy đã khiến cho
hoa, liu nảy sinh lòng ghen ghét, đ k. Tạo hóa đánh ghen vi v đẹp ca
Thúy Kiu. Bin pháp ngh thuật nhân hóa ng các động t "ghen", "hờn" đã
th hiện thái độ không va lòng ca to hóa. Nguyễn Du đã miêu t Thúy Kiu
bng ngôn t giàu hình nh và giàu sc gợi, đồng thời ông cũng d báo trước v
s phn bc bo ca nàng. Th pháp đòn by miêu t Thúy Vân trước ri mi
đến Thúy Kiu tác dng làm ni bt lên bc chân dung ca nàng Kiều. Đối
vi Thúy Vân, tác gi ch khc ha nàng v đẹp ngoại hình nhưng đối vi
Thúy Kiều, ông đã khắc ha nàng c v đẹp ca ngoi hình lẫn tài năng thiên
phú:
"Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai
Thông minh vn sn tính tri
Pha ngh thi ha, đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Ngh riêng ăn đứt H cm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Mt thiên bc mnh li càng não nhân".
Cái đẹp của nàng làm cho người khác say đánh mt c thành c c.
Nguyễn Du đã khẳng định trong nhân gian duy nht ch Thúy Kiu mới có được
v đẹp như vậy. Còn v tài năng thiên phú thì may mắn người ngang sc vi
Thúy Kiu. S thông minh của nàng được tri phú nên nàng thông tho c cm,
kì, thi, ha. Thúy Kiu thuc lòng các cung bậc: Cung, thương, gic, chủy,
trong ngũ âm. Tài năng nổi bt nhất cũng là tài năng không ai sánh kịp được
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
16
nàng tài đàn H cầm. Nàng đã sáng tác mt bn nhc cho riêng mình tên
"Bc mnh". Bn nhạc đó ct lên khiến bt c ai nghe cũng thương xót, não
lòng.
Nguyễn Du đã dành bốn câu thơ cuối đoạn trích đ th hin tính cách kiêu sa,
cao quý ca hai ch em:
"Phong lưu rất mc hng qun
Xuân xanh xp x ti tun cp kê
Êm đềm trướng r màn che
ờng đông ong bướm đi về mc ai".
Theo tc l ca Trung Quc, nhng thiếu n đến tui 15 bắt đầu cài trâm nghĩa
h đã đến tui ly chng. Mặc như vậy nhưng hai chị em vẫn "Êm đềm
trướng r màn che" mc cho nhng chàng trai ti ng ý. "Mc ai" không
hoàn toàn cảm đó cách từ chối đài các, kiêu sa của Thúy Kiu
Thúy Vân. đã đến tui "cập kê" nhưng h không ởng đến đấng phu
quân của đời mình.
đon trích này, th thơ lục bát nhp nhàng kết hp với bút pháp ước l ng
trưng đã giúp Nguyễn Du khc họa được chân dung ca hai tuyt thế giai nhân
vi nhng v đẹp riêng bit. th nói nhà thơ tht tài tình trong vic miêu t
v đẹp ca hai ch em Kiều. Đồng thời ông cũng thể hin bc tranh s phn vi
nhng gam màu khác nhau ca h.
Phân tích Chị em Thúy Kiều hay nhất
“Nguyễn Trãi vi Quc âm thi tập là người đặt nn móng cho ngôn ng văn học
dân tc thì Nguyn Du vi Truyn Kiu lại người đặt nn móng cho ngôn
ng văn học hiện đại của nước ta. Vi Truyn Kiu ca Nguyn Du, th nói
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
17
rng ngôn ng VN đã trải qua mt cuộc thay đổi v chất và đã tỏ kh năng
biu hiện đầy đủsâu sắc”. Thật vậy, “Truyện Kiều” là tác phẩm tiêu biu ca
v đại thi hào dân tc, một “Danh nhân văn hóa ln ca thế giới”. đó, người
đọc vừa say trước v đẹp toàn vn của người thiếu n vừa đau đớn, thương
xót cho mt phận đời bc bẽo. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” nằm phần đầu
ca tác phm, khc ha cuc sng, v đẹp d báo tương lai ca ch em Thúy
Vân, Thúy Kiu.
những câu thơ đu tiên, Nguyn Du gii thiu với độc gi hai người con gái
ca viên ngoi h Vương:
Đầu lòng hai t nga,
Thúy Kiu là ch em là Thúy Vân.
Mai ct cách tuyết tinh thn,
Mỗi người mt v i phân vẹn mười.
Thoạt đầu, bn câu thơ cất lên, người đọc hình dung ra hai thiếu n xinh đp
“hai t nga”, người em tên Thúy Vân còn người ch Thúy Kiu. Mỗi người
mang một nét đặc trưng riêng tựa như hai loài hoa khác nhau, nhưng đều đẹp
tuyt m, ta sc, tỏa hương “mười phân vẹn mười”. Đó là một v đẹp tròn đy,
c v b ngoài lẫn nhân cách, tài năng. Ct cách ca h đưc Nguyễn Du ví như
“mai” như “tuyết”, trong sáng, thanh thuần, mc mc.
V đẹp của người em gái Thúy Vân hin lên rõ nét, ngn gn trong bốn câu thơ
tiếp theo:
Vân xem trang trng khác vi
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài n nang
Hoa cười, ngc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
18
Nàng Vân mt v đẹp không ai th được “khác vời”. Đó vẻ đẹp
đầy s sang trọng, quý phái, đoan trang, xứng đáng một thiếu n đài các. Nét
đẹp của nàng Vân được ha nên bng các hình ảnh ước lệ, tượng trưng: khuôn
mt tròn tra, phúc hu ta mặt trăng, đôi lông mày rậm rp, sc nét.
Nhng hình ảnh ước l như càng làm tăng thêm v đẹp ca nàng. Tính cách nhã
nhặn, ôn nhu, cười tươi tựa hoa n, lời nói đều là li vàng, ý ngc. V đẹp đó đã
đạt ti mc khiến s vt xung quanh phi e thn, kính n “mây thua c tóc,
tuyết nhường màu da”. Nhng hình ảnh nhân hóa “thua, nhường” dự báo cho
mt cuc sống êm đềm, thun li ca Thúy Vân.
Nhà thơ miêu tả v Thúy Vân như làm nền, đòn bẩy để làm tăng thêm nét đp
ca Thúy Kiu. Khi miêu t Vân ch gói gn trong bốn câu thơ nhưng khi nói về
Kiều, thi nhân đã nh hẳn mười hai câu thơ, đ để nhn thy tác gi cm
tình thế nào vi phn hng nhan, bc mnh này:
Kiu càng sc so mn mà
So b tài sc li là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thm, liu hn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành họa hai.
Vân đã đẹp đến thiên nhiên cũng phi kiêng dè, Kiu lại đẹp hơn nhiu ln:
“càng sc so mặn mà”, “phần hơn”. “Sc sảo” chính nét đẹp trưởng thành,
thông tuệ. Để th khc ha mt cách chân thc nht sắc đp ca Thúy Kiu,
Nguyễn Du đã khai thác triệt để th pháp ước l, các hình ảnh tượng trưng, đặc
bit tập trung vào đôi mắt “làn thu thủy”. Đôi mắt nàng trong tro, bình lng
n cha nhiu tâm s.
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
19
T đôi mt y, ta cm nhận được mt tâm hồn đa sầu, đa cảm, giàu tình yêu
thương của nàng. Bên cạnh đôi mắt như làn nước mùa thu, cặp lông mày được
“nét xuân sơn”. Như dáng núi mùa xuân, giúp chúng ta liên ởng đến đôi
mày liu, gn mảnh, cong, mang đến v đẹp xuân sc cho c khuôn mặt. Đó
cũng một nét đẹp tuyt hiếm có, biu l tính cách nhu thun, du dàng ca
ngưi ph n.
Nhưng ti sao không trc tiếp đôi lông mày của nàng như liu phi
như núi mùa xuân. Bởi cuộc đời nàng cũng truân chuyên, khúc khy, lên xung
gp ghnh tựa như núi. Không chỉ như vậy, v đẹp thun khiết, t nhiên ca
nàng còn có th làm “nghiêng thành, nghiêng nước”, giao tranh kch lit mà hoa,
liễu cũng phi hn ghen. Phải chăng s trời đã báo trước v cuc sng mai sau
ca Thúy Kiu s không được êm đềm, hạnh phúc, ngược li luôn phi chu
nhiều điều bt hạnh, bi thương.
Phân tích ch em thúy kiu ta thy v nhan sc, Thúy Kiều đã hơn Thúy Vân
mt bc còn v i năng lại càng giỏi hơn mấy phn:
Thông minh vn sn tính tri
Pha ngh thi ha đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Ngh riêng ăn đứt h cm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Mt thiên bc mnh li càng não nhân.
tưởng Nho giáo cho rằng người ph n không cn quá xut sc v mi mt
thì đã thể hnh phúc vn tròn, tiêu biu cho hình mu ca Thúy Vân; còn
ngưc li ph n mà va có nhan sc, li còn có tài gii thì bc mnh.
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
20
Đây s ảnh hưởng của tưởng thi by gi đến tca của thi sĩ. Nhà thơ
cho rng: “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai". Thúy Kiu vn thần đồng t
nh, trí thông minh do trời phú. Thêm vào đó, những ngón ngh cm, k, thi,
họa nàng đều thông tho, gii giang.
đc bit nhất tài năng âm nhc của nàng: “Cung thương làu bậc ngũ
âm/Ngh riêng ăn đứt h cm một chương”. Nàng có thể t mình sáng tác nhc,
ph nhc, viết lên tiếng lòng ca k đa sầu cũng cuộc đời lm bc bẽo, đau
thương của nàng “một thiên bc mnh lại càng não nhân”, thật khiến cho người
ta đau lòng. Cũng bởi “chữ tài đi với ch tai mt vần.”
Khép lại đoạn trích, Nguyn Du m ra không gian sng khá giả, êm đềm ca hai
thiếu n:
Phong lưu rất mc hng qun ,
Xuân xanh xp x ti tun cp kê,
Êm đềm trướng r màn che.
ờng đông ong bướm đi về mc ai
Xinh đẹp, tài năng, đã đến tui ly chồng được nhiều người theo đuổi “ong
ớm đi về”, Kiều và Vân sống trong khuôn phép, gia giáo “trướng r màn che”,
c chuyên tâm sng một đời êm đềm, hnh phúc.
Phân tích Ch em Thúy Kiều bước đầu cho thấy được tài năng, bút lực ca
Nguyễn Du. Ông đã thành công khc ha chân dung hai nhân vt mt cách sng
động sc nét qua th thơ lc bát truyn thng, kết cu tinh tế. Bên cạnh đó,
bút pháp ước l ợng trưng, hình ảnh so sánh nhân hóa đc sắc được lng ghép
khéo léo đã đưa đến cho người đọc nhng cm xúc khó t; vừa xuýt xoa trước
v đẹp hi t đủ: sc, tài , tình, mnh va khiến người ta nhói lòng trước s báo
s mnh ca nàng Thúy Kiu.
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
21
“Thi trung hữu ha, thi trung hu nhạc”. Chẳng biết Nguyn Du s hu bao
nhiêu tài năng, dành bao nhiêu tâm huyết để v nên bc tranh có mt không hai
“Chị em Thúy Kiều”. Bức tranh tinh tế, sống động, chân tht gần gũi,
khi nhìn ngắm người ta th cm nhận được từng hơi thở của thi sĩ, giọt nước
mắt thương cảm v s phận phía trước chng my hoan h ca Thúy Kiu. Ngay
bây gi đến mãi v sau, Truyn Kiều luôn áng văn chương bt h truyn
tụng đời đời.
Phân tích Chị em Thúy Kiều siêu hay
Khi khẳng định giá tr của “Truyện Kiều”, nhà thơ Chế Lan Viên đã từng ca
ngợi: “Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn”. Có thể nói, Đoạn Trường
Tân Thanh vi nhng dòng lc bát tuyt diu là nim t hào cho nền văn
chương Việt Nam. Dưới ngòi bút tài hoa ca Nguyn Du, nhng phong cnh
tuyt vi trong thiên nhiên, c cây, nhng bc tranh tâm trng đã hiện ra to
thành mt thế giới thơ đầy quyến rũ. Bằng tm lòng và s nâng niu, trân trng,
mến yêu nhân vật chân thành, ông đã để lại cho đời nhng rung cm ngh thut
trước cái đẹp tht sâu sắc. Đến với đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, một ln na
ta hiu thêm v ngh thut miêu t ca T Như thần tình ra sao và trái tim
Nguyn chan chứa yêu thương biết nhường nào!
“Đu lòng hai t nga,
………
ờng đông ong bướm đi về mặc ai”
Đon trích có kết cu cht ch như một truyn ngn c đin. M đầu là bn câu
gii thiu chung v hai ch em Thúy Vân, Thúy Kiu.
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
22
“Đu lòng hai t nga
………
Mỗi người mt v i phân vẹn mười”
Hai cô con gái đầu lòng của ông bà Vương viên ngoại đi vào trang thơ của
Nguyễn Du đều xinh đẹp, tươi tắn c hai, hệt như những nàng “tố nga”. Lời gii
thiu chung v hai ch em đã khắc ha v thanh cao, trong trng t hình dáng
bên ngoài cho đến tam hn bên trong. Th bậc trong gia đình cũng đã được
Nguyn Du th hin qua li gii thiu khá gin dị: “Thúy Kiều là ch, em là
Thúy Vân”. Đặc bit, ông chú trng gây ấn tượng tinh thn, ct cách ca hai
Kiu: cốt cách thanh tao, duyên dáng như mai và tâm hồn, phm hnh trng
trong, thun khiết như tuyết. Hình nh n d nm trong phép tiểu đối không ch
đặc t đưc cái thn ca bc tranh thiếu n: c hai đều trinh trng, sáng trong
mà còn khơi gợi xúc cm thm m cho người đọc v v kiu dim ca hai ch
em. Hai người h vi nhng v đẹp không hoàn toàn như nhau mà là mỗi người
đẹp theo mt v nhưng đều là nhng v đẹp hoàn m. T vóc dáng cho đến tâm
hn, Thúy Kiều và Thúy Vân đều đạt đến mc vn toàn tht là tuyệt đối như tác
gi đã nhận định: “mười phân vẹn mười”. Điều y cho thy ý thức lí tưởng hóa
cao độ của nhà thơ bởi l đời mấy ai được “mười phân vẹn mười”. Câu t
không ch nhm thng báo v đẹp hoàn thin ca Thúy Vân, Thúy Kiu mà còn
cht cha niềm ngưỡng m trước cái đẹp rt riêng ca mỗi người.
Những ước l của văn chương cổ đi vào câu chữ ca Nguyn Du vi biết bao
tình cm mến yêu, trân trng. Lời khen chia đều cho c hai, nét bút muốn đặc t
“mỗi người mt vẻ”. Chính vì thế mà liền sau đó, thi sĩ tập trung khc ha tng
người. Đu tiên, chân dung Thúy Vân hin ra vi bốn câu thơ.
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
23
“Vân xem trang trọng khác vi,
………
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Ch vn vn bốn dòng thơ, Nguyễn Du đã thể hin tht tài hoa v đẹp tươi tắn,
tr trung ca một cô gái đang độ trăng tròn. Ở n cũng khẳng định ngay t câu
thơ đầu cái điểm hơn người: v đẹp ca Vân là v đẹp phúc hậu, đoan trang
nhưng cũng là sự “trang trọng khác vời”. Để rồi, sau đó là sự c th hóa
khuôn mặt tròn đầy, ngời sáng như vầng trăng đêm rằm, đôi lông mày cân đối,
sắc nét như con ngài. Hiện din trên khuôn mặt tươi sáng ấy là n ời tươi
thắm như hoa, giọng nói trong trẻo như ngọc. Hay là phải chăng “ngọc thốt” ở
đây là để ch nhng li nói của nàng quý giá và đáng trân trọng như ngọc ngà?
Mt t “thốt” thôi mà có thể giúp ta nhn ra v du dàng , hin thc hiếm thy
ca Thúy Vân. Tht là tài tình! Không nhng thế, nàng còn s hu c mt mái
tóc đen óng, nhẹ hơn mây và làn da mịn màng, trắng hơn cả tuyết. Qu là mt
v đẹp hoàn ho, cao sang, quý phái! Sắc đẹp ca Thúy Vân sánh ngang vi
nhng nét kiu dim, sáng trong của trăng hoa, ngọc vàng, mây tuyết,…, những
báu vt tinh khôi, trong tro của đất tri. Ch thoáng nhìn hình dáng, thoáng
nghe Vân chuyện trò, chúng ta cũng dễ dàng cm nhận được tt c s du dàng,
đoan trang của mt cô gái khuê các. Có l, Nguyễn Du cũng đã rất có dng ý
khi s dng nhng tính t ch độ tròn đầy, viên mãn để miêu t v đẹp ca Thúy
Vân: “đầy đặn”, “nở nang”. Một v đẹp căng tròn của tui tr! V mt này, con
mt nhìn ca Nguyễn Du cũng thật “tinh đời”! Dựng lên hình nh ca Thúy Vân
vi mt v đẹp phúc hu, quý phái khiến thiên nhiên, to vật cũng phải “thua”,
“nhường”, nhà thơ đã giúp ta nhận ra đấy là mt v đẹp có được s hòa hp, êm
đềm vi thế giới chung quanh. Thêm vào đó là giọng thơ nhẹ nhàng, êm du nên
Thúy Vân là hin thân ca cuộc đời yên , m êm. T những thông điệp ngh
thut trên, phải chăng đó là dự cm v mt cuc sng bình lng, suôn s, hnh
phúc trong tương lai?
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
24
Nếu Nguyễn Du dành đôi nét tài hoa cho Thúy Vân thì vi Thúy Kiu, tác gi
dùng hết tâm lực để có nhng nét v thần kì, công phu hơn.
“Kiu càng sc so, mn
So b tài sc li là phần hơn”
Câu chuyn tiếp cho ta thy t sắc đến tài, Kiều hơn hẳn Thúy Vân, đó không
phải là cái đẹp hin lành, phúc hu mà trái li va sc so, lng ly, va mn mà,
duyên dáng, yêu kiều. Thì ra, Thúy Vân đã sắc nước hương trời, Thúy Kiu còn
rc r hơn thế na. Bng th pháp đòn bẩy, Nguyễn Du đã mượn v đẹp ca
Thúy Vân làm nền để nêu bt v đẹp, tài năng của Thúy Kiu, giúp người đọc
hình dung rõ hơn về bc chân dung ca nàng bng cái nhìn ca riêng mình.
Thc tế, đến Thúy Kiu, ta thy Nguyn Du rt ít t mà ch gi. Ông li thêm
mt ln na chng t ct cách ngh thut ca mt ngh sĩ bậc thy. Bi, nếu
bây gi nhà thơ cũng lặp li trình t t y hệt như tả Thúy Vân thì hóa ra quá đỗi
vng về. Đặc bit, sc gi ca v đẹp Thúy Kiu toát lên t đôi mắt: “Làn thu
thủy, nét xuân sơn”. Nguyễn Du dường như chỉ nói v đôi mắt của nàng. Đôi
mt trong, sáng ngi, gợi tình như sóng nước mùa thu và đôi mày cong cong
mm mại, thanh tú như dáng núi mùa xuân. Cách miêu tả khiến khi đọc lên, ta
như thấy có ánh sáng và làn sóng xao động bên trong. Ch vy thôi mà bao n ý.
Đôi mắt nhìn đời, nhìn người sâu thẳm. Đôi mắt dt dào, n cha bao tình cm
lai láng: biết yêu thương, căm hận, nhc nhi, s chia,… Đôi mắt th hin mt
đời sng nội tâm phong phú. Đôi mắt “tinh đời” chứ không như đôi mắt đẹp mà
vô hn, vô cm ca Thúy Vân. Thì ra, c Nguyn Du c tình b sót đôi mắt
nàng Vân là vì l đó. Một ln na, ta li thấy nhà thơ sử dng tối đa nghệ thut
n d và tiểu đối trong thơ cổ đin cùng vi ý nghĩa tượng trưng để tô đậm, to
ấn tượng v nhan sc ca Kiều nhưng không gây rườm rà, phc tp mà trái li
giá tr diễn đạt vn hay và t nhiên. Nhan sc nàng tuyệt mĩ đến nỗi: “Hoa ghen
thua thm, liu hờn kém xanh”. Thêm mt ln nữa thiên nhiên được s dụng để
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
25
nói v v đẹp của người thiếu n. Thiên nhiên vn là v đẹp vĩnh cửu vy mà
cũng phải “ghen”, “hờn” trước mt nàng Kiều “sắc so mn mà”. Hoa không
tươi thắm bng dung nhan ca nàng, liu kém phần tươi non so với sc sng,
tui tr mơn mn ca Kiu. Nguyễn Du đã sử dng biện pháp nhân hóa để thi
linh hồn vào câu thơ làm ý thơ thêm phần sống động và trước mt ta hin ra mt
nàng Kiu tr trung vi tuổi xuân tràn đầy như hoa vừa đang độ n, liễu đến
xanh tươi. Mà cũng vì thế mà ta càng thp thỏm hơn khi nghĩ tới tương lai ca
đời Kiu. Liu vi v đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” ấy, Kiu s phi sng
thế nào trong b đời vốn “Thiên địa phong trn, hồng nhan đa truân”.
Bút pháp miêu t ca Nguyn Du tài hoa ch ông không ch miêu t ngoi
hình để th hiện tính cách, mà còn thông qua đó dự đoán số phn, cuộc đời nhân
vt. Không phi ngu nhiên mà Nguyn Du dùng cp t “thua, nhường” để
miêu t Thúy Vân và cp t “ghen, hờn” để miêu t Thúy Kiu. Ảnh hưởng, tác
động của nét đẹp hai Kiu vi to hóa lại đi theo hai hướng khác nhau. T Vân,
câu thơ Kiều thanh thn bao nhiêu thì khi t Kiu, câu ch T Như lại trăn trở
bấy nhiêu. Như vậy đó, chỉ mới mươi câu Kiều mà đã giúp ta thấu hiu tm
lòng ưu ái sâu sắc, bao la của nhà thơ nhân đạo Nguyễn Du: ông yêu thương,
nâng niu tt cả. Có điều, vi Thúy Kiu là c mt s yêu thương, nâng niu đầy
băn khoăn, lo lắng so vi Thúy Vân. Tht vy, trong Truyn Kiu, có lúc
Nguyễn Du đã để sư bà Tam Hợp đạo cô đoán định tương lai bất n ca Kiu
qua lời thơ:
“Thúy Kiều sc so khôn ngoan,
Vô duyên là phn hồng nhan đã đành.
Li mang ly mt ch tình,
Khư khư mình buộc ly mình vào trong.
Vy nên nhng chn thong dong,
không yên ch, ngi không vững vàng”
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
26
Chuyn thế thái, nhân tình cũng thật sâu sc trong cách nhìn, cách cm ca
Nguyn Du. Miêu t Thúy Kiu, Nguyễn Du còn đề cao trí tu và tài năng của
nàng, cho thy rng Kiu không phi ch có nhan sc tuyt trần mà còn là người
con gái vốn có thiên tư thông minh bẩm sinh và rt mc tài hoa.
“Thông minh vốn sn tính tri,
………
Mt thiên bc mnh lại càng não nhân”
Tài năng của Kiều đã đạt ti mức lí tưởng. Làm thơ, vẽ tranh, ca ngâm, âm nhc,
mi th Kiều đều t ra thành thạo. Đặc bit, nàng rt sành chơi Hồ cm.
Nguyn Du mt ln na li rt công phu khi dành cho Kiu các chữ: “vốn sn
tính trời”, “đủ i”, “làu bậc”, “ăn đứt” gợi lên s hoàn m của nàng. Tài năng
ca Thúy Kiu qua cách khc ha ca Nguyn Du họa chăng chỉ có th so sánh
với tài thơ vè xuất sc ca cung n trong tác phẩm “Cung oán ngâm khúc” của
Nguyn Gia Thiu.
“Câu cẩm tú đàn anh họ Lý,
Nét đan thanh bậc ch chàng Vương”
Qu là “Sắc đành đòi một tài đành họa hai”! Lại thêm mt ln na ta hiu ti
sao Nguyn Du không miêu t cái tài ca Thúy vân. Tạo hóa đã dành cả cho
Thúy Kiều, để ri li t ra đố k mà đan tâm chơi trò nhỏ nhen.
“L gì b sắc tư phong,
Tri xanh quen thói má hồng đánh ghen”
Câu ch, lời thơ chất cha s ngợi ca, ngưỡng m mà nỗi băn khoăn, lo lắng c
xn xang trên mi t ng ca T Như. Có lúc ông đã phải tht lên rng:
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
27
“Có tài mà cậy chi tài,
Ch tài lin vi ch tai mt vn”
Nhưng làm sao khác được, “Thiên bạc mnh” ai oán đã vận vào Kiu mt ri.
Trái tim yêu thương mênh mông của Nguyễn Du cũng chẳng th nào bo v
đưc Kiều trước vòng xoáy nghit ngã của định mnh.
Đon trích khép li trong bn câu miêu t cuc sống phong lưu, khuôn phép
trong đức hnh, mu mc ca hai ch em Kiu.
“Phong lưu rất mc hng qun,
………
ờng đông ong bướm đi về mặc ai”
V đẹp chung ca hai ch em được đúc kết li trong cuc sng nhung la, phú
quý. Hai cô gái h Vương đang ở o giai đoạn đẹp nhất, thơ mộng nht của đời
người, đó là tuổi dậy thì vô tư, trong trắng. Đã đến tuổi cài trâm nhưng hai thiếu
n không h quan tâm đến nhng chuyện “ong bướm”, tâm hồn như băng tuyết,
h đang sống trong cảnh êm đềm ca một gia đình gia phong, nề nếp. Mt ln
na, Nguyn Du khẳng định li nếp sống phong lưu, đài các của hai ch em
Kiều. “Êm đềm”, “mặc ai” là phong thái cao giá của người đẹp cho phi s
vô cảm trước nhng ro rc ca tui tr. Ch dùng ca Nguyn Du tinh tế lm
ch đâu phải buông lơi hờ hng, vô tình!
Ch với hai mươi bốn câu thơ lục bát, chúng ta cũng đủ thấy tài năng, sáng tạo
bc thy của đại thi hào dân tc Nguyn Du. Ngòi bút ca ông linh hot vô cùng,
khi v chi tiết, khi ch t qua; khi t, khi gi, kết hp nhun nhuyễn tính ước
l ca sách v và cách nói dân gian; va làm ngh thut, va gi gắm tâm tư,
tình cảm. Để người đời yêu mến T Như và nhân vật của ông khi đến vi
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
28
Truyn Kiều, đều cm nhận được mt n ý sâu sc: n sau bức chân dung mĩ nữ
là tiếng lòng chan chứa yêu thương của đại thi hào dân tc Nguyn Du.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 1
Nguyễn Du là đại thi hào ca dân tc Việt Nam, danh nhân văn hoá thế gii.
Truyn Kiu là mt kit tác ca thiên tài Nguyn Du và ca nền văn học Vit
Nam t xưa đến nay. Đây là tác phẩm có giá tr rt ln v nội dung tư tưởng và
ngh thuật. Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” được trích phn 1: Gp g
đính ước, trong Truyn Kiu. Bng nhng nét v điêu luyện, tài tình, Nguyn
Du đã khắc ha chân thc và sống động v đẹp ca hai ch em Thúy Kiu. Tuy
mỗi người mt v nhưng ai cũng mang vẻ đẹp xưa nay hiếm có.
M đầu đoạn thơ, tác giả gi t v đẹp chung ca ch em Thúy Kiu. Nét phác
thảo đơn sơ nhưng cũng đủ để làm hin hình v đẹp ca hai tuyt thế giai nhân:
Đầu lòng hai t nga
Thuý Kiu là ch em là Thuý Vân
Mai ct cách tuyết tinh thn
Mỗi người mt v i phân vẹn mười.
Sau khi gii thiu vai ch vai em, Nguyễn Du đi vào miêu tả. Bút pháp t người
ca Nguyễn Du trước hết là bút pháp ước l ợng trưng thường gặp trong thơ
c đin. Hình nh n d, ưc lệ, tượng trưng “mai cốt cách tuyết tinh thần”
đưc s dụng tài tình để miêu t v đẹp ca ch em Thuý Kiu. C hai ch em
mang vóc dáng thanh cao, mnh d, yểu điệu, mm mại như dáng mai. Suy nghĩ,
tình cm, tâm hn trắng trong như tuyết. Hai người vi hai v đẹp khác nhau
nhưng đều đẹp “mưi phân vẹn mười”.
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
29
Tiếp sau đó, tác giả gi t v đẹp ca Thuý Vân bng các hình nh chn lc, t
ng tiêu biu:
Vân xem trang trng khác vi
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài n nang
Hoa cười ngc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Câu thơ mở đầu gii thiệu khái quát được nhân vt bng 4 ch “trang trọng
khác vời”, nói lên vẻ đẹp cao sang quí phái ca Thuý Vân. Vn bng bút pháp
ước l ợng trưng với nhng hình nh quen thuộc nhưng khi tả Thúy Vân, tác
gi có nhiều hướng t c th trong th pháp lit kê c th, trong vic s dng t
ng để làm ni bật riêng, đối tượng miêu t “đầy đặn”, “nở nang”, “đoan trang”.
Nguyn Du còn s dng bin pháp n d nhân hoá: khuôn trăng nét ngài hoa
i ngc tht mây thua tuyết nhường góp phn th hin v đẹp phúc hu cao
quý ca Thuý Vân. Khuôn mt tròn tra to sáng đầy đặn như mặt trăng, lông
mày sắc nét đậm như con ngài, miệng cười tươi như hoa, giọng nói trong tro
toát ra t hàm răng ngà ngọc, mái tóc đen óng nhẹ hơn mây, da trắng mịn hơn
tuyết, tính cách nghiêm trang đứng đắn. Qua đó, Thuý Vân hiện lên là cô gái
đoan trang phúc hậu. Chân dung Thuý Vân là chân dung mang tính cách, s
phn. V đẹp ca Thuý Vân to s hoà hợp êm đềm vi xung quanh mây thua
tuyết nhường , nên nàng s có mt cuộc đời bình lng suôn s hnh phúc.
Sau khi miêu t v đẹp ca Thuý Vân tác gi miêu t v đẹp ca Thuý Kiu.
Nếu Thuý Vân được gii thiu qua 4 câu vi v đẹp cng phm cht thì Thuý
Kiều được miêu t qua 12 câu. Đây là nghệ thuật đòn bẩy nhm làm ni bt
nhân vt chính ca tác gi:
Kiu càng sc so mn mà
So b tài sc li là phần hơn
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
30
Làn thu thu nét xuân sơn
Hoa ghen thua thm liu hn kém xanh
Một mai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai.
Cũng như lúc tả Vân, câu thơ đầu khái quát đặc điểm nhân vt. Kiu sc so v
trí tu, mn mà v tâm hn. Gi t v đẹp ca Kiu, tác gi vn dùng nhng
hình ảnh ước l n d làn thu thu nét xuân sơn (nước mùa thu, núi mùa xuân).
Nét v ca thi nhân thiên v gi t v v đẹp ca mt giai nhân tuyt thế. Điều
đáng chú ý là khi hoạ bc chân dung Kiu, tác gi tp trung gi t v đẹp đôi
mt, bởi đôi mắt th hin phn hình nh ca tâm hn và trí tuệ. “Làn thu thuỷ
gi lên v đẹp của đôi mắt trong sáng, long lanh, linh hoạt. “Nét xuân sơn” gợi
lên đôi lông mày thanh tú, mềm mại, tươi non trên gương mặt tr trung. Bng
hình ảnh nhân hoá “hoa ghen thua thắm liu hờn kém xanh”, tác giả làm ni bt
dung nhan ca Kiều đằm thm khiến hoa phi ghen, dáng tr trung đầy sc sng
khiến liu phi hn. Nàng có v đẹp làm say đắm, chinh phục lòng người qua
điển tích điển c nghiêng nước nghiêng thành. Nàng qu là mt trang tuyt thế
giai nhân nhưng nàng không ch đẹp mà còn rất đa tài:
Thông minh vn sn tính tri
Pha ngh thi ho đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm
Ngh riêng ăn đứt h cm một trương
Khúc nhà tay lựa nên trương
Mt thiên bc mnh li càng lão nhân.
Nàng thông minh bẩm sinh, có tài làm thơ vẽ pha ngh ca hát đủ mùi, tài đàn ăn
đứt, âm lut giỏi đến mc làu bc, còn sáng tác nhạc “một thiên bc mệnh” –
chính là s ghi li tiếng lòng ca mt trái tim đa sắc đa cảm. V đẹp ca Kiu là
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
31
s kết hp gia sc tài và tình. Chân dung Thuý Kiều cũng là chân dung mang
tính cách s phn v đẹp ca nàng làm cho to hoá phi ghen ghét v đẹp ca
nàng hoa ghen liu hn nên s phn ca nàng s éo le đau khổ.
Bốn câu thơ cuối Nguyn Du gii thiu v cuc sng ca ch em Thuý Kiu tuy
là khách hng quần đẹp thế lại phong lưu rất mực, đã tới tun cập kê nhưng cả
hai vn sng mt cuộc đời êm đềm trong khuôn phép gia giáo:
Êm đềm trướng r màn che
ờng đông ong bướm đi về mc ai.
Đoạn thơ có âm điệu nh nhàng to nên mt cuc sng yên vui êm m ca
nhng thiếu n phòng khuê.
Đon trích Ch em Thuý Kiu là mt trong những đoạn thơ hay nhất đẹp nht
trong Thuý Kiu. Ngôn ng thơ điêu luyện, giàu cm xúc, nét v hàm súc gi
cm, s dng bin pháp n d nhân hoá để dng lên bc chân dung sống động
ca hai ch em Thuý Kiều. Đáng quý là bức chân dung tuyt vi y lại được
dng lên bằng tình yêu thương trân trọng đối với con người ca tác gi.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 2
Nguyễn Du một đại thi hào dân tộc, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn, danh
nhân văn hóa thế giới. "Truyện Kiều" kiệt tác của Nguyễn Du quốc hồn
quốc túy của Việt Nam. Đoạn trích "Chị em Thúy Kiều" nằm phần đầu tác
phẩm đã giới thiệu và miêu tả vẻ đẹp của hai người con gái.
Bốn câu thơ đầu tiên, tác giả đã khắc họa chung vẻ đẹp của hai nàng:
"Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
32
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười"
Hai chị em được Nguyễn Du với "hai tố nga", những người phụ nữ đẹp
thời xưa. Tác giả đã giới thiệu vai vế, vị trí của từng người trong gia đình Thúy
Kiều là chị, Thúy Vân là em. Cả hai người đều có dáng vẻ mềm mại, một phong
thái tựa như loài hoa mai cao quý, phẩm chất, đức hạnh sáng trong như tuyết.
"Mai" "tuyết" đều cái đẹp, Vân Kiều sự kết tinh của những cái đẹp tinh
túy ấy. Vẻ đẹp của họ còn được tuyệt đối hóa, tưởng hóa "mười phân vẹn
mười".
Bức chân dùng của Thúy Vân hiện ra qua bốn câu thơ tiếp. Vẻ đẹp của Vân
"sang trọng khác vời", qphái như những vị tiểu thư đài các nơi lầu son gác
tía. "Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang" một khuôn mặt phúc hậu, tròn
trịa bừng sáng như mặt trăng đêm rằm, đôi lông mày nằm cong còn như con
ngài tạo nên nét hài hòa cân xứng.
"Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da"
Miệng nàng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong như ngọc. Nguyễn Du sử
dụng từ "thốt" cho thấy Vân người con gái ăn nói biết suy nghĩ. Tóc nàng
mượt mà bồng bềnh hơn cả mây. Da của nàng trắng trẻo mịn màng hơn cả tuyết.
Khác với Vân, dung nhan của nàng Kiều không được miêu tả chi tiết tỉ mỉ
được tác giả chấm phá, qua đó bắt được cái thần, cái hồn nhất:
"Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh"
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
33
Nguyễn Du trước đó cũng khẳng định "So bề tài sắc", Kiều vẫn hơn em. Vẻ đẹp
của Kiều sắc sảo, đằm thắm với đôi mắt như làn nước a thu ẩn dưới đôi
lông mày cong cong như dáng núi mùa xuân. Đặc biệt, nếu với Vân, nhà thơ
dùng t"thua", "nhường" thể hiện sự hòa hợp với thiên nhiên thì giờ đây sắc
đẹp của Kiều còn khiến cho thiên nhiên hờn ghen đố kỵ. Quả là một tuyệt sắc
giai nhân. Nhưng dường như cũng dự báo trước một cuộc đời ấm êm với
Thúy Vân và đầy sóng gió, trắc trở với Thúy Kiều.
Không chmiêu tnhan sắc, Nguyễn Du còn dùng nhiều câu để khắc họa tài
năng của nàng Kiều, đặc biệt tài đàn: "Sắc đành đòi một, tài đành họa hai". Cầm
kì thi họa, tài nào nàng cũng biết, cũng giỏi. Nhưng giỏi nhất là tài đàn:
"Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương"
Nàng còn tự sáng tác cung đàn Bạc mệnh của riêng mình. Bản đàn sự cất lên
của một tâm hồn đa sầu đa cảm. Nhưng chính cung đàn này cũng như ẩn chứa
trong một điềm báo về chặng đường truân chuyên của nàng Kiều. Kiều là s
kết hợp hoàn hảo giữa sắc- tài- tình.
Dù đều là những giai nhân, những người con gái xinh đẹp nhưng hai chị em vẫn
sống rất mực thước như những bông hoa còn đang phong nhụy, mặc kmọi
bướm lả ong lơi.
Đoạn trích "Chị em Thúy Kiều" đã đưa người được chiêm ngưỡng bức chân
dung của hai giai nhân tuyệt sắc trong thơ ca văn học! Đoạn trích cũng thể hiện
tài năng và cảm hứng nhân văn của đại thi hào Nguyễn Du.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 3
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
34
Trong thơ cổ viết về giai nhân thì đoạn thơ “Chị em Thúy Kiều” trích trong
“Đoạn trường tân thanh” tức Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du một
trong những vần thơ tuyệt bút. Hai mươi câu thơ lục bát đã vẽ nên sắc, tài,
đức hạnh của hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân.
Với ngòi bút của một kỳ tài diệu bút Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung hai
nàng giai nhân tuyệt thế:
“Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân”
Vân em, Kiều chị. Hai chị em Vân Kiều (con đầu lòng của gia đình
Vương viên ngoại) đều những tố nga - những người con gái đẹp. Vẻ đẹp
của hai nàng là vẻ đẹp thanh tao của mai, là sự trắng trong, tinh sạch của tuyết:
“Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Bút pháp ước lệ cùng phép ẩn dụ đã gợi lên vẻ đẹp hài hoà, hoàn hảo cả về hình
thức lẫn tâm hồn. Vẻ đẹp của hai nàng đều đến mức tuyệt mười phân vẹn
mười nhưng mỗi người lại mang một vẻ riêng. Nguyễn Du đã lấy những đẹp
đẽ nhất của thiên nhiên để miêu tả hai chị em. Thuý Kiều Thuý Vân đều
mang vẻ đẹp lí tưởng, theo khuôn mẫu và vượt lên trên khuôn mẫu.
Sau những câu thơ giới thiệu vhai chị em, ngòi bút Nguyễn Du lại chiều
hướng cụ thể hơn trong bức chân dung quý phái của Thuý Vân:
“Vân xem trang trọng khác vời,”
Hai chữ trang trọng trong câu tđã nói lên vẻ đẹp đài các, cao sang của Vân.
Vẻ đẹp ấy của thiếu nữ được so sánh với những thứ cao đẹp trên đời:
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
35
“Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Chân dung của Vân được miêu tả một cách khá toàn vẹn từ khuôn mặt, nét mày,
làn da, mái tóc đến nụ cười, tiếng nói. Vân có khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu như
vầng trăng, có đôi lông mày sắc nét như con ngài, có miệng cười tươi thắm như
hoa, giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngà ngọc và mái tóc của nàng bồng
bềnh hơn mây, làn da của nàng trắng hơn tuyết, sắc đẹp của Vân sánh với những
nét kiều diễm, sáng trong của những báu vật tinh khôi của đất trời. Tất cả toát
lên vẻ đẹp trung hậu, êm dịu, đoan trang, quý phái. Vân đẹp hơn những gì mỹ lệ
của thiên nhiên nhưng tạo sự hoà hợp, êm dịu: mây thua, tuyết nhường. Với vẻ
đẹp như thế, Vân sẽ một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ một tính cách điềm
đạm. Qua bức chân dung này, Nguyễn Du đã gửi tới những thông điệp về tương
lai, cuộc đời chính bởi vậy mà bức chân dung Thúy Vân là chân dung mang tính
cách số phận.
Tả Vân thật kỹ, thật cụ thể song Nguyễn Du chỉ vẽ Kiều bằng những nét phác
hoạ thông thoáng bởi ông không muốn là người thợ vẽ vụng về:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Sắc đẹp của Kiều được đặt trong sự so sánh với vẻ đẹp đoan trang, quý phái của
Vân để thấy được sự hơn hẳn của Kiều về vẻ sắc sảo của tài năng trí tuệ, bởi cái
mặn của nhan sắc. Không tả khuôn mặt, giọng nói, tiếng cười, làn da, mái
tóc như Thuý Vân Nguyễn Du đã thật tài tình khi chọn đôi mắt Kiều để đặc
tả bởi đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ:
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
36
“Làn thu thủy nét xuân sơn,”
Câu thơ tả đôi mắt gợi lên bức tranh sơn thuỷ, diễm lệ. Bức tranh ấy làn
thu thủy - làn nước mùa thu, nét xuân sơn - dáng núi mùa xuân. Cũng như
khuôn mặt Kiều đôi mắt trong sáng, long lanh, đôi lông mày thanh
khiến:
“Hoa ghen đua thắm liễu hờn kém xanh”
Vẻ đẹp của Kiều không chỉ như thiên nhiên mà còn vượt trội hơn cả thiên nhiên
khiến hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải hờn. Thiên nhiên không còn thua,
nhường cau mày, bặm môi tức giận, đố kỵ hờn ghen. Nếu vẻ đẹp của
Vân là những gì tinh khôi, trong trắng nhất của đất trời thì Kiều lại mang vẻ đẹp
của nước non, của không gian mênh mông, của thời gian vô tận. Cái đẹp ấy làm
cho nghiêng nước, đổ thành:
“Một hai nghiêng nước nghiêng thành,”
Nguyễn Du đã sử dụng những điển tích để cực tả Kiều với vẻ đẹp của trang giai
nhân tuyệt thế. cũng chính vẻ đẹp không ai sánh bằng ấy như tiềm ẩn những
phẩm chất bên trong cao quý là tài và tình rất đặc biệt:
“Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”
Kiều cả tài cầm - - thi - hoạ của những bậc văn nhân quân tử tài nào
cũng đến mức điêu luyện. Nàng giỏi về âm luật đến mức làu bậc. Cây đàn nàng
chơi là cây hồ cẩm, tiếng đàn của nàng ăn đứt bất cứ nghệ sĩ nào và đã trở thành
nghề riêng. Để cực tả cái tài của Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng hàng loạt các từ
ngữ mức độ tuyệt đối: “vốn sẵn, pha nghề, làu bậc đủ mùi”. Không những
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
37
giỏi ca hát, chơi đàn Kiều còn sáng tác nhạc nữa. Cung đàn nàng sáng tác là
một thiên “Bạc mệnh”. Bản đàn ấy đã ghi lại tiếng lòng của một tâm hồn đa sầu
đa cảm. Nguyễn Du cực tả tài năng của Kiều chính ngợi ca cái tâm đặc biệt
của nàng. Tài năng của Kiều vượt lên trên tất cả và là biểu hiện của những phẩm
chất cao đẹp, trái tim trung hậu, nồng nhiệt, nghĩa tình, vị tha. Vẻ đẹp của Kiều
sự kết hợp của sắc - tài - tình đạt đến mức siêu phàm, tưởng. Nhưng
nhan sắc đến mức hoa ghen, liễu hờn để tạo hóa phải hờn ghen đkị tài hoa
trí tuệ thiên bẩm làu bậc, đủ mùi cái tâm hồn đa sầu, đa cảm như tự dưng mà
của nàng khó tránh khỏi sự nghiệt ngã của định mệnh. Chính bởi Kiều quá toàn
mỹ, hoàn thiện nên trong hội phong kiến kia khó một chỗ đứng cho nàng.
cung đàn “Bạc mệnh” nàng tự sáng tác như dự báo một cuộc đời hồng nhan
bạc mệnh khó tránh khỏi của Kiều. Cuộc đời nàng rồi sẽ sóng gió, nổi chìm,
truân chuyên. Cũng giống như bức chân dung Thúy Vân, bức chân dung Kiều là
bức chân dung mang tính cách số phận.
Nguyễn Du hết lời ca ngợi Vân và Kiều mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
nhưng ngòi bút tác giả lại đậm nhạt khác nhau mỗi người. Vân chủ yếu đẹp
ngoại hình còn Kiều là cái đẹp cả về tài năng, nhan sắc lẫn tâm hồn. Điều đó tạo
nên vẻ đẹp khác nhau của hai người thiếu nữ và hé mở hai tính cách, dự báo hai
cuộc đời khác nhau đang đón chờ hai ả tố nga. Hai bức vẽ chân dung của chị em
Thuý Vân Thuý Kiều đã cho thấy sự tài tình trong ngòi bút tinh tế của
Nguyễn Du.
Kết thúc đoạn thợ bốn câu lục bát miêu tcuộc sống phong lưu khuôn phép,
mẫu mực của hai chị em Kiều:
“Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
38
Hai người con gái họ Vương không chỉ sắc - tài - tình còn đức hạnh.
Sống phong lưu đến mực hồng quần. Cả hai đều đã tới tuần cập - tới tuổi búi
tóc, cài trâm nhưng vẫn sống trong cảnh:
“Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Hai câu thơ như che chở, bao bọc cho hai chị em, hai bông hoa vẫn còn phong
nhụy trong cảnh êm đềm chưa một lần hương toả ai. Nguyễn Du đã buông
mành, gạt tất cả mọi vẩn đục cho cuộc đời khỏi cuộc sống phong lưu của hai chị
em để đề cao hơn đức hạnh của hai nàng.
Với cảm hứng nhân đạo tài nghệ thơ, Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung
Thúy Vân, Thuý Kiều bằng những gì đẹp đẽ, mỹ lệ nhất. Hai bức tranh mỹ nhân
bằng thơ đã thể hiện bút pháp ước lệ tượng trưng các biện pháp tu ttrong
ngòi bút tinh tế của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 4
ý kiến cho rằng: “Truyện Kiều một kiệt tác hàng trăm năm nay đã được
lưu truyền rộng rãisức chinh phục lớn đối với người đọc”. Thật vậy bằng
tài và tâm của mình, Nguyễn Du đã tạo nên một kiệt tác để đời. Trong đó
đoạn trích “chị em Thúy Kiều” tiêu biểu cho cái tài khắc họa, miêu tả nhân vật.
một đoạn trích khắc họa nét hai chị em Thúy Kiều, không chỉ vậy, qua
những nét khắc họa đó còn thể hiện tính cách số phận của hai chị em. Mở
đầu đoạn trích với bốn câu giới thiệu hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân:
“Đầu lòng hai ả tố nga
Kiều là chị, em là Thúy Vân
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
39
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Hai chị em xuất hiện, được tác giả gọi là “tố nga” tức chỉ một người con gái đẹp
thời xưa. Thúy Kiều và Thúy Vân, hai người con gái có vóc dáng thanh mảnh
như cây mai lòng trắng trong như tuyết đầu mùa. Hai người con gái với
những nét đẹp khác nhau nhưng đều hoàn hảo vẹn toàn. Dường như , hai chị
em được coi là chuẩn mực của cái đẹp đương thời.
Sau khi tác giả giới thiệu về hai người con gái xinh đẹp nết na, đại thi hào đi
vào khắc họa từng nhân vật. Trong đoạn trích Thúy Vân đẹp ngỡ ngàng:
“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Vân với vđẹp đoan trang của thiếu nữ thời xưa. Mặt đầy đặn, tròn như trăng
rằm, lông mày sắc nét đậm như con ngài, miệng cười tươi thắm như hoa, làn da
trắng mịn như tuyết, tóc bồng bềnh mượt như mây. Bằng nghệ thuật ẩn dkết
hợp so sánh, sử dụng các hình ảnh thiên nhiên như: “trăng, con ngài, hoa, mây,
tuyết” làm cho vẻ đẹp của Vân hiện lên sống động chân thật với tất cả những
nét đẹp tự nhiên. Ta cảm nhận được qua những nét khắc họa của tác giả, Vân
một người con gái đoan trang, phúc hậu, thùy mị, nết na. Đặc biệt vẻ đẹp đó tạo
sự hài hòa với thiên nhiên đất trời: “mây thua”, “tuyết nhường” biểu thị thái độ
nhường nhịn chấp nhận của thiên nhiên trước vẻ đẹp của nàng. Nhìn vào vẻ đẹp
của Thúy Vân, cho ta một dcảm về một tương lai số phận bình yên tốt đẹp sẽ
đến với nàng.
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
40
Nếu Thúy Vân với những nét đẹp phúc hậu cao quý thì vẻ đẹp của Thúy Kiều
càng vượt trội cả sắc lẫn tài qua mười hai câu đặc tả Kiều với bốn câu khắc họa
chân dung:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
Trong xã hội cũ, người ta luôn quan niệm rằng thiên nhiên là chuẩn mực của cái
đẹp, con người thường được so sánh với thiên nhiên, hoặc hiện lên qua các hình
ảnh ước lệ tượng trưng. Tác giả dụng ý miêu tả Vân trước, khéo léo sử dụng
thủ pháp đòn bẩy làm nổi bật vẻ đẹp của Kiều. Nếu Thúy Vân với vẻ đẹp đoan
trang, phúc hậu tThúy Kiều lại sắc sảo mặn mà, vẹn toàn cả tài lẫn sắc. Vẻ
đẹp của Kiều được khắc họa một cách chấm phá chứ không miêu ta toàn diện
như Vân, đó cách tạo điểm nhấn rệt. Qua đôi mắt trong trẻo, dịu dàng như
hồ nước mùa thu, đôi mày sắc nét tươi mới như nét núi mùa xuân. Một hình ảnh
ước lệ quen thuộc kết hợp với so sánh ẩn dụ đã khắc họa chân dung Thúy Kiều
đẹp hoàn hảo. Vẻ đẹp khiến cho “hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”.
