Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích lớp 9. | Văn mẫu lớp 9

Đó là những lời ca ngợi mà Tố Hữu dành tặng cho Nguyễn Du cùng những tác phẩm của ông. Trong số đó, chúng ta không thể không nhắc đến Truyện Kiều - một sáng tác làm nên tên tuổi của Nguyễn Du, khiên tên tuổi của ông sánh ngang với những tác gia vĩ đại nhất của đất Việt. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Chủ đề:

Văn mẫu 9 260 tài liệu

Môn:

Ngữ Văn 9 657 tài liệu

Thông tin:
3 trang 1 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích lớp 9. | Văn mẫu lớp 9

Đó là những lời ca ngợi mà Tố Hữu dành tặng cho Nguyễn Du cùng những tác phẩm của ông. Trong số đó, chúng ta không thể không nhắc đến Truyện Kiều - một sáng tác làm nên tên tuổi của Nguyễn Du, khiên tên tuổi của ông sánh ngang với những tác gia vĩ đại nhất của đất Việt. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

5 3 lượt tải Tải xuống
Phân tích đoạn trích Kiều lầu Ngưng Bích lp 9
Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Nng Bích
“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Ngàn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”
Đó là những lời ca ngợi mà Tố Hữu dành tặng cho Nguyễn Du cùng những tác phẩm ca
ông. Trong số đó, chúng ta không thể không nhắc đến Truyện Kiều - một sáng tác làm nên
tên tuổi của Nguyễn Du, khiên tên tuổi của ông sánh ngang với những tác gia vĩ đại nhất ca
đất Việt. Mỗi đoạn thơ trong Truyện Kiều khi trích ra đứng độc lập đều mang trọn vẹn những
t đẹp về nội dung cũng như ngh thuật. “Kiều ở lầu Ngưng Bích” chính là một trong số đó.
Đoạn tch này gm mười một cp câu lục t, khắc họa những tháng ngày Kiều b mụ tú bà
giam giữ trong lầu Ngưng Bích. Đó là kế hoch mà mụ ta tm thời nghĩ ra để ngăn Kiều t
vẫn vì phát hin bản thân bị lừa bán vào lầu xanh. Trong thời gian đó, mụ ta âm thầm bàn
mưu tính kế, để dồn ép, buộc Kiều phải đi vào khuôn kh. Xuyên suốt đoạn trích này,
Nguyễn Du tập trung khc họa những cảm xúc nhớ thương, xót xa dành cho người yêu và
cha mẹ của nàng Kiều, cùng những dự cm bt an về tương lai phía tc.
“Trước lu Ngưng Bích khóa xuân,
V non xa tấm trăng gn ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
t vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng.
Sáu câu tđầu đoạn tch, tác gi tập trung khc họa không gian xung quanh lầu Ngưng
Bích - nơi đang giam gi Thúy Kiều. Tác giả đã kéo dài đến tận cùng hai chiu kích ca
không gian: chiều cao và chiều rộng, để tái hin lại vùng không gian rộng lớn xung quanh lầu
Ngưng Bích. Đó là một khoảng không dường như vô tận, không có du vết của cuộc sống
nhộn nhịp, náo nhiệt. Nhìn ra xa, xa mãi cũng chthy những ngọn núi cao ẩn hin trong
mây mù, chỉ thy những cồn cát nối tiếp, những bụi hồng dặm kia. Tác giả ko léo sử dụng
hai hình ảnh có sự đối lập, tương phản mạnh: non xa - trăng gn để kéo dài chiều rộng của
không gian, góp phần khắc sự hoang vu, lạnh lẽo, quạnh quẽ của nơi Kiều đang ở. Cùng với
đó, xung quanh thời gian lại trôi dần về chiều muộn, lúc trăng đang dần lên. Đây vốn là
khoảng thời gian mà nhà nhà chong đèn đoàn tụ bên mâm cơm ấm áp. Ấy thế mà Kiều phải
cô đơn, mòn mỏi một mình sống trong lầu Ngưng Bích, xung quanh chẳng có lấy một người
có thể chia sẻ. Đã vậy, giờ đây, nàng còn rơi vào hoàn cảnh tủi nhục, xấu hổ, bơ vơ nơi đất
khách quê người. Ngày ngày, nàng tuyệt vọng ngồi cô đơn ở trên lầu nhìn ngày đêm luân
phiên đến rồi đi đến chết lặng.
ng cô đơn, đau khổ, bẽ bàng trong cô đơn, lạnh lẽo, Kiều lại càng nhớ về người thân ở
phương xa. Nỗi lòng của nàng giờ chia thành hai nửa, một nửa dành cho người thương, một
nửa gửi cho cha mẹ.