“ghen”, “hờn” các động từ chỉ sự ghen ghét, đố kị, mang một sắc thái
mạnh biểu thị thái độ ghen tức của thiên nhiên đối với vẻ đẹp của Thúy Kiều, vẻ
đẹp làm thành nghiêng nước mất, tiềm tàng tai họa. Và đằng sau sự nổi giận của
tạo hóa ấy sẽ là sự trả thù theo quy luật tự nhiên: “trời xanh quen thói, hồng
đánh ghen”.
Nếu như Thúy Vân, tác giả chỉ dừng việc miêu tả sắc đẹp thì Thúy Kiều
hội tụ cả sắc lẫn tài:
“Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai”
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
41
Tác giả ngợi ca Thúy Kiều một người thiếu nữ đẹp tuyệt trần, không những
thế tài năng của nàng xuất sắc đến nỗi trên đời này phải chăng người thứ hai
sánh bằng:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương”
Chuẩn mực về sự tài giỏi ngày xưa hội tụ: “cầm, kỳ, thi, họa” thì Thúy Kiều đủ
cả, không những biết còn đạt đến trình độ khiến người khác phải nể phục.
Trong đó, nàng đặc biệt nổi trội về “cầm”. Cung đàn được vang lên bởi một
người thiếu nđa sầu đa cảm, lẽ bản nhạc nàng Kiều sáng tác tuổi
thanh xuân lại một thiên bạc mệnh, dự báo trước một tương lai không chút
êm đềm:
“Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”
Với tất cả tài năng, phẩm chất của nàng đang thì chắc chắn rằng, cuộc sống
êm đềm hiện tại, sự an nhàn tĩnh tại ngầm chuẩn bị trước cho một trận bão táp
cuồng phong. Trong dân gian xưa cũng câu: “tài tình chi lắm cho trời đất
ghen” hay “chữ tài liền với chữ tai một vần”.
Khép lại đoạn trích, Nguyễn Du một lần nữa tái hiện của sống êm ả, ngày qua
ngày của hai chị em Thúy Vân và Thúy Kiều:
“Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê,
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
42
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Sống trong khuôn phép, trong “trướng rủ màn che”, hai chị em đã sắp tới tuổi
tìm đấng phu quân cho mình nhưng lẽ với chữ “mặc” câu thơ cuối đã thể
hiện thái độ của Kiều và Vân, không tơ tưởng đến những kẻ ngoài kia.
Bằng cả tài tâm của mình, đại thi hào Nguyễn Du đã khắc họa chân dung hai
nhân vật một cách sống động sắc nét. Với thể thơ lục bát truyền thống mềm
mại tinh tế, kết cấu trình tự thể hiện dụng ý. Song song với đó bút pháp
ước lệ tượng trưng quen thuộc (làn thu thủy, nét xuân sơn, mai cốt cách, tuyết
tinh thần...), khéo léo sử dụng các biện pháp tu từ như so sánh nhân hóa đặc
sắc... Không những thành công trong việc khắc họa chân dung còn thông
qua đó dự cảm về số phận của hai chị em. Đặc biệt bức chân dung của Thúy
Kiều là chân dung mang tính chất số phận hội tụ đủ: “sắc, tài, tình, mệnh”.
Như vậy, đằng sau nét khắc họa và những dự cảm về số phận của Nguyễn Du là
tấm lòng của nhà thơ đối với người thiếu nữ trong xã hội xưa. Đó là nét đặc sắc
trong đoạn trích “chị em Thúy Kiều” - một đoạn trích tiêu biểu cho biệt tài khắc
họa chân dung của đại thi hào.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 5
“Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du không chỉ là kiệt tác bất hủ của nền
văn học trung đại mà còn là của cả nền văn học Việt Nam. Với những giá trị nội
dung tưởng lớn, mang tính hiện thực sâu sắc, phản ánh, lên án sự bất công,
tàn ác của chế độ phong kiến số phận bất hạnh của người phụ nữ. Đồng thời
thể hiện tư tưởng nhân đạo, cảm thương sâu sắc cho số phận con người, đặc biệt
là phận nhi nữ, trân trọng những vẻ đẹp của người phụ nữ dưới chế độ cũ.
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
43
thể nói rằng dẫu con người của chế độ phong kiến, nhưng thông qua
“Truyện Kiều” ta thnhận ra tưởng suy nghĩ của Nguyễn Du đã vượt
trước thời đại cả hàng trăm năm, để lại cho nền văn học một tác phẩm kinh điển
ảnh hưởng sâu rộng trong văn hóa của người Việt. Truyện Kiều tựa như một
nguồn cảm hứng lớn, một khởi điểm cho nhiều các loại hình văn hóa khác như
bói Kiều, lẩy Kiều, trò Kiều, tranh Kiều, vịnh Kiều… Thậm chí còn trở thành đề
tài cho nhiều loại hình nghệ thuật sân khấu, âm nhạc, hội họa... Không chỉ vậy
Truyện Kiều còn trở thành tác phẩm hiếm hoi của văn học Việt Nam được dịch
cho xuất bản trên hai mươi quốc gia. Sự thành công của Truyện Kiều,
không chỉ đến từ nội dung hiện thực nhân đạo còn đến từ những gtrị
nghệ thuật, thể hiện tuyệt tài cầm bút của Nguyễn Du. Bao gồm việc sử dụng
nhuần nhuyễn thể thơ lục bát của dân tộc, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, nghệ
thuật tả cảnh, tả người bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, linh hoạt, gợi nhiều
hơn tả... Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là một trong những trích đoạn thể hiện
rất đặc sắc biệt tài dùng bút pháp ước ltượng trưng đmiêu tả vẻ đẹp con
người của Nguyễn Du.
Thúy Kiều, nhân vật chính của tác phẩm xuất thân con nhà danh giá, khuê
các. Đoạn trích Chị em Thúy Kiều nằm phần đầu “Gặp gỡ đính ước” của
tác phẩm, giới thiệu về bối cảnh gia đình Kiều mối duyên định mệnh của
nàng với chàng Kim Trọng.
Hai câu đầu của đoạn trích “Đầu lòng hai tố nga/Thúy Kiềuchị em là Thúy
Vân” đã giới thiệu thân phận của hai chị em hai con gái lớn của gia đình
Vương viên ngoại, trong đó Thúy Kiều chị cả, còn Thúy Vân con thứ. Vẻ
đẹp chung nhất của hai chị em được Nguyễn Du tóm gọn bằng một câu “Mai
cốt cách, tuyết tinh thần”, tiêu biểu cho phong cách ước lệ gợi tả của tác giả.
“Cốt cách” tức chỉ phẩm chất, tính cách của hai cô gái, được ví với cây hoa mai
- một trong Tứ quân tử tượng trưng cho vẻ đẹp thanh cao, phú quý, sự bền bỉ và
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
44
kiên trì trong cuộc sống. Lại lấy “tuyết”, một thứ vừa mỏng manh, vừa trong
trẻo, nhẹ nhàng để chỉ “tinh thần” ngụ ý diễn tả tâm hồn trong sáng, thanh khiết
của Kiều Vân, những gái mới ngấp nghé tuổi cập kê, hồng trần chưa
chạm. Tuy những vẻ đẹp chung nhất như thế nhưng Kiều và Vân vẫn
riêng cho mình những vẻ đẹp riêng đến từ ngoại hình, khí chất và tâm hồn được
Nguyễn Du chỉ ra trong câu thơ “Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”,
muốn nói rằng khó thể phân được tài sắc của hai chị em, dẫu rằng Kiều là
nhân vật chính nên phần nổi trội hơn. Để làm nổi bật cái vẻ đẹp của Thúy
Kiều, Nguyễn Du đã rất tinh tế và khéo léo khi chọn miêu tả cô em là Thúy Vân
trước. Phân đoạn miêu tả Thúy Vân ngắn gọn gồm bốn câu thơ:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
thể nhận xét chung rằng vẻ đẹp của Thúy Vân một vđẹp mang tính tiêu
chuẩn trong hội phong kiến, tiêu biểu cho vẻ ngoài của những con người
phúc tướng, số phận an nhàn, hiền hòa cuộc đời không chịu nhiều sóng gió.
lẽ số phận Vân đã gắn với việc trở thành phu nhân quyền quý, thế nên
Nguyễn Du mới miêu tthần thái của nàng bằng mấy chữ “trang trọng khác
vời” đó vẻ đẹp kiêu sa, sang trọng không phải gái nào cũng được.
“Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nnang”, trong quan niệm thẩm cũ, người
khuôn mặt tròn đầy như Thúy Vân lại người phúc khí. Không chỉ vậy
hình ảnh ước lệ “trăng” là ngụ ý chỉ sự thanh khiết, hiền hòa nhã nhặn của
người con gái. Bên cạnh khuôn mặt tròn, phúc hậu, Thúy Vân còn may mắn
được “nét ngài nở nang” là đôi chân mày đậm nét, rõ ràng và cách xa nhau, vốn
nét đẹp cũng thể hiện tướng phúc trên khuôn mặt. Điều đó cho thấy rằng
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
45
Vân người hiểu lễ nghĩa, rộng lượng hiền hòa trong cuộc sống. Đó là về
khuôn mặt đôi mày, đối với nụ cười và giọng nói của Thúy Vân, Nguyễn Du
cũng dành cho nàng những cụm từ rất mỹ miều thanh nhã: “Hoa cười ngọc
thốt đoan trang”. Nụ cười của nàng Vân tươi tựa như hoa nở, mang cảm giác vui
mừng, sáng sủa, dịu dàng. Còn giọng nói thì trong sáng, vừa thanh vừa ấm
như ngọc, bởi thế người nói rằng người con gái đẹp thì chắc chắn giọng
nói hay, nếu ứng với Thúy Vân thì quả thực chẳng thể nào sai. tổng kết lại
với điệu cười, giọng nói ấy dành cho Thúy Vân hai chữ “đoan trang” quả thật là
rất xứng. Vđẹp của Thúy Vân tiếp tục được diễn tả bằng câu “Mây thua nước
tóc tuyết nhường màu da”, tóc tựa mây, mái tóc dài, dài đen nhánh, từ đó
ta cũng có thể phần nào suy ra được tính cách của nàng Vân mặc dù Nguyễn Du
không đcập đến. Đó biểu trưng cho người con gái hiền dịu, tính tình bình
đạm, trọng tình nghĩa, và rất mực chung thủy. Còn ý “tuyết nhường màu da” thì
lẽ không cần phải bàn cãi, lấy màu tuyết để chỉ màu da, da trắng như tuyết,
đó vẻ đẹp tuyệt mỹ sánh ngang với thiên nhiên tạo hóa, cái phúc của nàng
Vân. Chung quy qua bốn câu thơ miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân, Nguyễn Du đã
dùng bút pháp ước lệ tượng trưng thông qua các hình ảnh rất nhã nhặn, dịu dàng
như “trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết” để gợi ra nét đẹp của một người con gái
vẻ đẹp quý phái, không quá sắc sảo, nhưng khiến người ta dễ chịu quý mến,
điều này gợi ý cho người đọc, cũng như dự đoán trước về cuộc đời bình đạm và
êm ấm của nàng Vân.
Khác với Thúy Vân, khi tả Thúy Kiều Nguyễn Du dùng đến tám câu thơ mới
diễn đạt được cái vẻ đẹp của nàng, từ lượng câu thơ gấp đôi ta thể thấy rằng
vẻ đẹp của Kiều vẻ đẹp hiếm thấy tuyệt mĩ, bởi so với Thúy Vân người
con gái vốn đã xinh đẹp nhưng chỉ bốn câu thơ đã khái quát gọn thì Thúy
Kiều rõ ràng đã một tầm nhan sắc khác. Ta có thể thấy rõ được ngụ ý này của
Nguyễn Du qua hai câu thơ chuyển “Kiều càng sắc sảo mặn mà/So bề tài sắc lại
là phần hơn”.
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
46
“Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành họa hai
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương”
So với Thúy Vân, thì đến Thúy Kiều dường như Nguyễn Du lại càng vận dụng
triệt để cải thủ pháp ước lệ tượng trưng. Nếu như Vân tác giả còn chỉ vẻ
đẹp của từng bộ phận trên thể, rồi đem với thiên nhiên, thì Thúy Kiều,
hầu như Nguyễn Du chỉ gợi nhẹ, dùng bút pháp chấm phá đngười đọc tự liên
tưởng ra bức tranh Thúy Kiều. “Làn thu thủy” tức là nói đến đôi mắt trong như
nước mùa thu, với những rung động nhẹ nhàng, nói đến đôi mắt mang màu
nước, lại còn là mùa thu thì đó lại gợi cho ta một vẻ đẹp tuyệt trần, yếu đuối,
cùng lãng mạn. Nhưng cũng đồng thời chỉ ra rằng người đôi mắt ấy lại
người đa sầu, đa cảm cũng người số kiếp truân chuyên, vận mệnh đào
hoa. Tương tự “nét xuân sơn” tức chỉ đôi mày đẹp như núi mùa xuân, khiến
người ta liên tưởng đến đôi mày liễu, gọn mảnh, cong, mang đến vẻ đẹp xuân
sắc cho cả khuôn mặt, đó cũng một nét đẹp tuyệt hiếm có, biểu lộ tính cách
nhu thuận, dịu dàng của người phụ nữ. Thế nhưng Nguyễn Du tại sao không so
với những sự vật khác lại gợi ra đôi mày của Kiều bằng hình ảnh núi non,
điều này cũng làm ta phải suy nghĩ. thể giải thích rằng đó cũng lại là một
ngụ ý nói về cuộc đời của Kiều, cũng gập ghềnh trắc trở y như dáng núi, hết lên
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
47
lại xuống, kđược ngày hiền hòa yên giấc. Đó nói về đôi mắt, để nói về
vẻ đẹp của Kiều Nguyễn Du còn câu “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém
xanh”, dẫu chưa phân tích thế nhưng từ bề mặt chữ ta cũng có thể dễ dàng nhận
thấy Thúy Kiều là một cô gái có vẻ đẹp rất sắc sảo, mặn mà khác hẳn với cái vẻ
đẹp trang nhã, nhẹ nhàng của em Thúy Vân. So với “Làn thu thủy, nét xuân
sơn” thì câu thơ này lại càng hồ khôngNguyễn Du muốn phiếm chỉ vẻ
đẹp nào của Thúy Kiều. Thế nhưng từ chữ “thắm” có lẽ là tác giả muốn miêu tả
nét môi nàng Kiều, môi đỏ như son, đến loài hoa cũng phải ghen tị vì chẳng tươi
được bằng đôi môi của nàng. Một cách hiểu khác, có thể “thắm” ở đâychỉ vẻ
đẹp thiên tiên, tuyệt trần, đằm thắm của Thúy Kiều không một loài hoa nào
có thể sánh ngang được. Cách điều này khiến ta liên tưởng đến một trong bốn tứ
đại mỹ nhân của Trung Hoa cổ đại, nàng Dương Quý phi với vẻ đẹp “tu hoa”,
đến hoa cũng phải xấu hổ không sánh bằng. Ý “liễu hờn kém xanh” lại càng
đặc sắc trong nghệ thuật gợi tả ước lệ của Nguyễn Du, ai cũng biết rằng loài liễu
loài nức danh với bản tính mềm mại, dịu dàng, thế nhưng khi so với Kiều thì
lại phải hờn “kém xanh”. đây xanh tức chỉ sức sống, sự dẻo dai, cũng
đồng nghĩa với việc gợi ra cái dáng hình lả lướt, mềm mại, uyển chuyển tuyệt
thế so với liễu chỉ hơn chứ không kém của Thúy Kiều. Như vậy so với Thúy
Vân, thì vẻ đẹp của Thúy Kiều còn được gợi ra thông qua dáng hình mềm mại,
yếu đuối, lẽ nghĩ sâu hơn ta thể tưởng tượng được thân hình tuyệt thế
của nàng. Tuy không đặc tả Kiều một cách rõ nét như Thúy Vân nhưng Nguyễn
Du đã dành hai câu thơ để nhấn mạnh nhan sắc Kiều rằng “Một hai nghiêng
nước nghiêng thành/Sắc đành đòi một tài đành họa hai”, ý chỉ vẻ đẹp của Kiều
lẽ cũng chẳng khác những Tây Thi, Điêu Thuyền thuở xưa, hồng nhan thì
họa thủy, nghiêng nước nghiêng thành thật. thực sự, Kiều cũng khiến
một nam nhân như Từ Hải rời bỏ một cõi, rồi cuối cùng rơi vào kết cục không
thể vãn hồi.
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
48
Đặc biệt Thúy Kiều vẻ đẹp nổi trội hơn không chỉ nhan sắc còn thể
hiện tài năng của nàng, thiết nghĩ Nguyễn Du tuy tư tưởng tiến bộ, nhưng
vẫn còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền Nho học cho rằng phụ nữ không cần
quá xuất sắc thì mới thể hạnh phúc tiêu biểu cho hình mẫu này Thúy
Vân, còn ngược lại phụ nữ vừa nhan sắc, lại còn tài thì thường bạc
mệnh. Thế nên Nguyễn Du mới xây dựng hình tượng Kiều vừa nhan sắc
tuyệt diễm, lại thêm là bậc kỳ tài trong thi, ca, nhạc, họa. Nàng là người con gái
thông minh, học một biết mười, đặc biệt với món đàn tỳ thì lại càng tay
nghề trác tuyệt. “cung thương làu bậc ngũ âm”, nàng thể tự phổ nhạc, sáng
tác nên các khúc đàn hay, thế nhưng có lẽ như một điềm báo về kiếp hồng nhan
bạc mệnh, từ việc tinh thông tỳ - thứ đàn vốn hay xuất hiện chốn phong
trần, âm vực rộng rãi, cầm phổ chủ yếu những nốt buồn thê lương. Cho
đến việc bản thân Kiều cũng viết bản “Bạc mệnh”, buồn thương, não nề đã phần
nào thể hiện được cuộc đời đầy sóng gió của một trang giai nhân tuyệt sắc.
“Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Những câu thơ cuối lại quay về miêu tả hoàn cảnh sống của hai chị em, cả hai
nàng xuất thân con viên ngoại nên cuộc sống cũng được xem là khá giả, “phong
lưu” được sống trong lụa gấm vóc. Kiều Vân đã sắp tới tuổi cập kê, gần
tuổi xuất giá, trước khi sóng gió ập đến thì chị em “êm đềm trướng rủ màn che”,
cuộc đời trôi qua yên ả, vui vầy. Dẫu cũng đã trưởng thành, nhưng cả hai nàng
đều còn rất thanh cao, tinh khiết. Những thứ ái tình “ong bướm”, Kiều Vân
cũng chưa từng nếm trải mà giữ gìn nền nếp gia phong một phép.
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
49
Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” phân đoạn thể hiện nét tài năng bậc thầy
của Nguyễn Du trong việc miêu tả người thông qua bút pháp ước lệ tượng
trưng, chỉ gợi, vẽ vào một nét bút chấm phá, đngười đọc tkhai phá ra bức
tranh nhân vật. Đồng thời đoạn trích còn thể hiện tưởng nhân đạo của
Nguyễn Du khi rất mực trân trọng và tinh tế, tỉ mỉ trước vẻ đẹp của chị em Thúy
Kiều. Đặc biệt là ở nhân vật Kiều, ông không chỉ khai thác nhan sắc hiếm có mà
còn vẽ nàng thông qua vẻ đẹp tài năng, trí tuệ, cốt cách bên trong, đlàm
nổi bật bức tranh người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng bạc mệnh.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 6
Nguyễn Du (1765 - 1820) quê Tiên Điền, Nghi Xuân, Tĩnh. Ông đại thi
hào của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Một trong những tác phẩm thành
công về chNôm của ông “Đoạn trường tân thanh” hay còn gọi “Truyện
Kiều”. Truyên không những có nội dung sâu sắc mà còn rất thành công về nghệ
thuật. Tiêu biểu cho nghệ thuật khắc họa nhân vật đoạn trích “Chị em Thúy
Kiều”. Đoạn trích đã đề cao trân trọng vẻ đẹp của con người đặc biệt người
phụ nữ thông qua việc miêu tả tài sắc của chị em Thúy Kiều. Đây đoạn
trích thể hiện sâu sắc cảm hứng nhân vật của Nguyễn Du.
Bốn dòng thơ đầu tác giả giới thiệu chung về vị thứ vẻ đẹp của chị em Thúy
Kiều:
“Đầu lòng hai ả tố nga,
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười”
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
50
Bằng cách giới thiệu hai “ả tố nga” vừa ngắn gọn vừa giản dị hết sức ấn tượng
đầy đủ. Trong gia đình họ Vương hai con gái đầu lòng đẹp như “Hằng
Nga”. câu thơ “‘Mai cốt cách, tuyết tinh thần” bằng việc sử dụng bút phát
ước lệ tượng trưng thông qua hai hình ảnh “mai”, “tuyết”, tác giả gợi lên trước
mắt chúng ta vẻ đẹp của hai thiếu nvới dáng người mảnh dẻ, duyên dáng như
cây mai một loài hoa đẹp cao quý, tâm hồn của họ trong trắng như tuyết, cả
hai đều đẹp hoàn thiện, hoàn mỹ “mười phân vẹn mười”, mỗi người mang một
nét đẹp riêng "Mỗi người mỗi vẻ", đúng cách nhìn đầy ngợi ca trân trọng của
tác giả.
Đến với bốn câu thơ tiếp theo, tác giả ngợi về vẻ đẹp của Thúy Vân.
“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Câu thơ đầu Vân xem trang trọng khác vời” đã khái quát đặc điểm của nhân
vật. Hai chữ “trang trọng” gợi vđẹp cao sang, quý phái của Thúy Vân, thể
nói có bao nhiêu cái đẹp của tạo vật, thiên nhiên đều được Nguyễn Du mượn để
tạo nên chân dung của Thúy Vân. Đó là “trăng, hoa, tuyết, ngọc, mây” - bằng
bút pháp ước lệ, thư pháp liệt kê, vẻ đẹp của Vân được tác giả cụ thể hóa bằng
khuôn mặt, đôi y, mái tóc, làn da, nụ cười, giọng nói. Cụ thể trong việc sử
dụng từ ngữ làm nổi bật vẻ đẹp của đối tượng được miêu tả: “đầy đặn”, “nở
nang” “đoan trang”. Những biện pháp tu tẩn dụ, so sánh, nhân a đều
nhằm thể hiện vẻ đẹp phúc hậu mà quý phái của người thiếu nữ. Một Thúy Vân
với gương mặt đầy đặn dịu nhẹ như trăng rằm, lông mày sắc nét đậm như con
ngài, miệng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong như ngọc, mái tóc mềm
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
51
mượt hơn mây, làn da trắng hơn tuyết. Vẻ đẹp ấy làm cho thiên nhiên ngưỡng
mộ “mây thua”, “tuyết nhường”. Hai chữ “thua” “nhường” biểu hiện sự hài
lòng không ghen ghét, điều này dự báo nàng sẽ một cuộc sống bình lặng,
suôn sẻ không gặp sóng gió.
Nếu tThúy Vân với bốn câu thơ thì sang Thúy Kiều Nguyễn Du dành cho
nàng ời hai câu thơ. Nếu Vân được miêu tả với vẻ đẹp hoàn hảo thì Thúy
Kiều còn vượt lên trên cái hoàn hảo đó, nếu Vân Nguyễn Du chỉ nói đến sắc t
Kiều còn đẹp cả sắc lẫn tài, đó là vẻ đẹp của tuyệt thế giai nhân sắc sảo mặn mà.
“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn”
đây, Nguyễn Du rất thành công trong việc sử dụng nghệ thuật đòn bẩy. Miêu
tả Vân trước để làm nền cho vẻ đẹp của Kiều. Chỉ bằng một câu thơ với các từ
“càng”, “hơn”, tác giả giúp người đọc hình dung vẻ đẹp vượt trội của Kiều.
Nàng không những tuyệt đỉnh về nhan sắc mà còn sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về
tâm hồn.
“Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”
Khi miêu tả Thúy Kiều, tác giả vẫn sử dụng bút pháp ước lệ thông qua các hình
tượng thiên nhiên “thu thủy”, “xuân sơn”, “hoa ghen”, “liễu hờn”. Chỉ điều
Nguyễn Du không liệt kê nhiều chi tiết như Vân à chỉ tập trung ở đôi mắt. Hình
ảnh ước lệ “thu thủy” gợi tả đôi mắt Kiều đẹp trong như nước mùa thu, “xuân
sơn” gợi lên đôi lông mày thanh trên khuôn mặt trẻ trung, đôi mắt ấy của
Kiều chính là cửa sổ tâm hồn, thể hiện sự sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn.
Sắc của Kiều làm cho người ta ngưỡng mộ say đến lỗi thể “mất nước,
mất thành”, con thiên nhiên thì ganh ghét, đố kỵ “hoa ghen”, “liễu hờn”.
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
52
Sắc đã vậy còn tài, tình của Kiều thì sao? Miêu tả Kiều tác giả dành một phần
để nói về nhan sắc, còn dành đến hai phần để nói về tài năng. Đây chính là dụng
ý nghệ thuật của Nguyễn Du. Ông muốn nhấn mạnh sắc đẹp của Kiều thì không
bút pháp nào tả nổi. Về sắc đẹp của Kiều số một còn vtài thì trong thiên
hạ may ra có người thứ hai:
“Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai”
Kiều thông minh bẩm sinh, cái tài do trời phú. Tài năng của nàng đạt tới mức
hoàn thiện theo quan niệm thẩm mỹ gồm cả" cầm, kỳ, thi. họa"
“Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương”
Đặc biệt tài đàn của nàng là nổi trội hơn cả - sở trường, tiếng đàn của nàng
thật hay, hay đến mức thể ăn đứt bất cứ nghệ tài ba nào trong thiên hạ.
Kiều không chỉ giỏi đánh đàn còn giỏi sáng tác nhạc, đến mức thể soạn
cho mình một bản nhạc về nhan đề " bạc mệnh" . Mỗi khi nàng gảy bản đàn đó
đều khiến cho lòng người âu sầu, ảo não người nghe chau mày rơi lệ. Cung đàn
“bạc mệnh” chính là sự ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sầu, đa cảm.
Như vậy vđẹp của Kiều sự kết hợp cả sắc, tài và tình, một vẻ đẹp vượt qua
ngoài khuôn khổ khiến cho tạo hóa ghen ghét đố kỵ.
“Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”
Từ việc khắc họa bức chân dung Thúy Kiều tác giả dự báo về số phận éo le, đau
khổ, một tương lai chìm nổi sđến với nàng. Mặc tài sắc của Thúy Kiều,
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
53
Thúy Vân khác nhau dự báo về tương lai cuộc sống khác nhau, nhưng đức hạnh
của hai nàng đều đáng trân trọng, điều này thể hiện qua bốn câu thơ cuối:
“Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Mặc đã đến tuổi cập nhưng “hai tố nga’ đã và đang sống cuộc đời nề
nếp, gia giáo, cuộc sống của các thiếu nữ phong khuê không hề tình yêu
thiếu đúng đắn.
Như vậy với hai câu thơ trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” một trong
những đoạn thơ mẫu mực về nghệ thuật tả người. Bằng bút pháp ước lệ tượng
trưng, thủ pháp đòn bẩy, các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, ẩn dụ. Tác giả
đã khắc họa chân dung hai người thiếu nữ với tất cả sắc, tài, tình, mệnh. Đằng
sau bức chân dung chị em Thúy Kiều là tấm lòng ngợi ca trân trọng của tác giả -
đó một biểu hiện của tinh thần nhân văn trong Truyện Kiều, qua đây ta hiểu
trân trọng thêm vẻ đẹp của con người đặc biệt là người phụ nữ.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 7
Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” trong Truyện Kiều đã gợi tả được vẻ đẹp đặc
sắc của hai cô con gái nhà họ Vương, vẻ đẹp chung của chị em Thuý Kiều cũng
như vẻ đẹp của từng người được Nguyễn du khắc học một cách nét bằng bút
pháp ước lệ tượng trưng.
Trước hết Nguyễn du giới thiệu vẻ đẹp chung về hai chị em trong gia đình:
“Đầu hai ả tố nga,
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
54
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân”
Tiếp đến, tác giả giới thiệu một cách khái quát nét đẹp chung riêng của hai
chị em:
“Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một một vẻ mười phân vẹn mười”
Bằng bút pháp so sánh ước lệ, vẻ đẹp về hình dáng (mai cốt cách) vẻ đẹp về
tâm hồn (tuyết tinh thần) của hai chị em được tôn lên đến độ hoàn mỹ. Cả hai
đều đẹp mười phân vẹn mười. Trong cái đẹp chung ấy có cái đẹp riêng của từng
người - Mỗi người một vẻ. Trừ câu đầu, cả ba câu sau mỗi câu được chia làm
hai vế gợi cho người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của mỗi người. Bốn câu thơ
đầu bức tranh nền đế từ đó tác giả dẫn người đọc lần lượt chiêm ngưỡng sắc
đẹp của từng người.
Bốn câu tiếp theo tác giđặc tả nhan sắc Thuý Vân - Một con người phúc hậu,
đoan trang. Nàng vẻ đẹp cao sang quý phái trang trọng khác vời. vốn bút
pháp nghệ thuật ước lệ truyền thống nhưng vẻ đẹp của Thuý vân lại hiện n
một cách cụ thể: “Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang - Hoa cười ngọc thốt
đoan trang - Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”. Từ khuôn mặt, nét ngài,
tiếng cười, giọng nói, mái tóc, làn da đều được so sánh với “trăng, hoa, ngọc,
mây, tuyết”. Thế vẻ đẹp của Thuý Vân cứ dần được bộc lộ theo thủ pháp ẩn
dụ, nhân htài tình của tác giả. Vẻ đẹp của Thuý Vân vẻ đẹp gần gũi, hòa
hợp với thiên nhiên.
Nếu như Thuý Vân được tả với vẻ đẹp hoàn hảo thì vẻ đẹp của Thuý Kiều
còn vượt lên trên cái hoàn hảo ấy: “Kiều càng sắc sảo mặn mà”. Đâymột thủ
pháp nghệ thuật của văn chương cố. Từ cái đẹp của Thuý Vân, Nguyễn Du chỉ
cần giới thiệu một câu: “Kiều càng sắc sảo mặn mà”, thế vẻ đẹp của Thuý
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
55
Kiều đã vượt lên trên vđẹp của Thuý Vân (sắc sảo) tâm hồn (mặn mà). Tả
Vân trước, tả Kiều sau đó là cách tác giả mượn Vân đế tả Kiều. Qua vẻ đẹp của
Vân mà người đọc hình dung ra vế đẹp của Kiều.
Ở Vân trác giả không hề tả đôi mắt, còn ở Kiều tác giả lại đặc tả đôi mắt. vẫn là
nghệ thuật ước lệ tượng trưng, đôi mắt của Kiều được so sánh với: “Làn thu
thuỷ, nét xuân sơn”. Cái sắc sảo mặn của đôi mắt chính là biểu hiện của vẻ
đẹp tâm hồn. Với đẹp của Thuý Vân là vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu, thiên nhiên
sẵn sàng thua và nhường còn vẻ đẹp của Kiều làm cho thiên nhiên.
Tác giả ngợi ca Thúy Kiều một người thiếu nữ đẹp tuyệt trần, không những
thế tài năng của nàng xuất sắc đến nỗi trên đời này phải chăng người thứ hai
sánh bằng:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương”
Chuẩn mực về sự tài giỏi ngày xưa hội tụ: “cầm , kỳ, thi, họa” thì Thúy Kiều đủ
cả, không những biết còn đạt đến trình độ khiến người khác phải nể phục.
Trong đó, nàng đặc biệt nổi trội về “cầm”. Cung đàn được vang lên bởi một
người thiếu nđa sầu đa cảm, lẽ bản nhạc nàng Kiều sáng tác tuổi
thanh xuân lại một thiên bạc mệnh, dự báo trước một tương lai không chút
êm đềm:
“Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
56
Với tất cả tài năng, phẩm chất của nàng đang thì chắc chắn rằng, cuộc sống
êm đềm hiện tại, sự an nhàn tĩnh tại ngầm chuẩn bị trước cho một trận bão táp
cuồng phong. Trong dân gian xưa cũng câu: “tài tình chi lắm cho trời đất
ghen” hay “chữ tài liền với chữ tai một vần”.
Khép lại đoạn trích, Nguyễn Du một lần nữa tái hiện của sống êm ả, ngày qua
ngày của hai chị em Thúy Vân và Thúy Kiều:
“Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê,
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Sống trong khuôn phép, trong “trướng rủ màn che”, hai chị em đã sắp tới tuổi
tìm đấng phu quân cho mình nhưng lẽ với chữ “mặc” câu thơ cuối đã thể
hiện thái độ của Kiều và Vân, không tơ tưởng đến những kẻ ngoài kia.
Tóm lại, đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” đã khắc họa được vẻ đẹp của Thúy
Kiều Thúy Vân. Qua đó, chúng ta thấy được nghệ thuật miêu tả đầy độc đáo
của Nguyễn Du.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 8
Nguyễn Du đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Cho đến nay,
“Truyện Kiều” của ông vẫn được coi là tác phẩm thơ Nôm kiệt xuất của nền văn
học dân tộc. Trong đó, Nguyễn Du thể hiện tài năng bậc thầy nhiều phương
diện, đặc biệt là nghệ thuật xây dựng nhân vật. Hầu hết các chân dung đều được
miêu tả sinh động, sức sống. thể thấy điều này chỉ qua đoạn trích “Chị
em Thúy Kiều”.
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
57
Trong bốn câu thơ đầu, nhà thơ không tả giới thiệu chung về vị trí thứ bậc
và vẻ đẹp toàn diện của hai nàng:
“Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
“Ả” là cách gọi của người dân xứ Nghệ với các chị, các cô. Còn “tố nga” là ước
lệ chỉ vẻ đẹp thiếu nữ thanh tân, rạng rỡ. Bên cạnh ước lệ “tố nga” hình ảnh
ẩn dụ tượng trưng “mai cốt cách”, “tuyết tinh thần” gợi vóc dáng mảnh dẻ, cốt
cách thanh cao như mai. “Tuyết tinh thần” tâm hồn trong sạch, trắng trong
như tuyết. Nguyễn Du cũng đã giới thiệu được vị trí, thứ bậc, trong đó chị
Thúy Kiều, em Thúy Vân cùng nhan sắc phẩm giá “Mỗi người một vẻ
mười phân vẹn mười”.
Đi vào miêu tả chi tiết hai bức chân dung của nàng Kiều, Vân. Nguyễn Du đã tả
chân dung của Thúy Vân trước:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
“Trang trọng”là tính từ Hán - Việt chỉ vẻ đẹp của phong thái; “đoan trang” gợi
ra vẻ đẹp của phẩm cách, lối sống. Thúy vân có phong thái sang trọng, quý phái,
phẩm cách hiền thục, mẫu mực, đứng đắn - đây là nét đẹp thường thấy của con
nhà gia giáo, nề nếp. Khuôn mặt Thúy Vân tròn trịa, đầy đặn, sáng đẹp tựa trăng
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
58
rằm. Nét mày thanh tú, cong mềm, óng ả. Miệng cười xinh, rạng rỡ như hoa.
Giọng nói trong, lời nói đẹp như châu, như ngọc. Tóc mềm mượt như mây. Da
trắng trẻo, mịn màng hơn tuyết…
Với Thúy Vân, người đọc chung cảm nhận về một nhan sắc hiền hòa, phúc hậu.
Tuy ít ai sánh được nhưng sắc đẹp của nàng vẫn trong vòng trời đất, êm đềm,
hòa hợp với tự nhiên:
“Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Trước nhan sắc Thúy Vân, thiên nhiên “thua”, ”nhường” - kém cạnh không
xung khắc. V đẹp ấy phải chăng d báo một cuộc đời suôn sẻ, bình lặng,
không bão tố?
Nghệ thuật ước lệ, tượng trưng, nhân hóa được tác giả sử dụng rất đắt. Góp
phần sinh động, chân thực cho bức chân dung Thúy Vân.
Vẻ đẹp của Thúy Kiều được Nguyễn Du miêu tả sau với một dụng ý nghệ thuật
đầy độc đáo:
“Kiều càng sắc sảo mặn
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Như vậy, miêu tả Thúy Vân trước, vẻ đẹp trong sáng, dịu dàng của nàng lại
được tác giả dùng làm nền để tôn nên vẻ đẹp mặn mà, sắc sảo, “phần hơn”
của nàng Kiều. Đặc biệt hơn nữa, Kiều không chỉ đẹp còn một giai nhân
đầy tài năng xuất chúng.
“Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
59
Dùng những hình ảnh của thiên nhiên cùng nghệ thuật ước lệ, nét vẽ của thi
nhân vừa gợi tạo sấn tượng chung về vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt thế. Khi
khắc họa vđẹp của Kiều, nhà văn nhấn vào đôi mắt đôi mắt vừa vẻ đẹp
ngoại hình, vừa thể hiện sự tinh anh của tâm hồn và trí tuệ. Nếu như vẻ đẹp của
Thúy Vân được thiên nhiên “thua”, ”nhường” thì với sắc đẹp tuyệt thế của Thúy
Kiều, thiên nhiên đã phải “ghen”, “hờn”. Với cách miêu tả này, Nguyễn Du đã
dự báo cho người đọc về tương lai đầy chông gai, bất trắc của nàng Kiều sau
này.
Thúy Kiều còn là giai nhân “tài sắc toàn tài”. Nàng không chỉ mang vẻ đẹp xuất
chúng về ngoại hình, trí tuệ còn một con người tài năng, rất mực tài hoa:
“Sắc đành đòi một tài đành họa hai”:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương”
Thúy Kiều tinh thông cả: cầm, kỳ, thi, họa. Trong đó, vượt trội hơn cả là tài đàn.
Tài của Kiều đạt đến mức độ tưởng theo quan niệm thẩm của xã hội
phong kiến đương thời.
Chỉ bốn câu tthôi nhưng Nguyễn Du đã gợi ra được sự xuất sắc, tài hoa của
nàng Kiều. “Cung đàn bạc mệnh” của Thúy Kiều sáng tác - đó chính ghi lại
tiếng lòng của một trái tim đa sầu, đa cảm. Vẻ đẹp của Kiều skết hợp hài
hòa của cả sắc - tài - tình.
Bốn câu thơ cuối sự nhận xét của Nguyễn Du về cuộc sống “Êm đềm trướng
rủ màn che” của hai chị em. Đó cuộc sống phong lưu rất mực, đã đến tuổi
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
60
“cập kê” - tức tuổi búi tóc, cài trâm nhưng vẫn sống trong sự che chở của gia
đình.
Bằng nghệ thuật tả người đặc sắc, biện pháp ước lệ tượng trưng sử dụng
ngôn ngữ dân tộc tài tình, Nguyễn Du trong đoạn trích đã khắc họa sống động
chân dung hai chị em Kiều mỗi người một vẻ tạo nên bức tranh vừa hài hòa vừa
tương phản.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 9
Nguyễn Du một trong những tác giả lớn của nền văn học Việt Nam. Ông đã
để lại nhiều tác phẩm giá trị, nhưng nổi tiếng nhất phải kể đến Truyện Kiều.
Khi đọc “Truyện Kiều” lẽ người đọc sẽ cảm thấy ấn tượng với đoạn trích
“Chị em Thúy Kiều”.
Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu về gia
đình của Thúy Kiều. Khi giới thiệu, tác giả tập trung tả tài sắc của Thúy Vân
Thúy Kiều. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” đã khắc họa vẻ đẹp, tài năng của
chị em Thúy Kiều, cũng như dự cảm của Nguyễn Du về kiếp người tài hoa bạc
mệnh.
Bốn câu thơ đầu là những lời khái quát chung nhất về chị em Thúy Kiều:
“Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”
Tác giả đã mượn lối nói ước lệ để giới thiệu về lai lịch, vị trí trong gia đình
cũng như nét đẹp của Thúy Kiều Thúy Vân. Họ vốn con gái nhà họ
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
61
Vương, trong đó Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân. Mỗi người đều mang trong
mình những vẻ đẹp riêng. Tuy vậy vẫn điểm chung - hình ảnh “mai”
“tuyết” gợi ra một nét thanh cao: vẻ đẹp ngoại hình đẹp đẽ duyên dáng như cây
mai, còn tâm hồn thì trong trắng như tuyết. Một nét đẹp hoàn hảo từ ngoại hình
đến tính cách, tâm hồn đều “mười phân vẹn mười”.
Đến bốn câu thơ tiếp theo, Nguyễn Du đã miêu tả đến vẻ đẹp của Thúy Vân:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Ngay từ câu thơ đầu tiên, vẻ đẹp của Thúy Vân đã được khái quát lại bằng hai
chữ “trang trọng”. Một vđẹp cao sang, quý phái của những gái nhà quyền
quý. Kế tiếp là hàng loạt những hình ảnh so sánh ước lệ. “Khuôn trăng đầy đặn”
gợi ra một “khuôn đầy đặn với nét đẹp phúc hậu, dịu dàng. Điểm trên khuôn
mặt đó “nét ngài nở nang” gợi ra vẻ đẹp của đôi lông mày hơi đậm. Không
chỉ vậy, tác giả còn khắc họa được giọng nói, nụ cười e thẹn, nhẹ nhàng
mang nét đoan trang: “hoa cười ngọc thốt đoan trang”. Đặc biệt nhất vẻ đẹp
của nàng Thúy Vân phải khiến cho tạo hóa phải nhường nhịn: “Mây thua nước
tóc, tuyết nhường màu da”. Việc miêu tả ngoại hình của Thúy Vân như muốn
dự báo trước về một cuộc đời yên bình, hạnh phúc của nàng.
Miêu tvẻ đẹp của nàng Thúy Vân trước, Nguyễn Du nhằm tạo đòn bẩy để
người đọc thấy sự nổi bật của Thúy Kiều. Luận về sắc đẹp, không ai có thể vượt
qua được nàng. Luận về tài năng, thì nàng “có một không hai” trên đời. Vẻ đẹp
“sắc sảo” về ngoại hình cũng như “mặn mà” về tính cách:
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
62
“Kiều càng sắc sảo mặn
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Trước hết là vẻ đẹp ngoại hình không ai sánh được:
“Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành”
Đôi mắt trong tựa như làn nước mùa thu, đôi lông mày đẹp thanh thoát như nét
núi mùa xuân. Vẻ đẹp của Kiều n khiến thiên nhiên phải ghen tị “ghen”,
“hờn” - vẻ đẹp dường như đã vượt qua mọi chuẩn mực của thiên nhiên, sức
làm “khuynh quốc khuynh thành”. Nghệ thuật nhân hóa (hoa ghen - liễu hờn)
kết hợp với nói quá (nghiêng nước nghiêng thành) được sử dụng nhằm khắc họa
nét đẹp ngoại hình của Kiều. Nhưng qua hình ảnh đó, tác giả cũng muốn dự báo
về cuộc đời gặp nhiều bất hạnh của nàng Kiều.
Không chỉ đẹp ở ngoại hình, Thúy Kiều cũng rất mực tài năng:
“Sắc đành đòi một tài đành họa hai
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
63
Thông minh vốn sẵn tính trời nên lĩnh vực nào nàng cũng đều am hiểu: cầm -
kỳ - thi - họa. Nhưng đặc biệt nhất vẫn là ở tiếng đàn. Nàng thuộc lòng các cung
bậc đánh đàn Hồ cầm (đàn cổ) thành thạo. Hơn thế, nàng còn giỏi sáng tác
nhạc nữa: “Khúc nhà tay lựa nên chương/Một thiên bạc mệnh lại càng não
nhân”. Mỗi nàng lần đánh đàn, nàng lại cất lên thiên “bạc mệnh” làm cho người
nghe phải đau khổ, sầu não. Bản đàn cất lên từ một trái tim đa sầu đa cảm.
Dường như đó cũng chính một điềm báo cho cuộc đời của nàng trong tương
lai. Chân dung của Thúy Kiều đã mang trong đó số phận của nàng.
Và bốn câu thơ cuối cùng là khung cảnh cuộc sống của hai chị em:
“Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Thúy Kiều Thúy Vân sống trong một gia đình giàu sang, quyền quý. đã
đến tuổi “cập kê” nhưng cả hai vẫn giữ gìn khuôn phép, sống đúng với chuẩn
mực của lễ giáo phong kiến. Việc sử dụng thành ngữ “trướng rủ màn che” nhằm
chỉ một lối sống kín đáo. Đó là lối sống của tiểu thư con nhà gia giáo: trong bốn
bức tường, ít khi giao tiếp bên ngoài, hằng ngày học nữ công gia chánh. Cuộc
sống khuôn phép luôn được giữ gìn mặc cho “tường đông ong bướm” - hình ảnh
ẩn dụ để chỉ những người đàn ông tán tỉnh phụ nữ không có mục đích tốt đẹp.
Như vậy, qua đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, người đọc đã thấy được vẻ đẹp
của Thúy Kiều Thúy Vân. Nhờ đó mới thấy được tài năng bậc thầy của
Nguyễn Du.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 10
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
64
Trong thơ cổ viết về giai nhân thì đoạn tChị em Thúy Kiều trích trong Đoạn
trường tân thanh tức Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du một trong
những vần thơ tuyệt bút. Hai mươi u thơ lục bát đã vẽ nên sắc, tài, đức
hạnh của hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân.
Với ngòi bút của một tài diệu bút Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung hai
nàng giai nhân tuyệt thế:
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Vân em, Kiều chị. Hai chị em Vân Kiều (con đầu lòng của gia đình
Vương viên ngoại) đều những tố nga - những người con gái đẹp. Vẻ đẹp
của hai nàng là vẻ đẹp thanh tao của mai, là sự trắng trong, tinh sạch của tuyết:
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Bút pháp ước lệ cùng phép ẩn dụ đã gợi lên vẻ đẹp hài hoà, hoàn hảo cả về hình
thức lẫn tâm hồn. Vẻ đẹp của hai nàng đều đến mức tuyệt mười phân vẹn
mười nhưng mỗi người lại mang một vẻ riêng. Nguyễn Du đã lấy những đẹp
đẽ nhất của thiên nhiên để miêu tả hai chị em. Thuý Kiều Thuý Vân đều
mang vẻ đẹp lí tưởng, theo khuôn mẫu và vượt lên trên khuôn mẫu.
Sau những câu thơ giới thiệu vhai chị em, ngòi bút Nguyễn Du lại chiều
hướng cụ thể hơn trong bức chân dung quý phái của Thuý Vân:
Vân xem trang trọng khác vời,
Hai chữ trang trọng trong câu tđã nói lên vẻ đẹp đài các, cao sang của Vân.
Vẻ đẹp ấy của thiếu nữ được so sánh với những thứ cao đẹp trên đời:
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
65
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Chân dung của Vân được miêu tả một cách khá toàn vẹn từ khuôn mặt, nét mày,
làn da, mái tóc đến nụ cười, tiếng nói. Vân có khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu như
vầng trăng, có đôi lông mày sắc nét như con ngài, có miệng cười tươi thắm như
hoa, giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngà ngọc và mái tóc của nàng bồng
bềnh hơn mây, làn da của nàng trắng hơn tuyết, sắc đẹp của Vân sánh với những
nét kiều diễm, sáng trong của những báu vật tinh khôi của đất trời. Tất cả toát
lên vẻ đẹp trung hậu, êm dịu, đoan trang, quý phái. Vân đẹp hơn những gì mỹ lệ
của thiên nhiên nhưng tạo sự hoà hợp, êm dịu: mây thua, tuyết nhường. Với vẻ
đẹp như thế, Vân sẽ một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ một tính cách điềm
đạm. Qua bức chân dung này, Nguyễn Du đã gửi tới những thông điệp về tương
lai, cuộc đời chính bởi vậy mà bức chân dung Thúy Vân là chân dung mang tính
cách số phận.
Tả Vân thật kĩ, thật cụ thể song Nguyễn Du chỉ vẽ Kiều bằng những nét phác
hoạ thông thoáng bởi ông không muốn là người thợ vẽ vụng về:
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Sắc đẹp của Kiều được đặt trong sự so sánh với vẻ đẹp đoan trang, quý phái của
Vân để thấy được sự hơn hẳn của Kiều về vẻ sắc sảo của tài năng trí tuệ, bởi cái
mặn của nhan sắc. Không tả khuôn mặt, giọng nói, tiếng cười, làn da, mái
tóc như Thuý Vân Nguyễn Du đã thật tài tình khi chọn đôi mắt Kiều để đặc
tả bởi đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ:
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
66
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Câu thơ tả đôi mắt gợi lên bức tranh sơn thuỷ, diễm lệ. Bức tranh ấy làn
thu thủy - làn nước mùa thu, nét xuân sơn - dáng núi mùa xuân. Cũng như
khuôn mặt Kiều đôi mắt trong sáng, long lanh, đôi lông mày thanh
khiến:
Hoa ghen đua thắm liễu hờn kém xanh.
Vẻ đẹp của Kiều không chỉ như thiên nhiên mà còn vượt trội hơn cả thiên nhiên
khiến hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải hờn. Thiên nhiên không còn thua,
nhường cau mày, bặm môi tức giận, đố kỵ hờn ghen. Nếu vẻ đẹp của
Vân là những gì tinh khôi, trong trắng nhất của đất trời thì Kiều lại mang vẻ đẹp
của nước non, của không gian mênh mông, của thời gian vô tận. Cái đẹp ấy làm
cho nghiêng nước, đổ thành:
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Nguyễn Du đã sử dụng những điển tích để cực tả Kiều với vẻ đẹp của trang giai
nhân tuyệt thế. cũng chính vẻ đẹp không ai sánh bằng ấy như tiềm ẩn những
phẩm chất bên trong cao quý là tài và tình rất đặc biệt:
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Kiều cả tài cầm - - thi - hoạ của những bậc văn nhân quân tử tài nào
cũng đến mức điêu luyện. Nàng giỏi về âm luật đến mức làu bậc. Cây đàn nàng
chơi là cây hồ cẩm, tiếng đàn của nàng ăn đứt bất cứ nghệ sĩ nào và đã trở thành
nghề riêng. Để cực tả cái tài của Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng hàng loạt các từ
ngữ mức độ tuyệt đối: vốn sẵn, pha nghề, làu bậc đủ mùi. Không những
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
67
giỏi ca hát, chơi đàn Kiều còn sáng tác nhạc nữa. Cung đàn nàng sáng tác là
một thiên Bạc mệnh. Bản đàn ấy đã ghi lại tiếng lòng của một tâm hồn đa sầu đa
cảm. Nguyễn Du cực tả tài năng của Kiều chính ngợi ca cái tâm đặc biệt của
nàng. Tài năng của Kiều vượt lên trên tất cả biểu hiện của những phẩm
chất cao đẹp, trái tim trung hậu, nồng nhiệt, nghĩa tình, vị tha. Vẻ đẹp của Kiều
sự kết hợp của sắc - tài - tình đạt đến mức siêu phàm, tưởng. Nhưng
nhan sắc đến mức hoa ghen, liễu hờn để tạo hóa phải hờn ghen đkị tài hoa
trí tuệ thiên bẩm làu bậc, đủ mùi cái tâm hồn đa sầu, đa cảm như tự dưng mà
của nàng khó tránh khỏi sự nghiệt ngã của định mệnh. Chính bởi Kiều quá toàn
mĩ, hoàn thiện nên trong hội phong kiến kia khó một chỗ đứng cho nàng.
cung đàn Bạc mệnh nàng tự sáng tác như dự báo một cuộc đời hồng nhan
bạc mệnh khó tránh khỏi của Kiều. Cuộc đời nàng rồi sẽ sóng gió, nổi chìm,
truân chuyên. Cũng giống như bức chân dung Thúy Vân, bức chân dung Kiều là
bức chân dung mang tính cách số phận.
Nguyễn Du hết lời ca ngợi Vân và Kiều mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
nhưng ngòi bút tác giả lại đậm nhạt khác nhau mỗi người. Vân chủ yếu đẹp
ngoại hình còn Kiều là cái đẹp cả về tài năng, nhan sắc lẫn tâm hồn. Điều đó tạo
nên vẻ đẹp khác nhau của hai người thiếu nữ và hé mở hai tính cách, dự báo hai
cuộc đời khác nhau đang đón chờ hai ả tố nga. Hai bức vẽ chân dung của chị em
Thuý Vân Thuý Kiều đã cho thấy sự tài tình trong ngòi bút tinh tế của
Nguyễn Du.
Kết thúc đoạn thợ bốn câu lục bát miêu tcuộc sống phong lưu khuôn phép,
mẫu mực của hai chị em Kiều:
Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
68
Hai người con gái họ Vương không chỉ sắc - tài - tình còn đức hạnh.
Sống phong lưu đến mực hồng quần. Cả hai đều đã tới tuần cập - tới tuổi búi
tóc, cài trâm nhưng vẫn sống trong cảnh:
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Hai câu thơ như che chở, bao bọc cho hai chị em, hai bông hoa vẫn còn phong
nhụy trong cảnh êm đềm chưa một lần hương toả ai. Nguyễn Du đã buông
mành, gạt tất cả mọi vẩn đục cho cuộc đời khỏi cuộc sống phong lưu của hai chị
em để đề cao hơn đức hạnh của hai nàng.
Với cảm hứng nhân đạo tài nghệ thơ, Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung
Thúy Vân, Thuý Kiều bằng những gì đẹp đẽ, mỹ lệ nhất. Hai bức tranh mỹ nhân
bằng thơ đã thể hiện bút pháp ước lệ tượng trưng các biện pháp tu ttrong
ngòi bút tinh tế của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 11
Đoạn trích Chị em Thúy Kiều nằm ở phần mở đầu tác phẩm gặp gỡ và đính ước
giới thiệu gia cảnh của Thúy Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình
Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc của chị em Thúy Kiều.
Chân dung của chị em Thúy Kiều và Thúy Vân được miêu tả bằng bút pháp ước
lệ:
Đầu lòng hai ả Tố Nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
69
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười
Nguyễn Du đã sử dụng điển cố văn học Trung Quốc (Tố Nga, mai cốt cách), đại
từ nhân xưng (ả, chị em) và danh từ riêng (Thúy Kiều, Thúy Vân) để giới thiệu
về vẻ đẹp của hai chem Thúy Kiều. Họ đúng những gái đẹp: dáng người
thanh như mai, tâm hồn phẩm hạnh trắng trong như tuyết. Biểu tượng mai,
tuyết truyền thống đó đã tôn vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều đạt đến độ toàn
bích trong cách kiệm lời, đúc của tác giả. Bốn câu thơ mở đầu đã chuẩn bị
cảm hứng tạo tâm thế để người đọc đón nhận vẻ đẹp riêng của từng người.
Thúy Vân - người con gái có vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang.Thúy Vân được miêu
tả với vẻ đẹp tươi trẻ, tràn đầy sức sống:
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Bốn dòng lục bát đã đặc tả nhan sắc của Thúy Vân. Nhờ vận dụng kết hợp nghệ
thuật ước lệ, ẩn dụ, so sánh, thậm xưng với cách kết hợp các thành ngữ tiếng
Việt (hoa cười ngọc thốt, da trắng tóc dài, tóc mây mày nguyệt), Nguyễn Du đã
khắc họa tinh tế vẻ đẹp của Thúv Vân. Tác giả không tả cụ thể gương mặt, mái
tóc, làn da của Thúy Vân như thế nào, nhưng bốn u thơ đã hiện lên vẻ đẹp
phúc hậu, đoan trang của Thúy Vân. Đặc biệt, việc sử dụng điển cố văn học
Trung Quốc Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang Nguyễn Du đã chứng tỏ tài
năng của mình khi muốn qua điển cố này báo hiệu một tiền đồ tươi sáng, một
tương lai tốt đẹp, một cuộc sống yên ổn nhất định sđến với Thúy Vân. Bên
cạnh đó, việc sử dụng một số tính từ chỉ phong cách, hình thái con người (trang
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
70
trọng, đoan trang) và nghệ thuật tiểu đối trong hai câu bát đã tô đậm hơn vẻ đẹp
của Thúy Vân.
Đọc đoạn miêu tả Thúy Vân, ta thể thấy được cái tài, cái khéo của Nguyễn
Du trong việc sử dụng tngữ. Thế nhưng việc miêu tả Thúy Vân chỉ là bước
đệm đtác giả tả Thúy Kiều theo bút pháp tả khách hình chủ (mượn khách tả
chủ), vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu của Thúy Vân ánh lên đậm nét trong chân
dung Thúy Kiều:
Kiểu càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc, lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Nếu Thúy Vân được tả nhiều bộ phận (khuôn mặt, lông mày, mái tóc, màu da)
thì khi tả Thúy Kiều, Nguyễn Du đã tập trung đặc tả đôi mắt đẹp (và lông mày)
của nàng. Tác giả đã sử dụng nhiều hình ảnh trong trẻo, lệ của thiên nhiên
dưới hình thức nghệ thuật ẩn dụ, so sánh, thậm xưng kết hợp với điển cố văn
học Trung Quốc (Một hai nghiêng nước, nghiêng thành để biểu hiện vẻ đẹp đầy
sức quyến của Thúy Kiều. Tinh hoa của Thúy Kiều được bộc lộ từ đôi mắt
đẹp tuyệt vời và vẻ đẹp ấy chỉ thể so sánh với hai vẻ đẹp tiêu biểu của thiên
nhiên là sơn (nét xuân sơn), thủy (làn thu thủy).
Bên cạnh vẻ đẹp hình thức, tác giả còn nhấn mạnh đến tài năng của Thúy Kiều.
Điều này không hề có Thúy Vân. Nếu tả sắc, Nguyễn Du chi dùng bốn câu
thơ, thì khi tả tài của Thúy Kiều tác giả đã dùng đến tám câu thơ. ràng, đây
là phương diện, tác giả muốn nhấn mạnh và khắc sâu đối với nhân vật của mình.
Thúy Kiều hiện lên là một người con gái tài sắc vẹn toàn:
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
71
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương, lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên “Bạc mệnh’' lại càng não nhân.
Qua tám câu thơ miêu tả tài mệnh của Thúy Kiều, ta thấy nàng một gái
giỏi cầm, kì, thi, họa, ca ngâm và rất thành thạo Hồ cầm. Tiếng đàn của nàng và
bản đàn tên Bạc mệnh do Thúy Kiều sáng tác không chỉ chứng tỏ cái tài
của nàng, mà còn như là điều dự báo một tương lai ảm đạm, bất hạnh, một cuộc
sống bất ổn sẽ đến với Thúy Kiều. Ở Thúy Kiều, tài và mệnh đi đôi với nhau, và
không chỉ khi tài mới bộc lộ, ngay cả khi tnhan sắc của Kiều, Nguyễn Du
cũng đã dự báo cho người đọc biết điều này qua những từ như “ghen",
“hờn",” nghiêng nước”, “ nghiêng thành” đã tô đậm thêm sự bất an của nhan sắc
và tài năng của Thúy Kiều.
Đoạn trích Chị em Thúy Kiều đã khắc họa được chân dung nhân vật có nhan
sắc, tài hoa, phẩm cách đẹp đẽ. phong phú, toàn vẹn nhưng đằng sau đó một
số mệnh diễn tả những ý niệm triết học thể hiện một cảm hứng nhân văn sâu
sắc của nhà thơ họ Nguyễn.
Đoạn trích Chị em Thúy Kiều một mẫu mực của n miêu tả, giới thiệu
chung, có tả riêng từng người từ tài, sắc đến đức hạnh. Ngôn ngữ cô đúc, lời thơ
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
72
giàu chất xúc cảm. Các phép tu từ như nhân hóa, ẩn dụ, so sánh, tương phản
được sử dụng một cách tài tình. Các từ loại như các danh từ, động từ, phó từ,
được sử dụng mang giá trị biểu đạt biểu cảm cụ thể. Các điển cố, những thi
liệu văn học Trung Quốc được sử dụng thích đáng nên mặc sử dụng ngôn
ngữ ước lệ, tượng trưng những bức chân dung của chị em Thúy Kiều vẫn hiện
lên một cách cụ thể, sinh động, hấp dẫn và lôi cuốn người đọc.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 12
Nguyễn Du một thiên tài văn học ông được coi Đại thi hào văn hóa của
Việt Nam. Cả cuộc đời cầm bút, ông đã để lại rất nhiều những tác phẩm g
trị, trong đó tiêu biểu “Đoạn trường tân thanh” người Việt quen gọi nôm
“Truyện Kiều”. Trong chương trình Ngữ văn 9, tập 1, đoạn trích “Chị em
Thúy Kiều” một trong những đoạn trích độc đáo đã thể hiện được tài ng
nghệ thuật miêu tả, khắc họa chân dung con người của Nguyễn Du, góp phần
làm nên thành công của tác phẩm.
Đoạn trích nằm phần mở đầu của tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi
giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc của Thúy
Vân và Thúy Kiều.
Trước hết, bốn câu thơ mở đầu lời giới thiệu khái quát vhai chị em Kiều -
Vân:
“Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
73
Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ, ẩn dụ để giới thiệu khái quát về hai chị
em qua rất nhiều bình diện như: lai lịch, vị trí trong gia đình vẻ đẹp (riêng -
chung) của hai chị em. Họ là hai người con gái đầu lòng của gia đình họ Vương,
trong đó Thúy Kiều chị, em Thúy Vân. Tuy hai chị em những vẻ đẹp
khác nhau nhưng cả hai đều mang chung vẻ đẹp duyên dáng, thanh cao, trong
trắng: ngoại hình thì thanh tao như cây mai; phong thái tinh thần thì trong trắng
như tuyết (tâm hồn). Đó là vẻ đẹp hoàn mỹ, toàn diện từ trong ra ngoài, từ dáng
vẻ tới tâm hồn “mười phân vẹn mười”. Như vậy, chỉ bằng bốn câu thơ đầu ngắn
gọn, tác giả đã khái quát được những thông tin cần thiết của nhân vật, đồng thời
làm nổi bật lên nét đẹp hai chị em. Từ đó, định hướng cảm xúc cho toàn bài,
giúp người đọc thấy được cảm hứng ngợi ca con người trong đoạn thơ.
Đến bốn câu thơ tiếp, Nguyễn Du phóng bút đi vào những nét vẽ cụ thể về chân
dung và vẻ đẹp nhân vật Thúy Vân:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Ngay câu thơ đầu, nhà thơ đã khái quát vẻ đẹp phong thái của Vân bằng hai chữ
“trang trọng”. Đó là vẻ đẹp cao sang, quý phái, ung dung và nghiêm chỉnh. Tiếp
tục sử dụng lối ước lệ, nhà thơ đã nhan sắc của Vân với những hình ảnh đẹp
nhất của thiên nhiên, trụ như: “trăng, hoa, mây, tuyết, ngọc”. thể nói,
dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du, chân dung vẻ đẹp của Vân hiện lên lộng
lẫy, toàn diện từ khuôn mặt, nét mày ngài, nụ cười cho đến lời nói, mái tóc, làn
da. Tất cả đều hiện lên sống động, cụ thể như hiện hình, nổi sắc trước mắt người
đọc vậy. Đó chân dung người thiếu nữ khuôn mặt tròn đầy phúc hậu như
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
74
ánh trăng đêm rằm; đôi lông mày thanh tú, sắc nét như con ngài (mắt phượng
mày ngài); miệng ời thì tươi tắn như hoa nở; tiếng nói khi thốt ra thì trong
trẻo, ngọc ngà; mái tóc đen óng hơn cả mây; làn da trắng mịn màng hơn cả
tuyết. Chính vẻ đẹp bên ngoài của Vân với vẻ đẹp phúc hậu, hài hòa trong
khuôn khổ của lễ giáo phong kiến nên được thiên nhiên, tạo hóa chấp nhận:
“tuyết nhường”, “mây thua”. Từ đó, giúp người đọc phần nào thấy được tính
cách số phận của nhân vật: tính cách ung dung, điềm đạm; cuộc đời: bình
yên không sóng gió.
Sau khi dựng lên chân dung và vẻ đẹp nhân vật Thúy Vân, nhà thơ tập trung bút
lực vào miêu tả vẻ đẹp của Kiều trong sự đối sánh với vẻ đẹp của Vân:
“Kiều càng sắc sảo mặn
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Vẻ đẹp của Kiều khác và hơn hẳn Vân cả về tài lẫn sắc. Đó là sự “sắc sảo” về trí
tuệ; “mặn mà” về tầm hồn.
Trước hết vẻ đẹp nhan sắc - ngoại hình của Kiều. Vẫn tiếp tục sdụng thủ
pháp ước lệ tượng trưng lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm thước đo cho vẻ đẹp của
con người qua một loạt các hình ảnh: “thu thủy, xuân sơn, hoa, liễu”, Nguyễn
Du đã làm hiện vẻ đẹp của một trang giai nhân tuyệt mỹ. Nhưng khi miêu tả
Kiều, tác giả không miêu tả cụ thể chi tiết như Vân ngược lại, tác giả tập
trung vào một điểm nhìn đôi mắt “Làn thu thủy nét xuân sơn”: Đôi mắt sáng
trong sâu thẳm như làn nước mùa thu; đôi lông mày thanh thoát như nét núi
mùa xuân. Đây chính là lối vẽ “điểm nhãn” cho nhân vật. Bởi đôi mắt chính
cửa sổ tâm hồn con người. qua đôi mắt đó của Kiều, ta thấy được tâm hồn
trong sáng, sâu thẳm và cuốn hút lạ thường của nhân vật. Vẻ đẹp nhan sắc của
Kiều vẻ đẹp vượt ra khỏi chuẩn mực của tnhiên khuôn khổ của người
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
75
phụ nữ phong kiến nên: “Hoa ghen - liễu hờn”, thậm chí nghiêng ngả cả
thành quách, đất nước:
“Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành”
Nghệ thuật nhân hóa (hoa ghen - liễu hờn) kết hợp với nghệ thuật nói quá (thành
ngữ: nghiêng nước nghiêng thành) vừa tác dụng gợi tả vẻ đẹp của Kiều; lại
vừa tác dụng dđoán về số phận, cuộc đời của nàng. Bởi vẻ đẹp đó gợi lên
mâu thuẫn, không hài hòa (khác với Vân: thua - nhường: hài hòa, bình yên) nên
chắc chắn cuộc đời nàng sẽ truân chuyên, trắc trở: “Thanh lâu hai lượt, thanh y
hai lần”.
Tiếp đến là vẻ đẹp tài năng của Kiều. Nếu như khi tả Vân, nhà thơ chỉ chú trọng
vào khắc họa vẻ đẹp nhan sắc không chú trọng tới miêu tả tài năng tâm
hồn thì khi tả Kiều, nhà thơ chỉ tả sắc một phần, còn lại dành phần nhiều vào tài
năng:
“Sắc đành đòi một tài đành họa hai”
Chỉ một câu thơ mà nhà thơ đã nêu được cả sắc lẫn tài. Nếu như về sắc thì Kiều
smột thì về tài không ai dám đứng hàng thứ hai trước nàng. Tài năng của
Kiều thể nói một chứ không hai trên đời. được trời phú cho tính
thông minh nên lĩnh vực nghệ thuật nào Kiều cũng toàn tài: cầm - kỳ - thi -
họa. Tất cả đều đạt đến mức tưởng hóa theo quan niệm thẩm của lễ giáo
phong kiến: “Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”. Đặc biệt tài năng của Kiều
được nhấn mạnh ở tài đàn: “Cung thương lầu bậc ngũ âm/ Nghề riêng ăn đứt hồ
cầm một trương”. Nàng thuộc lòng các cung bậc đánh đàn Hồ cầm (đàn cổ)
thành thạo. Hơn thế, nàng còn giỏi sáng tác nhạc nữa: “Khúc ntay lựa nên
chương/Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”. Mỗi nàng lần đánh đàn, nàng
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
76
lại cất lên bài hát “Bạc mệnh” làm cho người nghe phải đau khổ, sầu não. Bài
hát chính tâm hồn, bản đàn theo suốt cuộc đời Kiều, biểu hiện một trái tim
đa sầu đa cảm và cuộc đời éo le, bất hạnh.
Tóm lại, chân dung của Kiều bức chân dung mang tính cách số phận. Vẻ
đẹp của Kiều vẻ đẹp khác người nên làm cho thiên nhiên phải ghen tị “Trời
xanh quen thói hồng đánh ghen”; tài năng của Kiều vượt trội hơn người nên
chắc chắn theo một quy luật thông thường của định mệnh “Chữ tài đi với chữ tai
một vần” hay “Chữ tài chữ mệnh khéo ghét nhau” nên cuộc đời Kiều cuộc
đời của một kiếp hồng nhan bạc mệnh, éo le và nghiệt ngã.
Đến đây chúng ta thấy được tài năng độc đáo của Nguyễn Du trong việc khắc
họa chân dung nhân vật. Từ vẻ đẹp chân dung, nthơ thể hiện những dự cảm
về tính cách, cuộc đời, số phận của nhân vật. Và mặc dù, đầu đoạn trích, tác
giả giới thiệu Thúy kiều chị, em Thúy Vân nhưng sau đó, nhà thơ lại miêu
tả chân dung nhân vật Vân trước, Kiều sau. Đó một dụng ý nghệ thuật của
nhà thơ trong việc tạo ra thủ pháp “đòn bẩy”. Điều đó có tác dụng nhấn mạnh và
làm nổi bật được vẻ đẹp độc đáo, vượt trội về cả sắc lẫn tài và tình của nhân vật
Thúy Kiều. thế, tuy cùng sử dụng nghệ thuật ước lệ tượng trưng khi miêu tả
hai nhân vật nhưng chúng ta thấy được mức độ đậm nhạt khác nhau mỗi
người. Nhà thơ chỉ dùng bốn câu để tả Vân, còn lại dành tận mười hai câu để tả
Kiều; tác giả khi tả Vân chỉ tập trung tả nhan sắc nhưng khi tả Kiều thì “sắc
đành đòi một, tài đành họa hai”. Mặc dù vậy nhưng nhân vật nào cũng hiện
lên rất sống động, cụ thể, chân thực, mang vẻ đẹp, tính cách, số phận khác nhau.
Bốn câu thơ cuối là lời bình của tác giả về cuộc sống của hai chị em Thúy Kiều:
“Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
77
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Sau khi dựng lên bức chân dung của hai chị em Kiều - Vân, Nguyên Du đưa ra
những lời nhận xét chung về cuộc sống của hai người. Họ sống trong một gia
đình phong lưu, rất gia giáo họ đang sống trong tầm tuổi sắp sửa được phép
thành lập gia đình. Thành ngữ “trướng rủ màn che” để chỉ một lối sống kín đáo,
đây lối sống của tiểu thư con nhà gia giáo, sống trong bốn bức tường, ít khi
giao tiếp bên ngoài để học nữ công gia chánh rất khuôn phép. Hình ảnh “ong
bướm” hình ảnh ẩn dụ để chỉ những người đàn ông tán tỉnh phụ nữ không
mục đích tốt đẹp. Và với những loại người ấy, hai chị em Kiều không thèm để ý
tới.
Tóm lại, bằng bút pháp ước lệ, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên đgợi tả vđẹp của
con người, Nguyễn Du đã khắc họa thành công vẻ đẹp chân dung hai chị em
Vân - Kiều. Qua đó, chúng ta thấy được cảm hứng ngợi ca vẻ đẹp, tài năng con
người và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh đầy nhân văn ở Nguyễn Du.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 13
Nguyễn Du đại thi hào của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Ông đlại số
lượng tác phẩm đồ sộ, giàu giá trị hiện thực nhân đạo. Trong kho tàng văn
học đồ sộ ấy ta không thể không nhắc đến Truyện Kiều - tuyệt bút của văn học
dân tộc. Tác phẩm không chỉ hấp dẫn ở nội dung mà còn đặc sắc ở nghệ thuật tả
người chân thực, sinh động. Nét bút tài hoa, chỉ vài đường nét ông đã dựng n
chân dung tính cách số phận của mỗi người. Điều đó được thể hiện nhất
qua đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”.
“Chị em Thúy Kiều” nằm phần đầu của tác phẩm “Gặp gỡ đính ước”.
Đoạn trích không chỉ nhằm giới thiệu về gia cảnh của hai nàng còn miêu tả
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
78
chân dung của hai tuyệt sắc giai nhân, mỗi người mang một vẻ đẹp riêng, không
hòa lẫn.
Mở đầu bài thơ, bằng bút pháp ước lệ, Nguyễn Du đã giới thiệu chung về hai
chị em Thúy Kiều. Kiều chị, còn em Vân, hai con gái của Vương
Viên ngoại. Hai con người ấy cốt cách vô cùng thanh thoát, tao nhã “mai cốt
cách” giống như loài hoa mai mảnh dẻ, thanh cao. Phong thái tinh thần thanh
sạch, trong trắng “tuyết tinh thần”. Họ mang trong mình vẻ đẹp trong sáng, dịu
dàng, tinh khôi. Ngoài ra để khẳng định vẻ đẹp của nàng, Nguyễn Du còn
thêm một câu thơ bình luận: “Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”. Lời
bình vừa cho thấy nét riêng, vừa cho thấy vẻ đẹp hoàn hảo của hai nàng. Chỉ
bằng những lời giới thiệu ngắn gọn, nhưng đã mang đến cho bạn đọc những
thông tin phong phú, đầy đủ, những ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp của hai nàng.
Sau khi giới thiệu chung về hai chị em, bốn câu thơ tiếp dành những lời thơ mỹ
miều, đẹp đẽ nhất để miêu tả nàng Vân:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Thúy Vân mang vẻ đẹp của phong thái đoan trang. Từ con người toát lên vẻ
đẹp nghiêm chính, ung dung, sự cao sang, quý phái. Nguyễn Du tập trung miêu
tả khuôn mặt của nàng: với khuôn mặt đầy đặn, sáng tươi như ánh trăng rằm,
đôi lông mày cong cong, hơi đậm làm nổi bật lên đôi mắt đẹp đẽ. Nụ cười của
nàng luôn luôn rạng rỡ như những đóa hoa, giọng nói trong, thanh thoát như
ngọc. Mái tóc dài, óng hơn cả mây, làn da mịn màng trắng hơn cả tuyết. Thúy
Vân mang trong mình vẻ đẹp hoàn hảo, tuyệt mĩ. Vẻ đẹp của nàng rất phù hợp
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
79
với chuẩn mực xã hội lúc bấy giờ, một vẻ đẹp hài hòa, hòa hợp với thiên nhiên.
Dẫu Nguyễn Du sử dụng bút pháp ước ltượng trưng để cực tvẻ đẹp của
nàng thì nàng vẫn được mây, tuyết “thua” “nhường”, được thiên nhiên ưu ái,
bao bọc, nâng đỡ. Bởi vậy cũng dự báo cuộc sống yên ấm, êm đềm của sau
này.
Nếu như miêu tả Thúy Vân chvới bốn câu thơ, tập trung miêu tả khuôn mặt
tròn đầy, phúc hậu thì đến miêu tả Thúy Kiều ông sử dụng đến mười hai câu
thơ, thủ pháp đòn bẩy đã làm nổi bật vẻ đẹp của Kiều so với Vân.
Thúy Kiều mang vẻ đẹp sắc sảo, mặn mà: “so bề tài sắc lại phần hơn” đã
khẳng định vẻ đẹp tuyệt mỹ của Kiều. Khác với Thúy Vân những nét vẽ chi
tiết về gương mặt, thì khi miêu tả Kiều ông chỉ tập trung miêu tả đôi mắt: “Làn
thu thủy nét xuân sơn”. Đôi mắt của nàng trong trẻo, sâu thẳm như làn nước
mùa thu, đôi lông mày mượt mà, thanh như dáng núi mùa xuân. Không phải
ngẫu nhiên ông chọn miêu tả đôi mắt, đôi mắt vốn cửa sổ tâm hồn của
mỗi người, bởi vậy, khi miêu tả mắt Thúy Kiều đã gợi nên thế giới tâm hồn
phong phú, sâu sắc, gợi tính cách sắc sảo nhưng cũng rất đa sầu, đa cảm. Vẻ đẹp
ấy của nàng khiến “hoa ghen” “liễu hờn”, hai chữ “ghen” “hờn” cho thấy sự ấm
ức, tâm lý tiêu cực, muốn triệt tiêu, loại bỏ đối phương. Vẻ đẹp của nàng vượt ra
khỏi chuẩn mực, giới hạn, khiến cho vạn vật trong trời đất phải ghen ghét, đố kị.
Chính điều đó dự báo cuộc sống tương lai đầy tai ương, sóng gió ở phía trước.
Nàng không chỉ đẹp về ngoại hình, mà nàng còn mang vẻ đẹp tài hoa, trí tuệ:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”
Trong thời trung đại, người phụ nữ ít khi được nhắc đến tài năng, câu thơ đã cho
thấy sự tiến bộ thậm chí táo bạo của Nguyễn Du khi đề cao cả vẻ đẹp hình thức
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
80
vẻ đẹp trí tuệ của người phụ nữ. Thúy Kiều người thông minh, sắc sảo, tài
năng đcả cầm, kỳ, thi họa trong đó tài đàn của nàng ấn tượng nổi bật
nhất. Những khúc đàn nàng chơi lay động lòng người, khúc hát nàng sáng tác
khiến ai cũng xót xa, thương cảm. Những khúc nhạc đó cũng cho thấy một tâm
hồn nhạy cảm, tinh tế, lãng mạn.
Nguyễn Du đã đặc biệt ưu ái khi miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều. Nàng tiêu biểu
cho số phận người phụ nữ “hồng nhan bạc mệnh” hay như chính Nguyễn Du đã
kết luận “Sắc đành đòi một tài đành họa hai” “Chữ tài liền với chữ tai một vần”
hay “Hồng nhan quen thói hồng đánh ghen”. Trong suốt dọc chiều dài tác
phẩm Nguyễn Du đã nhắc đi nhắc lại số phận bạc bẽo của kiếp hồng nhan, sẽ
gặp phải nhiều truân chuyên, sóng gió.
Bốn câu thơ cuối những lời bình luận chung của tác giả về hai chị em. Hai
nàng được sinh ra lớn lên trong một gia đình nề nếp, phong lưu. Cuộc sống
“êm đềm trướng rủ màn che” đầy bình lặng, chưa từng va vấp với thế giới bên
ngoài. Họ luôn được sống trong tình yêu thương che chở của cha mẹ. Cả hai
người đều đã đến tuổi cập kê, kết tóc se duyên nhưng họ vẫn còn hết sức trong
sáng.
Để khắc họa vẻ đẹp của hai chị em Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật ước lệ
tượng trưng cùng hàng loạt ẩn dụ: “mây, trăng, hoa, tuyết” - những hình ảnh nổi
bật của thiên nhiên để làm nổi bật nhan sắc của hai nàng. Đồng thời để làm nổi
bật vẻ đẹp của Thúy Kiều, Nguyễn Du còn sử dụng thủ pháp đòn bẩy, miêu tả
Vân trước, Kiều sau để làm bật chân dung Thúy Kiều. Ngoài ra, ông còn sử
dụng nghệ thuật nhân hóa để ngầm dự báo số phận hai người. Vẻ đẹp của Thúy
Vân khiến thiên nhiên “thua, nhường” dự báo sau này cuộc đời nàng sẽ yên
bình, phẳng lặng. Vẻ đẹp của Thúy Kiều bị thiên nhiên “ghen, hờn”, dự báo
cuộc đời nhiều gian nan, sóng gió.
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
81
Bằng bút pháp ước lệ tượng trưng tinh tế tài hoa, Nguyễn Du đã phác họa thành
công vẻ đẹp, tài năng của hai chị em Thúy Kiều. Đồng thời từ chân dung của họ
gợi lên tính cách, số phận sau này. Đó là những chân dung mang tính cách số
phận. Qua đó cho thấy bút pháp tả người tài tình của tác giả.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 14
Nguyễn Du đại thi hào của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hoá thế giới,
nhà thơ xuất sắc Việt Nam cuối thế kỉ thứ 18 đầu thế kỉ thứ 19. Truyện Kiều
một kiệt tác của thiên tài Nguyễn Du. Đây tác phẩm giá trị rất lớn về nội
dung tưởng và nghệ thuật. Đoạn trích Chị em Thuý Kiều được trích phần 1
- Gặp gỡ và đính ước, trong Truyện Kiều. Đoạn trích đã tập trung miêu tả người
bằng nghệ thuật đặc sắc và thành công nhất của tác giả.
Bút pháp t người của Nguyễn Du trước hết bút pháp ước lệ tượng trưng
thường gặp trong thơ cổ điển. Tả vchị em Thuý Kiều tác giả bắt đầu từ cái
chung:
Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
Đầu tiên tác giả giới thiệu gia đình họ Vương hai con gái đầu lòng Thúy
Kiều là chị, Thúy Vân em, cả hai đều những gái đẹp “tố nga”. Tác giả
sử dụng hai hình ảnh ẩn dụ ước lệ tượng trưng “mai cốt cách tuyết tinh thần” để
miêu tả vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều họ mang vóc dáng thanh cao mảnh dẻ yểu
điệu mềm mại như cây mai, suy nghĩ tình cảm tâm hồn trắng trong như tuyết cả
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
82
hai đều đẹp mười phân vẹn mười nhưng mỗi người lại một vẻ. Tiếp đó tác giả
miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân bằng các hình ảnh chọn lọc, từ ngữ tiêu biểu:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Câu thơ mở đầu giới thiệu khái quát được nhân vật bằng bốn ch“trang trọng
khác vời”, nói lên vẻ đẹp cao sang quí phái của Thúy Vân. Vẫn bằng bút pháp
ước ltượng trưng với những hình ảnh quen thuộc nhưng tả Vân tác giả
nhiều hướng tả cụ thể trong thủ pháp liệt kê. Cụ thể trong việc sử dụng từ ngữ
để làm nổi bật riêng đối tượng miêu tả “đầy đặn nnang đoan trang”, sdụng
biện pháp ẩn dụ nhân hoá “khuôn trăng nét ngài hoa cười ngọc thốt y thua
tuyết nhường góp phần thể hiện vẻ đẹp phúc hậu quí phái của Thuý Vân. Khuôn
mặt tròn trịa tỏa sáng đầy đặn như mặt trăng, lông mày sắc nét đậm như con
ngài, miệng cười tươi như hoa, giọng nói trong trẻo toát ra từ hàm răng ngà
ngọc, mái tóc đen óng nhẹ hơn mây, da trắng mịn hơn tuyết, tính cách nghiêm
trang đứng đắn.
Qua đó, Thúy Vân hiện lên là cô gái đoan trang phúc hậu. Chân dung Thúy Vân
là chân dung mang tính cách, số phận. Vẻ đẹp của Thuý Vân tạo sự hòa hợp êm
đềm với xung quanh “mây thua tuyết nhường”, n nàng sẽ một cuộc đời
bình lặng suôn sẻ hạnh phúc.
Sau khi miêu tvẻ đẹp của Thúy Vân tác giả miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều.
Nếu Thúy Vân được giới thiệu qua bốn câu với vẻ đẹp cộng phẩm chất thì Thúy
Kiều được miêu tả qua 12 câu. Đây nghệ thuật đòn bẩy làm nổi bật nhân vật
chính của tác giả:
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
83
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành họa hai
Cũng như lúc tả Vân, câu thơ đầu khái quát đặc điểm nhân vật. Kiều sắc sảo về
trí tuệ, mặn về tâm hồn. Gợi tả vẻ đẹp của Kiều, tác giả vẫn dùng những
hình ảnh ước lệ ẩn dụ “làn thu thủy nét xuân sơn” (nước mùa thu, núi mùa
xuân). Nét vẽ của thi nhân thiên về gợi tả vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt thế.
Điều đáng chú ý khi họa bức chân dung Kiều, tác giả tập trung gợi tả vẻ đẹp
đôi mắt, bởi đôi mắt thể hiện phần hình ảnh của tâm hồn trí tuệ. “Làn thu
thủy” gợi lên vẻ đẹp của đôi mắt trong sáng, long lanh, linh hoạt; “nét xuân
sơn” gợi lên đôi lông mày thanh tú, mềm mại, tươi non trên gương mặt trẻ
trung. Bằng hình ảnh nhân hóa “hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”, tác giả
làm nổi bật dung nhan của Kiều đằm thắm khiến hoa phải ghen, dáng trẻ trung
đầy sức sống khiến liễu phải hờn. Nàng có vẻ đẹp làm say đắm, chinh phục lòng
người qua điển tích điển cố “nghiêng nước nghiêng thành”. Nàng quả một
trang tuyệt thế giai nhân nhưng nàng không chỉ đẹp mà còn rất đa tài:
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
84
Khúc nhà tay lựa nên trương
Một thiên bạc mệnh lại càng lão nhân
Nàng thông minh bẩm sinh, tài làm thơ vẽ “pha nghề ca hát đủ mùi”, tài đàn
“ăn đứt”, âm luật giỏi đến mức “làu bậc”, còn sáng tác nhạc “một thiên bạc
mệnh” - chính sự ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sắc đa cảm. Vẻ đp
của Kiều sự kết hợp giữa sắc tài tình. Chân dung Thuý Kiều cũng chân
dung mang tính cách số phận vẻ đẹp của nàng làm cho tạo hóa phải ghen ghét
vẻ đẹp của nàng “hoa ghen liễu hờn” nên số phận của nàng sẽ éo le đau khổ.
Bốn câu thơ cuối Nguyễn Du giới thiệu về cuộc sống của chị em Thúy Kiều
“tuy khách hồng quần” đẹp thế lại “phong lưu rất mực”, đã tới tuần cập
nhưng cả hai vẫn sống một cuộc đời êm đềm trong khuôn phép gia giáo:
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai
Đoạn thơ âm điệu nhẹ nhàng tạo nên một cuộc sống yên vui êm ấm của
những thiếu nữ phòng khuê.
Đoạn trích Chị em Thuý Kiều một trong những đoạn thơ hay nhất đẹp nhất
trong Truyện Kiều, ngôn ngữ thơ tinh luyện giàu cảm xúc, nét vhàm súc gợi
cảm, sử dụng biện pháp ẩn dụ nhân hóa để dựng lên bức chân dung hai chị em
Thúy Kiều. Đáng quí bức chân dung tuyệt vời ấy lại được dựng lên bằng tình
yêu thương trân trọng đối với con người của tác giả. Đọc đoạn trích ta cảm nhận
được vẻ đẹp tài sắc của Thúy Kiều và thấy mình cần phải tích cực tu dưỡng n
luyện để trở thành con người toàn diện, có ích cho đất nước ngày.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 15
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
85
Chị em Thúy Kiều nằm trong phần đầu của tác phẩm Truyện Kiều. Với bút
pháp tả người bậc thầy Nguyễn Du không chlàm bật lên vẻ đẹp riêng biệt của
hai nàng Kiều qua đó còn cho người đọc thấy số phận của hai nàng trong
tương lai. Quả là một đại thi hào của dân tộc.
Với bút pháp ước lệ, mượn thiên nhiên Nguyễn Du cho thấy vẻ đẹp thanh khiết
của Thúy Kiều và Thúy Vân:
Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị,em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
Giới thiệu hai chị em, Tố Như sử dụng thủ pháp ước lệ, để làm bật lên vẻ đẹp
của hai gái: họ dáng người thu tú, mảnh mai, cốt cách trong sáng như
tuyết. Lấy hai hình ảnh mai, tuyết truyền thống đã tôn lên vẻ đẹp của hai chị em
đạt đến độ toàn bích. Bốn câu thơ mở đầu đã tạo nên bước đà, nền cảnh để rồi
sau đó chân dung hai chị em lần lượt xuất hiện.
Thúy Vân dưới ngòi bút Nguyễn Du người con gái vẻ đẹp phúc hậu, đoan
trang: “Vân xem trang trọng khác vời/ Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang/
Hoa cười ngọc thốt đoan trang/ Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”. Chỉ
với bốn câu thơ kết hợp với các biện pháp, so sánh, ẩn dụ, ước lệ, Nguyễn Du
đã khắc họa tinh tế vẻ đẹp của Thúy Vân. Nàng khuôn mặt tròn đầy nánh
trăng rằm, đôi lông mày đầy đặn, nở nang. Kết hợp với một số tính từ chỉ phong
thái: đoan trang, trang trọng nghệ thuật tiểu đối đã góp phần đậm vẻ đẹp
của Thúy Vân. Những đặc điểm về vẻ bngoài ấy đã báo hiệu một tiền đồ tươi
sáng, tương lai tốt đẹp, hạnh phúc viên mãn đang đợi Thúy Vân ở phía trước.
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
86
Còn Thúy Kiều lại một người con gái tài sắc vẹn toàn. Đoạn miêu tả Thúy
Vân, Nguyễn Du đã tỏ ra tài giỏi, khéo léo bao nhiêu, vận dụng chủ yếu bút
pháp tả khách hình chủ thì đến đoạn thơ miêu tả Thúy Kiều nghệ thuật miêu tả
chân dung càng sắc nét hơn:
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Nếu như Thúy Vân đi vào miêu tả chi tiết thì khi tả Thúy Kiều Nguyễn Du chỉ
tập trung tả đôi mắt. Ông đã sử dụng nhiều hình ảnh lệ, trong trẻo của thiên
nhiên để miêu tả ng: làn thu thủy, nét xuân sơn. Nhưng tinh túy, đẹp đẽ
nhất đã được đặc tả qua đôi mắt có hồn, đầy cảm xúc của Thúy Kiều.
Bên cạnh vẻ đẹp hình thức, ông còn nhấn mạnh đến tài năng của Thúy Kiều.
Ông đã dùng đến tám câu thơ để khẳng định vẻ đẹp tài năng của nàng. Không
giống như những người con gái khác, nhấn mạnh vẻ đẹp nhan sắc và phẩm
hạnh, đây Nguyễn Du còn nhấn mạnh một vẻ đẹp khác chính vẻ đẹp i
năng của người con gái vốn ít được coi trọng:
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành họa hai
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
87
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân
Thúy Kiều tài năng tất cả các mặt: cầm, kì, thi, họa, đặc biệt tài đàn của
nàng đã đạt đến độ không ai thể sánh nổi. Khúc Bạc mệnh nàng viết vừa
chứng tỏ cái tài, vừa như là một dự báo về tương lai bất hạnh, ảm đạm của chính
cuộc đời nàng. Quả tài mệnh tương đố, chtài đi liền với chữ tai một vần.
Không chỉ đến khi miêu tả tài mới bộc lộ số phận bất hạnh của Thúy Kiều,
ngay khi tả nhan sắc của nàng, Nguyễn Du đã dần lộ cho người đọc thấy
những điều đó qua các từ: ghen, hờn, nghiêng nước, nghiêng thành, đã đậm
sự bất an vnhan sắc tài năng của Thúy Kiều. Và quả thực cuộc đời mười
lăm năm trôi nổi, bèo dạt sau này của nàng chính là minh chứng rõ ràng nhất.
Đoạn trích Chị em Thúy Kiều có thể coi là một mẫu mực về nghệ thuật tả người
trong văn học trung đại. Từ bức tranh chung, bằng những nét vẽ tài hoa Nguyễn
Du đã đặc tả vẻ đẹp cũng như số phận của hai nàng. Bên cạnh đó ông còn sử
dụng linh hoạt các biện pháp so sánh, ẩn dụ, ngôn ngữ ước lệ, hàm súc đã tạo
nên thành công cho tác phẩm.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 16
“Truyện Kiều” hay còn được gọi “Đoạn trường tân thanh” (Tiếng nghe mới
kêu đứt ruột” là một kiệt tác văn học của đại thi hào Nguyễn Du. Số phận và vẻ
đẹp của Kiều kiếp hồng nhan bạc mệnh được Nguyễn Du khắc họa
nét trong tác phẩm. Đặc biệt là đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, Nguyễn Du đã
miêu tả được vẻ đẹp của hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều và đồng thời cũng dự
cảm về số phận tương lai của họ.
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
88
“Đầu lòng hai ả tố nga
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Cả hai chị em đều vđẹp toàn mỹ, từ hình thức bên ngoài “Mai cốt ch”
đến vđẹp bên trong tâm hồn “Tuyết tinh thần”. Vẻ đẹp của Thuý Vân được
miêu tả ở bốn câu thơ tiếp:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Vẻ đẹp của Thuý Vân được Nguyễn Du miêu tả một cách toàn vẹn từ khuôn
mặt, nét ngài, u da, mái tóc đến tiếng nói, nụ cười cốt cách. Thuý Vân
hiện ra qua những hình ảnh, những tính chất ước lệ của văn học cổ trung đại.
Nguyễn Du tập trung tô đậm vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang của Thuý Vân. Vẫn là
cách thức quen thuộc của văn học cổ, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm chuẩn mực
cho vẻ đẹp con người, nhưng bức chân dung của Thuý Vân, qua nét vẻ thân tình
của Nguyễn du bỗng trở nên sống động nhờ đã chứa đựng trong đó quan
niệm về tài sắc của chính nhà thơ. Gương mặt xinh đẹp đầy đặn, vẻ đẹp đoan
trang phúc hậu của Thuý Vân - một vẻ đẹp và thiên nhiên sẵn lòng nhường nhịn
“Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”- như dự báo trước một cuộc đời, một
số phận êm đềm, tròn trịa, bình yên của nàng. Quả thật, với những từ ngữ trau
chuốt, những hình ảnh ước lệ tượng trưng vẻ đẹp giàu sức gợi tả, được lọc
qua tâm hồn mẫn cảm, tinh tế, Nguyễn Du đã khắc hoạ khá sống động vẻ đẹp
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
89
đài các, đoan trang viên mãn, mơn mởn sức sống của Thuý Vân, biểu hiện một
tâm hồn tư, dự báo trước một cuộc đời yên ổn, vinh hoa, phú quý sẽ mỉm
cười, vui vẻ rước đón nàng.
Song, việc miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân, không phải là chủ đích nghệ thuật của
tác giả. Đó thực chất chỉ là việc tạo tiền đề, tạo ra một điểm tựa nghệ thuật “tả
khách hình chủ” để làm nổi bật hơn tài sắc của Thuý Kiều, nhân vật trung tâm
của tác phẩm. Khác với Thuý Vân, Thúy Kiều có một vẻ đẹp “sắc sảo mặn mà”
cả tài lẫn sắc đạt tới mức tuyệt vời.Cũng những từ ngữ, hình ảnh ước lệ tượng
trưng, qua ngòi bút miêu tả tài hoa của Nguyễn Du, hình ảnh nàng Kiều hiện lên
lộng lẫy, sắc nước hương trời đến hoa phải “ghen”, liễu phải “hờn”. Đôi mắt
đẹp của nàng trong như nước mùa thu, lông mày xinh xắn, tươi non như sắc núi
mùa xuân “làn thu thuỷ, nét xuân sơn”. Nếu như vẻ đẹp của Thuý Vân trời xanh
còn thể nhường nhịn, thì trước sắc đẹp của Thuý Kiều, thiên nhiên tạo hoá
cũng trở nên đố kị ghen ghét:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thuỷ nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”
Thiên nhiên đố kị, ghen ghét với nàng. Hồng nhan bạc mệnh, cái sắc đẹp “sắc
sảo mặn mà” khiến thiên nhiên cũng phải đố kị, ghen ghét ấy đã dự báo trước
một cuộc đời đầy sóng gió sẽ ập đến với nàng. Nguyễn Du đã không tiếc lời ca
ngợi sắc đẹp và tài nghệ của nàng Kiều. Khác hẳn Thuý Vân, Thúy Kiều thông
minh, đa tài, đa cảm, một con người nhất mực tài hoa: Tài thơ, tài hoạ, tài đàn
của Thúy Kiều đạt tới mức tuyệt diệu:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
90
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”.
Cả diện mạo bên ngoài diện mạo tâm hồn cũng mở dần tính cách số phận
của nàng Kiều. ràng, Nguyễn Du khi miêu tả sắc đẹp của nàng Kiều đã gửi
gắm quan niệm “Tài hoa bạc mệnh” vào đấy dự báo trước cuộc đời, số phận
long đong, lận đận, đầy bất hạnh của nàng.
Sử dụng bút pháp miêu tả ước lệ tượng trưng của văn học cổ điển, với ngòi bút
tài hoa, chắt lọc, trau chuốt ngôn từ, Nguyễn Du đã khắc hoạ thật sinh động hai
bức chân dung Thúy Vân và Thúy Kiều, mỗi người một vẻ đẹp riêng, toát lên từ
tính cách, từng số phận riêng, không lẫn vào nhau, không thể phai nhạt trong
tâm hồn người đọc. Đây thành công trong bút pháp nghệ thuật miêu tả người
của Nguyễn Du. Đã hơn hai thế kỉ rồi, với truyện Kiều nghệ thuật tả người
đặc sắc, tinh tế của Nguyễn Du, đã bậc thầy làm rung động sự cảm phục,
trân trọng của bao thế hệ đối với đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 17
Thơ cổ viết vgiai nhân thì đoạn thơ Chị em Thuý Kiều trích trong Truyện
Kiều của thi hào Nguyễn Du là một trong những vần thơ tuyệt bút. 24 câu lục
bát đã miêu tả sắc, tài và đức hạnh chị em Thuý Kiều, Thuý Vân - hai tuyệt thế
giai nhân với tất cả tấm lòng quý mến trân trọng của nhà thơ thiên i dân
tộc.
Bốn câu đầu, Nguyễn Du giới thiệu vị thứ trong gia đình: “Thuý Kiều là chị, em
Thuý Vân”, con đầu lòng của ông Vương viên ngoại. “Hai tố nga”
hai cô gái xinh xắn, xinh tươi. Cốt cách thanh cao như mai (một loài hoa đẹp và
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
91
quý), tinh thần trinh trắng như tuyết. Hai chị em nhan sắc tâm hồn hoàn mỹ
“mười phân vẹn mười”, tuy thế, mỗi người lại một nét đẹp riêng “mỗi người
một vẻ”.
Một cái nhìn phát hiện đầy trân trọng; lấy mai tuyết làm chuẩn mực cái đẹp,
Nguyễn Du miêu tả tâm hồn trong sáng, trinh trắng làm cái thần bức chân
dung thiếu nữ.
Bốn câu tiếp theo tnhan sắc Thuý Vân. Mỗi câu thơ một nét vtài hoa về
bức chân dung giai nhân. Cử chỉ, cách đi đứng... rất trang trọng quý phái. Cách
ứng xthì đoan trang. Mày nở nang, thanh như mày con bướm tằm. Gương
mặt xinh tươi như trăng rằm. Nụ cười tươi thắm như hoa. Tiếng nói trong như
ngọc. Tóc mềm, bóng mượt đến nỗi “mây thua”. Da trắng mịn làm cho tuyết
phái “nhường”. Cách miêu tả đặc sắc, biến hoá. Sử dụng ẩn dụ, nhân hoá tài
tình:
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang.
Dùng thủ pháp so sánh, nhân hoá:
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Từ ngữ: “trang trọng”, “đoan trang” 2 nét vtinh tế, gợi tả cái thần của bức
chân dung tố nga: vẻ đẹp quý phái, phúc hậu. Một cái nhìn nhân văn đầy q
mến trân trọng của nhà thơ khi miêu tả Thuý Vân.
Mười hai câu tiếp theo tả sắc, tài Thuý Kiều. Nguyễn Du tThuý Vân trước, tả
Thuý Kiều sau, chỉ dùng 4 câu tả Thuý Vân, dùng đến 12 câu tả Thuý Kiều. Đó
một dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Du, Kiều không chỉ đẹp còn giàu tài
năng. Vẻ đẹp của Kiều ‘“sắc sảo, mặn mà”, đẹp “nghiêng nước nghiêng
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
92
thành”. Kiều tuyệt thế giai nhân “sắc đành đòi một”. Tài năng thì may ra còn
người thứ hai nào đó bằng Kiều: “tài đành hoạ hai”. Nguyễn Du dùng biện
pháp tu từ ẩn dụ so sánh kết hợp với nhân hoá thậm xưng để ca ngợi miêu tả
nhan sắc Thuý Kiều:
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Mắt đẹp xanh trong nnước hồ thu, lông mày thanh như dáng vẻ, nét núi
mùa xuân. Môi hồng thắm làm cho hoa ghen nước da trắng xinh làm cho
liễu phải “hờn”. Vẫn lấy vđẹp thiên nhiên (thu thuỷ, xuân sơn, hoa, liễu) làm
chuẩn mực cho cái đẹp giai nhân, đó là bút pháp ước lệ trong thơ cổ. Tuy nhiên,
nét vẽ của Nguyễn Du tài hoa quá, nét vẽ nào cũng thần rất đẹp, một vẻ đẹp
nhân văn.