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Nguyễn Du vô cùng tinh tế và khéo léo khi s dụng động t “tưởng” thay vì “nhớ”. Bởi Thúy
Kiu không chỉ nhớ nhung về chàng Kim Trọng ở nơi xa.ng với đó, nàng còn hồi tưởng
về quá khứ êm đẹp bên người yêu, về khoảnh khắc thề ước với cng dưới ánh trăng lung
linh. Nhưng cùng với đó, Kiều cũng tưởng tượng ranh ảnh cng Kim buồn khổ trong
ngóng tin mình từ ngày này sang ngày kc. Càng nghĩ, nàng càng đau kh, buồn bã bởi bản
thân nàng đã thất hứa, đã phản bội niềm tin yêu của Kim Trọng dành cho nàng. Giờ đây,
nàng đã rơi vào hoàn cảnh trớ trêu, bất hạnh. Tuy tình cảm mà nàng dành cho Kim Trọng
vẫn vẹn nguyên như thuở nào, nhưng nàng thì không thể trở lại như trước đây được nữa. S
phn nghit ngã đã vùi dập “tấm son” của Kiều, chẳng biết bao giờ mới gột rửa cho phai
đưc.
Sau khi nhớ về người yêu, Kiều lại nhớ đến cha mẹ. Tác giả khéo léo sử dụng hàng loạt các
thành ngữ như "rày trông mai chờ", "quạt nồng ấp lạnh", "cách mấy nắng mưa" và các điển
tích, điển cố "n Lai, gốc T" đ th hin những trăn tr, lo âu của Thúy Kiu về vic không
th ttay chăm sóc cho cha m. Nàng chua xót, đớn đau khi tưởng tượng ra hình ảnh cha
mẹ đã già yếu vẫn ngày ngày mong chờ tin mình. Nhưng bản thân t lang bạt nơi xứ người,
chng thể nào về báo hiệu được. Điu đó khiến trái tim của một ni con hiếu thảo như
Thúy Kiều đau thắt lại từng cơn. Dẫu đã bán thân mình để lấy tiền chuộc cha, nhưng Kiều
vẫn chưa cho rng như thế đã là đủ. Nàng vẫn đau đáu mong ước được chăm sóc cha mẹ
lúc tuổi già. Điu đó đã gián tiếp thể hin tấm lòng hiếu thảo củang.
“Xót người tựa cửa hôm mai,
Qut nồngp lạnh, những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc t đã vừa người ôm?”
Thương người yêu Kim Trọng, xót cho cha m của mình, và rồi cuối cùng, Thúy Kiu lại
thương cho cnh bản thân mình ở hin ti. Trong tám câu thơ cuối, Nguyễn Du sử dụng liên
tiếp điệp ngữ “buồn trông” đầu bốn câu lục, tạo nên một cấu trúc lặp lại, gợi lên vòng lặp
vô tn của những ngày tháng bất hạnh của nàng Kiều, chẳng biết bao giờ mới có thể thoát ra
đưc.
"Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác, biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ ru rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
m m tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Những hình ảnh thiên nhiên xung quanh mà Kiều nhìn thấy đều nhốm màu tâm trạng u
buồn cua nàng. Những cánh buồm xa xa nơi của bể “thấp thoáng” lúc ẩn lúc hiện tựa như
tương lai mờ mịt phía trước của Kiều. Hình ảnh cánh hoa trôi vô định, dập dềnh trên sóng
ớc gợi nhắc tn phận người con gái nhỏ bé, yếu đuối, bất lực trước dòng đời xô đẩy,
không thể tự quyết định lối đi, tương lai cho chính bản thân mình. Ngay cả những thảm c
xung quanh cũng trnên “ru rầu”, thấm đm nỗi buồn như đang đồng cm với Thúy Kiu.
Hoc có th cảnh vật xung quanh cũng không u uất đến như thế, nhưng bởi vì trái tim của
Kiu đang quá khổ đau, vụn vỡ nên nhìn đâu nàng cũng thy toàn là cảnh u buồn, bởi
“Người buồn cnh có vui đâu bao giờ”. Xung quanh Kiu, gió cuốn mặt duềnh tạo nên từng
đợt sóng lớn. Kiều tưởng chừng như có tiếng sóng ầm m đang kêu quanh ghế ngồi, những
cơn sóng lớn từ xa đang dần dần áp sát vào, nhăm nhe nuốt chửngng. Hình ảnh đó đã dự
báo về tương lai cay đắng phía trước sắp ập đến của Thúy Kiều do mụ tú bà độc ác gây ra.
Trong đoạn tch “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình
một cách tnh công xuất sắc để khắc họa thế giới nội tâm của nhân vật. T đó giúp
người đọc hiểu thêm và đồng cảm hơn với những nỗi đau đớt, buồn thương, cay đắng
Thúy Kiều phải chịu đựng.
| 1/3