Kiều “thông minh vốn sẵn tính trời” nghĩa là thông minh bẩm sinh, cho nên các
môn nghệ thuật như thi, hoạ, ca ngâm chỉ là các thú tao nhã nhưng nàng rất sành
điệu, điêu luyện: “lầu bậc”, “ăn đứt” hơn hẳn thiên hạ:
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi hoạ, đủ mùi ca ngâm..
Cung thương lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Kiều giỏi về âm luật, giỏi đến mức “lầu bậc”. Cây đàn nàng chơi cây đàn
hồ cầm; tiếng đàn của nàng thật hay “ăn đứt” bất cứ nghệ nào. Kiều còn biết
sáng tác âm nhạc, tên khúc đàn của nàng sáng tác ra một “thiên bạc mệnh
“nghe buồn thê thiết “não nhân”, làm cho lòng người sầu não, đau khổ. Các từ
ngữ: sắc sảo, mặn mà, phần hờn, ghen, hờn, nghiêng nước nghiêng thành, đòi
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
93
một, họa hai, vốn sẵn, pha nghề, đủ mùi, lầu bậc, ăn đứt, bạc mệnh, não nhân -
tạo nên một hệ thống ngôn ngữ cực tả tài sắc và hé lộ dự báo số phận bạc mệnh
của Kiều, như ca dao lưu truyền:
Một vừa hai phải ai ơi!
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen.
Bốn câu cuối đoạn nói về đức hạnh hai tố nga: Tuy khách hồng quần đẹp
thế, tài thế, lại “phong lưu rất mực”, đã tới tuần “cập kê” nhưng “hai tố nga”
đã và đang sống một cuộc đời nền nếp, gia giáo:
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Câu thơ “Xuân xanh xấp xtới tuần cập kê” một u thơ độc đáo về thanh
điệu, về sử dụng phụ âm “x” (xuân xanh xấp xỉ), phụ âm “t” (tới tuần), phu
âm”c-k” (cập kê) tạo nên âm điệu nhẹ nhàng, êm đềm của cuộc sống yên
vui.,êm ấm của thiếu nữ phòng khuê.
Đoạn thơ nói về Chị em Thuý Kiều là một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp
nhất trong Truyện Kiều được nhiều người yêu thích và thuộc. Ngôn ngữ thơ tinh
luyện, giàu cảm xúc. Nét vẽ hàm súc, gợi cảm, nét vẽ nào cũng thần. Các
biện pháp tu từ ẩn dụ, so sánh, nhân hoá được thi hào vận dụng thần tình tạo nên
những vần thơ ước lệ trữ tình, đầy chất thơ. Hàm ẩn sau bức chân dung
nhân cả một tấm lòng quý mến trân trọng. Đó nghệ thuật tả người điêu
luyện của thi hào Nguyễn Du mà ta cảm nhận được.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 18
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
94
Nguyn Du là mt nhà thơ lớn ca dân tc, một nhà nhân đạo ch nghĩa lớn
luôn nhìn đời bng con mắt “nhìn thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời”.
Nhắc đến ông chúng ta không th b qua kiệt tác “Truyện Kiều” trong đó để li
ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc là đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” miêu
t v đẹp ca hai ch em Thúy Kiu và Thúy Vân.
bốn câu thơ đầu, Nguyn Du miêu t v đẹp chung ca hai ch em:
Đầu lòng hai t nga,
Thúy Kiu là ch em là Thúy Vân.
Mai ct cách tuyết tinh thn,
Mỗi người mt v i phân vẹn mười.
Bng cách s dng ngh thuật đảo ng kết hp vi các t ng mang ý nghĩa
ước l ợng trưng, nhà thơ đã giúp người đọc hình dung được v đẹp ca hai
ch em với “ả t nga”, “Mai cốt cách tuyết tinh thần”, “mười phân vẹn mười”.
Nguyn Du gi Thúy Kiu với Thúy Vân là “ả t nga” tức là người con gái đẹp.
Đặc bit bng việc mượn hình nh thiên nhiên mai và tuyết còn cho thy hai ch
em Thúy Kiu hiện lên đều có ct cách ngay thng thanh cao li vô cùng du
dàng và mỗi người mt v đẹp khác nhau không ai kém ai c.
Bốn câu thơ tiếp theo được tác gi dùng để miêu t v đẹp ca cô em Thúy Vân:
Vân xem trang trng khác vi,
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài n nang.
Hoa cười ngc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Thúy Vân hin lên là một người con gái vô cùng duyên dáng vi khuôn mt
“đầy đặn” tròn trịa với “nét ngài nở nang”. Mỗi khi nàng cười là toát lên v
đoan trang đầy phúc hu, khiến cho “mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”.
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
95
Thiên nhiên cũng phải ghen t vi làn da mái tóc ca nàng, phi chịu thua trước
v đẹp của người con gái này. Như vậy bng vic miêu t v đẹp ca Thúy Vân,
Nguyễn Du đã phần nào gi ra s phận đầy yên bình êm đềm của người con gái
này, luôn được vn vật nhường nhn chu thua.
Nếu như miêu tả Thúy Vân, tác gi ch s dng bốn câu thơ thì đến khi nói v
v đẹp ca Thúy Kiều, nhà thơ lại phải dùng đến tận mười sáu câu thơ.
Kiu càng sc so mn mà,
So b tài sc li là phần hơn:
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thm liu hn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một tài đành họa hai.
Tác gi s dng bốn câu thơ để nói v nhan sc ca nàng Kiu. Nếu Thúy Vân
toát lên v đẹp phúc hu thì Kiu lại “sắc so mặn mà” hơn hẳn. Nàng có đôi
mt tuyệt đẹp, trong như làn nước mùa thu với đôi lông mày đẹp và thanh thoát
như dãy núi mùa xuân. Hai vẻ đẹp này kết hp vi nhau to nên v đẹp có môt
không hai, khiến cho ngay c thiên nhiên cũng phải ghen ghét đố k vi v đẹp
của nàng “hoa ghen liễu hờn”. Điều này d đoán một tương lai đầy nhng sóng
gió trc tr ca Kiu. Kiu không chnhan sắc mà còn có tài năng đặc bit là
tài đánh đàn:
Thông minh vn sn tính tri,
Pha ngh thi ha đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Ngh riêng ăn đứt h cm một chương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Mt thiên bc mnh li càng não nhân.
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
96
Phong lưu rất mc hng qun,
Xuân xanh xp x ti tun cp kê.
Êm đềm trướng r màn che,
ờng đông ong bướm đi về mc ai.
Nhà thơ đã cho nàng Kiều tr thành một người ph n tài sc vn toàn vi biết
bao tài năng cầm kì thi họa. Đặc biệt là tài đánh đàn của nàng là độc nhất đến
nỗi “ăn đứt h cm một chương”. Thế nhưng tiếng đàn của nàng tuy hay nhưng
lại có chút gì đó sầu não đầy bc mệnh như chính cuộc đời ca nàng vy.
Như vậy, bằng tài năng nghệ thut ca mình, tác gi Nguyễn Du đã giúp chị em
hình dung v v đẹp ca hai ch em Thúy Kiu vi mỗi người mt v đẹp khác
nhau. Thúy Vân thì toát lên v đoan trang phúc hậu trong khi Thúy Kiu li tài
sc vẹn toàn. Đồng thi qua vic miêu t v đẹp ca hai ch em, nhà thơ cũng
d báo trước s phận mà hai người con gái này sp phi trải qua đặc bit là s
phn bp bênh mà Kiu sp phi tri qua.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 19
V mt ngh thuật, văn học trung đại k c truyện văn xuôi truyện thơ
thưng ít miêu t chân dung. Chng hn t Thị Thiết trong Chuyện người
con gái Nam Xương (Truyềnmn lc), Nguyn D ch phác ho sơ sài "Tính
đã thuỳ m, nết na, lại thêm tư dung tốt" nghĩa là được c nết lẫn người. Thanh
Tâm Tài Nhân tác gi ca Kim Vân Kiu truyn (Trung Quc), tuy sáng
tạo hơn ch: không k bng ngôn t ca tác gi thông qua nhân vt, dây
là nhân vt Kim Trọng để thy nhng nét ni bt vé hai cô gái h Vương: "Thuý
Kiu mày nh dài, mt trong sáng, mạo như trăng thu, sc tựa hoa đào.
Còn Thuý Vân thì tinh thần tĩnh chính, dung mạo đoan trang, có một phong thái
riêng khó mô t".
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
97
Tiếp thu, nghĩa kế tha sáng to k c sáng to t mt nguyên mu
của người xưa Nguyn Du mt cách làm khác trên những phương hướng
làm cho ngh thut gn vi cuộc đời hơn, cái đp gn vi cái thực hơn, do đó
sc sng ca ngh thut di dào, mnh m hơn. Sự hp dẫn đối với người
đọc thế được tăng cường đáng kể. Nói như vậy không nghĩa la trong văn
k chuyn ca Nguyn Du không còn những vướng cn, nhng hàng rào, nhng
khuôn mu. Chng hạn ngay trong trích đon này, cách k của nhà thơ cứ n
theo mt dàn ý, lớp lang được sắp đt t đầu: gii thiệu chung trước, Kiu
Vân t sau. Sau khi đã miêu tả c th từng người, nhà thơ gộp lại như một kết
luận. Đó là nhìn v tng thể. Nhưng trong cái khi tng th ấy, ngòi bút nhà thơ
s bt phá th nói ông đã thành công, nhng thành công rất đáng ghi
nhn trong mt thời văn chương bùng phát.
Trước khi đi vào phân tích tng phn, nếu cn mt nhn xét chung thì nhn
xét đó là: hai mươi bốn câu thơ tả người, t v đẹp người đặt trong tng th
Truyn Kiều như một kết cu riêng rt hoàn chỉnh, hài hoà, đăng đối. Trong
c cái chung (bốn câu đu bn câu cui), c cái riêng (mười sáu câu
gia). Riêng v cái chung, cách miêu t s hài hoà đăng đối không ch biu hin
trng thái cân bng v s ng câu, cái chính giọng điu của người
k. Ngay trong giọng điệu, nếu bốn câu đu tính cht phm bình thì bn câu
kết như một s khép m. phm bình hay khép m, giọng thơ vẫn thư
thái, thong dong:
Đầu lòng hai t nga
Hai câu thơ đầu mang sắc thái trung tính, chưa mảy may có mt nhn xét gì. S
ra đời của hai không gì khác thường đc bit cả. Nhưng đến hai câu sau
đó, giọng thơ đã sự chuyển đổi, giai điệu thơ đã khác: một câu thơ hai nhịp
(câu ba): "Mai ct cách/tuyết tinh thn" giống như một ấn tượng, mt cái gì tht
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
98
khó nói, khó quên. Nhp 3/3 thay cho nhịp đôi thường lệ, riêng âm điệu thơ với
ba thanh trc lin nhau (ct, cách, tuyết) trong đó ch mt t bt buc (tuyết)
phái là thanh trc, din t một thái độ phm bình, mt ngi khen hiếm thy. Sc
ám nh của thư bắt đầu. Nó tạo được s chú ý. S chú ý này trên hai cấp độ: đó
nhng v đẹp khác nhau, c hai đều hoàn m ("Mỗi người mt vẻ, mười
phân vẹn mười"), đó còn v đẹp "tinh thn" trong tng hòa ca "ct cách"
c hình thc ln ni dung. Riêng cấp đ th hai còn s ch dn của nhà thơ
trong quá trình khám phá v đẹp ca hai cô gái v sau.
Nhan sc ca Vân bắt đu bng mt ging k va khách quan, vừa như trò
chuyn to mi giao cm giữa người nói với người nghe, mà thật là cô đúc:
Vân xem trang trng khác vi
T "xem" xen vào câu k đã để li mt du n ch quan ca người kể. Nhưng
nhan sc của Thuý Vân đến đ "khác vời" tđã du n ch quan li càng
rệt hơn. Hai chữ "khác vời" tương đương vi cm t "tuyt vi" ("Cánh hng
bay bng tuyt vi"). "Khác vời" cái đẹp khó lòng nói hết, cái đẹp ca nhan
sc, c cái đẹp ngoài nhan sc. Bn thân một bài thơ ý nghĩa
không ch trong lời. Tuy nhiên, để c th hoá cũng đồng thời đểbit hoá v
đẹp ca Thuý Vân, phải đọc tiếp những câu sau đó. nhiều người khi phân
tích ba câu ttiếp đó thường ch chú ý đến: khuôn trăng, nét ngài, hoa i,
ngc thốt nghĩa những ng danh t ước l ít quan tâm hơn đến nhng v
ng kèm theo, như: đầy đn, n nang, đoan trang. Theo chúng tôi hiu, khuôn
trăng chỉ khuôn mt, nét ngài ch lông mày, hoa ch n i, ngc chi tiếng nói
đã cách điệu lên theo thc sn của txưa để t đó tránh đi nhng suy
diễn quá xa không đáng có. dụ "khuôn trăng" được gii thích khuôn
mt tròn tra (?), lông mày sắc nét, đậm như con ngài (?), tóc đen óng nh hơn
mây (?)… giải thích như thế chng những không đúng còn h thp nhan sc
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
99
của Thuý Vân, đi vào khuynh ng dung tc, tầm thường hoá, không trung
thành vi v thanh cao, trong trắng như "tuyết" trong tinh thn ca v đẹp y.
Chng hạn như nếu hiểu "mày ngài" là lông mày đẹp thì đó li là cái v đẹp ca
người tướng như T Hi "Râu hùm, hàm én, mày ngài". Khôi phc li ba v
ng đã nói trên, chúng tôi mun nhn mnh vào cách hiểu sau đây: nhà thơ
mun cht lc v đp ca Thuý Vân khía cnh hài hoà, dung hòa gia dung
nhan đức hnh. Nhan sắc làm tươi tắn cho đc hạnh (để không là kh hnh),
ngưc lại: đc hnh làm cho nhan sc tr nên thùy m nết na. Nét độc đáo của
Thuý Vân nằm trên đường ranh gii ấy để thng nht mt cách tuyệt đối hai
khía cnh rt khó gp nhau. Trong v kịch Hăm-lét ca Sếch-xpia, trong tâm
trng gi điên, Hăm-lét đã nói với Ô-phê-li-a bng mt câu rt "tnh", v cái
nghch lí va nêu: "Nếu cô vừa là người đức hnh li va nhan sắc, thì đức hnh
làm sao có th nói chuyện được vi nhan sc ca cô?". Thc hin s thng nht
này là khó, thm chí là rất khó khi nhà thơ thoát ra ngoài mô hình công thc mà
vn t chân thc khá t m, chi tiết v đẹp tinh thn ca mt nhan sc tri cho.
To ra đâu đây một th hương thơm dịu dàng, tinh khiết t cái dáng v phúc
hu, hin thc ca Thuý Vân, v đẹp y rất đáng để "Mây thua nước tóc, tuyết
nhường màu da". Trước v đẹp ca Thuý Vân, thiên nhiên là mây, tuyết cũng nể
vì, cm mến.
T Thuý Vân như thế đã đẹp, đã hay, kết thúc như thế gọn. Nhưng trong
mi liên kết ca mạch thơ, người k chuyện như lấy được để tôn vinh mt
nhân vt th hai tiếp ni: "Kiu càng sc so mặn mà". Đó hai phm cht ca
Thuý Kiều mà Thuý Vân chưa có hoặc có nhưng chưa trọn vn: tài sc. "Sc
so" trí tu, tài, kh năng nhận thc nhanh nhy, thông minh ng x
linh hot, kp thi. Tài còn là cm kì thi ho, bốn thú vui tao nhã mà nàng có đủ.
Còn "mn mà" là tình, s nồng nàn, say đm không nht nho, tâm. Ý
thc nhn mnh này dng công ngh thuật đã dành (chẳng hạn như t Thuý
Vân trước đ đối chiếu), còn là thin cm của nhà thơ. Thiện cảm này lăng
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
100
theo cp s bng biện pháp điệp ý. "Càng" câu trước đã là hơn, nhưng hình
như chưa đủ. Cn phải hai năm mười "So b tài sc li phần hơn". Nhưng
"tài sc" s lặp ý đôi so vi "sc so, mn mà" không hoàn toàn trùng
khít.
Tht ra, t tài sc Thuý Kiu, Nguyn Du vn da vào phng, ly thiên
nhiên làm chun mực để miêu t con người. T Thuý Vân cũng thế. Ch có điều:
đó hai vùng thiên nhiên khác. Nếu thiên nhiên dùng đ t Vân mt thiên
nhiên viên mãn, ổn định, tròn đy, thì khi t Thuý Kiu thiên nhiên sống động
hơn, biến hoá hơn. Ấy chưa nói cách đặc t, khc ho trọng tâm hơn, tập
trung vào một nét bao trùm: đôi mắt.
Làn thu thu nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thm liu hn kém xanh.
Đúng đôi mắt lông mày, một đôi mắt trong suốt như không màu, một đôi
mt biết khóc, biết i, mt tui tr tiềm năng đang bừng thc. Nhan sc y
không ch nhan sắc, đã hoá linh hồn. Khi t Vân, nhà thơ nói "Vân xem
trang trng khác vi", y cm nhn ch quan. Còn "làn thu thu" nht là "nét
xuân sơn" thì vẻ đẹp đến đây là khách quan, tự nó, nm ngoài kh năng nm bt
của nhà thơ. vẻ đẹp Kiu nhìn chung v đẹp vượt ngưỡng, không mt
khuôn mu nào th ôm trùm k c thiên nhiên, mt tiêu chí tối đa cho vẻ
đẹp con người của văn chương trung đại.
Tuyệt đối hoá nhan sc ca nhân vt là mt cách làm không dễ. Để thuyết phc,
để ngưi ta có th chp nhn, một con đường "mềm hoá" mà thi đã tìm ra:
"Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai". Nghĩa là trong s toàn bích đã s hơn
thua. Nói tài thua sắc không có nghĩa là tài thưng hay "tài hèn". Thua là so vi
nhan sc, chn tài ấy cũng rất hiếm hoi trong thiên h.
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
101
Thông minh vn sn tính tri,
Pha ngh thi ho đủ mùi ca ngâm.
Trong bn cái tài y, l tài đàn của Kiu ni bt. Bi vn quen thuc
những động thái duy từ khái quát đến c thể. Nhưng đến cái c th thì thơ
hoạ, hát ớng được dn chung li thành một câu. Còn tài đàn sau đó cần đến
bn câu. Và trong bn câu ấy, câu nào cũng nói đến mt bc kì tài. Khi thì thun
phc (làu), lúc thì ni bật (ăn đứt) một tài năng trời p(khúc nhà) nht vi
cung bc mnh, "Mt thiên bc mnh lại càng não nhân". Người ta thường nói
đến v đp s phn ca nàng Kiu vì "Hoa ghen thua thm, liu hn kém xanh".
Không chi vì thiên nhiên gin hn, ghen tc, mà Kiều cũng như thế:
Đã cho lấy kiếp hng nhan
Lam cho, cho hi, cho tàn, cho cân.
Nhưng nếu xét cho cùng, tiếng đàn mới làm cho đời nàng đau đn. Ri tiếng
đàn ấy cũng đi suốt mười lăm năm u lạc, đi hết cuộc đời. Không phi ngu
nhiên mà hơn hai trăm năm sau, Tố Hu nh Nguyn Du là nh tiếng đàn ấy:
Tiếng đàn xưa đứt ngang dây
Hai trăm năm lại càng say lòng người.
(Kính gi c Nguyn Du)
Nhưng, tt c câu chuyn v sau. Còn lúc này, những trang đu ca cuc
đời hai ch em chưa một vt mc nào giây vào, còn tinh nguyên, thanh
sch. Bn câu kết đoạn tr v trạng thái thong dong: "Phong lưu rt mc hng
quần", "Êm đềm trướng r màn che"… nghĩa gần ging bốn câu đầu đoạn.
Nhưng như trên đã nói: nếu bốn câu đầu là phm bình, nhn xét thì bn câu cui
tính cht khép m câu chuyện. Đoạn thơ đóng lại vn một cái đó
không yên. "Xuân xanh xp xỉ…" phải chăng chút thoáng hi hộp, đợi ch,
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
102
một cái đang tới phía ngoài kia, phía "Tường đông ong bướm đi về mc ai"
mà những cô gái "màn che", "trướng rủ" chưa mấy bn tâm thao thc?
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 20
Truyn Kiu của đại thi hào Nguyn Du không ch là kit tác bt h ca nền văn
học trung đại mà còn là ca c nền văn học Vit Nam. Vi nhng giá tr ni
dung tư tưởng ln, mang tính hin thc sâu sc, phn ánh, lên án s bt công,
tàn ác ca chế đ phong kiến và s phn bt hnh của người ph n. Đng thi
th hiện tư tưởng nhân đạo, cảm thương sâu sắc cho s phận con người, đặc bit
là phn nhi n, trân trng nhng v đẹp của người ph n i chế độ cũ.
Có th nói rng dẫu là con người ca chế độ phong kiến, nhưng thông qua
Truyn Kiu ta có th nhận ra tư tưởng và suy nghĩ của Nguyễn Du đã vượt
trước thời đại c hàng trăm năm, để li cho nền văn học mt tác phẩm kinh điển
ảnh hưởng sâu rộng trong văn hóa của người Vit. Truyn Kiu tựa như một
ngun cm hng ln, mt khởi điểm cho nhiu các loại hình văn hóa khác như
bói Kiu, ly Kiu, trò Kiu, tranh Kiu, vnh Kiều, … thậm chí tr thành đề tài
cho nhiu loi hình ngh thut sân khu, âm nhc, hi ha,... Không ch vy
Truyn Kiu còn tr thành tác phm hiếm hoi của văn học Việt Nam được dch
và cho xut bn trên 20 quc gia. S thành công ca Truyn Kiu, không ch
đến t ni dung hin thực và nhân đạo mà còn đến t nhng giá tr ngh thut,
th hin tuyt tài cm bút ca Nguyn Du. Bao gm vic s dng nhun nhuyn
th thơ lục bát ca dân tc, ngh thut t cnh ng tình, ngh thut t cnh, t
ngưi bằng bút pháp ước l ợng trưng, linh hoạt, gi nhiều hơn tả,... Đoạn
trích Ch em Thúy Kiu là mt trong những trích đoạn th hin rất đặc sc bit
tài dùng bút pháp ước l ng trưng để miêu t v đẹp con người ca Nguyn
Du.
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
103
Thúy Kiu, nhân vt chính ca tác phm xut thân là con nhà danh giá, khuê các,
“êm đềm trướng r màn che”, đoạn trích Ch em Thúy Kiu nm phần đầu
“Gp g và đính ước” của tác phm, gii thiu v bi cảnh gia đình Kiều và mi
duyên định mnh ca nàng vi chàng Kim Trng.
Hai câu đầu của đoạn trích “Đầu lòng hai t nga/Thúy Kiu là ch em là Thúy
Vân” giới thiu thân phn ca hai ch em là hai cô con gái ln của gia đình
Vương viên ngoại, trong đó Thúy Kiều là ch c, còn Thúy Vân là con th. V
đẹp chung nht ca hai ch em được Nguyn Du tóm gn bng một câu “Mai
ct cách, tuyết tinh thần”, tiêu biểu cho phong cách ước l gi t ca tác gi.
“Cốt cách” tức ch phm cht, tính cách ca hai cô gái, được ví vi cây hoa mai
- mt trong T quân tử, tượng trưng cho vẻ đẹp thanh cao, phú quý, s bn b,
kiên trì trong cuc sng. Li ly tuyết, mt th va mng manh, va trong tro,
nh nhàng để ch “tinh thần” ngụ ý din t tâm hn trong sáng, thanh khiết ca
Kiu và Vân, nhng cô gái mi ngp nghé tui cp kê, hng trần chưa chạm.
Tuy có nhng v đẹp chung nhất như thế nhưng Kiều và Vân vn có riêng cho
mình nhng v đẹp riêng đến t ngoi hình, khí cht và tâm hồn được Nguyn
Du ch ra trong câu thơ “Mỗi người mt v i phân vẹn mười”, muốn nói
rng khó có th phân bì được tài sc ca hai ch em, du rng Kiu là nhân vt
chính nên có phn ni trội hơn. Để làm ni bt cái v đẹp ca Thúy Kiu,
Nguyễn Du đã rất tinh tế và khéo léo khi chn miêu t em là Thúy Vân trước.
Điều này cũng khá tương tự vi vic la chn trong gii thời trang khi để
vedette là người catwalk cui cùng, ni bt hn so vi những người din m
màn. Phân đoạn miêu t Thúy Vân ngn gn gồm 4 câu thơ:
“Vân xem trang trọng khác vi
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài n nang
Hoa cười, ngc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
104
Có th nhn xét chung rng v đẹp ca Thúy Vân là mt v đẹp mang tính tiêu
chun trong xã hi phong kiến, là tiêu biu cho v ngoài ca những con người
có phúc tướng, s phn an nhàn, hin hòa cuộc đời không chu nhiu sóng gió.
Có l s phận Vân đã gắn vi vic tr thành phu nhân quyn quý, thế nên
Nguyn Du mi miêu t thn thái ca nàng bng my ch “trang trọng khác
vời” đó là vẻ kiêu sa, sang trng mà không phải cô gái nào cũng có được.
“Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài n nang”, có lẽ rằng ngày nay người có khuôn
mt trong không phi là kiu mặt được ưa thích thế nhưng trong quan nim
thm m cũ, người có khuôn mặt tròn đầy như Thúy Vân lại là người có phúc
khí, không ch vy hình ảnh ước l trăng” là ngụ ý ch s thanh khiết, hin hòa
và nhã nhn của người con gái. Bên cnh khuôn mt tròn, phúc hu, Thúy Vân
còn may mắn có được “nét ngài nở nang” là đôi chân mày đậm nét, rõ ràng và
cách xa nhau, vn là nét đẹp và cũng thể hiện tướng phúc trên khuôn mt, cho
thy rằng Vân là người hiu l nghĩa, rộng lưng và hin hòa trong cuc sng.
Đó là về khuôn mt và đôi mày, đối vi n i và ging nói ca Thúy Vân
Nguyễn Du cũng dành cho nàng những cm t rt m miều và thanh nhã “Hoa
i ngc thốt đoan trang”. Nụ i của nàng Vân tươi tựa như hoa nở, mang
cm giác vui mng, sáng sa, và du dàng. Còn ging nói thì trong sáng, va
thanh va ấm như ngọc, bi thế người nói rằng người con gái đẹp thì chc
chn có ging nói hay, nếu ng vi Thúy Vân thì qu thc chng tho sai. Và
tng kết li với điệu cười, ging nói y dành cho Thúy Vân hai ch “đoan
trang” quả tht là rt xng. V đẹp ca Thúy Vân tiếp tục được din t bng câu
“Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”, tóc tựa mây, là mái tóc dài, dài và
đen nhánh, từ đó ta cũng có thể phần nào suy ra được tính cách ca nàng Vân
mc dù Nguyễn Du không đề cập đến. Đó là biểu trưng cho người con gái hin
dịu, tính tình bình đạm, trọng tình nghĩa, và rất mc chung thủy. Còn ý “tuyết
nhường màu da” thì có lẽ không cn phi bàn cãi, ly màu tuyết để ch màu da,
da trắng như tuyết, đó là vẻ đẹp tuyt m sánh ngang vi thiên nhiên to hóa, là
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
105
cái phúc ca nàng Vân. Chung quy qua bốn câu thơ miêu tả v đẹp ca Thúy
Vân, Nguyễn Du đã dùng bút pháp ước l ợng trưng thông qua các hình ảnh
rt nhã nhn, dịu dàng như trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết để gợi ra nét đẹp ca
một người con gái có v đẹp quý phái, không quá sc sảo, nhưng khiến người ta
d chu và quý mến, điều này gợi ý cho người đọc, cũng như dự đoán trước v
cuộc đời bình đạm và êm m ca nàng Vân.
Khác vi Thúy Vân, khi t Thúy Kiu Nguyễn Du dùng đến tám câu thơ mới
diễn đạt được cái v đẹp ca nàng, t ng câu thơ gấp đôi ta có thể thy rng
v đẹp ca Kiu là v đẹp hiếm thy và tuyệt mĩ, bởi so với Thúy Vân người
con gái vốn đã xinh đẹp nhưng chỉ bốn câu thơ là đã khái quát gọn thì Thúy
Kiều rõ ràng đã ở mt tm nhan sc khác. Ta có th thấy rõ được ng ý này ca
Nguyễn Du qua hai câu thơ chuyển “Kiều càng sc so mn mà/So bi sc li
là phần hơn”.
“Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thm, liu hn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành họa hai
Thông minh vn sn tính tri
Pha ngh thi ha đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Ngh riêng ăn đứt h cm một chương”
So với Thúy Vân, thì đến Thúy Kiều dường như Nguyễn Du li càng vn dng
triệt để ci th pháp ước l ợng trưng. Nếu như ởn tác gi còn chv
đẹp ca tng b phận trên cơ thể, rồi đem ví với thiên nhiên, thì Thúy Kiu,
hầu như Nguyễn Du ch gi nh, dùng bút pháp chấm phá để người đọc t liên
ng ra bc tranh Thúy Kiều. “Làn thu thủy” tức là nói đến đôi mắt trong như
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
106
c mùa thu, vi những rung động nh nhàng, mà nói đến đôi mắt mang màu
c, lại còn là mùa thu thì đó lại gi cho ta mt v đẹp tuyt trn, yếu đuối, và
vô cùng lãng mạn. Nhưng cũng đồng thi ch ra rằng người có đôi mắt y li là
người đa sầu, đa cảm và cũng là người có s kiếp truân chuyên, vn mệnh đào
hoa. Tương tự “nét xuân sơn”, tức là ch đôi mày đẹp như núi mùa xuân, khiến
người ta liên tưởng đến đôi mày liễu, gn mảnh, cong, mang đến v đẹp xuân
sc cho c khuôn mặt, đó cũng là một nét đẹp tuyt hiếm có, biu l tính cách
nhu thun, du dàng của người ph n. Thế nhưng Nguyễn Du ti sao không so
vi nhng s vt khác mà li gợi ra đôi mày của Kiu bng hình nh núi non,
điều này cũng làm ta phải suy nghĩ. Có thể gii thích rằng đó cũng lại là mt
ng ý na v cuộc đời ca Kiều, cũng gập ghnh trc tr y như dáng núi, hết lên
li xuống, khó có được ngày hin hòa yên giấc. Đó là nói về đôi mắt, để nói v
v đẹp ca Kiu Nguyễn Du còn có câu “Hoa ghen thua thắm, liu hn kém
xanh”, dẫu chưa phân tích thế nhưng từ b mt ch ta cũng có thể d dàng nhn
thy Thúy Kiu là mt cô gái có v đẹp rt sc so, mn mà khác hn vi cái v
đẹp trang nhã, nh nhàng ca cô em Thúy Vân. So với “Làn thu thủy, nét xuân
sơn” thì câu thơ này lại càng mơ hồ không rõ là Nguyn Du mun phiếm ch v
đẹp nào ca Thúy Kiu. Thế nhưng từ ch “thắm” có lẽ là tác gi mun miêu t
nét môi nàng Kiều, môi đỏ như son, đến loài hoa cũng phải ghen t vì chẳng tươi
đưc bằng đôi môi của nàng. Mt cách hiu khác, có th “thắm” đây là chỉ v
đẹp thiên tiên, tuyt trần, đằm thm ca Thúy Kiu mà không mt loài hoa nào
có th sánh ngang được. Cách hiu này khiến ta liên tưởng đến mt trong bn t
đại m nhân ca Trung Hoa c đại, nàng Dương Qúy phi với v đẹp “tu hoa”,
đến hoa cũng phải xu h vì không sánh bằng. Ý “liễu hờn kém xanh” lại càng
đặc sc trong ngh thut gi t ước l ca Nguyễn Du, ai cũng biết rng loài liu
là loài nc danh vi bn tính mm mi, du dàng, thế nhưng khi so vi Kiu thì
li phi hờn vì “kém xanh”. Ở đây xanh tức là ch sc sng, s dẻo dai, cũng
đồng nghĩa với vic gi ra cái dáng hình l t, mm mi, uyn chuyn tuyt
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
107
thế so vi liu ch có hơn chứ không kém ca Thúy Kiều. Như vậy so vi Thúy
Vân, thì v đẹp ca Thúy Kiều còn được gi ra thông qua dáng hình mm mi,
yếu đuối, mà có l nghĩ sâu hơn ta có thể ởng tượng được thân hình tuyt thế
của nàng. Tuy không đặc t Kiu một cách rõ nét như Thúy Vân nhưng Nguyễn
Du đã dành hai câu thơ để nhn mnh nhan sc Kiu rằng “Một hai nghiêng
c nghiêng thành/Sắc đành đòi một tài đành họa hai”, ý chỉ v đẹp ca Kiu
có l cũng chẳng khác gì những Tây Thi, Điêu Thuyền thu a, hồng nhan t
ha thủy, nghiêng nước nghiêng thành là có tht. Và thc s, Kiều cũng khiến
một nam nhân như Từ Hi ri b mt cõi, ri cuối cùng rơi vào kết cc không
th vãn hi.
Đặc bit Thúy Kiu có v đẹp ni trội hơn không chỉ nhan sc mà nó còn th
hin tài năng của nàng, thiết nghĩ Nguyễn Du tuy có tư tưởng tiến bộ, nhưng
vn còn chu ảnh hưởng sâu sc ca nn Nho hc cho rng ph n không cn
quá xut sc thì mi có th hnh phúc và tiêu biu cho hình mu này là Thúy
Vân, còn ngược li ph n mà va có nhan sc, lại còn có tài thì thường bc
mnh. Thế nên Nguyn Du mi xây dựng hình tượng Kiu va có nhan sc
tuyt dim, li thêm là bc k tài trong thi, ca, nhc, họa. Nàng là người con gái
thông minh, hc mt biết mười, đặc bit với món đàn tỳ bà thì li càng là tay
ngh trác tuyệt. “cung thương làu bậc ngũ âm”, nàng có thể t ph nhc, sáng
tác nên các khúc đàn hay, thế nhưng có lẽ như một điềm báo v kiếp hng nhan
bc mnh, t vic tinh thông t bà - th đàn vốn hay xut hin chn phong
trn, âm vc rng rãi, cm ph ch yếu là nhng nt bun bã thê lương. Cho
đến vic bn thân Kiều cũng viết bn “Bạc mệnh”, buồn thương, não nề đã phần
nào th hiện được cuộc đời đầy sóng gió ca mt trang giai nhân tuyt sc.
“Phong lưu rất mc hng qun
Xuân xanh xp x ti tun cp kê
Văn mẫu lp 9: Phân tích đoạn trích Ch em Thúy Kiu
108
Êm đềm trướng r màn che
ờng đông ong bướm đi về mặc ai”
Những câu thơ cuối li quay v miêu t hoàn cnh sng ca hai ch em, c hai
nàng xut thân con viên ngoi nên cuc sống cũng được xem là khá giả, “phong
lưu”, sống trong la là gm vóc. Kiều và Vân đã sắp ti tui cp kê, gn tui
xuất giá, trước khi sóng gió ập đến thì ch em “êm đềm trướng r n che”,
cuộc đời trôi qua yên , vui vy. Dẫu cũng đã trưởng thành, nhưng cả hai nàng
đều còn rt thanh thun, tinh khiết, bao nhiêu th ái tình “ong bướm”, Kiều Vân
cũng chưa từng nếm tri, gi gìn nn nếp gia phong mt phép.
Đon trích Ch em Thúy Kiều là phân đoạn th hiện rõ nét tài năng bậc thy ca
Nguyn Du trong vic miêu t người thông qua bút pháp ước l ợng trưng, chỉ
gi, v vào mt nét bút chấm phá, để ngưi đọc t khai phá ra bc tranh nhân
vật. Đồng thời đoạn trích còn th hiện tư tưởng nhân đạo ca Nguyn Du khi rt
mc trân trng và tinh tế, t m trước v đẹp ca ch em Thúy Kiều. Đặc bit là
nhân vt Kiu, ông không ch khai thác nhan sc hiếm có mà còn tô v nàng
thông qua v đẹp tài năng, trí tuệ, ct cách bên trong, để làm ni bt bc tranh
ngưi con gái tài sc vẹn toàn nhưng bạc mnh.
| 1/108

Preview text:

Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Sơ đồ tư duy Phân tích Chị em Thúy Kiều 1
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Dàn ý phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Dàn ý chi tiết số 1 1. Mở bài
• Sơ lược về truyện Kiều.
• Giới thiệu đoạn trích Chị em Thúy Kiều. 2. Thân bài
a. Vị trí đoạn trích:
b. Thân phận và vẻ đẹp chung của hai chị em Thúy Kiều: (Bốn câu thơ đầu)
• Con nhà viên ngoại, Kiều là chị, Vân là em.
• “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”: Vẻ đẹp thanh cao, phú quý tựa hoa mai,
tinh thần trong sáng, thanh khiết tựa tuyết.
c. Vẻ đẹp của Thúy Vân “Vân xem...màu da”:
• Khí chất “trang trọng”, phú quý, nhã nhặn.
• Khuôn mặt tròn tựa trăng, nét mày ngài đen, rậm, nở nang.
• Điệu cười tươi như hoa nở, giọng nói trong, thanh, ấm như ngọc quý => Đoan trang, dịu dàng.
• Tóc mây, thể hiện vẻ đẹp của người con gái hiền dịu, tình nghĩa, thủy
chung, nước da trắng như tuyết, vẻ đẹp sạch sẽ không lấm bụi trần.
=> Nguyễn Du đã dùng bút pháp ước lệ tượng trưng thông qua các hình ảnh rất
nhã nhặn, dịu dàng như trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết để gợi ra nét đẹp của một
người con gái có vẻ đẹp quý phái, không quá sắc sảo, nhưng khiến người ta dễ 2
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
chịu và quý mến, điều này gợi ý cho người đọc, cũng như dự đoán trước về
cuộc đời bình đạm và êm ấm của nàng Vân.
d. Vẻ đẹp của Thúy Kiều: “Làn thu thủy...một chương”: Vẻ đẹp hội tụ tài và sắc. * Nhan sắc:
• “Làn thu thủy”: Đôi mắt đẹp, trong như nước mùa thu, lãng mạn, nhưng
cũng là biểu hiện của con người đa sầu đa cảm, đào hoa, khổ mệnh.
• “Nét xuân sơn”: Đôi mày liễu tô điểm làm cho khuôn mặt thêm phần sắc
sảo tựa như nét núi mùa xuân, thế nhưng lại ngụ ý về một cuộc đời trắc trở gập ghềnh.
• “Hoa ghen thua thắm”: Chỉ đôi môi đỏ như son, khiến hoa cũng không
sánh được, đôi khi cũng hiểu là nhan sắc quá đỗi rực rỡ của Kiều, khiến
hoa cũng tự thấy xấu hổ, giận dỗi (tham khảo vẻ đẹp “tu hoa” của Dương Qúy phi).
• “Liễu hờn kém xanh”: Dáng người thướt tha, uyển chuyển tuyệt mỹ khiến
liễu vốn nổi danh mềm mại cũng phải hờn.
=> “Một hai nghiêng nước nghiêng thành/Sắc đành đòi một tài đành họa hai”, ý
chỉ vẻ đẹp của Kiều có lẽ cũng chẳng khác gì những Tây Thi, Điêu Thuyền thuở
xưa, hồng nhan thì họa thủy, nghiêng nước nghiêng thành là có thật. * Vẻ đẹp tài trí:
• Giỏi thi ca, âm luật.
• Thông thạo món đàn tỳ bà.
• Biết sáng tác cầm khúc, thế nhưng khúc nhạc “Bạc mệnh” buồn thương
của nàng lại thể hiện tính đa cảm, đồng thời cũng là dự báo về một cuộc
đời hồng nhan vô phúc của nàng. 3
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
e. Bốn câu thơ cuối: Nếp sống của chị em Thúy Kiều
• Cuộc sống sung túc, êm ấm.
• Hai chị em đã đến tuổi cập kê nhưng vẫn thanh thuần, không biết tình ái
là gì, giữ gìn nền nếp gia phong một phép. 3. Kết bài
Nêu cảm nghĩ cá nhân về đoạn trích.
Dàn ý chi tiết số 2 I. Mở bài
● Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du (đại thi hào, danh nhân văn hóa thế giới).
● Truyện Kiều là tác phẩm gây tiếng vang, trở thành kiệt tác văn học Việt Nam.
● Đoạn trích Chị em Thúy Kiều không chỉ khắc họa vẻ đẹp của những trang
tuyệt thế giai nhân mà còn thể hiện tài năng miêu tả chân dung nhân vật
bậc thầy của Nguyễn Du. II. Thân bài
1. Khái quát vấn đề chung
● Miêu tả nhân vật, khắc họa tính cách và số phận của con người là tài năng
của Nguyễn Du, đây là thành công lớn của ông.
● Miêu tả nhân vật chính diện: sử dụng bút pháp lý tưởng hóa nhân vật.
Miêu tả nhân vật phản diện: bút pháp hiện thực hóa. Đoạn trích Chị em
Thúy Kiều thể hiện vẻ đẹp toàn bích tới chuẩn mực Á Đông là hai nàng Vân, Kiều. 4
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
2. Phân tích vẻ đẹp nhân vật Thúy Vân (4 câu)
- Ban đầu, Nguyễn Du gợi tả vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều từ hình ảnh thiên
nhiên: mai, tuyết. Bút pháp ước lệ gợi ấn tượng về vẻ đẹp với cốt cách như mai,
thanh tao, và cốt cách trong trắng, tinh khôi như tuyết
- Bốn câu thơ miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân: thanh cao, duyên dáng, trong trắng.
● Câu thơ “Vân xem trang trọng khác vời” khái quát được vẻ đẹp cao sang, quý phái của nàng.
● Vẻ đẹp của Vân sánh với những thứ đẹp nhất từ tự nhiên như hoa, mây trắng, tuyết, ngọc.
● Chân dung của Thúy Vân đẹp từ khuôn mặt, nụ cười, mái tóc, làn da, với
phong thái điềm đạm (các chi tiết so sánh, ẩn dụ thú vị trong thơ).
→ Vẻ đẹp của Vân hơn mọi chuẩn mực của tự nhiên, khiến tự nhiên cúi đầu
chịu ‘thua”, “nhường”, ắt hẳn cuộc đời nàng sẽ được an ổn, không sóng gió.
3. Phân tích vẻ đẹp của Thúy Kiều (12 câu tiếp theo)
- Tác giả tả vẻ đẹp Thúy Vân trước để làm nổi bật vẻ đẹp Thúy Kiều:
● Kiều càng sắc sảo mặn mà: Vẻ đẹp của Thúy Kiều mặn mà về tâm hồn, sắc sảo về trí tuệ.
● Tác giả sử dụng lối ước lệ tượng trưng: thu thủy, xuân sơn để đặc tả riêng
đôi mắt trong sáng, long lanh của Kiều.
● Thúy Kiều gợi lên là trang tuyệt thế giai nhân với vẻ đẹp khiến tự nhiên
phải ganh ghét, đố kị: hoa ghen, liễu hờn.
● Cái tài của Thúy Kiều đạt đến mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ
phong kiến: cầm, kì, thi, họa. 5
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
● Nhấn mạnh tài đàn của nàng, đặc biệt cung đàn bạc mệnh của nàng (Một
thiên bạc mệnh lại càng não nhân) là tiếng lòng của trái tim đa sầu, đa cảm.
→ Chân dung Thúy Kiều khiến tạo hóa ganh ghét, tài hoa thiên bẩm, tâm hồn
đa sầu đa cảm dự báo số phận trắc trở, nghiệt ngã đầy sóng gió bởi “Chữ tài chữ
mệnh khéo là ghét nhau”.
- Nguyễn Du miêu tả Thúy Vân trước rồi miêu tả Thúy Kiều, thủ pháp đòn bẩy
này làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều.
- Sử dụng tài tình các tính từ miêu tả vẻ đẹp Vân, Kiều (vẻ đẹp mang số phận):
mặn mà, trang trọng, sắc sảo...
- Các biện pháp so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, đối xứng, liệt kê, tăng tiến, điển tích
điển cố... được sử dụng linh hoạt trong đoạn trích.
→ Bút pháp ước lệ tượng trưng là cách thể hiện con người quen thuộc trong thơ
ca trung đại (miêu tả qua những công thức, chuẩn mực có sẵn được quy ước trong nghệ thuật) III. Kết bài
● Đoạn trích khắc họa rõ nét chân dung chị em Thúy Kiều nhờ bút pháp
ước lệ tượng trưng, thủ pháp đòn bẩy và các biện pháp tu từ.
● Nguyễn Du thể hiện cảm hứng nhân văn qua việc đề cao con người, ca
ngợi vẻ đẹp tài năng của con người và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh.
Dàn ý chi tiết số 3 I. Mở bài 6
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Giới thiệu về đoạn trích "Chị em Thúy Kiều":
Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc, ông đã viết những bài thơ thể hiện thân
phận khổ cực và hẩm hiu của con người và nhất là của người phụ nữ. tấm lòng
nhân đạo của ông đã được thể hiện rất sâu sắc qua các bài thơ và sâu sắc nhất
được thể hiện qua tác phẩm Truyện Kiều. Tác phẩm nói về một nhân vật có tài
sắc vẹn toàn nhưng vì chữ hiếu đã hi sinh bản thân mình. và vẻ đẹp sâu sắc của
Thúy Kiều được thể hiện qua đoạn trích Chị em Thúy Kiều. II. Thân bài
1. Vị trí của đoạn trích Chị em Thúy Kiều
● Nằm đoạn mở đầu của "Truyện Kiều".
● Giới thiệu về hoàn cảnh, gia thế và vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều.
2. Vẻ đẹp chung của hai chị em Thúy Kiều
● Cả hai chị em đều có vẻ đẹp thanh cao, cốt cách và hoàn hảo đêm tác giả
phải thốt rằng “ mười phân vẹn mười”.
● Nhưng trong vẻ đẹp chung ấy mỗi người có một vẻ đẹp riêng, mỗi người một vẻ rất rõ ràng.
3. Vẻ đẹp riêng của hai chị em * Thúy Vân:
- Câu thơ mở đầu: “Vân xem trang trọng khác vời” - gợi vẻ đẹp sang trọng, cao quý.
- Vẻ đẹp của Thúy Vân được so sánh với nhiều hình ảnh:
● “khuôn trăng đầy đặn” - gợi khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu.
● “nét ngài nở nang”: gợi lông mày hơi đậm. 7
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
=> Vẻ đẹp phúc hậu, dịu dàng của Thúy Vân.
● “hoa cười ngọc thốt đoan trang”: gợi tả giọng nói, nụ cười e thẹn, nhẹ
nhàng và mang nét đoan trang.
● “mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” - vẻ đẹp của mái tóc, làn da
cũng khiến thiên nhiên phải nhường nhịn. * Thúy Kiều:
- Nhận xét chung: “Kiều càng sắc sảo mặn mà/So bề tài sắc lại là phần hơn”. Từ
đó, gợi vẻ đẹp của Thúy Kiều nổi bật hơn so với Thúy Vân. - Ngoại hình:
● “Làn thu thủy”: làn nước mùa thu, “nét xuân sơn”: nét núi mùa xuân - ý
nói về vẻ đẹp của đôi mắt trong như làn nước mùa thu, đôi lông mày đẹp
thanh thoát như nét núi mùa xuân.
● Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh: vẻ đẹp của Kiều còn khiến thiên
nhiên phải ghen tị “ghen” - “hờn”. Đó giống như một lời dự báo trước về
cuộc đời đầy truân chuyên.
● “Nghiêng nước nghiêng thành” - vẻ đẹp tuyệt sắc của người phụ nữ có
thể làm khuynh đảo đất nước. - Tài năng:
● “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”: sắc đẹp và tài năng đều khó có ai sánh nổi.
● “Thông minh vốn sẵn tính trời”: một người phụ nữ thông minh, hiểu biết
● “Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”: am hiểu về âm nhạc, thơ ca
- Hai câu cuối: Miêu tả tiếng đàn của Thúy Kiều “Một thiên bạc mệnh lại càng
não nhân” - tiếng đàn của một trái tim đa sầu đa cảm. 8
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều 4. Nghệ thuật
● Miêu tả tượng trưng ước lệ.
● Nghệ thuật đòn bẩy độc đáo của tác giả. III. Kết bài
● Nêu cảm nghĩ của em về đoạn trích Chị em Thúy Kiều.
● Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” làm nổi bật vẻ đẹp tài sắc vẹn toàn của
hai chị em kiều. làm ta cảm thấy một vẻ đẹp vô cùng hoàn mỹ và đáng ngưỡng mộ.
Phân tích Chị em Thúy Kiều ngắn gọn
Nguyễn Du là nhà thơ thiên tài của dân tộc ta. Truyện kiều là kiệt tác của
nguyễn Du và của nền thi ca cổ điển dân tộc, sáng ngời tinh thần nhân đạo. Cả
trên phương diện nghệ thuật, áng thơ nảy là mẫu mực tuyệt vời về ngôn ngữ, về
tả cảnh, tả người, tả tình, tự sư,v..v.. .đem lại cho nhân dân ta nhiều thú vị văn
chương. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là một trong những đoạn tuyệt bút của
thi hào Nguyễn Du. Mượn vật tả người, lấy ý họa hình quả thực là sức mạnh phi
thường trong ngòi bút của thiên tài Nguyễn Du.
Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất
trong “Truyện Kiều”. Thúy Kiều là nhân vật trung tâm của truyện thơ, một thiếu
nữ tài, sắc vẹn toàn đã được thi hào khắc họa một cách thần tình, mĩ lệ.
Hai chị em Thúy Kiều mang vẻ đẹp thanh cao, trinh trắng như “mai”, như
“tuyết”, mỗi người một vẻ đẹp riêng nhưng vẻ đẹp nào cũng toàn thiện, toàn bích: 9
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
“Mai cốt cách, tuyết tinh thần.
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”.
Tiếp sau vẻ đẹp của hai chị em, Nguyễn Du vẽ ra trước mắt người đọc bức chân
dung tuyệt mĩ của Thúy Vân:
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Sắc đẹp của Thúy Vân là sắc đẹp của một thiếu nữ “đoan trang”, “trang trọng
khác vời”; rất quý phái. Nàng sở hữu khuôn mặt “đầy đặn”, tươi sáng như vầng
trăng, mắt phượng, mày ngài, miệng cười tươi như hoa, giọng nói trong như
tiếng ngọc,… Lại còn thêm mái tóc suôn mượt hơn mây, làn da trắng sáng hơn
tuyết. Quả là mĩ miều xưa nay hiếm có.
Nhà thơ đã sử dụng biện pháp ước, lệ tượng trưng, tạo nên những hình ảnh ẩn
dụ đầy gợi cảm. Bức chân dung của Thúy Vân hiện lên cao khiết, trinh sạch và
gần gũi trong ánh nhìn và tưởng tượng. Vẻ đẹp ấy hòa hợp với trần thế, khiến
cho vạn vật tôn vinh, ngưỡng mộ. Với cách miêu tả ấy, Nguyễn Du ngầm dự
báo Thúy vân sẽ có một cuộc đời êm đẹp, hạnh phúc.
Không hề dài dòng, tiếp ngay sau đó, tác giả miêu tả tiếp vẻ đẹp của Thúy Kiều.
Ánh sáng bừng lên, vũ trụ hân hoan khi từng đường nét Thúy Kiều hiện lên trên
ngòi bút của bậc thiên tài:
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc vẫn là phần hơn.
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. 10
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Tả Thúy Vân trước, tả Thúy Kiều sau là một dụng ý nghệ thuật của tác giả. Trên
cái nền vẻ đẹp của Thúy Vân, Thúy Kiều tỏa hiện với vẻ đẹp lộng lẫy có thể
khiến cho thành nghiêng nước đổ. Khác với bức chân dung của Thúy Vân, ở
bức chân dung của Thúy Kiều, Nguyễn Du chỉ miêu tả hai đặc điểm. Mắt nàng
trong như sắc nước mùa thu, Hàng chân mày thanh tú, diễm lệ như dáng núi
mùa xuân. Chỉ hai thôi mà đã lộ rõ sắc đẹp phi thường của nàng rồi, thực là kì bút.
Đó là một vẻ đẹp vừa đằm thắm vừa sắc sảo, mặn mà, ẩn đầy nội lực tồn sinh.
Phía sau vẻ đẹp hình thức là một nguồn sức mạnh huyền bí, có sức lôi cuốn và
quyến rũ đến mê dại. Bởi thế, vẻ đẹp của Thúy Kiều đã khiến cho đất trời phải
“ghen”, phải “hờn”.
Ở đây, ngòi bút tả người của thi hào có sự biến hóa đa dạng. Kết hợp thần tình
các biện pháp nghệ thuật ẩn dụ nhân hóa, vận dụng tinh tế và hiệu quả thi liệu
cổ điển tạo nên sức mạnh biểu đạt kì lạ. Cao hơn thé, thi hào còn mạnh mẽ
khẳng định: “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”. Nghĩa là, nếu sắc đẹp của
Thúy Kiều là hiếm có thì tài năng và tuyệt kĩ của nàng là chưa từng có, chưa
từng xuất hiện trên cõi đời này. Phải chăng, điều đó như dự báo rằng cuộc đời
Thúy Kiều sẽ gặp nhiều trắc trở, tai ương bởi những phẩm chất và năng lực ngoại hạng của mình.
Sau bức chân dung tuyệt sắc của hai đại mĩ nhân, Nguyễn Du dành nhiều hơn
để miêu tả tài năng của Thúy Kiều:
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Cung, thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương. 11
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên “Bạc mệnh” lại càng não nhân.
Trước hết, nàng là người rất thông minh. Vừa sở hữu vẻ đẹp trác việt, vừa thông
minh tuyệt đỉnh, quả thực người như thế xưa nay hiếm lắm. Nguyễn Du có lẽ đã
quá ưu ái cho nhân vật của mình chăng? Mọi thú tiêu dao của người xưa, nàng
đều thông thuộc, thậm chí là đạt đến tuyệt kĩ tài hoa. Cầm, kì, thi, họa, âm luật,
thi luật, kể cả tác thuật nàng đều sành sỏi. Người như thế, ai mà chẳng say mê.
Bức chân dung của Thúy Kiều đã đạt đến mức toàn thiện, vượt qua tất cả
ngưỡng hình dung của con người. Nàng chính là thần tiên trên mặt đất. Bởi là
thần tiên nên nàng không thể nào hòa hợp với luật lệ của chốn trần gian vốn
khắc nghiệt và giả dối nên cuộc đời mới trầm luân, dâu bể đến thế chăng?
Tóm lại, Thúy Kiều là một nhân vật tuyệt đẹp trong “Đoạn trường tân thanh”.
Thi hào Nguyễn Du với cảm hứng nhân đao và tài nghệ thơ ca trác việt đã miêu
tả Thúy Kiều bằng những vần thơ lục bát đẹp đến nhuần nhị, thấu cảm lòng
người. Ông đã dành cho nhân vật bao tình cảm yêu mến, trân trọng sâu sắc. Sự
kết hợp tài tình bút pháp ước lệ, tượng trưng, sử dụng sáng tạo các biện pháp tu
từ, nhất là phép ẩn dụ, so sánh, lớp ngôn ngữ thơ tinh luyện, hàm súc, hình
tượng gợi cảm, tài năng miêu tả người xuất chúng vẽ nên bức chân dung của
bậc tuyệt thế giai nhân bằng thơ sáng giá nhất trong nền văn học cô nước nhà.
Xưa nay, chưa từng có người đẹp như thế.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều hay
Nếu Xuân Diệu - nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới của nền văn học Việt
Nam hiện đại lấy con người làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của thiên nhiên thì đại
thi hào Nguyễn Du lại lấy thiên nhiên làm thước đo cho vẻ đẹp của con người.
Sự khác biệt này được ông thể hiện tài hoa qua đoạn trích "Chị em Thúy Kiều". 12
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Đây là một trong những đoạn trích tiêu biểu nhất của tác phẩm bất hủ mang tên
"Truyện Kiều". Tác phẩm này đã làm nên tên tuổi Nguyễn Du và lưu danh ông đến hàng thế kỉ sau.
Mở đầu đoạn trích, tác giả đã giới thiệu một cách trực tiếp về thân thế, và thứ
bậc trong gia đình của chị em Thúy Kiều:
"Đầu lòng hai ả tố nga
Thuý Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười".
Họ là con gái đầu lòng của Vương viên ngoại - một gia đình xếp vào hạng
"thường thường bậc trung" của triều nhà Minh ở Trung Quốc. Thúy Kiều là chị
cả, tiếp đến là cô em gái Thúy Vân. Cả hai nàng đều là những người con gái đẹp.
Vẻ đẹp ấy được so sánh ngang bằng với vẻ đẹp của công chúa Hằng Nga trên
cung trăng. Dáng vóc của hai nàng thanh tú như cành mai, tinh thần, tâm hồn
trong trắng như tuyết. Tuy rằng mỗi người có những nét đẹp khác nhau nhưng
đó đều là vẻ đẹp toàn diện "mười phân vẹn mười". Thử hỏi trong nhân gian có
mấy ai đẹp một cách hoàn hảo đến như thế?
Theo trình tự thông thường, đáng lẽ ra Nguyễn Du phải miêu tả lần lượt vẻ đẹp
của người chị rồi mới miêu tả vẻ đẹp của người em nhưng ở đây ông đã làm
điều ngược lại. Phải chăng đây là một dụng ý của tác giả? Thúy Vân được
Nguyễn Du dành trọn bốn câu thơ để khắc họa vẻ đẹp "trang trọng" của người con gái:
"Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang 13
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da".
Thúy Vân đẹp một cách "trang trọng", "đoan trang" khác với người phụ nữ bình
thường. Khuôn mặt nàng tròn, đầy đặn như ánh trăng đêm rằm mỗi tháng. Nổi
bật trên gương mặt thanh tú ấy là đôi lông mày cong, nở nang. Vẻ đẹp của Thuý
Vân khiến hoa, ngọc cũng mỉm cười để nhường chỗ cho nàng. Đến cả mây cũng
thua nàng về sự óng ả, mềm mượt của mái tóc, tuyết cũng thua nàng về độ trắng
của màu da. "Trăng", "hoa", "ngọc", mây", "tuyết" được coi là chuẩn mực của
cái đẹp trong quan niệm xưa. Nguyễn Du dùng những thứ ấy để miêu tả vẻ đẹp
của nàng Vân đã giúp chúng ta nhận thấy rõ Thuý Vân đẹp một cách cao sang,
quyền quý. Dân gian ta thường hay ví trắng như tuyết, dường như tuyết là trắng
nhất. Vậy mà màu da của Thúy Vân khiến tuyết cũng phải nhường. Có vẻ như
thiên nhiên đều cúi đầu, nép mình trước vẻ đẹp kiêu sa, đứng đắn của nàng. Hai
động từ "thua", "nhường" đã thể hiện rất rõ điều ấy. Con người thường hay tin
vào số phận, đã có nhiều người đọc đến những câu thơ này cho rằng Thúy Vân
sẽ có một cuộc đời êm ấm, ít sóng gió hơn người chị gái của mình bởi vẻ đẹp
làm thiên nhiên thán phục.
Khác với vẻ đẹp quý phái của Thúy Vân, Kiều đẹp một vẻ "sắc sảo mặn mà":
"Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh".
"Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười" nhưng "so bề tài sắc" thì Thúy Kiều
lại có phần đẹp hơn, tài năng hơn cô em gái. Tác giả chỉ khắc họa vài nét tiêu
biểu trên gương mặt Thúy Kiều nhưng cũng đủ để bạn đọc thấy được vẻ đẹp
cuốn hút của nàng. Điểm cuốn hút nhất khi chúng ta nhìn vào ngoại hình của 14
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
người con gái đó là đôi mắt. Kiều sở hữu một đôi mắt trong như làn nước mùa
thu và đôi lông mày thanh như dáng núi mùa xuân. Đôi lông mày của nàng được
Thanh Tâm Tài Nhân miêu tả: "Thúy Kiều mày nhỏ mà dài, mắt trong mà sáng,
mạo như trăng thu, sắc tựa hoa đào". Chính vẻ đẹp riêng biệt ấy đã khiến cho
hoa, liễu nảy sinh lòng ghen ghét, đố kị. Tạo hóa đánh ghen với vẻ đẹp của
Thúy Kiều. Biện pháp nghệ thuật nhân hóa cùng các động từ "ghen", "hờn" đã
thể hiện thái độ không vừa lòng của tạo hóa. Nguyễn Du đã miêu tả Thúy Kiều
bằng ngôn từ giàu hình ảnh và giàu sức gợi, đồng thời ông cũng dự báo trước về
số phận bạc bẽo của nàng. Thủ pháp đòn bẩy miêu tả Thúy Vân trước rồi mới
đến Thúy Kiều có tác dụng làm nổi bật lên bức chân dung của nàng Kiều. Đối
với Thúy Vân, tác giả chỉ khắc họa nàng ở vẻ đẹp ngoại hình nhưng đối với
Thúy Kiều, ông đã khắc họa nàng cả ở vẻ đẹp của ngoại hình lẫn tài năng thiên phú:
"Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân".
Cái đẹp của nàng làm cho người khác say mê mà đánh mất cả thành cả nước.
Nguyễn Du đã khẳng định trong nhân gian duy nhất chỉ Thúy Kiều mới có được
vẻ đẹp như vậy. Còn về tài năng thiên phú thì may mắn có người ngang sức với
Thúy Kiều. Sự thông minh của nàng được trời phú nên nàng thông thạo cả cầm,
kì, thi, họa. Thúy Kiều thuộc lòng các cung bậc: Cung, thương, giốc, chủy, vũ
trong ngũ âm. Tài năng nổi bật nhất và cũng là tài năng không ai sánh kịp được 15
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
nàng là tài đàn Hồ cầm. Nàng đã sáng tác một bản nhạc cho riêng mình có tên
"Bạc mệnh". Bản nhạc đó cất lên khiến bất cứ ai nghe cũng thương xót, não lòng.
Nguyễn Du đã dành bốn câu thơ cuối đoạn trích để thể hiện tính cách kiêu sa, cao quý của hai chị em:
"Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai".
Theo tục lệ của Trung Quốc, những thiếu nữ đến tuổi 15 bắt đầu cài trâm nghĩa
là họ đã đến tuổi lấy chồng. Mặc dù như vậy nhưng hai chị em vẫn "Êm đềm
trướng rủ màn che" và mặc cho những chàng trai tới ngỏ ý. "Mặc ai" không
hoàn toàn là vô cảm mà đó là cách từ chối đài các, kiêu sa của Thúy Kiều và
Thúy Vân. Dù đã đến tuổi "cập kê" nhưng họ không tơ tưởng đến đấng phu quân của đời mình.
Ở đoạn trích này, thể thơ lục bát nhịp nhàng kết hợp với bút pháp ước lệ tượng
trưng đã giúp Nguyễn Du khắc họa được chân dung của hai tuyệt thế giai nhân
với những vẻ đẹp riêng biệt. Có thể nói nhà thơ thật tài tình trong việc miêu tả
vẻ đẹp của hai chị em Kiều. Đồng thời ông cũng thể hiện bức tranh số phận với
những gam màu khác nhau của họ.
Phân tích Chị em Thúy Kiều hay nhất
“Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học
dân tộc thì Nguyễn Du với Truyện Kiều lại là người đặt nền móng cho ngôn
ngữ văn học hiện đại của nước ta. Với Truyện Kiều của Nguyễn Du, có thể nói 16
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
rằng ngôn ngữ VN đã trải qua một cuộc thay đổi về chất và đã tỏ rõ khả năng
biểu hiện đầy đủ và sâu sắc”. Thật vậy, “Truyện Kiều” là tác phẩm tiêu biểu của
vị đại thi hào dân tộc, một “Danh nhân văn hóa lớn của thế giới”. Ở đó, người
đọc vừa say mê trước vẻ đẹp toàn vẹn của người thiếu nữ vừa đau đớn, thương
xót cho một phận đời bạc bẽo. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” nằm ở phần đầu
của tác phẩm, khắc họa cuộc sống, vẻ đẹp và dự báo tương lai của chị em Thúy Vân, Thúy Kiều.
Ở những câu thơ đầu tiên, Nguyễn Du giới thiệu với độc giả hai người con gái
của viên ngoại họ Vương:
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Thoạt đầu, bốn câu thơ cất lên, người đọc hình dung ra hai thiếu nữ xinh đẹp
“hai ả tố nga”, người em tên Thúy Vân còn người chị là Thúy Kiều. Mỗi người
mang một nét đặc trưng riêng tựa như hai loài hoa khác nhau, nhưng đều đẹp
tuyệt mỹ, tỏa sắc, tỏa hương “mười phân vẹn mười”. Đó là một vẻ đẹp tròn đầy,
cả vẻ bề ngoài lẫn nhân cách, tài năng. Cốt cách của họ được Nguyễn Du ví như
“mai” như “tuyết”, trong sáng, thanh thuần, mộc mạc.
Vẻ đẹp của người em gái Thúy Vân hiện lên rõ nét, ngắn gọn trong bốn câu thơ tiếp theo:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da 17
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Nàng Vân có một vẻ đẹp mà không ai có thể có được “khác vời”. Đó là vẻ đẹp
đầy sự sang trọng, quý phái, đoan trang, xứng đáng là một thiếu nữ đài các. Nét
đẹp của nàng Vân được họa nên bằng các hình ảnh ước lệ, tượng trưng: khuôn
mặt tròn trịa, phúc hậu tựa mặt trăng, đôi lông mày rậm rạp, sắc nét.
Những hình ảnh ước lệ như càng làm tăng thêm vẻ đẹp của nàng. Tính cách nhã
nhặn, ôn nhu, cười tươi tựa hoa nở, lời nói đều là lời vàng, ý ngọc. Vẻ đẹp đó đã
đạt tới mức khiến sự vật xung quanh phải e thẹn, kính nể “mây thua nước tóc,
tuyết nhường màu da”. Những hình ảnh nhân hóa “thua, nhường” dự báo cho
một cuộc sống êm đềm, thuận lợi của Thúy Vân.
Nhà thơ miêu tả về Thúy Vân như làm nền, đòn bẩy để làm tăng thêm nét đẹp
của Thúy Kiều. Khi miêu tả Vân chỉ gói gọn trong bốn câu thơ nhưng khi nói về
Kiều, thi nhân đã dành hẳn mười hai câu thơ, đủ để nhận thấy tác giả có cảm
tình thế nào với phận hồng nhan, bạc mệnh này:
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành họa hai.
Vân đã đẹp đến thiên nhiên cũng phải kiêng dè, Kiều lại đẹp hơn nhiều lần:
“càng sắc sảo mặn mà”, “phần hơn”. “Sắc sảo” chính là nét đẹp trưởng thành,
thông tuệ. Để có thể khắc họa một cách chân thực nhất sắc đẹp của Thúy Kiều,
Nguyễn Du đã khai thác triệt để thủ pháp ước lệ, các hình ảnh tượng trưng, đặc
biệt tập trung vào đôi mắt “làn thu thủy”. Đôi mắt nàng trong trẻo, bình lặng và
ẩn chứa nhiều tâm sự. 18
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Từ đôi mắt ấy, ta cảm nhận được một tâm hồn đa sầu, đa cảm, giàu tình yêu
thương của nàng. Bên cạnh đôi mắt như làn nước mùa thu, cặp lông mày được
ví là “nét xuân sơn”. Như dáng núi mùa xuân, giúp chúng ta liên tưởng đến đôi
mày liễu, gọn mảnh, cong, mang đến vẻ đẹp xuân sắc cho cả khuôn mặt. Đó
cũng là một nét đẹp tuyệt hiếm có, biểu lộ tính cách nhu thuận, dịu dàng của người phụ nữ.
Nhưng tại sao không trực tiếp ví đôi lông mày của nàng như lá liễu mà phải ví
như núi mùa xuân. Bởi cuộc đời nàng cũng truân chuyên, khúc khủy, lên xuống
gập ghềnh tựa như núi. Không chỉ như vậy, vẻ đẹp thuần khiết, tự nhiên của
nàng còn có thể làm “nghiêng thành, nghiêng nước”, giao tranh kịch liệt mà hoa,
liễu cũng phải hờn ghen. Phải chăng số trời đã báo trước về cuộc sống mai sau
của Thúy Kiều sẽ không được êm đềm, hạnh phúc, ngược lại luôn phải chịu
nhiều điều bất hạnh, bi thương.
Phân tích chị em thúy kiều ta thấy về nhan sắc, Thúy Kiều đã hơn Thúy Vân
một bậc còn về tài năng lại càng giỏi hơn mấy phần:
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.
Tư tưởng Nho giáo cho rằng người phụ nữ không cần quá xuất sắc về mọi mặt
thì đã có thể hạnh phúc vẹn tròn, tiêu biểu cho hình mẫu của Thúy Vân; còn
ngược lại phụ nữ mà vừa có nhan sắc, lại còn có tài giỏi thì bạc mệnh. 19
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Đây là sự ảnh hưởng của tư tưởng thời bấy giờ đến thơ ca của thi sĩ. Nhà thơ
cho rằng: “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai". Thúy Kiều vốn là thần đồng từ
nhỏ, trí thông minh do trời phú. Thêm vào đó, những ngón nghề cầm, kỳ, thi,
họa nàng đều thông thạo, giỏi giang.
Mà đặc biệt nhất là tài năng âm nhạc của nàng: “Cung thương làu bậc ngũ
âm/Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương”. Nàng có thể tự mình sáng tác nhạc,
phổ nhạc, viết lên tiếng lòng của kẻ đa sầu cũng là cuộc đời lắm bạc bẽo, đau
thương của nàng “một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”, thật khiến cho người
ta đau lòng. Cũng bởi “chữ tài đi với chữ tai một vần.”
Khép lại đoạn trích, Nguyễn Du mở ra không gian sống khá giả, êm đềm của hai thiếu nữ:
Phong lưu rất mực hồng quần ,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê,
Êm đềm trướng rủ màn che.
Tường đông ong bướm đi về mặc ai
Xinh đẹp, tài năng, đã đến tuổi lấy chồng và được nhiều người theo đuổi “ong
bướm đi về”, Kiều và Vân sống trong khuôn phép, gia giáo “trướng rủ màn che”,
cứ chuyên tâm sống một đời êm đềm, hạnh phúc.
Phân tích Chị em Thúy Kiều bước đầu cho thấy được tài năng, bút lực của
Nguyễn Du. Ông đã thành công khắc họa chân dung hai nhân vật một cách sống
động và sắc nét qua thể thơ lục bát truyền thống, kết cấu tinh tế. Bên cạnh đó,
bút pháp ước lệ tượng trưng, hình ảnh so sánh nhân hóa đặc sắc được lồng ghép
khéo léo đã đưa đến cho người đọc những cảm xúc khó tả; vừa xuýt xoa trước
vẻ đẹp hội tủ đủ: sắc, tài , tình, mệnh vừa khiến người ta nhói lòng trước sự báo
số mệnh của nàng Thúy Kiều. 20
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
“Thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc”. Chẳng biết Nguyễn Du sở hữu bao
nhiêu tài năng, dành bao nhiêu tâm huyết để vẽ nên bức tranh có một không hai
ở “Chị em Thúy Kiều”. Bức tranh tinh tế, sống động, chân thật và gần gũi, mà
khi nhìn ngắm người ta có thể cảm nhận được từng hơi thở của thi sĩ, giọt nước
mắt thương cảm về số phận phía trước chẳng mấy hoan hỉ của Thúy Kiều. Ngay
bây giờ và đến mãi về sau, Truyện Kiều luôn là áng văn chương bất hủ truyền tụng đời đời.
Phân tích Chị em Thúy Kiều siêu hay
Khi khẳng định giá trị của “Truyện Kiều”, nhà thơ Chế Lan Viên đã từng ca
ngợi: “Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn”. Có thể nói, Đoạn Trường
Tân Thanh với những dòng lục bát tuyệt diệu là niềm tự hào cho nền văn
chương Việt Nam. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du, những phong cảnh
tuyệt vời trong thiên nhiên, cỏ cây, những bức tranh tâm trạng đã hiện ra tạo
thành một thế giới thơ đầy quyến rũ. Bằng tấm lòng và sự nâng niu, trân trọng,
mến yêu nhân vật chân thành, ông đã để lại cho đời những rung cảm nghệ thuật
trước cái đẹp thật sâu sắc. Đến với đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, một lần nữa
ta hiểu thêm về nghệ thuật miêu tả của Tố Như thần tình ra sao và trái tim
Nguyễn chan chứa yêu thương biết nhường nào!
“Đầu lòng hai ả tố nga, ………
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Đoạn trích có kết cấu chặt chẽ như một truyện ngắn cổ điển. Mở đầu là bốn câu
giới thiệu chung về hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều. 21
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
“Đầu lòng hai ả tố nga ………
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Hai cô con gái đầu lòng của ông bà Vương viên ngoại đi vào trang thơ của
Nguyễn Du đều xinh đẹp, tươi tắn cả hai, hệt như những nàng “tố nga”. Lời giới
thiệu chung về hai chị em đã khắc họa vẻ thanh cao, trong trắng từ hình dáng
bên ngoài cho đến tam hồn bên trong. Thứ bậc trong gia đình cũng đã được
Nguyễn Du thể hiện qua lời giới thiệu khá giản dị: “Thúy Kiều là chị, em là
Thúy Vân”. Đặc biệt, ông chú trọng gây ấn tượng ở tinh thần, cốt cách của hai
Kiều: cốt cách thanh tao, duyên dáng như mai và tâm hồn, phẩm hạnh trắng
trong, thuần khiết như tuyết. Hình ảnh ẩn dụ nằm trong phép tiểu đối không chỉ
đặc tả được cái thần của bức tranh thiếu nữ: cả hai đều trinh trắng, sáng trong
mà còn khơi gợi xúc cảm thẩm mỹ cho người đọc về vẻ kiều diễm của hai chị
em. Hai người họ với những vẻ đẹp không hoàn toàn như nhau mà là mỗi người
đẹp theo một vẻ nhưng đều là những vẻ đẹp hoàn mỹ. Từ vóc dáng cho đến tâm
hồn, Thúy Kiều và Thúy Vân đều đạt đến mức vẹn toàn thật là tuyệt đối như tác
giả đã nhận định: “mười phân vẹn mười”. Điều ấy cho thấy ý thức lí tưởng hóa
cao độ của nhà thơ bởi lẽ ở đời mấy ai được “mười phân vẹn mười”. Câu thơ
không chỉ nhằm thống báo vẻ đẹp hoàn thiện của Thúy Vân, Thúy Kiều mà còn
chất chứa niềm ngưỡng mộ trước cái đẹp rất riêng của mỗi người.
Những ước lệ của văn chương cổ đi vào câu chữ của Nguyễn Du với biết bao
tình cảm mến yêu, trân trọng. Lời khen chia đều cho cả hai, nét bút muốn đặc tả
“mỗi người một vẻ”. Chính vì thế mà liền sau đó, thi sĩ tập trung khắc họa từng
người. Đầu tiên, chân dung Thúy Vân hiện ra với bốn câu thơ. 22
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
“Vân xem trang trọng khác vời, ………
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Chỉ vẻn vẹn bốn dòng thơ, Nguyễn Du đã thể hiện thật tài hoa vẻ đẹp tươi tắn,
trẻ trung của một cô gái đang độ trăng tròn. Ở Vân cũng khẳng định ngay từ câu
thơ đầu cái điểm hơn người: vẻ đẹp của Vân là vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang
nhưng cũng là sự “trang trọng khác vời”. Để rồi, sau đó là sự cụ thể hóa ở
khuôn mặt tròn đầy, ngời sáng như vầng trăng đêm rằm, đôi lông mày cân đối,
sắc nét như con ngài. Hiện diện trên khuôn mặt tươi sáng ấy là nụ cười tươi
thắm như hoa, giọng nói trong trẻo như ngọc. Hay là phải chăng “ngọc thốt” ở
đây là để chỉ những lời nói của nàng quý giá và đáng trân trọng như ngọc ngà?
Một từ “thốt” thôi mà có thể giúp ta nhận ra vẻ dịu dàng , hiền thục hiếm thấy
của Thúy Vân. Thật là tài tình! Không những thế, nàng còn sở hữu cả một mái
tóc đen óng, nhẹ hơn mây và làn da mịn màng, trắng hơn cả tuyết. Quả là một
vẻ đẹp hoàn hảo, cao sang, quý phái! Sắc đẹp của Thúy Vân sánh ngang với
những nét kiều diễm, sáng trong của trăng hoa, ngọc vàng, mây tuyết,…, những
báu vật tinh khôi, trong trẻo của đất trời. Chỉ thoáng nhìn hình dáng, thoáng
nghe Vân chuyện trò, chúng ta cũng dễ dàng cảm nhận được tất cả sự dịu dàng,
đoan trang của một cô gái khuê các. Có lẽ, Nguyễn Du cũng đã rất có dụng ý
khi sử dụng những tính từ chỉ độ tròn đầy, viên mãn để miêu tả vẻ đẹp của Thúy
Vân: “đầy đặn”, “nở nang”. Một vẻ đẹp căng tròn của tuổi trẻ! Về mặt này, con
mắt nhìn của Nguyễn Du cũng thật “tinh đời”! Dựng lên hình ảnh của Thúy Vân
với một vẻ đẹp phúc hậu, quý phái khiến thiên nhiên, tạo vật cũng phải “thua”,
“nhường”, nhà thơ đã giúp ta nhận ra đấy là một vẻ đẹp có được sự hòa hợp, êm
đềm với thế giới chung quanh. Thêm vào đó là giọng thơ nhẹ nhàng, êm dịu nên
Thúy Vân là hiện thân của cuộc đời yên ả, ấm êm. Từ những thông điệp nghệ
thuật trên, phải chăng đó là dự cảm về một cuộc sống bình lặng, suôn sẻ, hạnh phúc trong tương lai? 23
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Nếu Nguyễn Du dành đôi nét tài hoa cho Thúy Vân thì với Thúy Kiều, tác giả
dùng hết tâm lực để có những nét vẽ thần kì, công phu hơn.
“Kiều càng sắc sảo, mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Câu chuyển tiếp cho ta thấy từ sắc đến tài, Kiều hơn hẳn Thúy Vân, đó không
phải là cái đẹp hiền lành, phúc hậu mà trái lại vừa sắc sảo, lộng lẫy, vừa mặn mà,
duyên dáng, yêu kiều. Thì ra, Thúy Vân đã sắc nước hương trời, Thúy Kiều còn
rực rỡ hơn thế nữa. Bằng thủ pháp đòn bẩy, Nguyễn Du đã mượn vẻ đẹp của
Thúy Vân làm nền để nêu bật vẻ đẹp, tài năng của Thúy Kiều, giúp người đọc
hình dung rõ hơn về bức chân dung của nàng bằng cái nhìn của riêng mình.
Thực tế, đến Thúy Kiều, ta thấy Nguyễn Du rất ít tả mà chỉ gợi. Ông lại thêm
một lần nữa chứng tỏ cốt cách nghệ thuật của một nghệ sĩ bậc thầy. Bởi, nếu
bây giờ nhà thơ cũng lặp lại trình tự tả y hệt như tả Thúy Vân thì hóa ra quá đỗi
vụng về. Đặc biệt, sức gợi của vẻ đẹp Thúy Kiều toát lên từ đôi mắt: “Làn thu
thủy, nét xuân sơn”. Nguyễn Du dường như chỉ nói về đôi mắt của nàng. Đôi
mắt trong, sáng ngời, gợi tình như sóng nước mùa thu và đôi mày cong cong
mềm mại, thanh tú như dáng núi mùa xuân. Cách miêu tả khiến khi đọc lên, ta
như thấy có ánh sáng và làn sóng xao động bên trong. Chỉ vậy thôi mà bao ẩn ý.
Đôi mắt nhìn đời, nhìn người sâu thẳm. Đôi mắt dạt dào, ẩn chứa bao tình cảm
lai láng: biết yêu thương, căm hận, nhức nhối, sẻ chia,… Đôi mắt thể hiện một
đời sống nội tâm phong phú. Đôi mắt “tinh đời” chứ không như đôi mắt đẹp mà
vô hồn, vô cảm của Thúy Vân. Thì ra, cụ Nguyễn Du cố tình bỏ sót đôi mắt
nàng Vân là vì lẽ đó. Một lần nữa, ta lại thấy nhà thơ sử dụng tối đa nghệ thuật
ẩn dụ và tiểu đối trong thơ cổ điển cùng với ý nghĩa tượng trưng để tô đậm, tạo
ấn tượng về nhan sắc của Kiều nhưng không gây rườm rà, phức tạp mà trái lại
giá trị diễn đạt vẫn hay và tự nhiên. Nhan sắc nàng tuyệt mĩ đến nỗi: “Hoa ghen
thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Thêm một lần nữa thiên nhiên được sử dụng để 24
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
nói về vẻ đẹp của người thiếu nữ. Thiên nhiên vốn là vẻ đẹp vĩnh cửu vậy mà
cũng phải “ghen”, “hờn” trước một nàng Kiều “sắc sảo mặn mà”. Hoa không
tươi thắm bằng dung nhan của nàng, liễu kém phần tươi non so với sức sống,
tuổi trẻ mơn mởn của Kiều. Nguyễn Du đã sử dụng biện pháp nhân hóa để thổi
linh hồn vào câu thơ làm ý thơ thêm phần sống động và trước mắt ta hiện ra một
nàng Kiều trẻ trung với tuổi xuân tràn đầy như hoa vừa đang độ nở, liễu đến kì
xanh tươi. Mà cũng vì thế mà ta càng thấp thỏm hơn khi nghĩ tới tương lai của
đời Kiều. Liệu với vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” ấy, Kiều sẽ phải sống
thế nào trong bể đời vốn “Thiên địa phong trần, hồng nhan đa truân”.
Bút pháp miêu tả của Nguyễn Du tài hoa ở chỗ ông không chỉ miêu tả ngoại
hình để thể hiện tính cách, mà còn thông qua đó dự đoán số phận, cuộc đời nhân
vật. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Du dùng cặp từ “thua, nhường” để
miêu tả Thúy Vân và cặp từ “ghen, hờn” để miêu tả Thúy Kiều. Ảnh hưởng, tác
động của nét đẹp hai Kiều với tạo hóa lại đi theo hai hướng khác nhau. Tả Vân,
câu thơ Kiều thanh thản bao nhiêu thì khi tả Kiều, câu chữ Tố Như lại trăn trở
bấy nhiêu. Như vậy đó, chỉ mới mươi câu Kiều mà đã giúp ta thấu hiểu tấm
lòng ưu ái sâu sắc, bao la của nhà thơ nhân đạo Nguyễn Du: ông yêu thương,
nâng niu tất cả. Có điều, với Thúy Kiều là cả một sự yêu thương, nâng niu đầy
băn khoăn, lo lắng so với Thúy Vân. Thật vậy, trong Truyện Kiều, có lúc
Nguyễn Du đã để sư bà Tam Hợp đạo cô đoán định tương lai bất ổn của Kiều qua lời thơ:
“Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành.
Lại mang lấy một chữ tình,
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
Vậy nên những chốn thong dong,
Ở không yên chỗ, ngồi không vững vàng” 25
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Chuyện thế thái, nhân tình cũng thật sâu sắc trong cách nhìn, cách cảm của
Nguyễn Du. Miêu tả Thúy Kiều, Nguyễn Du còn đề cao trí tuệ và tài năng của
nàng, cho thấy rằng Kiều không phải chỉ có nhan sắc tuyệt trần mà còn là người
con gái vốn có thiên tư thông minh bẩm sinh và rất mực tài hoa.
“Thông minh vốn sẵn tính trời, ………
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”
Tài năng của Kiều đã đạt tới mức lí tưởng. Làm thơ, vẽ tranh, ca ngâm, âm nhạc,
mọi thứ Kiều đều tỏ ra thành thạo. Đặc biệt, nàng rất sành chơi Hồ cầm.
Nguyễn Du một lần nữa lại rất công phu khi dành cho Kiều các chữ: “vốn sẵn
tính trời”, “đủ mùi”, “làu bậc”, “ăn đứt” gợi lên sự hoàn mỹ của nàng. Tài năng
của Thúy Kiều qua cách khắc họa của Nguyễn Du họa chăng chỉ có thể so sánh
với tài thơ vè xuất sắc của cung nữ trong tác phẩm “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều.
“Câu cẩm tú đàn anh họ Lý,
Nét đan thanh bậc chị chàng Vương”
Quả là “Sắc đành đòi một tài đành họa hai”! Lại thêm một lần nữa ta hiểu tại
sao Nguyễn Du không miêu tả cái tài của Thúy vân. Tạo hóa đã dành cả cho
Thúy Kiều, để rồi lại tỏ ra đố kị mà đan tâm chơi trò nhỏ nhen.
“Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”
Câu chữ, lời thơ chất chứa sự ngợi ca, ngưỡng mộ mà nỗi băn khoăn, lo lắng cứ
xốn xang trên mỗi từ ngữ của Tố Như. Có lúc ông đã phải thốt lên rằng: 26
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
“Có tài mà cậy chi tài,
Chữ tài liền với chữ tai một vần”
Nhưng làm sao khác được, “Thiên bạc mệnh” ai oán đã vận vào Kiều mất rồi.
Trái tim yêu thương mênh mông của Nguyễn Du cũng chẳng thể nào bảo vệ
được Kiều trước vòng xoáy nghiệt ngã của định mệnh.
Đoạn trích khép lại trong bốn câu miêu tả cuộc sống phong lưu, khuôn phép
trong đức hạnh, mẫu mực của hai chị em Kiều.
“Phong lưu rất mực hồng quần, ………
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Vẻ đẹp chung của hai chị em được đúc kết lại trong cuộc sống nhung lụa, phú
quý. Hai cô gái họ Vương đang ở vào giai đoạn đẹp nhất, thơ mộng nhất của đời
người, đó là tuổi dậy thì vô tư, trong trắng. Đã đến tuổi cài trâm nhưng hai thiếu
nữ không hề quan tâm đến những chuyện “ong bướm”, tâm hồn như băng tuyết,
họ đang sống trong cảnh êm đềm của một gia đình gia phong, nề nếp. Một lần
nữa, Nguyễn Du khẳng định lại nếp sống phong lưu, đài các của hai chị em
Kiều. “Êm đềm”, “mặc ai” là phong thái cao giá của người đẹp chứ nào phải sự
vô cảm trước những rạo rực của tuổi trẻ. Chữ dùng của Nguyễn Du tinh tế lắm
chứ đâu phải buông lơi hờ hững, vô tình!
Chỉ với hai mươi bốn câu thơ lục bát, chúng ta cũng đủ thấy tài năng, sáng tạo
bậc thầy của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Ngòi bút của ông linh hoạt vô cùng,
khi vẽ chi tiết, khi chỉ lướt qua; khi tả, khi gợi, kết hợp nhuần nhuyễn tính ước
lệ của sách vở và cách nói dân gian; vừa làm nghệ thuật, vừa gửi gắm tâm tư,
tình cảm. Để người đời yêu mến Tố Như và nhân vật của ông khi đến với 27
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Truyện Kiều, đều cảm nhận được một ẩn ý sâu sắc: ẩn sau bức chân dung mĩ nữ
là tiếng lòng chan chứa yêu thương của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 1
Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hoá thế giới.
Truyện Kiều là một kiệt tác của thiên tài Nguyễn Du và của nền văn học Việt
Nam từ xưa đến nay. Đây là tác phẩm có giá trị rất lớn về nội dung tư tưởng và
nghệ thuật. Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” được trích ở phần 1: Gặp gỡ và
đính ước, trong Truyện Kiều. Bằng những nét vẽ điêu luyện, tài tình, Nguyễn
Du đã khắc họa chân thực và sống động vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều. Tuy
mỗi người một vẻ nhưng ai cũng mang vẻ đẹp xưa nay hiếm có.
Mở đầu đoạn thơ, tác giả gợi tả vẻ đẹp chung của chị em Thúy Kiều. Nét phác
thảo đơn sơ nhưng cũng đủ để làm hiện hình vẻ đẹp của hai tuyệt thế giai nhân:
Đầu lòng hai ả tố nga
Thuý Kiều là chị em là Thuý Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Sau khi giới thiệu vai chị vai em, Nguyễn Du đi vào miêu tả. Bút pháp tả người
của Nguyễn Du trước hết là bút pháp ước lệ tượng trưng thường gặp trong thơ
cổ điển. Hình ảnh ẩn dụ, ước lệ, tượng trưng “mai cốt cách tuyết tinh thần”
được sử dụng tài tình để miêu tả vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều. Cả hai chị em
mang vóc dáng thanh cao, mảnh dẻ, yểu điệu, mềm mại như dáng mai. Suy nghĩ,
tình cảm, tâm hồn trắng trong như tuyết. Hai người với hai vẻ đẹp khác nhau
nhưng đều đẹp “mười phân vẹn mười”. 28
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Tiếp sau đó, tác giả gợi tả vẻ đẹp của Thuý Vân bằng các hình ảnh chọn lọc, từ ngữ tiêu biểu:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Câu thơ mở đầu giới thiệu khái quát được nhân vật bằng 4 chữ “trang trọng
khác vời”, nói lên vẻ đẹp cao sang quí phái của Thuý Vân. Vẫn bằng bút pháp
ước lệ tượng trưng với những hình ảnh quen thuộc nhưng khi tả Thúy Vân, tác
giả có nhiều hướng tả cụ thể trong thủ pháp liệt kê cụ thể, trong việc sử dụng từ
ngữ để làm nổi bật riêng, đối tượng miêu tả “đầy đặn”, “nở nang”, “đoan trang”.
Nguyễn Du còn sử dụng biện pháp ẩn dụ nhân hoá: khuôn trăng nét ngài hoa
cười ngọc thốt mây thua tuyết nhường góp phần thể hiện vẻ đẹp phúc hậu cao
quý của Thuý Vân. Khuôn mặt tròn trịa toả sáng đầy đặn như mặt trăng, lông
mày sắc nét đậm như con ngài, miệng cười tươi như hoa, giọng nói trong trẻo
toát ra từ hàm răng ngà ngọc, mái tóc đen óng nhẹ hơn mây, da trắng mịn hơn
tuyết, tính cách nghiêm trang đứng đắn. Qua đó, Thuý Vân hiện lên là cô gái
đoan trang phúc hậu. Chân dung Thuý Vân là chân dung mang tính cách, số
phận. Vẻ đẹp của Thuý Vân tạo sự hoà hợp êm đềm với xung quanh mây thua
tuyết nhường , nên nàng sẽ có một cuộc đời bình lặng suôn sẻ hạnh phúc.
Sau khi miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân tác giả miêu tả vẻ đẹp của Thuý Kiều.
Nếu Thuý Vân được giới thiệu qua 4 câu với vẻ đẹp cộng phẩm chất thì Thuý
Kiều được miêu tả qua 12 câu. Đây là nghệ thuật đòn bẩy nhằm làm nổi bật
nhân vật chính của tác giả:
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn 29
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một mai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai.
Cũng như lúc tả Vân, câu thơ đầu khái quát đặc điểm nhân vật. Kiều sắc sảo về
trí tuệ, mặn mà về tâm hồn. Gợi tả vẻ đẹp của Kiều, tác giả vẫn dùng những
hình ảnh ước lệ ẩn dụ làn thu thuỷ nét xuân sơn (nước mùa thu, núi mùa xuân).
Nét vẽ của thi nhân thiên về gợi tả về vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt thế. Điều
đáng chú ý là khi hoạ bức chân dung Kiều, tác giả tập trung gợi tả vẻ đẹp đôi
mắt, bởi đôi mắt thể hiện phần hình ảnh của tâm hồn và trí tuệ. “Làn thu thuỷ”
gợi lên vẻ đẹp của đôi mắt trong sáng, long lanh, linh hoạt. “Nét xuân sơn” gợi
lên đôi lông mày thanh tú, mềm mại, tươi non trên gương mặt trẻ trung. Bằng
hình ảnh nhân hoá “hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”, tác giả làm nổi bật
dung nhan của Kiều đằm thắm khiến hoa phải ghen, dáng trẻ trung đầy sức sống
khiến liễu phải hờn. Nàng có vẻ đẹp làm say đắm, chinh phục lòng người qua
điển tích điển cố nghiêng nước nghiêng thành. Nàng quả là một trang tuyệt thế
giai nhân nhưng nàng không chỉ đẹp mà còn rất đa tài:
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên trương
Một thiên bạc mệnh lại càng lão nhân.
Nàng thông minh bẩm sinh, có tài làm thơ vẽ pha nghề ca hát đủ mùi, tài đàn ăn
đứt, âm luật giỏi đến mức làu bậc, còn sáng tác nhạc “một thiên bạc mệnh” –
chính là sự ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sắc đa cảm. Vẻ đẹp của Kiều là 30
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
sự kết hợp giữa sắc tài và tình. Chân dung Thuý Kiều cũng là chân dung mang
tính cách số phận vẻ đẹp của nàng làm cho tạo hoá phải ghen ghét vẻ đẹp của
nàng hoa ghen liễu hờn nên số phận của nàng sẽ éo le đau khổ.
Bốn câu thơ cuối Nguyễn Du giới thiệu về cuộc sống của chị em Thuý Kiều tuy
là khách hồng quần đẹp thế lại phong lưu rất mực, đã tới tuần cập kê nhưng cả
hai vẫn sống một cuộc đời êm đềm trong khuôn phép gia giáo:
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Đoạn thơ có âm điệu nhẹ nhàng tạo nên một cuộc sống yên vui êm ấm của
những thiếu nữ phòng khuê.
Đoạn trích Chị em Thuý Kiều là một trong những đoạn thơ hay nhất đẹp nhất
trong Thuý Kiều. Ngôn ngữ thơ điêu luyện, giàu cảm xúc, nét vẽ hàm súc gợi
cảm, sử dụng biện pháp ẩn dụ nhân hoá để dựng lên bức chân dung sống động
của hai chị em Thuý Kiều. Đáng quý là bức chân dung tuyệt vời ấy lại được
dựng lên bằng tình yêu thương trân trọng đối với con người của tác giả.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 2
Nguyễn Du là một đại thi hào dân tộc, là nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn, là danh
nhân văn hóa thế giới. "Truyện Kiều" là kiệt tác của Nguyễn Du và là quốc hồn
quốc túy của Việt Nam. Đoạn trích "Chị em Thúy Kiều" nằm ở phần đầu tác
phẩm đã giới thiệu và miêu tả vẻ đẹp của hai người con gái.
Bốn câu thơ đầu tiên, tác giả đã khắc họa chung vẻ đẹp của hai nàng:
"Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân 31
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười"
Hai chị em được Nguyễn Du ví với "hai ả tố nga", là những người phụ nữ đẹp
thời xưa. Tác giả đã giới thiệu vai vế, vị trí của từng người trong gia đình Thúy
Kiều là chị, Thúy Vân là em. Cả hai người đều có dáng vẻ mềm mại, một phong
thái tựa như loài hoa mai cao quý, phẩm chất, đức hạnh sáng trong như tuyết.
"Mai" và "tuyết" đều là cái đẹp, Vân Kiều là sự kết tinh của những cái đẹp tinh
túy ấy. Vẻ đẹp của họ còn được tuyệt đối hóa, lý tưởng hóa "mười phân vẹn mười".
Bức chân dùng của Thúy Vân hiện ra qua bốn câu thơ tiếp. Vẻ đẹp của Vân là
"sang trọng khác vời", quý phái như những vị tiểu thư đài các nơi lầu son gác
tía. "Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang" là một khuôn mặt phúc hậu, tròn
trịa bừng sáng như mặt trăng đêm rằm, đôi lông mày nằm cong còn như con
ngài tạo nên nét hài hòa cân xứng.
"Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da"
Miệng nàng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong như ngọc. Nguyễn Du sử
dụng từ "thốt" cho thấy Vân là người con gái ăn nói biết suy nghĩ. Tóc nàng
mượt mà bồng bềnh hơn cả mây. Da của nàng trắng trẻo mịn màng hơn cả tuyết.
Khác với Vân, dung nhan của nàng Kiều không được miêu tả chi tiết tỉ mỉ và
được tác giả chấm phá, qua đó bắt được cái thần, cái hồn nhất:
"Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh" 32
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Nguyễn Du trước đó cũng khẳng định "So bề tài sắc", Kiều vẫn hơn em. Vẻ đẹp
của Kiều là sắc sảo, đằm thắm với đôi mắt như làn nước mùa thu ẩn dưới đôi
lông mày cong cong như dáng núi mùa xuân. Đặc biệt, nếu với Vân, nhà thơ
dùng từ "thua", "nhường" thể hiện sự hòa hợp với thiên nhiên thì giờ đây sắc
đẹp của Kiều còn khiến cho thiên nhiên hờn ghen đố kỵ. Quả là một tuyệt sắc
giai nhân. Nhưng dường như nó cũng dự báo trước một cuộc đời ấm êm với
Thúy Vân và đầy sóng gió, trắc trở với Thúy Kiều.
Không chỉ miêu tả nhan sắc, Nguyễn Du còn dùng nhiều câu để khắc họa tài
năng của nàng Kiều, đặc biệt tài đàn: "Sắc đành đòi một, tài đành họa hai". Cầm
kì thi họa, tài nào nàng cũng biết, cũng giỏi. Nhưng giỏi nhất là tài đàn:
"Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương"
Nàng còn tự sáng tác cung đàn Bạc mệnh của riêng mình. Bản đàn là sự cất lên
của một tâm hồn đa sầu đa cảm. Nhưng chính cung đàn này cũng như ẩn chứa
trong nó một điềm báo về chặng đường truân chuyên của nàng Kiều. Kiều là sự
kết hợp hoàn hảo giữa sắc- tài- tình.
Dù đều là những giai nhân, những người con gái xinh đẹp nhưng hai chị em vẫn
sống rất mực thước như những bông hoa còn đang phong nhụy, mặc kệ mọi bướm lả ong lơi.
Đoạn trích "Chị em Thúy Kiều" đã đưa người được chiêm ngưỡng bức chân
dung của hai giai nhân tuyệt sắc trong thơ ca văn học! Đoạn trích cũng thể hiện
tài năng và cảm hứng nhân văn của đại thi hào Nguyễn Du.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 3 33
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Trong thơ cổ viết về giai nhân thì đoạn thơ “Chị em Thúy Kiều” trích trong
“Đoạn trường tân thanh” tức Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là một
trong những vần thơ tuyệt bút. Hai mươi tư câu thơ lục bát đã vẽ nên sắc, tài,
đức hạnh của hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân.
Với ngòi bút của một kỳ tài diệu bút Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung hai
nàng giai nhân tuyệt thế:
“Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân”
Vân là em, Kiều là chị. Hai chị em Vân và Kiều (con đầu lòng của gia đình
Vương viên ngoại) đều là những ả tố nga - những người con gái đẹp. Vẻ đẹp
của hai nàng là vẻ đẹp thanh tao của mai, là sự trắng trong, tinh sạch của tuyết:
“Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Bút pháp ước lệ cùng phép ẩn dụ đã gợi lên vẻ đẹp hài hoà, hoàn hảo cả về hình
thức lẫn tâm hồn. Vẻ đẹp của hai nàng đều đến mức tuyệt mĩ mười phân vẹn
mười nhưng mỗi người lại mang một vẻ riêng. Nguyễn Du đã lấy những gì đẹp
đẽ nhất của thiên nhiên để miêu tả hai chị em. Thuý Kiều và Thuý Vân đều
mang vẻ đẹp lí tưởng, theo khuôn mẫu và vượt lên trên khuôn mẫu.
Sau những câu thơ giới thiệu về hai chị em, ngòi bút Nguyễn Du lại có chiều
hướng cụ thể hơn trong bức chân dung quý phái của Thuý Vân:
“Vân xem trang trọng khác vời,”
Hai chữ trang trọng trong câu thơ đã nói lên vẻ đẹp đài các, cao sang của Vân.