Preview text:

Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích lớp 9
Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Ngàn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”
Đó là những lời ca ngợi mà Tố Hữu dành tặng cho Nguyễn Du cùng những tác phẩm của
ông. Trong số đó, chúng ta không thể không nhắc đến Truyện Kiều - một sáng tác làm nên
tên tuổi của Nguyễn Du, khiên tên tuổi của ông sánh ngang với những tác gia vĩ đại nhất của
đất Việt. Mỗi đoạn thơ trong Truyện Kiều khi trích ra đứng độc lập đều mang trọn vẹn những
nét đẹp về nội dung cũng như nghệ thuật. “Kiều ở lầu Ngưng Bích” chính là một trong số đó.
Đoạn trích này gồm mười một cặp câu lục bát, khắc họa những tháng ngày Kiều bị mụ tú bà
giam giữ trong lầu Ngưng Bích. Đó là kế hoạch mà mụ ta tạm thời nghĩ ra để ngăn Kiều tự
vẫn vì phát hiện bản thân bị lừa bán vào lầu xanh. Trong thời gian đó, mụ ta âm thầm bàn
mưu tính kế, để dồn ép, buộc Kiều phải đi vào khuôn khổ. Xuyên suốt đoạn trích này,
Nguyễn Du tập trung khắc họa những cảm xúc nhớ thương, xót xa dành cho người yêu và
cha mẹ của nàng Kiều, cùng những dự cảm bất an về tương lai phía trước.
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng.”
Sáu câu thơ đầu đoạn trích, tác giả tập trung khắc họa không gian xung quanh lầu Ngưng
Bích - nơi đang giam giữ Thúy Kiều. Tác giả đã kéo dài đến tận cùng hai chiều kích của
không gian: chiều cao và chiều rộng, để tái hiện lại vùng không gian rộng lớn xung quanh lầu
Ngưng Bích. Đó là một khoảng không dường như vô tận, không có dấu vết của cuộc sống
nhộn nhịp, náo nhiệt. Nhìn ra xa, xa mãi cũng chỉ thấy những ngọn núi cao ẩn hiện trong
mây mù, chỉ thấy những cồn cát nối tiếp, những bụi hồng dặm kia. Tác giả khéo léo sử dụng
hai hình ảnh có sự đối lập, tương phản mạnh: non xa - trăng gần để kéo dài chiều rộng của
không gian, góp phần khắc sự hoang vu, lạnh lẽo, quạnh quẽ của nơi Kiều đang ở. Cùng với
đó, xung quanh thời gian lại trôi dần về chiều muộn, lúc trăng đang dần lên. Đây vốn là
khoảng thời gian mà nhà nhà chong đèn đoàn tụ bên mâm cơm ấm áp. Ấy thế mà Kiều phải
cô đơn, mòn mỏi một mình sống trong lầu Ngưng Bích, xung quanh chẳng có lấy một người
có thể chia sẻ. Đã vậy, giờ đây, nàng còn rơi vào hoàn cảnh tủi nhục, xấu hổ, bơ vơ nơi đất
khách quê người. Ngày ngày, nàng tuyệt vọng ngồi cô đơn ở trên lầu nhìn ngày đêm luân
phiên đến rồi đi đến chết lặng.
Càng cô đơn, đau khổ, bẽ bàng trong cô đơn, lạnh lẽo, Kiều lại càng nhớ về người thân ở
phương xa. Nỗi lòng của nàng giờ chia thành hai nửa, một nửa dành cho người thương, một nửa gửi cho cha mẹ.
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.”
Nguyễn Du vô cùng tinh tế và khéo léo khi sử dụng động từ “tưởng” thay vì “nhớ”. Bởi Thúy