Vẻ đẹp ấy của thiếu nữ được so sánh với những thứ cao đẹp trên đời: 34
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
“Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Chân dung của Vân được miêu tả một cách khá toàn vẹn từ khuôn mặt, nét mày,
làn da, mái tóc đến nụ cười, tiếng nói. Vân có khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu như
vầng trăng, có đôi lông mày sắc nét như con ngài, có miệng cười tươi thắm như
hoa, giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngà ngọc và mái tóc của nàng bồng
bềnh hơn mây, làn da của nàng trắng hơn tuyết, sắc đẹp của Vân sánh với những
nét kiều diễm, sáng trong của những báu vật tinh khôi của đất trời. Tất cả toát
lên vẻ đẹp trung hậu, êm dịu, đoan trang, quý phái. Vân đẹp hơn những gì mỹ lệ
của thiên nhiên nhưng tạo sự hoà hợp, êm dịu: mây thua, tuyết nhường. Với vẻ
đẹp như thế, Vân sẽ có một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ và một tính cách điềm
đạm. Qua bức chân dung này, Nguyễn Du đã gửi tới những thông điệp về tương
lai, cuộc đời chính bởi vậy mà bức chân dung Thúy Vân là chân dung mang tính cách số phận.
Tả Vân thật kỹ, thật cụ thể song Nguyễn Du chỉ vẽ Kiều bằng những nét phác
hoạ thông thoáng bởi ông không muốn là người thợ vẽ vụng về:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Sắc đẹp của Kiều được đặt trong sự so sánh với vẻ đẹp đoan trang, quý phái của
Vân để thấy được sự hơn hẳn của Kiều về vẻ sắc sảo của tài năng trí tuệ, bởi cái
mặn mà của nhan sắc. Không tả khuôn mặt, giọng nói, tiếng cười, làn da, mái
tóc như Thuý Vân mà Nguyễn Du đã thật tài tình khi chọn đôi mắt Kiều để đặc
tả bởi đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ: 35
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
“Làn thu thủy nét xuân sơn,”
Câu thơ tả đôi mắt mà gợi lên bức tranh sơn thuỷ, diễm lệ. Bức tranh ấy có làn
thu thủy - làn nước mùa thu, có nét xuân sơn - dáng núi mùa xuân. Cũng như
khuôn mặt Kiều có đôi mắt trong sáng, long lanh, có đôi lông mày thanh tú mà khiến:
“Hoa ghen đua thắm liễu hờn kém xanh”
Vẻ đẹp của Kiều không chỉ như thiên nhiên mà còn vượt trội hơn cả thiên nhiên
khiến hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải hờn. Thiên nhiên không còn thua,
nhường mà cau mày, bặm môi tức giận, mà đố kỵ hờn ghen. Nếu vẻ đẹp của
Vân là những gì tinh khôi, trong trắng nhất của đất trời thì Kiều lại mang vẻ đẹp
của nước non, của không gian mênh mông, của thời gian vô tận. Cái đẹp ấy làm
cho nghiêng nước, đổ thành:
“Một hai nghiêng nước nghiêng thành,”
Nguyễn Du đã sử dụng những điển tích để cực tả Kiều với vẻ đẹp của trang giai
nhân tuyệt thế. Và cũng chính vẻ đẹp không ai sánh bằng ấy như tiềm ẩn những
phẩm chất bên trong cao quý là tài và tình rất đặc biệt:
“Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”
Kiều có cả tài cầm - kì - thi - hoạ của những bậc văn nhân quân tử và tài nào
cũng đến mức điêu luyện. Nàng giỏi về âm luật đến mức làu bậc. Cây đàn nàng
chơi là cây hồ cẩm, tiếng đàn của nàng ăn đứt bất cứ nghệ sĩ nào và đã trở thành
nghề riêng. Để cực tả cái tài của Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng hàng loạt các từ
ngữ ở mức độ tuyệt đối: “vốn sẵn, pha nghề, làu bậc và đủ mùi”. Không những 36
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
giỏi ca hát, chơi đàn mà Kiều còn sáng tác nhạc nữa. Cung đàn nàng sáng tác là
một thiên “Bạc mệnh”. Bản đàn ấy đã ghi lại tiếng lòng của một tâm hồn đa sầu
đa cảm. Nguyễn Du cực tả tài năng của Kiều chính là ngợi ca cái tâm đặc biệt
của nàng. Tài năng của Kiều vượt lên trên tất cả và là biểu hiện của những phẩm
chất cao đẹp, trái tim trung hậu, nồng nhiệt, nghĩa tình, vị tha. Vẻ đẹp của Kiều
là sự kết hợp của sắc - tài - tình và đạt đến mức siêu phàm, lí tưởng. Nhưng
nhan sắc đến mức hoa ghen, liễu hờn để tạo hóa phải hờn ghen đố kị và tài hoa
trí tuệ thiên bẩm làu bậc, đủ mùi cái tâm hồn đa sầu, đa cảm như tự dưng mà có
của nàng khó tránh khỏi sự nghiệt ngã của định mệnh. Chính bởi Kiều quá toàn
mỹ, hoàn thiện nên trong xã hội phong kiến kia khó có một chỗ đứng cho nàng.
Và cung đàn “Bạc mệnh” nàng tự sáng tác như dự báo một cuộc đời hồng nhan
bạc mệnh khó tránh khỏi của Kiều. Cuộc đời nàng rồi sẽ sóng gió, nổi chìm,
truân chuyên. Cũng giống như bức chân dung Thúy Vân, bức chân dung Kiều là
bức chân dung mang tính cách số phận.
Nguyễn Du hết lời ca ngợi Vân và Kiều mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
nhưng ngòi bút tác giả lại đậm nhạt khác nhau ở mỗi người. Vân chủ yếu đẹp ở
ngoại hình còn Kiều là cái đẹp cả về tài năng, nhan sắc lẫn tâm hồn. Điều đó tạo
nên vẻ đẹp khác nhau của hai người thiếu nữ và hé mở hai tính cách, dự báo hai
cuộc đời khác nhau đang đón chờ hai ả tố nga. Hai bức vẽ chân dung của chị em
Thuý Vân và Thuý Kiều đã cho thấy sự tài tình trong ngòi bút tinh tế của Nguyễn Du.
Kết thúc đoạn thợ là bốn câu lục bát miêu tả cuộc sống phong lưu khuôn phép,
mẫu mực của hai chị em Kiều:
“Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” 37
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Hai người con gái họ Vương không chỉ có sắc - tài - tình mà còn có đức hạnh.
Sống phong lưu đến mực hồng quần. Cả hai đều đã tới tuần cập kê - tới tuổi búi
tóc, cài trâm nhưng vẫn sống trong cảnh:
“Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Hai câu thơ như che chở, bao bọc cho hai chị em, hai bông hoa vẫn còn phong
nhụy trong cảnh êm đềm chưa một lần hương toả vì ai. Nguyễn Du đã buông
mành, gạt tất cả mọi vẩn đục cho cuộc đời khỏi cuộc sống phong lưu của hai chị
em để đề cao hơn đức hạnh của hai nàng.
Với cảm hứng nhân đạo và tài nghệ thơ, Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung
Thúy Vân, Thuý Kiều bằng những gì đẹp đẽ, mỹ lệ nhất. Hai bức tranh mỹ nhân
bằng thơ đã thể hiện bút pháp ước lệ tượng trưng và các biện pháp tu từ trong
ngòi bút tinh tế của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 4
Có ý kiến cho rằng: “Truyện Kiều là một kiệt tác hàng trăm năm nay đã được
lưu truyền rộng rãi và có sức chinh phục lớn đối với người đọc”. Thật vậy bằng
tài và tâm của mình, Nguyễn Du đã tạo nên một kiệt tác để đời. Trong đó có
đoạn trích “chị em Thúy Kiều” tiêu biểu cho cái tài khắc họa, miêu tả nhân vật.
Là một đoạn trích khắc họa rõ nét hai chị em Thúy Kiều, không chỉ vậy, qua
những nét khắc họa đó còn thể hiện tính cách và số phận của hai chị em. Mở
đầu đoạn trích với bốn câu giới thiệu hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân:
“Đầu lòng hai ả tố nga
Kiều là chị, em là Thúy Vân 38
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Hai chị em xuất hiện, được tác giả gọi là “tố nga” tức chỉ một người con gái đẹp
ở thời xưa. Thúy Kiều và Thúy Vân, hai người con gái có vóc dáng thanh mảnh
như cây mai và có lòng trắng trong như tuyết đầu mùa. Hai người con gái với
những nét đẹp khác nhau nhưng đều hoàn hảo và vẹn toàn. Dường như , hai chị
em được coi là chuẩn mực của cái đẹp đương thời.
Sau khi tác giả giới thiệu về hai người con gái xinh đẹp nết na, đại thi hào đi
vào khắc họa từng nhân vật. Trong đoạn trích Thúy Vân đẹp ngỡ ngàng:
“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Vân với vẻ đẹp đoan trang của thiếu nữ thời xưa. Mặt đầy đặn, tròn như trăng
rằm, lông mày sắc nét đậm như con ngài, miệng cười tươi thắm như hoa, làn da
trắng mịn như tuyết, tóc bồng bềnh mượt như mây. Bằng nghệ thuật ẩn dụ kết
hợp so sánh, sử dụng các hình ảnh thiên nhiên như: “trăng, con ngài, hoa, mây,
tuyết” làm cho vẻ đẹp của Vân hiện lên sống động chân thật với tất cả những
nét đẹp tự nhiên. Ta cảm nhận được qua những nét khắc họa của tác giả, Vân là
một người con gái đoan trang, phúc hậu, thùy mị, nết na. Đặc biệt vẻ đẹp đó tạo
sự hài hòa với thiên nhiên đất trời: “mây thua”, “tuyết nhường” biểu thị thái độ
nhường nhịn chấp nhận của thiên nhiên trước vẻ đẹp của nàng. Nhìn vào vẻ đẹp
của Thúy Vân, cho ta một dự cảm về một tương lai số phận bình yên tốt đẹp sẽ đến với nàng. 39
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Nếu Thúy Vân với những nét đẹp phúc hậu cao quý thì vẻ đẹp của Thúy Kiều
càng vượt trội cả sắc lẫn tài qua mười hai câu đặc tả Kiều với bốn câu khắc họa chân dung:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
Trong xã hội cũ, người ta luôn quan niệm rằng thiên nhiên là chuẩn mực của cái
đẹp, con người thường được so sánh với thiên nhiên, hoặc hiện lên qua các hình
ảnh ước lệ tượng trưng. Tác giả có dụng ý miêu tả Vân trước, khéo léo sử dụng
thủ pháp đòn bẩy làm nổi bật vẻ đẹp của Kiều. Nếu Thúy Vân với vẻ đẹp đoan
trang, phúc hậu thì Thúy Kiều lại sắc sảo mặn mà, vẹn toàn cả tài lẫn sắc. Vẻ
đẹp của Kiều được khắc họa một cách chấm phá chứ không miêu ta toàn diện
như Vân, đó là cách tạo điểm nhấn rõ rệt. Qua đôi mắt trong trẻo, dịu dàng như
hồ nước mùa thu, đôi mày sắc nét tươi mới như nét núi mùa xuân. Một hình ảnh
ước lệ quen thuộc kết hợp với so sánh ẩn dụ đã khắc họa chân dung Thúy Kiều
đẹp hoàn hảo. Vẻ đẹp khiến cho “hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”.
“ghen”, “hờn” là các động từ chỉ sự ghen ghét, đố kị, nó mang một sắc thái
mạnh biểu thị thái độ ghen tức của thiên nhiên đối với vẻ đẹp của Thúy Kiều, vẻ
đẹp làm thành nghiêng nước mất, tiềm tàng tai họa. Và đằng sau sự nổi giận của
tạo hóa ấy sẽ là sự trả thù theo quy luật tự nhiên: “trời xanh quen thói, má hồng đánh ghen”.
Nếu như ở Thúy Vân, tác giả chỉ dừng ở việc miêu tả sắc đẹp thì ở Thúy Kiều
hội tụ cả sắc lẫn tài:
“Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai” 40
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Tác giả ngợi ca Thúy Kiều là một người thiếu nữ đẹp tuyệt trần, không những
thế tài năng của nàng xuất sắc đến nỗi trên đời này phải chăng có người thứ hai sánh bằng:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương”
Chuẩn mực về sự tài giỏi ngày xưa hội tụ: “cầm, kỳ, thi, họa” thì Thúy Kiều đủ
cả, không những biết mà còn đạt đến trình độ khiến người khác phải nể phục.
Trong đó, nàng đặc biệt nổi trội về “cầm”. Cung đàn được vang lên bởi một
người thiếu nữ đa sầu đa cảm, có lẽ bản nhạc mà nàng Kiều sáng tác ở tuổi
thanh xuân lại là một thiên bạc mệnh, dự báo trước một tương lai không chút êm đềm:
“Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”
Với tất cả tài năng, phẩm chất của nàng đang có thì chắc chắn rằng, cuộc sống
êm đềm hiện tại, sự an nhàn tĩnh tại ngầm chuẩn bị trước cho một trận bão táp
cuồng phong. Trong dân gian xưa cũng có câu: “tài tình chi lắm cho trời đất
ghen” hay “chữ tài liền với chữ tai một vần”.
Khép lại đoạn trích, Nguyễn Du một lần nữa tái hiện của sống êm ả, ngày qua
ngày của hai chị em Thúy Vân và Thúy Kiều:
“Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê, 41
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Sống trong khuôn phép, trong “trướng rủ màn che”, hai chị em đã sắp tới tuổi
tìm đấng phu quân cho mình nhưng có lẽ với chữ “mặc” ở câu thơ cuối đã thể
hiện thái độ của Kiều và Vân, không tơ tưởng đến những kẻ ngoài kia.
Bằng cả tài và tâm của mình, đại thi hào Nguyễn Du đã khắc họa chân dung hai
nhân vật một cách sống động và sắc nét. Với thể thơ lục bát truyền thống mềm
mại tinh tế, kết cấu và trình tự thể hiện dụng ý. Song song với đó là bút pháp
ước lệ tượng trưng quen thuộc (làn thu thủy, nét xuân sơn, mai cốt cách, tuyết
tinh thần...), khéo léo sử dụng các biện pháp tu từ như so sánh nhân hóa đặc
sắc... Không những thành công trong việc khắc họa chân dung mà còn thông
qua đó dự cảm về số phận của hai chị em. Đặc biệt bức chân dung của Thúy
Kiều là chân dung mang tính chất số phận hội tụ đủ: “sắc, tài, tình, mệnh”.
Như vậy, đằng sau nét khắc họa và những dự cảm về số phận của Nguyễn Du là
tấm lòng của nhà thơ đối với người thiếu nữ trong xã hội xưa. Đó là nét đặc sắc
trong đoạn trích “chị em Thúy Kiều” - một đoạn trích tiêu biểu cho biệt tài khắc
họa chân dung của đại thi hào.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 5
“Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du không chỉ là kiệt tác bất hủ của nền
văn học trung đại mà còn là của cả nền văn học Việt Nam. Với những giá trị nội
dung tư tưởng lớn, mang tính hiện thực sâu sắc, phản ánh, lên án sự bất công,
tàn ác của chế độ phong kiến và số phận bất hạnh của người phụ nữ. Đồng thời
thể hiện tư tưởng nhân đạo, cảm thương sâu sắc cho số phận con người, đặc biệt
là phận nhi nữ, trân trọng những vẻ đẹp của người phụ nữ dưới chế độ cũ. 42
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Có thể nói rằng dẫu là con người của chế độ phong kiến, nhưng thông qua
“Truyện Kiều” ta có thể nhận ra tư tưởng và suy nghĩ của Nguyễn Du đã vượt
trước thời đại cả hàng trăm năm, để lại cho nền văn học một tác phẩm kinh điển
có ảnh hưởng sâu rộng trong văn hóa của người Việt. Truyện Kiều tựa như một
nguồn cảm hứng lớn, một khởi điểm cho nhiều các loại hình văn hóa khác như
bói Kiều, lẩy Kiều, trò Kiều, tranh Kiều, vịnh Kiều… Thậm chí còn trở thành đề
tài cho nhiều loại hình nghệ thuật sân khấu, âm nhạc, hội họa... Không chỉ vậy
Truyện Kiều còn trở thành tác phẩm hiếm hoi của văn học Việt Nam được dịch
và cho xuất bản ở trên hai mươi quốc gia. Sự thành công của Truyện Kiều,
không chỉ đến từ nội dung hiện thực và nhân đạo mà còn đến từ những giá trị
nghệ thuật, thể hiện tuyệt tài cầm bút của Nguyễn Du. Bao gồm việc sử dụng
nhuần nhuyễn thể thơ lục bát của dân tộc, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, nghệ
thuật tả cảnh, tả người bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, linh hoạt, gợi nhiều
hơn tả... Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là một trong những trích đoạn thể hiện
rất đặc sắc biệt tài dùng bút pháp ước lệ tượng trưng để miêu tả vẻ đẹp con người của Nguyễn Du.
Thúy Kiều, nhân vật chính của tác phẩm xuất thân là con nhà danh giá, khuê
các. Đoạn trích Chị em Thúy Kiều nằm ở phần đầu “Gặp gỡ và đính ước” của
tác phẩm, giới thiệu về bối cảnh gia đình Kiều và mối duyên định mệnh của
nàng với chàng Kim Trọng.
Hai câu đầu của đoạn trích “Đầu lòng hai ả tố nga/Thúy Kiều là chị em là Thúy
Vân” đã giới thiệu thân phận của hai chị em là hai cô con gái lớn của gia đình
Vương viên ngoại, trong đó Thúy Kiều là chị cả, còn Thúy Vân là con thứ. Vẻ
đẹp chung nhất của hai chị em được Nguyễn Du tóm gọn bằng một câu “Mai
cốt cách, tuyết tinh thần”, tiêu biểu cho phong cách ước lệ gợi tả của tác giả.
“Cốt cách” tức chỉ phẩm chất, tính cách của hai cô gái, được ví với cây hoa mai
- một trong Tứ quân tử tượng trưng cho vẻ đẹp thanh cao, phú quý, sự bền bỉ và 43
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
kiên trì trong cuộc sống. Lại lấy “tuyết”, một thứ vừa mỏng manh, vừa trong
trẻo, nhẹ nhàng để chỉ “tinh thần” ngụ ý diễn tả tâm hồn trong sáng, thanh khiết
của Kiều và Vân, những cô gái mới ngấp nghé tuổi cập kê, hồng trần chưa
chạm. Tuy có những vẻ đẹp chung nhất như thế nhưng Kiều và Vân vẫn có
riêng cho mình những vẻ đẹp riêng đến từ ngoại hình, khí chất và tâm hồn được
Nguyễn Du chỉ ra trong câu thơ “Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”,
muốn nói rằng khó có thể phân bì được tài sắc của hai chị em, dẫu rằng Kiều là
nhân vật chính nên có phần nổi trội hơn. Để làm nổi bật cái vẻ đẹp của Thúy
Kiều, Nguyễn Du đã rất tinh tế và khéo léo khi chọn miêu tả cô em là Thúy Vân
trước. Phân đoạn miêu tả Thúy Vân ngắn gọn gồm bốn câu thơ:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Có thể nhận xét chung rằng vẻ đẹp của Thúy Vân là một vẻ đẹp mang tính tiêu
chuẩn trong xã hội phong kiến, là tiêu biểu cho vẻ ngoài của những con người
có phúc tướng, số phận an nhàn, hiền hòa cuộc đời không chịu nhiều sóng gió.
Có lẽ số phận Vân đã gắn với việc trở thành phu nhân quyền quý, thế nên
Nguyễn Du mới miêu tả thần thái của nàng bằng mấy chữ “trang trọng khác
vời” đó là vẻ đẹp kiêu sa, sang trọng mà không phải cô gái nào cũng có được.
“Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang”, trong quan niệm thẩm mĩ cũ, người
có khuôn mặt tròn đầy như Thúy Vân lại là người có phúc khí. Không chỉ vậy
hình ảnh ước lệ “trăng” là ngụ ý chỉ sự thanh khiết, hiền hòa và nhã nhặn của
người con gái. Bên cạnh khuôn mặt tròn, phúc hậu, Thúy Vân còn may mắn có
được “nét ngài nở nang” là đôi chân mày đậm nét, rõ ràng và cách xa nhau, vốn
là nét đẹp và cũng thể hiện tướng phúc trên khuôn mặt. Điều đó cho thấy rằng 44
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Vân là người hiểu lễ nghĩa, rộng lượng và hiền hòa trong cuộc sống. Đó là về
khuôn mặt và đôi mày, đối với nụ cười và giọng nói của Thúy Vân, Nguyễn Du
cũng dành cho nàng những cụm từ rất mỹ miều và thanh nhã: “Hoa cười ngọc
thốt đoan trang”. Nụ cười của nàng Vân tươi tựa như hoa nở, mang cảm giác vui
mừng, sáng sủa, và dịu dàng. Còn giọng nói thì trong sáng, vừa thanh vừa ấm
như ngọc, bởi thế có người nói rằng người con gái đẹp thì chắc chắn có giọng
nói hay, nếu ứng với Thúy Vân thì quả thực chẳng thể nào sai. Và tổng kết lại
với điệu cười, giọng nói ấy dành cho Thúy Vân hai chữ “đoan trang” quả thật là
rất xứng. Vẻ đẹp của Thúy Vân tiếp tục được diễn tả bằng câu “Mây thua nước
tóc tuyết nhường màu da”, tóc tựa mây, là mái tóc dài, dài và đen nhánh, từ đó
ta cũng có thể phần nào suy ra được tính cách của nàng Vân mặc dù Nguyễn Du
không đề cập đến. Đó là biểu trưng cho người con gái hiền dịu, tính tình bình
đạm, trọng tình nghĩa, và rất mực chung thủy. Còn ý “tuyết nhường màu da” thì
có lẽ không cần phải bàn cãi, lấy màu tuyết để chỉ màu da, da trắng như tuyết,
đó là vẻ đẹp tuyệt mỹ sánh ngang với thiên nhiên tạo hóa, là cái phúc của nàng
Vân. Chung quy qua bốn câu thơ miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân, Nguyễn Du đã
dùng bút pháp ước lệ tượng trưng thông qua các hình ảnh rất nhã nhặn, dịu dàng
như “trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết” để gợi ra nét đẹp của một người con gái có
vẻ đẹp quý phái, không quá sắc sảo, nhưng khiến người ta dễ chịu và quý mến,
điều này gợi ý cho người đọc, cũng như dự đoán trước về cuộc đời bình đạm và êm ấm của nàng Vân.
Khác với Thúy Vân, khi tả Thúy Kiều Nguyễn Du dùng đến tám câu thơ mới
diễn đạt được cái vẻ đẹp của nàng, từ lượng câu thơ gấp đôi ta có thể thấy rằng
vẻ đẹp của Kiều là vẻ đẹp hiếm thấy và tuyệt mĩ, bởi so với Thúy Vân người
con gái vốn đã xinh đẹp nhưng chỉ bốn câu thơ là đã khái quát gọn thì Thúy
Kiều rõ ràng đã ở một tầm nhan sắc khác. Ta có thể thấy rõ được ngụ ý này của
Nguyễn Du qua hai câu thơ chuyển “Kiều càng sắc sảo mặn mà/So bề tài sắc lại là phần hơn”. 45
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
“Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành họa hai
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương”
So với Thúy Vân, thì đến Thúy Kiều dường như Nguyễn Du lại càng vận dụng
triệt để cải thủ pháp ước lệ tượng trưng. Nếu như ở Vân tác giả còn chỉ rõ vẻ
đẹp của từng bộ phận trên cơ thể, rồi đem ví với thiên nhiên, thì ở Thúy Kiều,
hầu như Nguyễn Du chỉ gợi nhẹ, dùng bút pháp chấm phá để người đọc tự liên
tưởng ra bức tranh Thúy Kiều. “Làn thu thủy” tức là nói đến đôi mắt trong như
nước mùa thu, với những rung động nhẹ nhàng, mà nói đến đôi mắt mang màu
nước, lại còn là mùa thu thì đó lại gợi cho ta một vẻ đẹp tuyệt trần, yếu đuối, và
vô cùng lãng mạn. Nhưng cũng đồng thời chỉ ra rằng người có đôi mắt ấy lại là
người đa sầu, đa cảm và cũng là người có số kiếp truân chuyên, vận mệnh đào
hoa. Tương tự “nét xuân sơn” tức là chỉ đôi mày đẹp như núi mùa xuân, khiến
người ta liên tưởng đến đôi mày liễu, gọn mảnh, cong, mang đến vẻ đẹp xuân
sắc cho cả khuôn mặt, đó cũng là một nét đẹp tuyệt hiếm có, biểu lộ tính cách
nhu thuận, dịu dàng của người phụ nữ. Thế nhưng Nguyễn Du tại sao không so
với những sự vật khác mà lại gợi ra đôi mày của Kiều bằng hình ảnh núi non,
điều này cũng làm ta phải suy nghĩ. Có thể giải thích rằng đó cũng lại là một
ngụ ý nói về cuộc đời của Kiều, cũng gập ghềnh trắc trở y như dáng núi, hết lên 46
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
lại xuống, khó có được ngày hiền hòa yên giấc. Đó là nói về đôi mắt, để nói về
vẻ đẹp của Kiều Nguyễn Du còn có câu “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém
xanh”, dẫu chưa phân tích thế nhưng từ bề mặt chữ ta cũng có thể dễ dàng nhận
thấy Thúy Kiều là một cô gái có vẻ đẹp rất sắc sảo, mặn mà khác hẳn với cái vẻ
đẹp trang nhã, nhẹ nhàng của cô em Thúy Vân. So với “Làn thu thủy, nét xuân
sơn” thì câu thơ này lại càng mơ hồ không rõ là Nguyễn Du muốn phiếm chỉ vẻ
đẹp nào của Thúy Kiều. Thế nhưng từ chữ “thắm” có lẽ là tác giả muốn miêu tả
nét môi nàng Kiều, môi đỏ như son, đến loài hoa cũng phải ghen tị vì chẳng tươi
được bằng đôi môi của nàng. Một cách hiểu khác, có thể “thắm” ở đây là chỉ vẻ
đẹp thiên tiên, tuyệt trần, đằm thắm của Thúy Kiều mà không một loài hoa nào
có thể sánh ngang được. Cách điều này khiến ta liên tưởng đến một trong bốn tứ
đại mỹ nhân của Trung Hoa cổ đại, nàng Dương Quý phi với vẻ đẹp “tu hoa”,
đến hoa cũng phải xấu hổ vì không sánh bằng. Ý “liễu hờn kém xanh” lại càng
đặc sắc trong nghệ thuật gợi tả ước lệ của Nguyễn Du, ai cũng biết rằng loài liễu
là loài nức danh với bản tính mềm mại, dịu dàng, thế nhưng khi so với Kiều thì
lại phải hờn vì “kém xanh”. Ở đây xanh tức là chỉ sức sống, sự dẻo dai, cũng
đồng nghĩa với việc gợi ra cái dáng hình lả lướt, mềm mại, uyển chuyển tuyệt
thế so với liễu chỉ có hơn chứ không kém của Thúy Kiều. Như vậy so với Thúy
Vân, thì vẻ đẹp của Thúy Kiều còn được gợi ra thông qua dáng hình mềm mại,
yếu đuối, mà có lẽ nghĩ sâu hơn ta có thể tưởng tượng được thân hình tuyệt thế
của nàng. Tuy không đặc tả Kiều một cách rõ nét như Thúy Vân nhưng Nguyễn
Du đã dành hai câu thơ để nhấn mạnh nhan sắc Kiều rằng “Một hai nghiêng
nước nghiêng thành/Sắc đành đòi một tài đành họa hai”, ý chỉ vẻ đẹp của Kiều
có lẽ cũng chẳng khác gì những Tây Thi, Điêu Thuyền thuở xưa, hồng nhan thì
họa thủy, nghiêng nước nghiêng thành là có thật. Và thực sự, Kiều cũng khiến
một nam nhân như Từ Hải rời bỏ một cõi, rồi cuối cùng rơi vào kết cục không thể vãn hồi. 47
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Đặc biệt Thúy Kiều có vẻ đẹp nổi trội hơn không chỉ ở nhan sắc mà nó còn thể
hiện ở tài năng của nàng, thiết nghĩ Nguyễn Du tuy có tư tưởng tiến bộ, nhưng
vẫn còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền Nho học cho rằng phụ nữ không cần
quá xuất sắc thì mới có thể hạnh phúc và tiêu biểu cho hình mẫu này là Thúy
Vân, còn ngược lại phụ nữ mà vừa có nhan sắc, lại còn có tài thì thường bạc
mệnh. Thế nên Nguyễn Du mới xây dựng hình tượng Kiều vừa có nhan sắc
tuyệt diễm, lại thêm là bậc kỳ tài trong thi, ca, nhạc, họa. Nàng là người con gái
thông minh, học một biết mười, đặc biệt với món đàn tỳ bà thì lại càng là tay
nghề trác tuyệt. “cung thương làu bậc ngũ âm”, nàng có thể tự phổ nhạc, sáng
tác nên các khúc đàn hay, thế nhưng có lẽ như một điềm báo về kiếp hồng nhan
bạc mệnh, từ việc tinh thông tỳ bà - thứ đàn vốn hay xuất hiện ở chốn phong
trần, âm vực rộng rãi, cầm phổ chủ yếu là những nốt buồn bã thê lương. Cho
đến việc bản thân Kiều cũng viết bản “Bạc mệnh”, buồn thương, não nề đã phần
nào thể hiện được cuộc đời đầy sóng gió của một trang giai nhân tuyệt sắc.
“Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Những câu thơ cuối lại quay về miêu tả hoàn cảnh sống của hai chị em, cả hai
nàng xuất thân con viên ngoại nên cuộc sống cũng được xem là khá giả, “phong
lưu” được sống trong lụa là gấm vóc. Kiều và Vân đã sắp tới tuổi cập kê, gần
tuổi xuất giá, trước khi sóng gió ập đến thì chị em “êm đềm trướng rủ màn che”,
cuộc đời trôi qua yên ả, vui vầy. Dẫu cũng đã trưởng thành, nhưng cả hai nàng
đều còn rất thanh cao, tinh khiết. Những thứ ái tình “ong bướm”, Kiều và Vân
cũng chưa từng nếm trải mà giữ gìn nền nếp gia phong một phép. 48
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là phân đoạn thể hiện rõ nét tài năng bậc thầy
của Nguyễn Du trong việc miêu tả người thông qua bút pháp ước lệ tượng
trưng, chỉ gợi, vẽ vào một nét bút chấm phá, để người đọc tự khai phá ra bức
tranh nhân vật. Đồng thời đoạn trích còn thể hiện tư tưởng nhân đạo của
Nguyễn Du khi rất mực trân trọng và tinh tế, tỉ mỉ trước vẻ đẹp của chị em Thúy
Kiều. Đặc biệt là ở nhân vật Kiều, ông không chỉ khai thác nhan sắc hiếm có mà
còn tô vẽ nàng thông qua vẻ đẹp tài năng, trí tuệ, cốt cách ở bên trong, để làm
nổi bật bức tranh người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng bạc mệnh.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 6
Nguyễn Du (1765 - 1820) quê ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Ông là đại thi
hào của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Một trong những tác phẩm thành
công về chữ Nôm của ông là “Đoạn trường tân thanh” hay còn gọi là “Truyện
Kiều”. Truyên không những có nội dung sâu sắc mà còn rất thành công về nghệ
thuật. Tiêu biểu cho nghệ thuật khắc họa nhân vật là đoạn trích “Chị em Thúy
Kiều”. Đoạn trích đã đề cao trân trọng vẻ đẹp của con người đặc biệt là người
phụ nữ thông qua việc miêu tả tài và sắc của chị em Thúy Kiều. Đây là đoạn
trích thể hiện sâu sắc cảm hứng nhân vật của Nguyễn Du.
Bốn dòng thơ đầu tác giả giới thiệu chung về vị thứ và vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều:
“Đầu lòng hai ả tố nga,
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười” 49
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Bằng cách giới thiệu hai “ả tố nga” vừa ngắn gọn vừa giản dị hết sức ấn tượng
đầy đủ. Trong gia đình họ Vương có hai cô con gái đầu lòng đẹp như “Hằng
Nga”. Và câu thơ “‘Mai cốt cách, tuyết tinh thần” bằng việc sử dụng bút phát
ước lệ tượng trưng thông qua hai hình ảnh “mai”, “tuyết”, tác giả gợi lên trước
mắt chúng ta vẻ đẹp của hai thiếu nữ với dáng người mảnh dẻ, duyên dáng như
cây mai một loài hoa đẹp và cao quý, tâm hồn của họ trong trắng như tuyết, cả
hai đều đẹp hoàn thiện, hoàn mỹ “mười phân vẹn mười”, mỗi người mang một
nét đẹp riêng "Mỗi người mỗi vẻ", đúng là cách nhìn đầy ngợi ca trân trọng của tác giả.
Đến với bốn câu thơ tiếp theo, tác giả ngợi về vẻ đẹp của Thúy Vân.
“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Câu thơ đầu “Vân xem trang trọng khác vời” đã khái quát đặc điểm của nhân
vật. Hai chữ “trang trọng” gợi vẻ đẹp cao sang, quý phái của Thúy Vân, có thể
nói có bao nhiêu cái đẹp của tạo vật, thiên nhiên đều được Nguyễn Du mượn để
tạo nên chân dung của Thúy Vân. Đó là “trăng, hoa, tuyết, ngọc, mây” - bằng
bút pháp ước lệ, thư pháp liệt kê, vẻ đẹp của Vân được tác giả cụ thể hóa bằng
khuôn mặt, đôi mày, mái tóc, làn da, nụ cười, giọng nói. Cụ thể trong việc sử
dụng từ ngữ làm nổi bật vẻ đẹp của đối tượng được miêu tả: “đầy đặn”, “nở
nang” và “đoan trang”. Những biện pháp tu từ ẩn dụ, so sánh, nhân hóa đều
nhằm thể hiện vẻ đẹp phúc hậu mà quý phái của người thiếu nữ. Một Thúy Vân
với gương mặt đầy đặn dịu nhẹ như trăng rằm, lông mày sắc nét đậm như con
ngài, miệng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong như ngọc, mái tóc mềm 50
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
mượt hơn mây, làn da trắng hơn tuyết. Vẻ đẹp ấy làm cho thiên nhiên ngưỡng
mộ “mây thua”, “tuyết nhường”. Hai chữ “thua” và “nhường” biểu hiện sự hài
lòng không ghen ghét, điều này dự báo nàng sẽ có một cuộc sống bình lặng,
suôn sẻ không gặp sóng gió.
Nếu tả Thúy Vân với bốn câu thơ thì sang Thúy Kiều Nguyễn Du dành cho
nàng mười hai câu thơ. Nếu Vân được miêu tả với vẻ đẹp hoàn hảo thì Thúy
Kiều còn vượt lên trên cái hoàn hảo đó, nếu Vân Nguyễn Du chỉ nói đến sắc thì
Kiều còn đẹp cả sắc lẫn tài, đó là vẻ đẹp của tuyệt thế giai nhân sắc sảo mặn mà.
“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Ở đây, Nguyễn Du rất thành công trong việc sử dụng nghệ thuật đòn bẩy. Miêu
tả Vân trước để làm nền cho vẻ đẹp của Kiều. Chỉ bằng một câu thơ với các từ
“càng”, “hơn”, tác giả giúp người đọc hình dung rõ vẻ đẹp vượt trội của Kiều.
Nàng không những tuyệt đỉnh về nhan sắc mà còn sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn.
“Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”
Khi miêu tả Thúy Kiều, tác giả vẫn sử dụng bút pháp ước lệ thông qua các hình
tượng thiên nhiên “thu thủy”, “xuân sơn”, “hoa ghen”, “liễu hờn”. Chỉ có điều
Nguyễn Du không liệt kê nhiều chi tiết như Vân à chỉ tập trung ở đôi mắt. Hình
ảnh ước lệ “thu thủy” gợi tả đôi mắt Kiều đẹp trong như nước mùa thu, “xuân
sơn” gợi lên đôi lông mày thanh tú trên khuôn mặt trẻ trung, đôi mắt ấy của
Kiều chính là cửa sổ tâm hồn, thể hiện sự sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn.
Sắc của Kiều làm cho người ta ngưỡng mộ say mê đến lỗi có thể “mất nước,
mất thành”, con thiên nhiên thì ganh ghét, đố kỵ “hoa ghen”, “liễu hờn”. 51
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Sắc đã vậy còn tài, tình của Kiều thì sao? Miêu tả Kiều tác giả dành một phần
để nói về nhan sắc, còn dành đến hai phần để nói về tài năng. Đây chính là dụng
ý nghệ thuật của Nguyễn Du. Ông muốn nhấn mạnh sắc đẹp của Kiều thì không
có bút pháp nào tả nổi. Về sắc đẹp của Kiều là số một còn về tài thì trong thiên
hạ may ra có người thứ hai:
“Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai”
Kiều thông minh bẩm sinh, cái tài do trời phú. Tài năng của nàng đạt tới mức
hoàn thiện theo quan niệm thẩm mỹ gồm cả" cầm, kỳ, thi. họa"
“Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương”
Đặc biệt tài đàn của nàng là nổi trội hơn cả - là sở trường, tiếng đàn của nàng
thật hay, hay đến mức có thể ăn đứt bất cứ nghệ sĩ tài ba nào trong thiên hạ.
Kiều không chỉ giỏi đánh đàn mà còn giỏi sáng tác nhạc, đến mức có thể soạn
cho mình một bản nhạc về nhan đề " bạc mệnh" . Mỗi khi nàng gảy bản đàn đó
đều khiến cho lòng người âu sầu, ảo não người nghe chau mày rơi lệ. Cung đàn
“bạc mệnh” chính là sự ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sầu, đa cảm.
Như vậy vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp cả sắc, tài và tình, một vẻ đẹp vượt qua
ngoài khuôn khổ khiến cho tạo hóa ghen ghét đố kỵ.
“Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”
Từ việc khắc họa bức chân dung Thúy Kiều tác giả dự báo về số phận éo le, đau
khổ, một tương lai chìm nổi sẽ đến với nàng. Mặc dù tài sắc của Thúy Kiều, 52
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Thúy Vân khác nhau dự báo về tương lai cuộc sống khác nhau, nhưng đức hạnh
của hai nàng đều đáng trân trọng, điều này thể hiện qua bốn câu thơ cuối:
“Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Mặc dù đã đến tuổi cập kê nhưng “hai ả tố nga’ đã và đang sống cuộc đời nề
nếp, gia giáo, cuộc sống của các thiếu nữ phong khuê không hề có tình yêu thiếu đúng đắn.
Như vậy với hai tư câu thơ trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là một trong
những đoạn thơ mẫu mực về nghệ thuật tả người. Bằng bút pháp ước lệ tượng
trưng, thủ pháp đòn bẩy, các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, ẩn dụ. Tác giả
đã khắc họa chân dung hai người thiếu nữ với tất cả sắc, tài, tình, mệnh. Đằng
sau bức chân dung chị em Thúy Kiều là tấm lòng ngợi ca trân trọng của tác giả -
đó là một biểu hiện của tinh thần nhân văn trong Truyện Kiều, qua đây ta hiểu
trân trọng thêm vẻ đẹp của con người đặc biệt là người phụ nữ.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 7
Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” trong Truyện Kiều đã gợi tả được vẻ đẹp đặc
sắc của hai cô con gái nhà họ Vương, vẻ đẹp chung của chị em Thuý Kiều cũng
như vẻ đẹp của từng người được Nguyễn du khắc học một cách rõ nét bằng bút
pháp ước lệ tượng trưng.
Trước hết Nguyễn du giới thiệu vẻ đẹp chung về hai chị em trong gia đình:
“Đầu hai ả tố nga, 53
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân”
Tiếp đến, tác giả giới thiệu một cách khái quát nét đẹp chung và riêng của hai chị em:
“Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một một vẻ mười phân vẹn mười”
Bằng bút pháp so sánh ước lệ, vẻ đẹp về hình dáng (mai cốt cách) và vẻ đẹp về
tâm hồn (tuyết tinh thần) của hai chị em được tôn lên đến độ hoàn mỹ. Cả hai
đều đẹp mười phân vẹn mười. Trong cái đẹp chung ấy có cái đẹp riêng của từng
người - Mỗi người một vẻ. Trừ câu đầu, cả ba câu sau mỗi câu được chia làm
hai vế gợi cho người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của mỗi người. Bốn câu thơ
đầu là bức tranh nền đế từ đó tác giả dẫn người đọc lần lượt chiêm ngưỡng sắc đẹp của từng người.
Bốn câu tiếp theo tác giả đặc tả nhan sắc Thuý Vân - Một con người phúc hậu,
đoan trang. Nàng có vẻ đẹp cao sang quý phái trang trọng khác vời. vốn là bút
pháp nghệ thuật ước lệ truyền thống nhưng vẻ đẹp của Thuý vân lại hiện lên
một cách cụ thể: “Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang - Hoa cười ngọc thốt
đoan trang - Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”. Từ khuôn mặt, nét ngài,
tiếng cười, giọng nói, mái tóc, làn da đều được so sánh với “trăng, hoa, ngọc,
mây, tuyết”. Thế là vẻ đẹp của Thuý Vân cứ dần được bộc lộ theo thủ pháp ẩn
dụ, nhân hoá tài tình của tác giả. Vẻ đẹp của Thuý Vân là vẻ đẹp gần gũi, hòa hợp với thiên nhiên.
Nếu như Thuý Vân được mô tả với vẻ đẹp hoàn hảo thì vẻ đẹp của Thuý Kiều
còn vượt lên trên cái hoàn hảo ấy: “Kiều càng sắc sảo mặn mà”. Đây là một thủ
pháp nghệ thuật của văn chương cố. Từ cái đẹp của Thuý Vân, Nguyễn Du chỉ
cần giới thiệu một câu: “Kiều càng sắc sảo mặn mà”, thế là vẻ đẹp của Thuý 54
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Kiều đã vượt lên trên vẻ đẹp của Thuý Vân (sắc sảo) và tâm hồn (mặn mà). Tả
Vân trước, tả Kiều sau đó là cách tác giả mượn Vân đế tả Kiều. Qua vẻ đẹp của
Vân mà người đọc hình dung ra vế đẹp của Kiều.
Ở Vân trác giả không hề tả đôi mắt, còn ở Kiều tác giả lại đặc tả đôi mắt. vẫn là
nghệ thuật ước lệ tượng trưng, đôi mắt của Kiều được so sánh với: “Làn thu
thuỷ, nét xuân sơn”. Cái sắc sảo mặn mà của đôi mắt chính là biểu hiện của vẻ
đẹp tâm hồn. Với đẹp của Thuý Vân là vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu, thiên nhiên
sẵn sàng thua và nhường còn vẻ đẹp của Kiều làm cho thiên nhiên.
Tác giả ngợi ca Thúy Kiều là một người thiếu nữ đẹp tuyệt trần, không những
thế tài năng của nàng xuất sắc đến nỗi trên đời này phải chăng có người thứ hai sánh bằng:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương”
Chuẩn mực về sự tài giỏi ngày xưa hội tụ: “cầm , kỳ, thi, họa” thì Thúy Kiều đủ
cả, không những biết mà còn đạt đến trình độ khiến người khác phải nể phục.
Trong đó, nàng đặc biệt nổi trội về “cầm”. Cung đàn được vang lên bởi một
người thiếu nữ đa sầu đa cảm, có lẽ bản nhạc mà nàng Kiều sáng tác ở tuổi
thanh xuân lại là một thiên bạc mệnh, dự báo trước một tương lai không chút êm đềm:
“Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân” 55
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Với tất cả tài năng, phẩm chất của nàng đang có thì chắc chắn rằng, cuộc sống
êm đềm hiện tại, sự an nhàn tĩnh tại ngầm chuẩn bị trước cho một trận bão táp
cuồng phong. Trong dân gian xưa cũng có câu: “tài tình chi lắm cho trời đất
ghen” hay “chữ tài liền với chữ tai một vần”.
Khép lại đoạn trích, Nguyễn Du một lần nữa tái hiện của sống êm ả, ngày qua
ngày của hai chị em Thúy Vân và Thúy Kiều:
“Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê,
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Sống trong khuôn phép, trong “trướng rủ màn che”, hai chị em đã sắp tới tuổi
tìm đấng phu quân cho mình nhưng có lẽ với chữ “mặc” ở câu thơ cuối đã thể
hiện thái độ của Kiều và Vân, không tơ tưởng đến những kẻ ngoài kia.
Tóm lại, đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” đã khắc họa được vẻ đẹp của Thúy
Kiều và Thúy Vân. Qua đó, chúng ta thấy được nghệ thuật miêu tả đầy độc đáo của Nguyễn Du.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 8
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Cho đến nay,
“Truyện Kiều” của ông vẫn được coi là tác phẩm thơ Nôm kiệt xuất của nền văn
học dân tộc. Trong đó, Nguyễn Du thể hiện tài năng bậc thầy ở nhiều phương
diện, đặc biệt là nghệ thuật xây dựng nhân vật. Hầu hết các chân dung đều được
miêu tả sinh động, có sức sống. Có thể thấy rõ điều này chỉ qua đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”. 56
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Trong bốn câu thơ đầu, nhà thơ không tả mà giới thiệu chung về vị trí thứ bậc
và vẻ đẹp toàn diện của hai nàng:
“Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
“Ả” là cách gọi của người dân xứ Nghệ với các chị, các cô. Còn “tố nga” là ước
lệ chỉ vẻ đẹp thiếu nữ thanh tân, rạng rỡ. Bên cạnh ước lệ “tố nga” là hình ảnh
ẩn dụ tượng trưng “mai cốt cách”, “tuyết tinh thần” gợi vóc dáng mảnh dẻ, cốt
cách thanh cao như mai. “Tuyết tinh thần” là tâm hồn trong sạch, trắng trong
như tuyết. Nguyễn Du cũng đã giới thiệu được vị trí, thứ bậc, trong đó chị là
Thúy Kiều, em là Thúy Vân cùng nhan sắc và phẩm giá “Mỗi người một vẻ
mười phân vẹn mười”.
Đi vào miêu tả chi tiết hai bức chân dung của nàng Kiều, Vân. Nguyễn Du đã tả
chân dung của Thúy Vân trước:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
“Trang trọng”là tính từ Hán - Việt chỉ vẻ đẹp của phong thái; “đoan trang” gợi
ra vẻ đẹp của phẩm cách, lối sống. Thúy vân có phong thái sang trọng, quý phái,
phẩm cách hiền thục, mẫu mực, đứng đắn - đây là nét đẹp thường thấy của con
nhà gia giáo, nề nếp. Khuôn mặt Thúy Vân tròn trịa, đầy đặn, sáng đẹp tựa trăng 57
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
rằm. Nét mày thanh tú, cong mềm, óng ả. Miệng cười xinh, rạng rỡ như hoa.
Giọng nói trong, lời nói đẹp như châu, như ngọc. Tóc mềm mượt như mây. Da
trắng trẻo, mịn màng hơn tuyết…
Với Thúy Vân, người đọc chung cảm nhận về một nhan sắc hiền hòa, phúc hậu.
Tuy ít ai sánh được nhưng sắc đẹp của nàng vẫn trong vòng trời đất, êm đềm, hòa hợp với tự nhiên:
“Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Trước nhan sắc Thúy Vân, thiên nhiên “thua”, ”nhường” - kém cạnh mà không
xung khắc. Vẻ đẹp ấy phải chăng dự báo một cuộc đời suôn sẻ, bình lặng, không bão tố?
Nghệ thuật ước lệ, tượng trưng, nhân hóa được tác giả sử dụng rất đắt. Góp
phần sinh động, chân thực cho bức chân dung Thúy Vân.
Vẻ đẹp của Thúy Kiều được Nguyễn Du miêu tả sau với một dụng ý nghệ thuật đầy độc đáo:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Như vậy, miêu tả Thúy Vân trước, vẻ đẹp trong sáng, dịu dàng của nàng lại
được tác giả dùng làm nền để tôn nên vẻ đẹp mặn mà, sắc sảo, có “phần hơn”
của nàng Kiều. Đặc biệt hơn nữa, Kiều không chỉ đẹp mà còn là một giai nhân
đầy tài năng xuất chúng.
“Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh” 58
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Dùng những hình ảnh của thiên nhiên cùng nghệ thuật ước lệ, nét vẽ của thi
nhân vừa gợi tạo sự ấn tượng chung về vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt thế. Khi
khắc họa vẻ đẹp của Kiều, nhà văn nhấn vào đôi mắt vì đôi mắt vừa là vẻ đẹp
ngoại hình, vừa thể hiện sự tinh anh của tâm hồn và trí tuệ. Nếu như vẻ đẹp của
Thúy Vân được thiên nhiên “thua”, ”nhường” thì với sắc đẹp tuyệt thế của Thúy
Kiều, thiên nhiên đã phải “ghen”, “hờn”. Với cách miêu tả này, Nguyễn Du đã
dự báo cho người đọc về tương lai đầy chông gai, bất trắc của nàng Kiều sau này.
Thúy Kiều còn là giai nhân “tài sắc toàn tài”. Nàng không chỉ mang vẻ đẹp xuất
chúng về ngoại hình, trí tuệ mà còn là một con người tài năng, rất mực tài hoa:
“Sắc đành đòi một tài đành họa hai”:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương”
Thúy Kiều tinh thông cả: cầm, kỳ, thi, họa. Trong đó, vượt trội hơn cả là tài đàn.
Tài của Kiều đạt đến mức độ lý tưởng theo quan niệm thẩm mĩ của xã hội phong kiến đương thời.
Chỉ bốn câu thơ thôi nhưng Nguyễn Du đã gợi ra được sự xuất sắc, tài hoa của
nàng Kiều. “Cung đàn bạc mệnh” của Thúy Kiều sáng tác - đó chính là ghi lại
tiếng lòng của một trái tim đa sầu, đa cảm. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp hài
hòa của cả sắc - tài - tình.
Bốn câu thơ cuối là sự nhận xét của Nguyễn Du về cuộc sống “Êm đềm trướng
rủ màn che” của hai chị em. Đó là cuộc sống phong lưu rất mực, dù đã đến tuổi 59
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
“cập kê” - tức tuổi búi tóc, cài trâm nhưng vẫn sống trong sự che chở của gia đình.
Bằng nghệ thuật tả người đặc sắc, biện pháp ước lệ tượng trưng và sử dụng
ngôn ngữ dân tộc tài tình, Nguyễn Du trong đoạn trích đã khắc họa sống động
chân dung hai chị em Kiều mỗi người một vẻ tạo nên bức tranh vừa hài hòa vừa tương phản.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 9
Nguyễn Du là một trong những tác giả lớn của nền văn học Việt Nam. Ông đã
để lại nhiều tác phẩm có giá trị, nhưng nổi tiếng nhất phải kể đến Truyện Kiều.
Khi đọc “Truyện Kiều” có lẽ người đọc sẽ cảm thấy ấn tượng với đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”.
Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu về gia
đình của Thúy Kiều. Khi giới thiệu, tác giả tập trung tả tài sắc của Thúy Vân và
Thúy Kiều. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” đã khắc họa vẻ đẹp, tài năng của
chị em Thúy Kiều, cũng như dự cảm của Nguyễn Du về kiếp người tài hoa bạc mệnh.
Bốn câu thơ đầu là những lời khái quát chung nhất về chị em Thúy Kiều:
“Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”
Tác giả đã mượn lối nói ước lệ để giới thiệu về lai lịch, vị trí trong gia đình
cũng như nét đẹp của Thúy Kiều và Thúy Vân. Họ vốn là con gái nhà họ 60
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Vương, trong đó Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân. Mỗi người đều mang trong
mình những vẻ đẹp riêng. Tuy vậy vẫn có điểm chung - hình ảnh “mai” và
“tuyết” gợi ra một nét thanh cao: vẻ đẹp ngoại hình đẹp đẽ duyên dáng như cây
mai, còn tâm hồn thì trong trắng như tuyết. Một nét đẹp hoàn hảo từ ngoại hình
đến tính cách, tâm hồn đều “mười phân vẹn mười”.
Đến bốn câu thơ tiếp theo, Nguyễn Du đã miêu tả đến vẻ đẹp của Thúy Vân:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Ngay từ câu thơ đầu tiên, vẻ đẹp của Thúy Vân đã được khái quát lại bằng hai
chữ “trang trọng”. Một vẻ đẹp cao sang, quý phái của những cô gái nhà quyền
quý. Kế tiếp là hàng loạt những hình ảnh so sánh ước lệ. “Khuôn trăng đầy đặn”
gợi ra một “khuôn đầy đặn với nét đẹp phúc hậu, dịu dàng. Điểm trên khuôn
mặt đó là “nét ngài nở nang” gợi ra vẻ đẹp của đôi lông mày hơi đậm. Không
chỉ vậy, tác giả còn khắc họa được giọng nói, nụ cười e thẹn, nhẹ nhàng và
mang nét đoan trang: “hoa cười ngọc thốt đoan trang”. Đặc biệt nhất là vẻ đẹp
của nàng Thúy Vân phải khiến cho tạo hóa phải nhường nhịn: “Mây thua nước
tóc, tuyết nhường màu da”. Việc miêu tả ngoại hình của Thúy Vân như muốn
dự báo trước về một cuộc đời yên bình, hạnh phúc của nàng.
Miêu tả vẻ đẹp của nàng Thúy Vân trước, Nguyễn Du nhằm tạo đòn bẩy để
người đọc thấy sự nổi bật của Thúy Kiều. Luận về sắc đẹp, không ai có thể vượt
qua được nàng. Luận về tài năng, thì nàng “có một không hai” trên đời. Vẻ đẹp
“sắc sảo” về ngoại hình cũng như “mặn mà” về tính cách: 61
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Trước hết là vẻ đẹp ngoại hình không ai sánh được:
“Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành”
Đôi mắt trong tựa như làn nước mùa thu, đôi lông mày đẹp thanh thoát như nét
núi mùa xuân. Vẻ đẹp của Kiều còn khiến thiên nhiên phải ghen tị “ghen”,
“hờn” - vẻ đẹp dường như đã vượt qua mọi chuẩn mực của thiên nhiên, có sức
làm “khuynh quốc khuynh thành”. Nghệ thuật nhân hóa (hoa ghen - liễu hờn)
kết hợp với nói quá (nghiêng nước nghiêng thành) được sử dụng nhằm khắc họa
nét đẹp ngoại hình của Kiều. Nhưng qua hình ảnh đó, tác giả cũng muốn dự báo
về cuộc đời gặp nhiều bất hạnh của nàng Kiều.
Không chỉ đẹp ở ngoại hình, Thúy Kiều cũng rất mực tài năng:
“Sắc đành đòi một tài đành họa hai
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân” 62
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Thông minh vốn sẵn tính trời nên ở lĩnh vực nào nàng cũng đều am hiểu: cầm -
kỳ - thi - họa. Nhưng đặc biệt nhất vẫn là ở tiếng đàn. Nàng thuộc lòng các cung
bậc và đánh đàn Hồ cầm (đàn cổ) thành thạo. Hơn thế, nàng còn giỏi sáng tác
nhạc nữa: “Khúc nhà tay lựa nên chương/Một thiên bạc mệnh lại càng não
nhân”. Mỗi nàng lần đánh đàn, nàng lại cất lên thiên “bạc mệnh” làm cho người
nghe phải đau khổ, sầu não. Bản đàn cất lên từ một trái tim đa sầu đa cảm.
Dường như đó cũng chính là một điềm báo cho cuộc đời của nàng trong tương
lai. Chân dung của Thúy Kiều đã mang trong đó số phận của nàng.
Và bốn câu thơ cuối cùng là khung cảnh cuộc sống của hai chị em:
“Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Thúy Kiều và Thúy Vân sống trong một gia đình giàu sang, quyền quý. Dù đã
đến tuổi “cập kê” nhưng cả hai vẫn giữ gìn khuôn phép, sống đúng với chuẩn
mực của lễ giáo phong kiến. Việc sử dụng thành ngữ “trướng rủ màn che” nhằm
chỉ một lối sống kín đáo. Đó là lối sống của tiểu thư con nhà gia giáo: trong bốn
bức tường, ít khi giao tiếp bên ngoài, hằng ngày học nữ công gia chánh. Cuộc
sống khuôn phép luôn được giữ gìn mặc cho “tường đông ong bướm” - hình ảnh
ẩn dụ để chỉ những người đàn ông tán tỉnh phụ nữ không có mục đích tốt đẹp.
Như vậy, qua đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, người đọc đã thấy được vẻ đẹp
của Thúy Kiều và Thúy Vân. Nhờ đó mới thấy được tài năng bậc thầy của Nguyễn Du.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 10 63
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Trong thơ cổ viết về giai nhân thì đoạn thơ Chị em Thúy Kiều trích trong Đoạn
trường tân thanh tức Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là một trong
những vần thơ tuyệt bút. Hai mươi tư câu thơ lục bát đã vẽ nên sắc, tài, đức
hạnh của hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân.
Với ngòi bút của một kì tài diệu bút Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung hai
nàng giai nhân tuyệt thế:
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Vân là em, Kiều là chị. Hai chị em Vân và Kiều (con đầu lòng của gia đình
Vương viên ngoại) đều là những ả tố nga - những người con gái đẹp. Vẻ đẹp
của hai nàng là vẻ đẹp thanh tao của mai, là sự trắng trong, tinh sạch của tuyết:
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Bút pháp ước lệ cùng phép ẩn dụ đã gợi lên vẻ đẹp hài hoà, hoàn hảo cả về hình
thức lẫn tâm hồn. Vẻ đẹp của hai nàng đều đến mức tuyệt mĩ mười phân vẹn
mười nhưng mỗi người lại mang một vẻ riêng. Nguyễn Du đã lấy những gì đẹp
đẽ nhất của thiên nhiên để miêu tả hai chị em. Thuý Kiều và Thuý Vân đều
mang vẻ đẹp lí tưởng, theo khuôn mẫu và vượt lên trên khuôn mẫu.
Sau những câu thơ giới thiệu về hai chị em, ngòi bút Nguyễn Du lại có chiều
hướng cụ thể hơn trong bức chân dung quý phái của Thuý Vân:
Vân xem trang trọng khác vời,
Hai chữ trang trọng trong câu thơ đã nói lên vẻ đẹp đài các, cao sang của Vân.
Vẻ đẹp ấy của thiếu nữ được so sánh với những thứ cao đẹp trên đời: 64
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Chân dung của Vân được miêu tả một cách khá toàn vẹn từ khuôn mặt, nét mày,
làn da, mái tóc đến nụ cười, tiếng nói. Vân có khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu như
vầng trăng, có đôi lông mày sắc nét như con ngài, có miệng cười tươi thắm như
hoa, giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngà ngọc và mái tóc của nàng bồng
bềnh hơn mây, làn da của nàng trắng hơn tuyết, sắc đẹp của Vân sánh với những
nét kiều diễm, sáng trong của những báu vật tinh khôi của đất trời. Tất cả toát
lên vẻ đẹp trung hậu, êm dịu, đoan trang, quý phái. Vân đẹp hơn những gì mỹ lệ
của thiên nhiên nhưng tạo sự hoà hợp, êm dịu: mây thua, tuyết nhường. Với vẻ
đẹp như thế, Vân sẽ có một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ và một tính cách điềm
đạm. Qua bức chân dung này, Nguyễn Du đã gửi tới những thông điệp về tương
lai, cuộc đời chính bởi vậy mà bức chân dung Thúy Vân là chân dung mang tính cách số phận.
Tả Vân thật kĩ, thật cụ thể song Nguyễn Du chỉ vẽ Kiều bằng những nét phác
hoạ thông thoáng bởi ông không muốn là người thợ vẽ vụng về:
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Sắc đẹp của Kiều được đặt trong sự so sánh với vẻ đẹp đoan trang, quý phái của
Vân để thấy được sự hơn hẳn của Kiều về vẻ sắc sảo của tài năng trí tuệ, bởi cái
mặn mà của nhan sắc. Không tả khuôn mặt, giọng nói, tiếng cười, làn da, mái
tóc như Thuý Vân mà Nguyễn Du đã thật tài tình khi chọn đôi mắt Kiều để đặc
tả bởi đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ: 65
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Câu thơ tả đôi mắt mà gợi lên bức tranh sơn thuỷ, diễm lệ. Bức tranh ấy có làn
thu thủy - làn nước mùa thu, có nét xuân sơn - dáng núi mùa xuân. Cũng như
khuôn mặt Kiều có đôi mắt trong sáng, long lanh, có đôi lông mày thanh tú mà khiến:
Hoa ghen đua thắm liễu hờn kém xanh.
Vẻ đẹp của Kiều không chỉ như thiên nhiên mà còn vượt trội hơn cả thiên nhiên
khiến hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải hờn. Thiên nhiên không còn thua,
nhường mà cau mày, bặm môi tức giận, mà đố kỵ hờn ghen. Nếu vẻ đẹp của
Vân là những gì tinh khôi, trong trắng nhất của đất trời thì Kiều lại mang vẻ đẹp
của nước non, của không gian mênh mông, của thời gian vô tận. Cái đẹp ấy làm
cho nghiêng nước, đổ thành:
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Nguyễn Du đã sử dụng những điển tích để cực tả Kiều với vẻ đẹp của trang giai
nhân tuyệt thế. Và cũng chính vẻ đẹp không ai sánh bằng ấy như tiềm ẩn những
phẩm chất bên trong cao quý là tài và tình rất đặc biệt:
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Kiều có cả tài cầm - kì - thi - hoạ của những bậc văn nhân quân tử và tài nào
cũng đến mức điêu luyện. Nàng giỏi về âm luật đến mức làu bậc. Cây đàn nàng
chơi là cây hồ cẩm, tiếng đàn của nàng ăn đứt bất cứ nghệ sĩ nào và đã trở thành
nghề riêng. Để cực tả cái tài của Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng hàng loạt các từ
ngữ ở mức độ tuyệt đối: vốn sẵn, pha nghề, làu bậc và đủ mùi. Không những 66
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
giỏi ca hát, chơi đàn mà Kiều còn sáng tác nhạc nữa. Cung đàn nàng sáng tác là
một thiên Bạc mệnh. Bản đàn ấy đã ghi lại tiếng lòng của một tâm hồn đa sầu đa
cảm. Nguyễn Du cực tả tài năng của Kiều chính là ngợi ca cái tâm đặc biệt của
nàng. Tài năng của Kiều vượt lên trên tất cả và là biểu hiện của những phẩm
chất cao đẹp, trái tim trung hậu, nồng nhiệt, nghĩa tình, vị tha. Vẻ đẹp của Kiều
là sự kết hợp của sắc - tài - tình và đạt đến mức siêu phàm, lí tưởng. Nhưng
nhan sắc đến mức hoa ghen, liễu hờn để tạo hóa phải hờn ghen đố kị và tài hoa
trí tuệ thiên bẩm làu bậc, đủ mùi cái tâm hồn đa sầu, đa cảm như tự dưng mà có
của nàng khó tránh khỏi sự nghiệt ngã của định mệnh. Chính bởi Kiều quá toàn
mĩ, hoàn thiện nên trong xã hội phong kiến kia khó có một chỗ đứng cho nàng.
Và cung đàn Bạc mệnh nàng tự sáng tác như dự báo một cuộc đời hồng nhan
bạc mệnh khó tránh khỏi của Kiều. Cuộc đời nàng rồi sẽ sóng gió, nổi chìm,
truân chuyên. Cũng giống như bức chân dung Thúy Vân, bức chân dung Kiều là
bức chân dung mang tính cách số phận.
Nguyễn Du hết lời ca ngợi Vân và Kiều mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
nhưng ngòi bút tác giả lại đậm nhạt khác nhau ở mỗi người. Vân chủ yếu đẹp ở
ngoại hình còn Kiều là cái đẹp cả về tài năng, nhan sắc lẫn tâm hồn. Điều đó tạo
nên vẻ đẹp khác nhau của hai người thiếu nữ và hé mở hai tính cách, dự báo hai
cuộc đời khác nhau đang đón chờ hai ả tố nga. Hai bức vẽ chân dung của chị em
Thuý Vân và Thuý Kiều đã cho thấy sự tài tình trong ngòi bút tinh tế của Nguyễn Du.
Kết thúc đoạn thợ là bốn câu lục bát miêu tả cuộc sống phong lưu khuôn phép,
mẫu mực của hai chị em Kiều:
Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê. 67
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Hai người con gái họ Vương không chỉ có sắc - tài - tình mà còn có đức hạnh.
Sống phong lưu đến mực hồng quần. Cả hai đều đã tới tuần cập kê - tới tuổi búi
tóc, cài trâm nhưng vẫn sống trong cảnh:
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Hai câu thơ như che chở, bao bọc cho hai chị em, hai bông hoa vẫn còn phong
nhụy trong cảnh êm đềm chưa một lần hương toả vì ai. Nguyễn Du đã buông
mành, gạt tất cả mọi vẩn đục cho cuộc đời khỏi cuộc sống phong lưu của hai chị
em để đề cao hơn đức hạnh của hai nàng.
Với cảm hứng nhân đạo và tài nghệ thơ, Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung
Thúy Vân, Thuý Kiều bằng những gì đẹp đẽ, mỹ lệ nhất. Hai bức tranh mỹ nhân
bằng thơ đã thể hiện bút pháp ước lệ tượng trưng và các biện pháp tu từ trong
ngòi bút tinh tế của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 11
Đoạn trích Chị em Thúy Kiều nằm ở phần mở đầu tác phẩm gặp gỡ và đính ước
giới thiệu gia cảnh của Thúy Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình
Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc của chị em Thúy Kiều.
Chân dung của chị em Thúy Kiều và Thúy Vân được miêu tả bằng bút pháp ước lệ:
Đầu lòng hai ả Tố Nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần, 68
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười
Nguyễn Du đã sử dụng điển cố văn học Trung Quốc (Tố Nga, mai cốt cách), đại
từ nhân xưng (ả, chị em) và danh từ riêng (Thúy Kiều, Thúy Vân) để giới thiệu
về vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều. Họ đúng là những cô gái đẹp: dáng người
thanh tú như mai, tâm hồn phẩm hạnh trắng trong như tuyết. Biểu tượng mai,
tuyết và truyền thống đó đã tôn vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều đạt đến độ toàn
bích trong cách kiệm lời, cô đúc của tác giả. Bốn câu thơ mở đầu đã chuẩn bị
cảm hứng và tạo tâm thế để người đọc đón nhận vẻ đẹp riêng của từng người.
Thúy Vân - người con gái có vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang.Thúy Vân được miêu
tả với vẻ đẹp tươi trẻ, tràn đầy sức sống:
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Bốn dòng lục bát đã đặc tả nhan sắc của Thúy Vân. Nhờ vận dụng kết hợp nghệ
thuật ước lệ, ẩn dụ, so sánh, thậm xưng với cách kết hợp các thành ngữ tiếng
Việt (hoa cười ngọc thốt, da trắng tóc dài, tóc mây mày nguyệt), Nguyễn Du đã
khắc họa tinh tế vẻ đẹp của Thúv Vân. Tác giả không tả cụ thể gương mặt, mái
tóc, làn da của Thúy Vân như thế nào, nhưng bốn câu thơ đã hiện lên vẻ đẹp
phúc hậu, đoan trang của Thúy Vân. Đặc biệt, việc sử dụng điển cố văn học
Trung Quốc Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang Nguyễn Du đã chứng tỏ tài
năng của mình khi muốn qua điển cố này báo hiệu một tiền đồ tươi sáng, một
tương lai tốt đẹp, một cuộc sống yên ổn nhất định sẽ đến với Thúy Vân. Bên
cạnh đó, việc sử dụng một số tính từ chỉ phong cách, hình thái con người (trang 69
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
trọng, đoan trang) và nghệ thuật tiểu đối trong hai câu bát đã tô đậm hơn vẻ đẹp của Thúy Vân.
Đọc đoạn miêu tả Thúy Vân, ta có thể thấy được cái tài, cái khéo của Nguyễn
Du trong việc sử dụng từ ngữ. Thế nhưng việc miêu tả Thúy Vân chỉ là bước
đệm để tác giả tả Thúy Kiều theo bút pháp tả khách hình chủ (mượn khách tả
chủ), vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu của Thúy Vân ánh lên đậm nét trong chân dung Thúy Kiều:
Kiểu càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc, lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Nếu Thúy Vân được tả nhiều bộ phận (khuôn mặt, lông mày, mái tóc, màu da)
thì khi tả Thúy Kiều, Nguyễn Du đã tập trung đặc tả đôi mắt đẹp (và lông mày)
của nàng. Tác giả đã sử dụng nhiều hình ảnh trong trẻo, mĩ lệ của thiên nhiên
dưới hình thức nghệ thuật ẩn dụ, so sánh, thậm xưng kết hợp với điển cố văn
học Trung Quốc (Một hai nghiêng nước, nghiêng thành để biểu hiện vẻ đẹp đầy
sức quyến rũ của Thúy Kiều. Tinh hoa của Thúy Kiều được bộc lộ từ đôi mắt
đẹp tuyệt vời và vẻ đẹp ấy chỉ có thể so sánh với hai vẻ đẹp tiêu biểu của thiên
nhiên là sơn (nét xuân sơn), thủy (làn thu thủy).
Bên cạnh vẻ đẹp hình thức, tác giả còn nhấn mạnh đến tài năng của Thúy Kiều.
Điều này không hề có ở Thúy Vân. Nếu tả sắc, Nguyễn Du chi dùng bốn câu
thơ, thì khi tả tài của Thúy Kiều tác giả đã dùng đến tám câu thơ. Rõ ràng, đây
là phương diện, tác giả muốn nhấn mạnh và khắc sâu đối với nhân vật của mình.
Thúy Kiều hiện lên là một người con gái tài sắc vẹn toàn: 70
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương, lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên “Bạc mệnh’' lại càng não nhân.
Qua tám câu thơ miêu tả tài và mệnh của Thúy Kiều, ta thấy nàng là một cô gái
giỏi cầm, kì, thi, họa, ca ngâm và rất thành thạo Hồ cầm. Tiếng đàn của nàng và
bản đàn có tên là Bạc mệnh do Thúy Kiều sáng tác không chỉ chứng tỏ cái tài
của nàng, mà còn như là điều dự báo một tương lai ảm đạm, bất hạnh, một cuộc
sống bất ổn sẽ đến với Thúy Kiều. Ở Thúy Kiều, tài và mệnh đi đôi với nhau, và
không chỉ khi tài mới bộc lộ, mà ngay cả khi tả nhan sắc của Kiều, Nguyễn Du
cũng đã dự báo cho người đọc biết rõ điều này qua những từ như “ghen",
“hờn",” nghiêng nước”, “ nghiêng thành” đã tô đậm thêm sự bất an của nhan sắc
và tài năng của Thúy Kiều.
Đoạn trích Chị em Thúy Kiều đã khắc họa được chân dung nhân vật có nhan
sắc, tài hoa, phẩm cách đẹp đẽ. phong phú, toàn vẹn nhưng đằng sau đó là một
số mệnh diễn tả những ý niệm triết học và thể hiện một cảm hứng nhân văn sâu
sắc của nhà thơ họ Nguyễn.
Đoạn trích Chị em Thúy Kiều là một mẫu mực của văn miêu tả, có giới thiệu
chung, có tả riêng từng người từ tài, sắc đến đức hạnh. Ngôn ngữ cô đúc, lời thơ 71
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
giàu chất xúc cảm. Các phép tu từ như nhân hóa, ẩn dụ, so sánh, tương phản
được sử dụng một cách tài tình. Các từ loại như các danh từ, động từ, phó từ,
được sử dụng mang giá trị biểu đạt và biểu cảm cụ thể. Các điển cố, những thi
liệu văn học Trung Quốc được sử dụng thích đáng nên mặc dù sử dụng ngôn
ngữ ước lệ, tượng trưng những bức chân dung của chị em Thúy Kiều vẫn hiện
lên một cách cụ thể, sinh động, hấp dẫn và lôi cuốn người đọc.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 12
Nguyễn Du là một thiên tài văn học và ông được coi là Đại thi hào văn hóa của
Việt Nam. Cả cuộc đời cầm bút, ông đã để lại rất nhiều những tác phẩm có giá
trị, trong đó tiêu biểu có “Đoạn trường tân thanh” mà người Việt quen gọi nôm
là “Truyện Kiều”. Trong chương trình Ngữ văn 9, tập 1, có đoạn trích “Chị em
Thúy Kiều” là một trong những đoạn trích độc đáo đã thể hiện được tài năng
nghệ thuật miêu tả, khắc họa chân dung con người của Nguyễn Du, góp phần
làm nên thành công của tác phẩm.
Đoạn trích nằm ở phần mở đầu của tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi
giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều.
Trước hết, bốn câu thơ mở đầu là lời giới thiệu khái quát về hai chị em Kiều - Vân:
“Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười” 72
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ, ẩn dụ để giới thiệu khái quát về hai chị
em qua rất nhiều bình diện như: lai lịch, vị trí trong gia đình và vẻ đẹp (riêng -
chung) của hai chị em. Họ là hai người con gái đầu lòng của gia đình họ Vương,
trong đó Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân. Tuy hai chị em có những vẻ đẹp
khác nhau nhưng cả hai đều mang chung vẻ đẹp duyên dáng, thanh cao, trong
trắng: ngoại hình thì thanh tao như cây mai; phong thái tinh thần thì trong trắng
như tuyết (tâm hồn). Đó là vẻ đẹp hoàn mỹ, toàn diện từ trong ra ngoài, từ dáng
vẻ tới tâm hồn “mười phân vẹn mười”. Như vậy, chỉ bằng bốn câu thơ đầu ngắn
gọn, tác giả đã khái quát được những thông tin cần thiết của nhân vật, đồng thời
làm nổi bật lên nét đẹp hai chị em. Từ đó, định hướng cảm xúc cho toàn bài,
giúp người đọc thấy được cảm hứng ngợi ca con người trong đoạn thơ.
Đến bốn câu thơ tiếp, Nguyễn Du phóng bút đi vào những nét vẽ cụ thể về chân
dung và vẻ đẹp nhân vật Thúy Vân:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Ngay câu thơ đầu, nhà thơ đã khái quát vẻ đẹp phong thái của Vân bằng hai chữ
“trang trọng”. Đó là vẻ đẹp cao sang, quý phái, ung dung và nghiêm chỉnh. Tiếp
tục sử dụng lối ước lệ, nhà thơ đã vì nhan sắc của Vân với những hình ảnh đẹp
nhất của thiên nhiên, vũ trụ như: “trăng, hoa, mây, tuyết, ngọc”. Có thể nói,
dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du, chân dung vẻ đẹp của Vân hiện lên lộng
lẫy, toàn diện từ khuôn mặt, nét mày ngài, nụ cười cho đến lời nói, mái tóc, làn
da. Tất cả đều hiện lên sống động, cụ thể như hiện hình, nổi sắc trước mắt người
đọc vậy. Đó là chân dung người thiếu nữ có khuôn mặt tròn đầy phúc hậu như 73
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
ánh trăng đêm rằm; đôi lông mày thanh tú, sắc nét như con ngài (mắt phượng
mày ngài); miệng cười thì tươi tắn như hoa nở; tiếng nói khi thốt ra thì trong
trẻo, ngọc ngà; mái tóc đen óng ả hơn cả mây; làn da trắng mịn màng hơn cả
tuyết. Chính vẻ đẹp bên ngoài của Vân với vẻ đẹp phúc hậu, hài hòa trong
khuôn khổ của lễ giáo phong kiến nên được thiên nhiên, tạo hóa chấp nhận:
“tuyết nhường”, “mây thua”. Từ đó, giúp người đọc phần nào thấy được tính
cách và số phận của nhân vật: tính cách ung dung, điềm đạm; cuộc đời: bình yên không sóng gió.
Sau khi dựng lên chân dung và vẻ đẹp nhân vật Thúy Vân, nhà thơ tập trung bút
lực vào miêu tả vẻ đẹp của Kiều trong sự đối sánh với vẻ đẹp của Vân:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Vẻ đẹp của Kiều khác và hơn hẳn Vân cả về tài lẫn sắc. Đó là sự “sắc sảo” về trí
tuệ; “mặn mà” về tầm hồn.
Trước hết là vẻ đẹp nhan sắc - ngoại hình của Kiều. Vẫn tiếp tục sử dụng thủ
pháp ước lệ tượng trưng lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm thước đo cho vẻ đẹp của
con người qua một loạt các hình ảnh: “thu thủy, xuân sơn, hoa, liễu”, Nguyễn
Du đã làm hiện vẻ đẹp của một trang giai nhân tuyệt mỹ. Nhưng khi miêu tả
Kiều, tác giả không miêu tả cụ thể chi tiết như ở Vân mà ngược lại, tác giả tập
trung vào một điểm nhìn là đôi mắt “Làn thu thủy nét xuân sơn”: Đôi mắt sáng
trong và sâu thẳm như làn nước mùa thu; đôi lông mày thanh thoát như nét núi
mùa xuân. Đây chính là lối vẽ “điểm nhãn” cho nhân vật. Bởi đôi mắt chính là
cửa sổ tâm hồn con người. Và qua đôi mắt đó của Kiều, ta thấy được tâm hồn
trong sáng, sâu thẳm và cuốn hút lạ thường của nhân vật. Vẻ đẹp nhan sắc của
Kiều là vẻ đẹp vượt ra khỏi chuẩn mực của tự nhiên và khuôn khổ của người 74
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
phụ nữ phong kiến nên: “Hoa ghen - liễu hờn”, thậm chí là nghiêng ngả cả
thành quách, đất nước:
“Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành”
Nghệ thuật nhân hóa (hoa ghen - liễu hờn) kết hợp với nghệ thuật nói quá (thành
ngữ: nghiêng nước nghiêng thành) vừa có tác dụng gợi tả vẻ đẹp của Kiều; lại
vừa có tác dụng dự đoán về số phận, cuộc đời của nàng. Bởi vẻ đẹp đó gợi lên
mâu thuẫn, không hài hòa (khác với Vân: thua - nhường: hài hòa, bình yên) nên
chắc chắn cuộc đời nàng sẽ truân chuyên, trắc trở: “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”.
Tiếp đến là vẻ đẹp tài năng của Kiều. Nếu như khi tả Vân, nhà thơ chỉ chú trọng
vào khắc họa vẻ đẹp nhan sắc mà không chú trọng tới miêu tả tài năng và tâm
hồn thì khi tả Kiều, nhà thơ chỉ tả sắc một phần, còn lại dành phần nhiều vào tài năng:
“Sắc đành đòi một tài đành họa hai”
Chỉ một câu thơ mà nhà thơ đã nêu được cả sắc lẫn tài. Nếu như về sắc thì Kiều
là số một thì về tài không ai dám đứng hàng thứ hai trước nàng. Tài năng của
Kiều có thể nói là có một chứ không có hai trên đời. Vì được trời phú cho tính
thông minh nên ở lĩnh vực nghệ thuật nào Kiều cũng toàn tài: cầm - kỳ - thi -
họa. Tất cả đều đạt đến mức lý tưởng hóa theo quan niệm thẩm mĩ của lễ giáo
phong kiến: “Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”. Đặc biệt tài năng của Kiều
được nhấn mạnh ở tài đàn: “Cung thương lầu bậc ngũ âm/ Nghề riêng ăn đứt hồ
cầm một trương”. Nàng thuộc lòng các cung bậc và đánh đàn Hồ cầm (đàn cổ)
thành thạo. Hơn thế, nàng còn giỏi sáng tác nhạc nữa: “Khúc nhà tay lựa nên
chương/Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”. Mỗi nàng lần đánh đàn, nàng 75
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
lại cất lên bài hát “Bạc mệnh” làm cho người nghe phải đau khổ, sầu não. Bài
hát chính là tâm hồn, là bản đàn theo suốt cuộc đời Kiều, biểu hiện một trái tim
đa sầu đa cảm và cuộc đời éo le, bất hạnh.
Tóm lại, chân dung của Kiều là bức chân dung mang tính cách và số phận. Vẻ
đẹp của Kiều là vẻ đẹp khác người nên làm cho thiên nhiên phải ghen tị “Trời
xanh quen thói má hồng đánh ghen”; tài năng của Kiều vượt trội hơn người nên
chắc chắn theo một quy luật thông thường của định mệnh “Chữ tài đi với chữ tai
một vần” hay “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” nên cuộc đời Kiều là cuộc
đời của một kiếp hồng nhan bạc mệnh, éo le và nghiệt ngã.
Đến đây chúng ta thấy được tài năng độc đáo của Nguyễn Du trong việc khắc
họa chân dung nhân vật. Từ vẻ đẹp chân dung, nhà thơ thể hiện những dự cảm
về tính cách, cuộc đời, số phận của nhân vật. Và mặc dù, ở đầu đoạn trích, tác
giả giới thiệu Thúy kiều là chị, em là Thúy Vân nhưng sau đó, nhà thơ lại miêu
tả chân dung nhân vật Vân trước, Kiều sau. Đó là một dụng ý nghệ thuật của
nhà thơ trong việc tạo ra thủ pháp “đòn bẩy”. Điều đó có tác dụng nhấn mạnh và
làm nổi bật được vẻ đẹp độc đáo, vượt trội về cả sắc lẫn tài và tình của nhân vật
Thúy Kiều. Vì thế, tuy cùng sử dụng nghệ thuật ước lệ tượng trưng khi miêu tả
hai nhân vật nhưng chúng ta thấy được mức độ đậm nhạt khác nhau ở mỗi
người. Nhà thơ chỉ dùng bốn câu để tả Vân, còn lại dành tận mười hai câu để tả
Kiều; tác giả khi tả Vân chỉ tập trung tả nhan sắc nhưng khi tả Kiều thì “sắc
đành đòi một, tài đành họa hai”. Mặc dù vậy nhưng ở nhân vật nào cũng hiện
lên rất sống động, cụ thể, chân thực, mang vẻ đẹp, tính cách, số phận khác nhau.
Bốn câu thơ cuối là lời bình của tác giả về cuộc sống của hai chị em Thúy Kiều:
“Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê 76
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Sau khi dựng lên bức chân dung của hai chị em Kiều - Vân, Nguyên Du đưa ra
những lời nhận xét chung về cuộc sống của hai người. Họ sống trong một gia
đình phong lưu, rất gia giáo và họ đang sống trong tầm tuổi sắp sửa được phép
thành lập gia đình. Thành ngữ “trướng rủ màn che” để chỉ một lối sống kín đáo,
đây là lối sống của tiểu thư con nhà gia giáo, sống trong bốn bức tường, ít khi
giao tiếp bên ngoài để học nữ công gia chánh rất là khuôn phép. Hình ảnh “ong
bướm” là hình ảnh ẩn dụ để chỉ những người đàn ông tán tỉnh phụ nữ không có
mục đích tốt đẹp. Và với những loại người ấy, hai chị em Kiều không thèm để ý tới.
Tóm lại, bằng bút pháp ước lệ, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để gợi tả vẻ đẹp của
con người, Nguyễn Du đã khắc họa thành công vẻ đẹp chân dung hai chị em
Vân - Kiều. Qua đó, chúng ta thấy được cảm hứng ngợi ca vẻ đẹp, tài năng con
người và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh đầy nhân văn ở Nguyễn Du.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 13
Nguyễn Du đại thi hào của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Ông để lại số
lượng tác phẩm đồ sộ, giàu giá trị hiện thực và nhân đạo. Trong kho tàng văn
học đồ sộ ấy ta không thể không nhắc đến Truyện Kiều - tuyệt bút của văn học
dân tộc. Tác phẩm không chỉ hấp dẫn ở nội dung mà còn đặc sắc ở nghệ thuật tả
người chân thực, sinh động. Nét bút tài hoa, chỉ vài đường nét ông đã dựng lên
chân dung tính cách và số phận của mỗi người. Điều đó được thể hiện rõ nhất
qua đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”.
“Chị em Thúy Kiều” nằm ở phần đầu của tác phẩm “Gặp gỡ và đính ước”.
Đoạn trích không chỉ nhằm giới thiệu về gia cảnh của hai nàng mà còn miêu tả 77
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
chân dung của hai tuyệt sắc giai nhân, mỗi người mang một vẻ đẹp riêng, không hòa lẫn.
Mở đầu bài thơ, bằng bút pháp ước lệ, Nguyễn Du đã giới thiệu chung về hai
chị em Thúy Kiều. Kiều là chị, còn em là Vân, hai cô là con gái của Vương
Viên ngoại. Hai con người ấy có cốt cách vô cùng thanh thoát, tao nhã “mai cốt
cách” giống như loài hoa mai mảnh dẻ, thanh cao. Phong thái tinh thần thanh
sạch, trong trắng “tuyết tinh thần”. Họ mang trong mình vẻ đẹp trong sáng, dịu
dàng, tinh khôi. Ngoài ra để khẳng định vẻ đẹp của nàng, Nguyễn Du còn có
thêm một câu thơ bình luận: “Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”. Lời
bình vừa cho thấy nét riêng, vừa cho thấy vẻ đẹp hoàn hảo của hai nàng. Chỉ
bằng những lời giới thiệu ngắn gọn, nhưng đã mang đến cho bạn đọc những
thông tin phong phú, đầy đủ, những ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp của hai nàng.
Sau khi giới thiệu chung về hai chị em, bốn câu thơ tiếp dành những lời thơ mỹ
miều, đẹp đẽ nhất để miêu tả nàng Vân:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Thúy Vân mang vẻ đẹp của phong thái đoan trang. Từ con người cô toát lên vẻ
đẹp nghiêm chính, ung dung, sự cao sang, quý phái. Nguyễn Du tập trung miêu
tả khuôn mặt của nàng: với khuôn mặt đầy đặn, sáng tươi như ánh trăng rằm,
đôi lông mày cong cong, hơi đậm làm nổi bật lên đôi mắt đẹp đẽ. Nụ cười của
nàng luôn luôn rạng rỡ như những đóa hoa, giọng nói trong, thanh thoát như
ngọc. Mái tóc dài, óng ả hơn cả mây, làn da mịn màng trắng hơn cả tuyết. Thúy
Vân mang trong mình vẻ đẹp hoàn hảo, tuyệt mĩ. Vẻ đẹp của nàng rất phù hợp 78
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
với chuẩn mực xã hội lúc bấy giờ, một vẻ đẹp hài hòa, hòa hợp với thiên nhiên.
Dẫu Nguyễn Du có sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng để cực tả vẻ đẹp của
nàng thì nàng vẫn được mây, tuyết “thua” “nhường”, được thiên nhiên ưu ái,
bao bọc, nâng đỡ. Bởi vậy cũng dự báo cuộc sống yên ấm, êm đềm của cô sau này.
Nếu như miêu tả Thúy Vân chỉ với bốn câu thơ, tập trung miêu tả khuôn mặt
tròn đầy, phúc hậu thì đến miêu tả Thúy Kiều ông sử dụng đến mười hai câu
thơ, thủ pháp đòn bẩy đã làm nổi bật vẻ đẹp của Kiều so với Vân.
Thúy Kiều mang vẻ đẹp sắc sảo, mặn mà: “so bề tài sắc lại là phần hơn” đã
khẳng định vẻ đẹp tuyệt mỹ của Kiều. Khác với Thúy Vân có những nét vẽ chi
tiết về gương mặt, thì khi miêu tả Kiều ông chỉ tập trung miêu tả đôi mắt: “Làn
thu thủy nét xuân sơn”. Đôi mắt của nàng trong trẻo, sâu thẳm như làn nước
mùa thu, đôi lông mày mượt mà, thanh tú như dáng núi mùa xuân. Không phải
ngẫu nhiên ông chọn miêu tả đôi mắt, mà đôi mắt vốn là cửa sổ tâm hồn của
mỗi người, bởi vậy, khi miêu tả mắt Thúy Kiều đã gợi nên thế giới tâm hồn
phong phú, sâu sắc, gợi tính cách sắc sảo nhưng cũng rất đa sầu, đa cảm. Vẻ đẹp
ấy của nàng khiến “hoa ghen” “liễu hờn”, hai chữ “ghen” “hờn” cho thấy sự ấm
ức, tâm lý tiêu cực, muốn triệt tiêu, loại bỏ đối phương. Vẻ đẹp của nàng vượt ra
khỏi chuẩn mực, giới hạn, khiến cho vạn vật trong trời đất phải ghen ghét, đố kị.
Chính điều đó dự báo cuộc sống tương lai đầy tai ương, sóng gió ở phía trước.
Nàng không chỉ đẹp về ngoại hình, mà nàng còn mang vẻ đẹp tài hoa, trí tuệ:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”
Trong thời trung đại, người phụ nữ ít khi được nhắc đến tài năng, câu thơ đã cho
thấy sự tiến bộ thậm chí táo bạo của Nguyễn Du khi đề cao cả vẻ đẹp hình thức 79
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
và vẻ đẹp trí tuệ của người phụ nữ. Thúy Kiều là người thông minh, sắc sảo, tài
năng đủ cả cầm, kỳ, thi họa trong đó tài đàn của nàng là ấn tượng và nổi bật
nhất. Những khúc đàn nàng chơi lay động lòng người, khúc hát nàng sáng tác
khiến ai cũng xót xa, thương cảm. Những khúc nhạc đó cũng cho thấy một tâm
hồn nhạy cảm, tinh tế, lãng mạn.
Nguyễn Du đã đặc biệt ưu ái khi miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều. Nàng tiêu biểu
cho số phận người phụ nữ “hồng nhan bạc mệnh” hay như chính Nguyễn Du đã
kết luận “Sắc đành đòi một tài đành họa hai” “Chữ tài liền với chữ tai một vần”
hay “Hồng nhan quen thói má hồng đánh ghen”. Trong suốt dọc chiều dài tác
phẩm Nguyễn Du đã nhắc đi nhắc lại số phận bạc bẽo của kiếp hồng nhan, sẽ
gặp phải nhiều truân chuyên, sóng gió.
Bốn câu thơ cuối là những lời bình luận chung của tác giả về hai chị em. Hai
nàng được sinh ra và lớn lên trong một gia đình nề nếp, phong lưu. Cuộc sống
“êm đềm trướng rủ màn che” đầy bình lặng, chưa từng va vấp với thế giới bên
ngoài. Họ luôn được sống trong tình yêu thương và che chở của cha mẹ. Cả hai
người đều đã đến tuổi cập kê, kết tóc se duyên nhưng họ vẫn còn hết sức trong sáng.
Để khắc họa vẻ đẹp của hai chị em Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật ước lệ
tượng trưng cùng hàng loạt ẩn dụ: “mây, trăng, hoa, tuyết” - những hình ảnh nổi
bật của thiên nhiên để làm nổi bật nhan sắc của hai nàng. Đồng thời để làm nổi
bật vẻ đẹp của Thúy Kiều, Nguyễn Du còn sử dụng thủ pháp đòn bẩy, miêu tả
Vân trước, Kiều sau để làm bật chân dung Thúy Kiều. Ngoài ra, ông còn sử
dụng nghệ thuật nhân hóa để ngầm dự báo số phận hai người. Vẻ đẹp của Thúy
Vân khiến thiên nhiên “thua, nhường” dự báo sau này cuộc đời nàng sẽ yên
bình, phẳng lặng. Vẻ đẹp của Thúy Kiều bị thiên nhiên “ghen, hờn”, dự báo
cuộc đời nhiều gian nan, sóng gió. 80
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Bằng bút pháp ước lệ tượng trưng tinh tế tài hoa, Nguyễn Du đã phác họa thành
công vẻ đẹp, tài năng của hai chị em Thúy Kiều. Đồng thời từ chân dung của họ
gợi lên tính cách, số phận sau này. Đó là những chân dung mang tính cách số
phận. Qua đó cho thấy bút pháp tả người tài tình của tác giả.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 14
Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hoá thế giới, là
nhà thơ xuất sắc Việt Nam cuối thế kỉ thứ 18 đầu thế kỉ thứ 19. Truyện Kiều là
một kiệt tác của thiên tài Nguyễn Du. Đây là tác phẩm có giá trị rất lớn về nội
dung tư tưởng và nghệ thuật. Đoạn trích Chị em Thuý Kiều được trích ở phần 1
- Gặp gỡ và đính ước, trong Truyện Kiều. Đoạn trích đã tập trung miêu tả người
bằng nghệ thuật đặc sắc và thành công nhất của tác giả.
Bút pháp tả người của Nguyễn Du trước hết là bút pháp ước lệ tượng trưng
thường gặp trong thơ cổ điển. Tả về chị em Thuý Kiều tác giả bắt đầu từ cái chung:
Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
Đầu tiên tác giả giới thiệu gia đình họ Vương có hai cô con gái đầu lòng Thúy
Kiều là chị, Thúy Vân là em, cả hai đều là những cô gái đẹp “tố nga”. Tác giả
sử dụng hai hình ảnh ẩn dụ ước lệ tượng trưng “mai cốt cách tuyết tinh thần” để
miêu tả vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều họ mang vóc dáng thanh cao mảnh dẻ yểu
điệu mềm mại như cây mai, suy nghĩ tình cảm tâm hồn trắng trong như tuyết cả 81
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
hai đều đẹp mười phân vẹn mười nhưng mỗi người lại một vẻ. Tiếp đó tác giả
miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân bằng các hình ảnh chọn lọc, từ ngữ tiêu biểu:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Câu thơ mở đầu giới thiệu khái quát được nhân vật bằng bốn chữ “trang trọng
khác vời”, nói lên vẻ đẹp cao sang quí phái của Thúy Vân. Vẫn bằng bút pháp
ước lệ tượng trưng với những hình ảnh quen thuộc nhưng tả Vân tác giả có
nhiều hướng tả cụ thể trong thủ pháp liệt kê. Cụ thể trong việc sử dụng từ ngữ
để làm nổi bật riêng đối tượng miêu tả “đầy đặn nở nang đoan trang”, sử dụng
biện pháp ẩn dụ nhân hoá “khuôn trăng nét ngài hoa cười ngọc thốt mây thua
tuyết nhường góp phần thể hiện vẻ đẹp phúc hậu quí phái của Thuý Vân. Khuôn
mặt tròn trịa tỏa sáng đầy đặn như mặt trăng, lông mày sắc nét đậm như con
ngài, miệng cười tươi như hoa, giọng nói trong trẻo toát ra từ hàm răng ngà
ngọc, mái tóc đen óng nhẹ hơn mây, da trắng mịn hơn tuyết, tính cách nghiêm trang đứng đắn.
Qua đó, Thúy Vân hiện lên là cô gái đoan trang phúc hậu. Chân dung Thúy Vân
là chân dung mang tính cách, số phận. Vẻ đẹp của Thuý Vân tạo sự hòa hợp êm
đềm với xung quanh “mây thua tuyết nhường”, nên nàng sẽ có một cuộc đời
bình lặng suôn sẻ hạnh phúc.
Sau khi miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân tác giả miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều.
Nếu Thúy Vân được giới thiệu qua bốn câu với vẻ đẹp cộng phẩm chất thì Thúy
Kiều được miêu tả qua 12 câu. Đây là nghệ thuật đòn bẩy làm nổi bật nhân vật chính của tác giả: 82
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành họa hai
Cũng như lúc tả Vân, câu thơ đầu khái quát đặc điểm nhân vật. Kiều sắc sảo về
trí tuệ, mặn mà về tâm hồn. Gợi tả vẻ đẹp của Kiều, tác giả vẫn dùng những
hình ảnh ước lệ ẩn dụ “làn thu thủy nét xuân sơn” (nước mùa thu, núi mùa
xuân). Nét vẽ của thi nhân thiên về gợi tả vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt thế.
Điều đáng chú ý là khi họa bức chân dung Kiều, tác giả tập trung gợi tả vẻ đẹp
đôi mắt, bởi đôi mắt thể hiện phần hình ảnh của tâm hồn và trí tuệ. “Làn thu
thủy” gợi lên vẻ đẹp của đôi mắt trong sáng, long lanh, linh hoạt; “nét xuân
sơn” gợi lên đôi lông mày thanh tú, mềm mại, tươi non trên gương mặt trẻ
trung. Bằng hình ảnh nhân hóa “hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”, tác giả
làm nổi bật dung nhan của Kiều đằm thắm khiến hoa phải ghen, dáng trẻ trung
đầy sức sống khiến liễu phải hờn. Nàng có vẻ đẹp làm say đắm, chinh phục lòng
người qua điển tích điển cố “nghiêng nước nghiêng thành”. Nàng quả là một
trang tuyệt thế giai nhân nhưng nàng không chỉ đẹp mà còn rất đa tài:
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương 83
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Khúc nhà tay lựa nên trương
Một thiên bạc mệnh lại càng lão nhân
Nàng thông minh bẩm sinh, có tài làm thơ vẽ “pha nghề ca hát đủ mùi”, tài đàn
“ăn đứt”, âm luật giỏi đến mức “làu bậc”, còn sáng tác nhạc “một thiên bạc
mệnh” - chính là sự ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sắc đa cảm. Vẻ đẹp
của Kiều là sự kết hợp giữa sắc tài và tình. Chân dung Thuý Kiều cũng là chân
dung mang tính cách số phận vẻ đẹp của nàng làm cho tạo hóa phải ghen ghét
vẻ đẹp của nàng “hoa ghen liễu hờn” nên số phận của nàng sẽ éo le đau khổ.
Bốn câu thơ cuối Nguyễn Du giới thiệu về cuộc sống của chị em Thúy Kiều
“tuy là khách hồng quần” đẹp thế lại “phong lưu rất mực”, đã tới tuần cập kê
nhưng cả hai vẫn sống một cuộc đời êm đềm trong khuôn phép gia giáo:
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai
Đoạn thơ có âm điệu nhẹ nhàng tạo nên một cuộc sống yên vui êm ấm của
những thiếu nữ phòng khuê.
Đoạn trích Chị em Thuý Kiều là một trong những đoạn thơ hay nhất đẹp nhất
trong Truyện Kiều, ngôn ngữ thơ tinh luyện giàu cảm xúc, nét vẽ hàm súc gợi
cảm, sử dụng biện pháp ẩn dụ nhân hóa để dựng lên bức chân dung hai chị em
Thúy Kiều. Đáng quí là bức chân dung tuyệt vời ấy lại được dựng lên bằng tình
yêu thương trân trọng đối với con người của tác giả. Đọc đoạn trích ta cảm nhận
được vẻ đẹp tài sắc của Thúy Kiều và thấy mình cần phải tích cực tu dưỡng rèn
luyện để trở thành con người toàn diện, có ích cho đất nước ngày.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 15 84
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Chị em Thúy Kiều nằm trong phần đầu của tác phẩm Truyện Kiều. Với bút
pháp tả người bậc thầy Nguyễn Du không chỉ làm bật lên vẻ đẹp riêng biệt của
hai nàng Kiều mà qua đó còn cho người đọc thấy số phận của hai nàng trong
tương lai. Quả là một đại thi hào của dân tộc.
Với bút pháp ước lệ, mượn thiên nhiên Nguyễn Du cho thấy vẻ đẹp thanh khiết
của Thúy Kiều và Thúy Vân:
Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị,em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
Giới thiệu hai chị em, Tố Như sử dụng thủ pháp ước lệ, để làm bật lên vẻ đẹp
của hai cô gái: họ có dáng người thu tú, mảnh mai, có cốt cách trong sáng như
tuyết. Lấy hai hình ảnh mai, tuyết truyền thống đã tôn lên vẻ đẹp của hai chị em
đạt đến độ toàn bích. Bốn câu thơ mở đầu đã tạo nên bước đà, nền cảnh để rồi
sau đó chân dung hai chị em lần lượt xuất hiện.
Thúy Vân dưới ngòi bút Nguyễn Du là người con gái có vẻ đẹp phúc hậu, đoan
trang: “Vân xem trang trọng khác vời/ Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang/
Hoa cười ngọc thốt đoan trang/ Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”. Chỉ
với bốn câu thơ kết hợp với các biện pháp, so sánh, ẩn dụ, ước lệ, Nguyễn Du
đã khắc họa tinh tế vẻ đẹp của Thúy Vân. Nàng có khuôn mặt tròn đầy như ánh
trăng rằm, đôi lông mày đầy đặn, nở nang. Kết hợp với một số tính từ chỉ phong
thái: đoan trang, trang trọng và nghệ thuật tiểu đối đã góp phần tô đậm vẻ đẹp
của Thúy Vân. Những đặc điểm về vẻ bề ngoài ấy đã báo hiệu một tiền đồ tươi
sáng, tương lai tốt đẹp, hạnh phúc viên mãn đang đợi Thúy Vân ở phía trước. 85
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Còn Thúy Kiều lại là một người con gái tài sắc vẹn toàn. Đoạn miêu tả Thúy
Vân, Nguyễn Du đã tỏ ra tài giỏi, khéo léo bao nhiêu, vận dụng chủ yếu bút
pháp tả khách hình chủ thì đến đoạn thơ miêu tả Thúy Kiều nghệ thuật miêu tả
chân dung càng sắc nét hơn:
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Nếu như Thúy Vân đi vào miêu tả chi tiết thì khi tả Thúy Kiều Nguyễn Du chỉ
tập trung tả đôi mắt. Ông đã sử dụng nhiều hình ảnh mĩ lệ, trong trẻo của thiên
nhiên để miêu tả nàng: làn thu thủy, nét xuân sơn. Nhưng gì tinh túy, đẹp đẽ
nhất đã được đặc tả qua đôi mắt có hồn, đầy cảm xúc của Thúy Kiều.
Bên cạnh vẻ đẹp hình thức, ông còn nhấn mạnh đến tài năng của Thúy Kiều.
Ông đã dùng đến tám câu thơ để khẳng định vẻ đẹp tài năng của nàng. Không
giống như những người con gái khác, nhấn mạnh vẻ đẹp nhan sắc và phẩm
hạnh, ở đây Nguyễn Du còn nhấn mạnh một vẻ đẹp khác chính là vẻ đẹp tài
năng của người con gái vốn ít được coi trọng:
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành họa hai
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm 86
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân
Thúy Kiều tài năng ở tất cả các mặt: cầm, kì, thi, họa, đặc biệt là tài đàn của
nàng đã đạt đến độ không ai có thể sánh nổi. Khúc Bạc mệnh nàng viết vừa
chứng tỏ cái tài, vừa như là một dự báo về tương lai bất hạnh, ảm đạm của chính
cuộc đời nàng. Quả là tài mệnh tương đố, chữ tài đi liền với chữ tai một vần.
Không chỉ đến khi miêu tả tài mới bộc lộ số phận bất hạnh của Thúy Kiều, mà
ngay khi tả nhan sắc của nàng, Nguyễn Du đã dần hé lộ cho người đọc thấy
những điều đó qua các từ: ghen, hờn, nghiêng nước, nghiêng thành, đã tô đậm
sự bất an về nhan sắc và tài năng của Thúy Kiều. Và quả thực cuộc đời mười
lăm năm trôi nổi, bèo dạt sau này của nàng chính là minh chứng rõ ràng nhất.
Đoạn trích Chị em Thúy Kiều có thể coi là một mẫu mực về nghệ thuật tả người
trong văn học trung đại. Từ bức tranh chung, bằng những nét vẽ tài hoa Nguyễn
Du đã đặc tả vẻ đẹp cũng như số phận của hai nàng. Bên cạnh đó ông còn sử
dụng linh hoạt các biện pháp so sánh, ẩn dụ, ngôn ngữ ước lệ, hàm súc đã tạo
nên thành công cho tác phẩm.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 16
“Truyện Kiều” hay còn được gọi là “Đoạn trường tân thanh” (Tiếng nghe mới
kêu đứt ruột” là một kiệt tác văn học của đại thi hào Nguyễn Du. Số phận và vẻ
đẹp của Kiều – kiếp hồng nhan mà bạc mệnh – được Nguyễn Du khắc họa rõ
nét trong tác phẩm. Đặc biệt là đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, Nguyễn Du đã
miêu tả được vẻ đẹp của hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều và đồng thời cũng dự
cảm về số phận tương lai của họ. 87
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
“Đầu lòng hai ả tố nga
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Cả hai chị em đều có vẻ đẹp toàn mỹ, từ hình thức bên ngoài “Mai cốt cách”
đến vẻ đẹp bên trong tâm hồn “Tuyết tinh thần”. Vẻ đẹp của Thuý Vân được
miêu tả ở bốn câu thơ tiếp:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Vẻ đẹp của Thuý Vân được Nguyễn Du miêu tả một cách toàn vẹn từ khuôn
mặt, nét ngài, màu da, mái tóc đến tiếng nói, nụ cười và cốt cách. Thuý Vân
hiện ra qua những hình ảnh, những tính chất ước lệ của văn học cổ trung đại.
Nguyễn Du tập trung tô đậm vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang của Thuý Vân. Vẫn là
cách thức quen thuộc của văn học cổ, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm chuẩn mực
cho vẻ đẹp con người, nhưng bức chân dung của Thuý Vân, qua nét vẻ thân tình
của Nguyễn du bỗng trở nên sống động là nhờ đã chứa đựng trong đó quan
niệm về tài sắc của chính nhà thơ. Gương mặt xinh đẹp đầy đặn, vẻ đẹp đoan
trang phúc hậu của Thuý Vân - một vẻ đẹp và thiên nhiên sẵn lòng nhường nhịn
“Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”- như dự báo trước một cuộc đời, một
số phận êm đềm, tròn trịa, bình yên của nàng. Quả thật, với những từ ngữ trau
chuốt, những hình ảnh ước lệ tượng trưng vẻ đẹp và giàu sức gợi tả, được lọc
qua tâm hồn mẫn cảm, tinh tế, Nguyễn Du đã khắc hoạ khá sống động vẻ đẹp 88
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
đài các, đoan trang viên mãn, mơn mởn sức sống của Thuý Vân, biểu hiện một
tâm hồn vô tư, dự báo trước một cuộc đời yên ổn, vinh hoa, phú quý sẽ mỉm
cười, vui vẻ rước đón nàng.
Song, việc miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân, không phải là chủ đích nghệ thuật của
tác giả. Đó thực chất chỉ là việc tạo tiền đề, tạo ra một điểm tựa nghệ thuật “tả
khách hình chủ” để làm nổi bật hơn tài sắc của Thuý Kiều, nhân vật trung tâm
của tác phẩm. Khác với Thuý Vân, Thúy Kiều có một vẻ đẹp “sắc sảo mặn mà”
cả tài lẫn sắc đạt tới mức tuyệt vời.Cũng những từ ngữ, hình ảnh ước lệ tượng
trưng, qua ngòi bút miêu tả tài hoa của Nguyễn Du, hình ảnh nàng Kiều hiện lên
lộng lẫy, sắc nước hương trời đến hoa phải “ghen”, liễu phải “hờn”. Đôi mắt
đẹp của nàng trong như nước mùa thu, lông mày xinh xắn, tươi non như sắc núi
mùa xuân “làn thu thuỷ, nét xuân sơn”. Nếu như vẻ đẹp của Thuý Vân trời xanh
còn có thể nhường nhịn, thì trước sắc đẹp của Thuý Kiều, thiên nhiên tạo hoá
cũng trở nên đố kị ghen ghét:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thuỷ nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”
Thiên nhiên đố kị, ghen ghét với nàng. Hồng nhan bạc mệnh, cái sắc đẹp “sắc
sảo mặn mà” khiến thiên nhiên cũng phải đố kị, ghen ghét ấy đã dự báo trước
một cuộc đời đầy sóng gió sẽ ập đến với nàng. Nguyễn Du đã không tiếc lời ca
ngợi sắc đẹp và tài nghệ của nàng Kiều. Khác hẳn Thuý Vân, Thúy Kiều thông
minh, đa tài, đa cảm, một con người nhất mực tài hoa: Tài thơ, tài hoạ, tài đàn
của Thúy Kiều đạt tới mức tuyệt diệu:
“Thông minh vốn sẵn tính trời 89
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”.
Cả diện mạo bên ngoài và diện mạo tâm hồn cũng hé mở dần tính cách số phận
của nàng Kiều. Rõ ràng, Nguyễn Du khi miêu tả sắc đẹp của nàng Kiều đã gửi
gắm quan niệm “Tài hoa bạc mệnh” vào đấy – dự báo trước cuộc đời, số phận
long đong, lận đận, đầy bất hạnh của nàng.
Sử dụng bút pháp miêu tả ước lệ tượng trưng của văn học cổ điển, với ngòi bút
tài hoa, chắt lọc, trau chuốt ngôn từ, Nguyễn Du đã khắc hoạ thật sinh động hai
bức chân dung Thúy Vân và Thúy Kiều, mỗi người một vẻ đẹp riêng, toát lên từ
tính cách, từng số phận riêng, không lẫn vào nhau, không thể phai nhạt trong
tâm hồn người đọc. Đây là thành công trong bút pháp nghệ thuật miêu tả người
của Nguyễn Du. Đã hơn hai thế kỉ rồi, với truyện Kiều và nghệ thuật tả người
đặc sắc, tinh tế của Nguyễn Du, đã là bậc thầy làm rung động và sự cảm phục,
trân trọng của bao thế hệ đối với đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 17
Thơ cổ viết về giai nhân thì đoạn thơ Chị em Thuý Kiều trích trong Truyện
Kiều của thi hào Nguyễn Du là một trong những vần thơ tuyệt bút. 24 câu lục
bát đã miêu tả sắc, tài và đức hạnh chị em Thuý Kiều, Thuý Vân - hai tuyệt thế
giai nhân với tất cả tấm lòng quý mến và trân trọng của nhà thơ thiên tài dân tộc.
Bốn câu đầu, Nguyễn Du giới thiệu vị thứ trong gia đình: “Thuý Kiều là chị, em
là Thuý Vân”, là con đầu lòng của ông bà Vương viên ngoại. “Hai ả tố nga” là
hai cô gái xinh xắn, xinh tươi. Cốt cách thanh cao như mai (một loài hoa đẹp và 90
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
quý), tinh thần trinh trắng như tuyết. Hai chị em có nhan sắc tâm hồn hoàn mỹ
“mười phân vẹn mười”, tuy thế, mỗi người lại có một nét đẹp riêng “mỗi người một vẻ”.
Một cái nhìn phát hiện đầy trân trọng; lấy mai và tuyết làm chuẩn mực cái đẹp,
Nguyễn Du miêu tả tâm hồn trong sáng, trinh trắng làm rõ cái thần bức chân dung thiếu nữ.
Bốn câu tiếp theo tả nhan sắc Thuý Vân. Mỗi câu thơ là một nét vẽ tài hoa về
bức chân dung giai nhân. Cử chỉ, cách đi đứng... rất trang trọng quý phái. Cách
ứng xử thì đoan trang. Mày nở nang, thanh tú như mày con bướm tằm. Gương
mặt xinh tươi như trăng rằm. Nụ cười tươi thắm như hoa. Tiếng nói trong như
ngọc. Tóc mềm, bóng mượt đến nỗi “mây thua”. Da trắng mịn làm cho tuyết
phái “nhường”. Cách miêu tả đặc sắc, biến hoá. Sử dụng ẩn dụ, nhân hoá tài tình:
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang.
Dùng thủ pháp so sánh, nhân hoá:
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Từ ngữ: “trang trọng”, “đoan trang” là 2 nét vẽ tinh tế, gợi tả cái thần của bức
chân dung ả tố nga: vẻ đẹp quý phái, phúc hậu. Một cái nhìn nhân văn đầy quý
mến trân trọng của nhà thơ khi miêu tả Thuý Vân.
Mười hai câu tiếp theo tả sắc, tài Thuý Kiều. Nguyễn Du tả Thuý Vân trước, tả
Thuý Kiều sau, chỉ dùng 4 câu tả Thuý Vân, dùng đến 12 câu tả Thuý Kiều. Đó
là một dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Du, Kiều không chỉ đẹp mà còn giàu tài
năng. Vẻ đẹp của Kiều là ‘“sắc sảo, mặn mà”, đẹp “nghiêng nước nghiêng 91
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
thành”. Kiều là tuyệt thế giai nhân “sắc đành đòi một”. Tài năng thì may ra còn
có người thứ hai nào đó bằng Kiều: “tài đành hoạ hai”. Nguyễn Du dùng biện
pháp tu từ ẩn dụ so sánh kết hợp với nhân hoá thậm xưng để ca ngợi và miêu tả nhan sắc Thuý Kiều:
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Mắt đẹp xanh trong như nước hồ thu, lông mày thanh tú như dáng vẻ, nét núi
mùa xuân. Môi hồng má thắm làm cho hoa ghen nước da trắng xinh làm cho
liễu phải “hờn”. Vẫn lấy vẻ đẹp thiên nhiên (thu thuỷ, xuân sơn, hoa, liễu) làm
chuẩn mực cho cái đẹp giai nhân, đó là bút pháp ước lệ trong thơ cổ. Tuy nhiên,
nét vẽ của Nguyễn Du tài hoa quá, nét vẽ nào cũng có thần rất đẹp, một vẻ đẹp nhân văn.
Kiều “thông minh vốn sẵn tính trời” nghĩa là thông minh bẩm sinh, cho nên các
môn nghệ thuật như thi, hoạ, ca ngâm chỉ là các thú tao nhã nhưng nàng rất sành
điệu, điêu luyện: “lầu bậc”, “ăn đứt” hơn hẳn thiên hạ:
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi hoạ, đủ mùi ca ngâm..
Cung thương lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Kiều giỏi về âm luật, giỏi đến mức “lầu bậc”. Cây đàn mà nàng chơi là cây đàn
hồ cầm; tiếng đàn của nàng thật hay “ăn đứt” bất cứ nghệ sĩ nào. Kiều còn biết
sáng tác âm nhạc, tên khúc đàn của nàng sáng tác ra là một “thiên bạc mệnh
“nghe buồn thê thiết “não nhân”, làm cho lòng người sầu não, đau khổ. Các từ
ngữ: sắc sảo, mặn mà, phần hờn, ghen, hờn, nghiêng nước nghiêng thành, đòi 92
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
một, họa hai, vốn sẵn, pha nghề, đủ mùi, lầu bậc, ăn đứt, bạc mệnh, não nhân -
tạo nên một hệ thống ngôn ngữ cực tả tài sắc và hé lộ dự báo số phận bạc mệnh
của Kiều, như ca dao lưu truyền:
Một vừa hai phải ai ơi!
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen.
Bốn câu cuối đoạn nói về đức hạnh hai ả tố nga: Tuy là khách hồng quần đẹp
thế, tài thế, lại “phong lưu rất mực”, đã tới tuần “cập kê” nhưng “hai ả tố nga”
đã và đang sống một cuộc đời nền nếp, gia giáo:
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Câu thơ “Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” là một câu thơ độc đáo về thanh
điệu, về sử dụng phụ âm “x” (xuân xanh xấp xỉ), phụ âm “t” (tới tuần), phu
âm”c-k” (cập kê) tạo nên âm điệu nhẹ nhàng, êm đềm của cuộc sống yên
vui.,êm ấm của thiếu nữ phòng khuê.
Đoạn thơ nói về Chị em Thuý Kiều là một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp
nhất trong Truyện Kiều được nhiều người yêu thích và thuộc. Ngôn ngữ thơ tinh
luyện, giàu cảm xúc. Nét vẽ hàm súc, gợi cảm, nét vẽ nào cũng có thần. Các
biện pháp tu từ ẩn dụ, so sánh, nhân hoá được thi hào vận dụng thần tình tạo nên
những vần thơ ước lệ mà trữ tình, đầy chất thơ. Hàm ẩn sau bức chân dung mĩ
nhân là cả một tấm lòng quý mến trân trọng. Đó là nghệ thuật tả người điêu
luyện của thi hào Nguyễn Du mà ta cảm nhận được.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 18 93
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Nguyễn Du là một nhà thơ lớn của dân tộc, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn
luôn nhìn đời bằng con mắt “nhìn thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời”.
Nhắc đến ông chúng ta không thể bỏ qua kiệt tác “Truyện Kiều” trong đó để lại
ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc là đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” miêu
tả vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân.
Ở bốn câu thơ đầu, Nguyễn Du miêu tả vẻ đẹp chung của hai chị em:
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Bằng cách sử dụng nghệ thuật đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ mang ý nghĩa
ước lệ tượng trưng, nhà thơ đã giúp người đọc hình dung được vẻ đẹp của hai
chị em với “ả tố nga”, “Mai cốt cách tuyết tinh thần”, “mười phân vẹn mười”.
Nguyễn Du gọi Thúy Kiều với Thúy Vân là “ả tố nga” tức là người con gái đẹp.
Đặc biệt bằng việc mượn hình ảnh thiên nhiên mai và tuyết còn cho thấy hai chị
em Thúy Kiều hiện lên đều có cốt cách ngay thẳng thanh cao lại vô cùng dịu
dàng và mỗi người một vẻ đẹp khác nhau không ai kém ai cả.
Bốn câu thơ tiếp theo được tác giả dùng để miêu tả vẻ đẹp của cô em Thúy Vân:
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Thúy Vân hiện lên là một người con gái vô cùng duyên dáng với khuôn mặt
“đầy đặn” tròn trịa với “nét ngài nở nang”. Mỗi khi nàng cười là toát lên vẻ
đoan trang đầy phúc hậu, khiến cho “mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”. 94
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Thiên nhiên cũng phải ghen tị với làn da mái tóc của nàng, phải chịu thua trước
vẻ đẹp của người con gái này. Như vậy bằng việc miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân,
Nguyễn Du đã phần nào gợi ra số phận đầy yên bình êm đềm của người con gái
này, luôn được vạn vật nhường nhịn chịu thua.
Nếu như miêu tả Thúy Vân, tác giả chỉ sử dụng bốn câu thơ thì đến khi nói về
vẻ đẹp của Thúy Kiều, nhà thơ lại phải dùng đến tận mười sáu câu thơ.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một tài đành họa hai.
Tác giả sử dụng bốn câu thơ để nói về nhan sắc của nàng Kiều. Nếu Thúy Vân
toát lên vẻ đẹp phúc hậu thì Kiều lại “sắc sảo mặn mà” hơn hẳn. Nàng có đôi
mắt tuyệt đẹp, trong như làn nước mùa thu với đôi lông mày đẹp và thanh thoát
như dãy núi mùa xuân. Hai vẻ đẹp này kết hợp với nhau tạo nên vẻ đẹp có môt
không hai, khiến cho ngay cả thiên nhiên cũng phải ghen ghét đố kị với vẻ đẹp
của nàng “hoa ghen liễu hờn”. Điều này dự đoán một tương lai đầy những sóng
gió trắc trở của Kiều. Kiều không chỉ có nhan sắc mà còn có tài năng đặc biệt là tài đánh đàn:
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân. 95
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Nhà thơ đã cho nàng Kiều trở thành một người phụ nữ tài sắc vẹn toàn với biết
bao tài năng cầm kì thi họa. Đặc biệt là tài đánh đàn của nàng là độc nhất đến
nỗi “ăn đứt hồ cầm một chương”. Thế nhưng tiếng đàn của nàng tuy hay nhưng
lại có chút gì đó sầu não đầy bạc mệnh như chính cuộc đời của nàng vậy.
Như vậy, bằng tài năng nghệ thuật của mình, tác giả Nguyễn Du đã giúp chị em
hình dung về vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều với mỗi người một vẻ đẹp khác
nhau. Thúy Vân thì toát lên vẻ đoan trang phúc hậu trong khi Thúy Kiều lại tài
sắc vẹn toàn. Đồng thời qua việc miêu tả vẻ đẹp của hai chị em, nhà thơ cũng
dự báo trước số phận mà hai người con gái này sắp phải trải qua đặc biệt là số
phận bấp bênh mà Kiều sắp phải trải qua.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 19
Về mặt nghệ thuật, văn học trung đại – kể cả truyện văn xuôi và truyện thơ –
thường ít miêu tả chân dung. Chẳng hạn tả Vũ Thị Thiết trong Chuyện người
con gái Nam Xương (Truyền kì mạn lục), Nguyễn Dữ chỉ phác hoạ sơ sài "Tính
đã thuỳ mị, nết na, lại thêm tư dung tốt" – nghĩa là được cả nết lẫn người. Thanh
Tâm Tài Nhân – tác giả của Kim Vân Kiều truyện (Trung Quốc), tuy có sáng
tạo hơn ở chỗ: không kể bằng ngôn từ của tác giả mà thông qua nhân vật, ở dây
là nhân vật Kim Trọng để thấy những nét nổi bật vé hai cô gái họ Vương: "Thuý
Kiều mày nhỏ mà dài, mắt trong mà sáng, mạo như trăng thu, sắc tựa hoa đào.
Còn Thuý Vân thì tinh thần tĩnh chính, dung mạo đoan trang, có một phong thái riêng khó mô tả". 96
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Tiếp thu, có nghĩa là kế thừa và sáng tạo – kể cả sáng tạo từ một nguyên mẫu
của người xưa – Nguyễn Du có một cách làm khác trên những phương hướng
làm cho nghệ thuật gần với cuộc đời hơn, cái đẹp gần với cái thực hơn, do đó
mà sức sống của nghệ thuật dồi dào, mạnh mẽ hơn. Sự hấp dẫn đối với người
đọc vì thế được tăng cường đáng kể. Nói như vậy không có nghĩa la trong văn
kể chuyện của Nguyễn Du không còn những vướng cản, những hàng rào, những
khuôn mẫu. Chẳng hạn ngay trong trích đoạn này, cách kể của nhà thơ cứ như
theo một dàn ý, lớp lang được sắp đặt từ đầu: giới thiệu chung trước, Kiều và
Vân tả sau. Sau khi đã miêu tả cụ thể từng người, nhà thơ gộp lại như một kết
luận. Đó là nhìn về tổng thể. Nhưng trong cái khối tổng thể ấy, ngòi bút nhà thơ
có sự bứt phá và có thể nói ông đã thành công, những thành công rất đáng ghi
nhận trong một thời văn chương bùng phát.
Trước khi đi vào phân tích từng phần, nếu cần có một nhận xét chung thì nhận
xét đó là: hai mươi bốn câu thơ tả người, tả vẻ đẹp người đặt trong tổng thể
Truyện Kiều như một kết cấu riêng rất hoàn chỉnh, hài hoà, đăng đối. Trong dó
có cả cái chung (bốn câu đầu và bốn câu cuối), có cả cái riêng (mười sáu câu
giữa). Riêng về cái chung, cách miêu tả sự hài hoà đăng đối không chỉ biểu hiện
ớ trạng thái cân bằng về số lượng câu, mà cái chính là ở giọng điệu của người
kể. Ngay trong giọng điệu, nếu bốn câu đầu có tính chất phẩm bình thì bốn câu
kết như là một sự khép mờ. Và dù phẩm bình hay khép mở, giọng thơ vẫn thư thái, thong dong:
Đầu lòng hai ả tố nga
Hai câu thơ đầu mang sắc thái trung tính, chưa mảy may có một nhận xét gì. Sự
ra đời của hai cô không có gì khác thường đặc biệt cả. Nhưng đến hai câu sau
đó, giọng thơ đã có sự chuyển đổi, giai điệu thơ đã khác: một câu thơ hai nhịp
(câu ba): "Mai cốt cách/tuyết tinh thần" giống như một ấn tượng, một cái gì thật 97
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
khó nói, khó quên. Nhịp 3/3 thay cho nhịp đôi thường lệ, riêng âm điệu thơ với
ba thanh trắc liền nhau (cốt, cách, tuyết) trong đó chỉ một từ bắt buộc (tuyết)
phái là thanh trắc, diễn tả một thái độ phẩm bình, một ngợi khen hiếm thấy. Sức
ám ảnh của thư bắt đầu. Nó tạo được sự chú ý. Sự chú ý này trên hai cấp độ: đó
là những vẻ đẹp khác nhau, và cả hai đều hoàn mỹ ("Mỗi người một vẻ, mười
phân vẹn mười"), đó còn là vẻ đẹp "tinh thần" trong tổng hòa của "cốt cách" –
cả hình thức lẫn nội dung. Riêng cấp độ thứ hai còn là sự chỉ dẫn của nhà thơ
trong quá trình khám phá vẻ đẹp của hai cô gái về sau.
Nhan sắc của Vân bắt đầu bằng một giọng kể vừa khách quan, vừa như trò
chuyện tạo mối giao cảm giữa người nói với người nghe, mà thật là cô đúc:
Vân xem trang trọng khác vời
Từ "xem" xen vào câu kể đã để lại một dấu ấn chủ quan của người kể. Nhưng
nhan sắc của Thuý Vân đến độ "khác vời" thì đã là dấu ấn chủ quan lại càng rõ
rệt hơn. Hai chữ "khác vời" tương đương với cụm từ "tuyệt vời" ("Cánh hồng
bay bổng tuyệt vời"). "Khác vời" là cái đẹp khó lòng nói hết, cái đẹp của nhan
sắc, và cả cái đẹp ở ngoài nhan sắc. Bản thân nó là một bài thơ mà ý nghĩa
không chỉ ở trong lời. Tuy nhiên, để cụ thể hoá cũng đồng thời để cá biệt hoá vẻ
đẹp của Thuý Vân, phải đọc tiếp những câu sau đó. Có nhiều người khi phân
tích ba câu thơ tiếp đó thường chỉ chú ý đến: khuôn trăng, nét ngài, hoa cười,
ngọc thốt nghĩa là những ngữ danh từ ước lệ mà ít quan tâm hơn đến những vị
ngữ kèm theo, như: đầy đặn, nở nang, đoan trang. Theo chúng tôi hiểu, khuôn
trăng chỉ khuôn mặt, nét ngài chỉ lông mày, hoa chỉ nụ cười, ngọc chi tiếng nói
đã cách điệu lên theo mô thức có sẵn của thơ xưa để từ đó tránh đi những suy
diễn quá xa và không đáng có. Ví dụ "khuôn trăng" được giải thích là khuôn
mặt tròn trịa (?), lông mày sắc nét, đậm như con ngài (?), tóc đen óng nhẹ hơn
mây (?)… giải thích như thế chẳng những không đúng mà còn hạ thấp nhan sắc 98
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
của Thuý Vân, nó đi vào khuynh hướng dung tục, tầm thường hoá, không trung
thành với vẻ thanh cao, trong trắng như "tuyết" trong tinh thần của vẻ đẹp ấy.
Chẳng hạn như nếu hiểu "mày ngài" là lông mày đẹp thì đó lại là cái vẻ đẹp của
người võ tướng như Từ Hải "Râu hùm, hàm én, mày ngài". Khôi phục lại ba vị
ngữ đã nói ở trên, chúng tôi muốn nhấn mạnh vào cách hiểu sau đây: nhà thơ
muốn chắt lọc vẻ đẹp của Thuý Vân ở khía cạnh hài hoà, dung hòa giữa dung
nhan và đức hạnh. Nhan sắc làm tươi tắn cho đức hạnh (để không là khổ hạnh),
ngược lại: đức hạnh làm cho nhan sắc trở nên thùy mị nết na. Nét độc đáo của
Thuý Vân nằm trên đường ranh giới ấy để thống nhất một cách tuyệt đối hai
khía cạnh rất khó gặp nhau. Trong vở kịch Hăm-lét của Sếch-xpia, trong tâm
trạng giả điên, Hăm-lét đã nói với Ô-phê-li-a bằng một câu rất "tỉnh", về cái
nghịch lí vừa nêu: "Nếu cô vừa là người đức hạnh lại vừa nhan sắc, thì đức hạnh
làm sao có thể nói chuyện được với nhan sắc của cô?". Thực hiện sự thống nhất
này là khó, thậm chí là rất khó khi nhà thơ thoát ra ngoài mô hình công thức mà
vẫn tả chân thực khá tỉ mỉ, chi tiết vẻ đẹp tinh thần của một nhan sắc trời cho.
Toả ra đâu đây một thứ hương thơm dịu dàng, tinh khiết từ cái dáng vẻ phúc
hậu, hiền thục của Thuý Vân, vẻ đẹp ấy rất đáng để "Mây thua nước tóc, tuyết
nhường màu da". Trước vẻ đẹp của Thuý Vân, thiên nhiên là mây, tuyết cũng nể vì, cảm mến.
Tả Thuý Vân như thế là đã đẹp, đã hay, kết thúc như thế là gọn. Nhưng trong
mối liên kết của mạch thơ, người kể chuyện như lấy được dà để tôn vinh một
nhân vật thứ hai tiếp nối: "Kiều càng sắc sảo mặn mà". Đó là hai phẩm chất của
Thuý Kiều mà Thuý Vân chưa có hoặc có nhưng chưa trọn vẹn: tài và sắc. "Sắc
sảo" là trí tuệ, là tài, là khả năng nhận thức nhanh nhạy, thông minh và ứng xử
linh hoạt, kịp thời. Tài còn là cầm kì thi hoạ, bốn thú vui tao nhã mà nàng có đủ.
Còn "mặn mà" là tình, là sự nồng nàn, say đắm không nhạt nhẽo, vô tâm. Ý
thức nhấn mạnh này là dụng công nghệ thuật đã dành (chẳng hạn như tả Thuý
Vân trước để đối chiếu), mà còn là thiện cảm của nhà thơ. Thiện cảm này lăng 99
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
theo cấp số bằng biện pháp điệp ý. "Càng" ở câu trước đã là hơn, nhưng hình
như chưa đủ. Cần phải hai năm rõ mười "So bề tài sắc lại là phần hơn". Nhưng
"tài sắc" – sự lặp ý bè đôi so với "sắc sảo, mặn mà" là không hoàn toàn trùng khít.
Thật ra, tả tài sắc Thuý Kiều, Nguyễn Du vẫn dựa vào mô phỏng, lấy thiên
nhiên làm chuẩn mực để miêu tả con người. Tả Thuý Vân cũng thế. Chỉ có điều:
đó là hai vùng thiên nhiên khác. Nếu thiên nhiên dùng để tả Vân là một thiên
nhiên viên mãn, ổn định, tròn đầy, thì khi tả Thuý Kiều thiên nhiên sống động
hơn, biến hoá hơn. Ấy là chưa nói cách đặc tả, khắc hoạ có trọng tâm hơn, tập
trung vào một nét bao trùm: đôi mắt.
Làn thu thuỷ nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Đúng là đôi mắt và lông mày, một đôi mắt trong suốt như không màu, một đôi
mắt biết khóc, biết cười, một tuổi trẻ tiềm năng đang bừng thức. Nhan sắc ấy
không chỉ là nhan sắc, nó đã hoá linh hồn. Khi tả Vân, nhà thơ nói "Vân xem
trang trọng khác vời", ấy là cảm nhận chủ quan. Còn "làn thu thuỷ" nhất là "nét
xuân sơn" thì vẻ đẹp đến đây là khách quan, tự nó, nằm ngoài khả năng nắm bắt
của nhà thơ. vẻ đẹp ở Kiều nhìn chung là vẻ đẹp vượt ngưỡng, không một
khuôn mẫu nào có thể ôm trùm – kể cả thiên nhiên, một tiêu chí tối đa cho vẻ
đẹp con người của văn chương trung đại.
Tuyệt đối hoá nhan sắc của nhân vật là một cách làm không dễ. Để thuyết phục,
để người ta có thể chấp nhận, có một con đường "mềm hoá" mà thi sĩ đã tìm ra:
"Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai". Nghĩa là trong sự toàn bích đã có sự hơn
thua. Nói tài thua sắc không có nghĩa là tài thường hay "tài hèn". Thua là so với
nhan sắc, chứ còn tài ấy cũng rất hiếm hoi trong thiên hạ. 100
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Trong bốn cái tài ấy, có lẽ tài đàn của Kiều là nổi bật. Bởi vì vẫn quen thuộc
những động thái tư duy từ khái quát đến cụ thể. Nhưng đến cái cụ thể thì thơ
hoạ, hát xướng được dồn chung lại thành một câu. Còn tài đàn sau đó cần đến
bốn câu. Và trong bốn câu ấy, câu nào cũng nói đến một bậc kì tài. Khi thì thuần
phục (làu), lúc thì nổi bật (ăn đứt) một tài năng trời phú (khúc nhà) nhất là với
cung bạc mệnh, "Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân". Người ta thường nói
đến vẻ đẹp số phận của nàng Kiều vì "Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh".
Không chi vì thiên nhiên giận hờn, ghen tức, mà Kiều cũng như thế:
Đã cho lấy kiếp hồng nhan
Lam cho, cho hại, cho tàn, cho cân.
Nhưng nếu xét cho cùng, tiếng đàn mới làm cho đời nàng đau đớn. Rồi tiếng
đàn ấy cũng đi suốt mười lăm năm lưu lạc, đi hết cuộc đời. Không phải ngẫu
nhiên mà hơn hai trăm năm sau, Tố Hữu nhớ Nguyễn Du là nhớ tiếng đàn ấy:
Tiếng đàn xưa đứt ngang dây
Hai trăm năm lại càng say lòng người.
(Kính gửi cụ Nguyễn Du)
Nhưng, tất cả là câu chuyện về sau. Còn lúc này, ở những trang đầu của cuộc
đời hai chị em chưa có một vệt mực nào giây vào, nó còn tinh nguyên, thanh
sạch. Bốn câu kết đoạn trở về trạng thái thong dong: "Phong lưu rất mực hồng
quần", "Êm đềm trướng rủ màn che"… nghĩa là gần giống bốn câu đầu đoạn.
Nhưng như trên đã nói: nếu bốn câu đầu là phẩm bình, nhận xét thì bốn câu cuối
có tính chất khép mớ câu chuyện. Đoạn thơ đóng lại mà vẫn có một cái gì đó
không yên. "Xuân xanh xấp xỉ…" phải chăng là chút thoáng hồi hộp, đợi chờ, 101
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
một cái gì đang tới phía ngoài kia, phía "Tường đông ong bướm đi về mặc ai"
mà những cô gái "màn che", "trướng rủ" chưa mấy bận tâm thao thức?
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 20
Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du không chỉ là kiệt tác bất hủ của nền văn
học trung đại mà còn là của cả nền văn học Việt Nam. Với những giá trị nội
dung tư tưởng lớn, mang tính hiện thực sâu sắc, phản ánh, lên án sự bất công,
tàn ác của chế độ phong kiến và số phận bất hạnh của người phụ nữ. Đồng thời
thể hiện tư tưởng nhân đạo, cảm thương sâu sắc cho số phận con người, đặc biệt
là phận nhi nữ, trân trọng những vẻ đẹp của người phụ nữ dưới chế độ cũ.
Có thể nói rằng dẫu là con người của chế độ phong kiến, nhưng thông qua
Truyện Kiều ta có thể nhận ra tư tưởng và suy nghĩ của Nguyễn Du đã vượt
trước thời đại cả hàng trăm năm, để lại cho nền văn học một tác phẩm kinh điển
có ảnh hưởng sâu rộng trong văn hóa của người Việt. Truyện Kiều tựa như một
nguồn cảm hứng lớn, một khởi điểm cho nhiều các loại hình văn hóa khác như
bói Kiều, lẩy Kiều, trò Kiều, tranh Kiều, vịnh Kiều, … thậm chí trở thành đề tài
cho nhiều loại hình nghệ thuật sân khấu, âm nhạc, hội họa,... Không chỉ vậy
Truyện Kiều còn trở thành tác phẩm hiếm hoi của văn học Việt Nam được dịch
và cho xuất bản ở trên 20 quốc gia. Sự thành công của Truyện Kiều, không chỉ
đến từ nội dung hiện thực và nhân đạo mà còn đến từ những giá trị nghệ thuật,
thể hiện tuyệt tài cầm bút của Nguyễn Du. Bao gồm việc sử dụng nhuần nhuyễn
thể thơ lục bát của dân tộc, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, nghệ thuật tả cảnh, tả
người bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, linh hoạt, gợi nhiều hơn tả,... Đoạn
trích Chị em Thúy Kiều là một trong những trích đoạn thể hiện rất đặc sắc biệt
tài dùng bút pháp ước lệ tượng trưng để miêu tả vẻ đẹp con người của Nguyễn Du. 102
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Thúy Kiều, nhân vật chính của tác phẩm xuất thân là con nhà danh giá, khuê các,
“êm đềm trướng rủ màn che”, đoạn trích Chị em Thúy Kiều nằm ở phần đầu
“Gặp gỡ và đính ước” của tác phẩm, giới thiệu về bối cảnh gia đình Kiều và mối
duyên định mệnh của nàng với chàng Kim Trọng.
Hai câu đầu của đoạn trích “Đầu lòng hai ả tố nga/Thúy Kiều là chị em là Thúy
Vân” giới thiệu thân phận của hai chị em là hai cô con gái lớn của gia đình
Vương viên ngoại, trong đó Thúy Kiều là chị cả, còn Thúy Vân là con thứ. Vẻ
đẹp chung nhất của hai chị em được Nguyễn Du tóm gọn bằng một câu “Mai
cốt cách, tuyết tinh thần”, tiêu biểu cho phong cách ước lệ gợi tả của tác giả.
“Cốt cách” tức chỉ phẩm chất, tính cách của hai cô gái, được ví với cây hoa mai
- một trong Tứ quân tử, tượng trưng cho vẻ đẹp thanh cao, phú quý, sự bền bỉ,
kiên trì trong cuộc sống. Lại lấy tuyết, một thứ vừa mỏng manh, vừa trong trẻo,
nhẹ nhàng để chỉ “tinh thần” ngụ ý diễn tả tâm hồn trong sáng, thanh khiết của
Kiều và Vân, những cô gái mới ngấp nghé tuổi cập kê, hồng trần chưa chạm.
Tuy có những vẻ đẹp chung nhất như thế nhưng Kiều và Vân vẫn có riêng cho
mình những vẻ đẹp riêng đến từ ngoại hình, khí chất và tâm hồn được Nguyễn
Du chỉ ra trong câu thơ “Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”, muốn nói
rằng khó có thể phân bì được tài sắc của hai chị em, dẫu rằng Kiều là nhân vật
chính nên có phần nổi trội hơn. Để làm nổi bật cái vẻ đẹp của Thúy Kiều,
Nguyễn Du đã rất tinh tế và khéo léo khi chọn miêu tả cô em là Thúy Vân trước.
Điều này cũng khá tương tự với việc lựa chọn trong giới thời trang khi để
vedette là người catwalk cuối cùng, nổi bật hẳn so với những người diễn mở
màn. Phân đoạn miêu tả Thúy Vân ngắn gọn gồm 4 câu thơ:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da” 103
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Có thể nhận xét chung rằng vẻ đẹp của Thúy Vân là một vẻ đẹp mang tính tiêu
chuẩn trong xã hội phong kiến, là tiêu biểu cho vẻ ngoài của những con người
có phúc tướng, số phận an nhàn, hiền hòa cuộc đời không chịu nhiều sóng gió.
Có lẽ số phận Vân đã gắn với việc trở thành phu nhân quyền quý, thế nên
Nguyễn Du mới miêu tả thần thái của nàng bằng mấy chữ “trang trọng khác
vời” đó là vẻ kiêu sa, sang trọng mà không phải cô gái nào cũng có được.
“Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang”, có lẽ rằng ngày nay người có khuôn
mặt trong không phải là kiểu mặt được ưa thích thế nhưng trong quan niệm
thẩm mỹ cũ, người có khuôn mặt tròn đầy như Thúy Vân lại là người có phúc
khí, không chỉ vậy hình ảnh ước lệ “trăng” là ngụ ý chỉ sự thanh khiết, hiền hòa
và nhã nhặn của người con gái. Bên cạnh khuôn mặt tròn, phúc hậu, Thúy Vân
còn may mắn có được “nét ngài nở nang” là đôi chân mày đậm nét, rõ ràng và
cách xa nhau, vốn là nét đẹp và cũng thể hiện tướng phúc trên khuôn mặt, cho
thấy rằng Vân là người hiểu lễ nghĩa, rộng lượng và hiền hòa trong cuộc sống.
Đó là về khuôn mặt và đôi mày, đối với nụ cười và giọng nói của Thúy Vân
Nguyễn Du cũng dành cho nàng những cụm từ rất mỹ miều và thanh nhã “Hoa
cười ngọc thốt đoan trang”. Nụ cười của nàng Vân tươi tựa như hoa nở, mang
cảm giác vui mừng, sáng sủa, và dịu dàng. Còn giọng nói thì trong sáng, vừa
thanh vừa ấm như ngọc, bởi thế có người nói rằng người con gái đẹp thì chắc
chắn có giọng nói hay, nếu ứng với Thúy Vân thì quả thực chẳng thể nào sai. Và
tổng kết lại với điệu cười, giọng nói ấy dành cho Thúy Vân hai chữ “đoan
trang” quả thật là rất xứng. Vẻ đẹp của Thúy Vân tiếp tục được diễn tả bằng câu
“Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”, tóc tựa mây, là mái tóc dài, dài và
đen nhánh, từ đó ta cũng có thể phần nào suy ra được tính cách của nàng Vân
mặc dù Nguyễn Du không đề cập đến. Đó là biểu trưng cho người con gái hiền
dịu, tính tình bình đạm, trọng tình nghĩa, và rất mực chung thủy. Còn ý “tuyết
nhường màu da” thì có lẽ không cần phải bàn cãi, lấy màu tuyết để chỉ màu da,
da trắng như tuyết, đó là vẻ đẹp tuyệt mỹ sánh ngang với thiên nhiên tạo hóa, là 104
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
cái phúc của nàng Vân. Chung quy qua bốn câu thơ miêu tả vẻ đẹp của Thúy
Vân, Nguyễn Du đã dùng bút pháp ước lệ tượng trưng thông qua các hình ảnh
rất nhã nhặn, dịu dàng như trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết để gợi ra nét đẹp của
một người con gái có vẻ đẹp quý phái, không quá sắc sảo, nhưng khiến người ta
dễ chịu và quý mến, điều này gợi ý cho người đọc, cũng như dự đoán trước về
cuộc đời bình đạm và êm ấm của nàng Vân.
Khác với Thúy Vân, khi tả Thúy Kiều Nguyễn Du dùng đến tám câu thơ mới
diễn đạt được cái vẻ đẹp của nàng, từ lượng câu thơ gấp đôi ta có thể thấy rằng
vẻ đẹp của Kiều là vẻ đẹp hiếm thấy và tuyệt mĩ, bởi so với Thúy Vân người
con gái vốn đã xinh đẹp nhưng chỉ bốn câu thơ là đã khái quát gọn thì Thúy
Kiều rõ ràng đã ở một tầm nhan sắc khác. Ta có thể thấy rõ được ngụ ý này của
Nguyễn Du qua hai câu thơ chuyển “Kiều càng sắc sảo mặn mà/So bề tài sắc lại là phần hơn”.
“Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành họa hai
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương”
So với Thúy Vân, thì đến Thúy Kiều dường như Nguyễn Du lại càng vận dụng
triệt để cải thủ pháp ước lệ tượng trưng. Nếu như ở Vân tác giả còn chỉ rõ vẻ
đẹp của từng bộ phận trên cơ thể, rồi đem ví với thiên nhiên, thì ở Thúy Kiều,
hầu như Nguyễn Du chỉ gợi nhẹ, dùng bút pháp chấm phá để người đọc tự liên
tưởng ra bức tranh Thúy Kiều. “Làn thu thủy” tức là nói đến đôi mắt trong như 105
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
nước mùa thu, với những rung động nhẹ nhàng, mà nói đến đôi mắt mang màu
nước, lại còn là mùa thu thì đó lại gợi cho ta một vẻ đẹp tuyệt trần, yếu đuối, và
vô cùng lãng mạn. Nhưng cũng đồng thời chỉ ra rằng người có đôi mắt ấy lại là
người đa sầu, đa cảm và cũng là người có số kiếp truân chuyên, vận mệnh đào
hoa. Tương tự “nét xuân sơn”, tức là chỉ đôi mày đẹp như núi mùa xuân, khiến
người ta liên tưởng đến đôi mày liễu, gọn mảnh, cong, mang đến vẻ đẹp xuân
sắc cho cả khuôn mặt, đó cũng là một nét đẹp tuyệt hiếm có, biểu lộ tính cách
nhu thuận, dịu dàng của người phụ nữ. Thế nhưng Nguyễn Du tại sao không so
với những sự vật khác mà lại gợi ra đôi mày của Kiều bằng hình ảnh núi non,
điều này cũng làm ta phải suy nghĩ. Có thể giải thích rằng đó cũng lại là một
ngụ ý nữa về cuộc đời của Kiều, cũng gập ghềnh trắc trở y như dáng núi, hết lên
lại xuống, khó có được ngày hiền hòa yên giấc. Đó là nói về đôi mắt, để nói về
vẻ đẹp của Kiều Nguyễn Du còn có câu “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém
xanh”, dẫu chưa phân tích thế nhưng từ bề mặt chữ ta cũng có thể dễ dàng nhận
thấy Thúy Kiều là một cô gái có vẻ đẹp rất sắc sảo, mặn mà khác hẳn với cái vẻ
đẹp trang nhã, nhẹ nhàng của cô em Thúy Vân. So với “Làn thu thủy, nét xuân
sơn” thì câu thơ này lại càng mơ hồ không rõ là Nguyễn Du muốn phiếm chỉ vẻ
đẹp nào của Thúy Kiều. Thế nhưng từ chữ “thắm” có lẽ là tác giả muốn miêu tả
nét môi nàng Kiều, môi đỏ như son, đến loài hoa cũng phải ghen tị vì chẳng tươi
được bằng đôi môi của nàng. Một cách hiểu khác, có thể “thắm” ở đây là chỉ vẻ
đẹp thiên tiên, tuyệt trần, đằm thắm của Thúy Kiều mà không một loài hoa nào
có thể sánh ngang được. Cách hiểu này khiến ta liên tưởng đến một trong bốn tứ
đại mỹ nhân của Trung Hoa cổ đại, nàng Dương Qúy phi với vẻ đẹp “tu hoa”,
đến hoa cũng phải xấu hổ vì không sánh bằng. Ý “liễu hờn kém xanh” lại càng
đặc sắc trong nghệ thuật gợi tả ước lệ của Nguyễn Du, ai cũng biết rằng loài liễu
là loài nức danh với bản tính mềm mại, dịu dàng, thế nhưng khi so với Kiều thì
lại phải hờn vì “kém xanh”. Ở đây xanh tức là chỉ sức sống, sự dẻo dai, cũng
đồng nghĩa với việc gợi ra cái dáng hình lả lướt, mềm mại, uyển chuyển tuyệt 106
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
thế so với liễu chỉ có hơn chứ không kém của Thúy Kiều. Như vậy so với Thúy
Vân, thì vẻ đẹp của Thúy Kiều còn được gợi ra thông qua dáng hình mềm mại,
yếu đuối, mà có lẽ nghĩ sâu hơn ta có thể tưởng tượng được thân hình tuyệt thế
của nàng. Tuy không đặc tả Kiều một cách rõ nét như Thúy Vân nhưng Nguyễn
Du đã dành hai câu thơ để nhấn mạnh nhan sắc Kiều rằng “Một hai nghiêng
nước nghiêng thành/Sắc đành đòi một tài đành họa hai”, ý chỉ vẻ đẹp của Kiều
có lẽ cũng chẳng khác gì những Tây Thi, Điêu Thuyền thuở xưa, hồng nhan thì
họa thủy, nghiêng nước nghiêng thành là có thật. Và thực sự, Kiều cũng khiến
một nam nhân như Từ Hải rời bỏ một cõi, rồi cuối cùng rơi vào kết cục không thể vãn hồi.
Đặc biệt Thúy Kiều có vẻ đẹp nổi trội hơn không chỉ ở nhan sắc mà nó còn thể
hiện ở tài năng của nàng, thiết nghĩ Nguyễn Du tuy có tư tưởng tiến bộ, nhưng
vẫn còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền Nho học cho rằng phụ nữ không cần
quá xuất sắc thì mới có thể hạnh phúc và tiêu biểu cho hình mẫu này là Thúy
Vân, còn ngược lại phụ nữ mà vừa có nhan sắc, lại còn có tài thì thường bạc
mệnh. Thế nên Nguyễn Du mới xây dựng hình tượng Kiều vừa có nhan sắc
tuyệt diễm, lại thêm là bậc kỳ tài trong thi, ca, nhạc, họa. Nàng là người con gái
thông minh, học một biết mười, đặc biệt với món đàn tỳ bà thì lại càng là tay
nghề trác tuyệt. “cung thương làu bậc ngũ âm”, nàng có thể tự phổ nhạc, sáng
tác nên các khúc đàn hay, thế nhưng có lẽ như một điềm báo về kiếp hồng nhan
bạc mệnh, từ việc tinh thông tỳ bà - thứ đàn vốn hay xuất hiện ở chốn phong
trần, âm vực rộng rãi, cầm phổ chủ yếu là những nốt buồn bã thê lương. Cho
đến việc bản thân Kiều cũng viết bản “Bạc mệnh”, buồn thương, não nề đã phần
nào thể hiện được cuộc đời đầy sóng gió của một trang giai nhân tuyệt sắc.
“Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê 107
Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Những câu thơ cuối lại quay về miêu tả hoàn cảnh sống của hai chị em, cả hai
nàng xuất thân con viên ngoại nên cuộc sống cũng được xem là khá giả, “phong
lưu”, sống trong lụa là gấm vóc. Kiều và Vân đã sắp tới tuổi cập kê, gần tuổi
xuất giá, trước khi sóng gió ập đến thì chị em “êm đềm trướng rủ màn che”,
cuộc đời trôi qua yên ả, vui vầy. Dẫu cũng đã trưởng thành, nhưng cả hai nàng
đều còn rất thanh thuần, tinh khiết, bao nhiêu thứ ái tình “ong bướm”, Kiều Vân
cũng chưa từng nếm trải, giữ gìn nền nếp gia phong một phép.
Đoạn trích Chị em Thúy Kiều là phân đoạn thể hiện rõ nét tài năng bậc thầy của
Nguyễn Du trong việc miêu tả người thông qua bút pháp ước lệ tượng trưng, chỉ
gợi, vẽ vào một nét bút chấm phá, để người đọc tự khai phá ra bức tranh nhân
vật. Đồng thời đoạn trích còn thể hiện tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du khi rất
mực trân trọng và tinh tế, tỉ mỉ trước vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều. Đặc biệt là
ở nhân vật Kiều, ông không chỉ khai thác nhan sắc hiếm có mà còn tô vẽ nàng
thông qua vẻ đẹp tài năng, trí tuệ, cốt cách ở bên trong, để làm nổi bật bức tranh
người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng bạc mệnh. 108