Kiều không chỉ nhớ nhung về chàng Kim Trọng ở nơi xa. Mà cùng với đó, nàng còn hồi tưởng
về quá khứ êm đẹp bên người yêu, về khoảnh khắc thề ước với chàng dưới ánh trăng lung
linh. Nhưng cùng với đó, Kiều cũng tưởng tượng ra hình ảnh chàng Kim buồn khổ trong
ngóng tin mình từ ngày này sang ngày khác. Càng nghĩ, nàng càng đau khổ, buồn bã bởi bản
thân nàng đã thất hứa, đã phản bội niềm tin yêu của Kim Trọng dành cho nàng. Giờ đây,
nàng đã rơi vào hoàn cảnh trớ trêu, bất hạnh. Tuy tình cảm mà nàng dành cho Kim Trọng
vẫn vẹn nguyên như thuở nào, nhưng nàng thì không thể trở lại như trước đây được nữa. Số
phận nghiệt ngã đã vùi dập “tấm son” của Kiều, chẳng biết bao giờ mới gột rửa cho phai được.
Sau khi nhớ về người yêu, Kiều lại nhớ đến cha mẹ. Tác giả khéo léo sử dụng hàng loạt các
thành ngữ như "rày trông mai chờ", "quạt nồng ấp lạnh", "cách mấy nắng mưa" và các điển
tích, điển cố "sân Lai, gốc Tử" để thể hiện những trăn trở, lo âu của Thúy Kiều về việc không
thể tự tay chăm sóc cho cha mẹ. Nàng chua xót, đớn đau khi tưởng tượng ra hình ảnh cha
mẹ đã già yếu vẫn ngày ngày mong chờ tin mình. Nhưng bản thân thì lang bạt nơi xứ người,
chẳng thể nào về báo hiệu được. Điều đó khiến trái tim của một người con hiếu thảo như
Thúy Kiều đau thắt lại từng cơn. Dẫu đã bán thân mình để lấy tiền chuộc cha, nhưng Kiều
vẫn chưa cho rằng như thế đã là đủ. Nàng vẫn đau đáu mong ước được chăm sóc cha mẹ
lúc tuổi già. Điều đó đã gián tiếp thể hiện tấm lòng hiếu thảo của nàng.
“Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm?”
Thương người yêu Kim Trọng, xót cho cha mẹ của mình, và rồi cuối cùng, Thúy Kiều lại
thương cho chính bản thân mình ở hiện tại. Trong tám câu thơ cuối, Nguyễn Du sử dụng liên
tiếp điệp ngữ “buồn trông” ở đầu bốn câu lục, tạo nên một cấu trúc lặp lại, gợi lên vòng lặp
vô tận của những ngày tháng bất hạnh của nàng Kiều, chẳng biết bao giờ mới có thể thoát ra được.
"Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác, biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”
Những hình ảnh thiên nhiên xung quanh mà Kiều nhìn thấy đều nhốm màu tâm trạng u
buồn cua nàng. Những cánh buồm xa xa nơi của bể “thấp thoáng” lúc ẩn lúc hiện tựa như
tương lai mờ mịt phía trước của Kiều. Hình ảnh cánh hoa trôi vô định, dập dềnh trên sóng
nước gợi nhắc thân phận người con gái nhỏ bé, yếu đuối, bất lực trước dòng đời xô đẩy,
không thể tự quyết định lối đi, tương lai cho chính bản thân mình. Ngay cả những thảm cỏ
xung quanh cũng trở nên “rầu rầu”, thấm đẫm nỗi buồn như đang đồng cảm với Thúy Kiều.
Hoặc có thể cảnh vật xung quanh cũng không u uất đến như thế, nhưng bởi vì trái tim của
Kiều đang quá khổ đau, vụn vỡ nên nhìn đâu nàng cũng thấy toàn là cảnh u buồn, bởi
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Xung quanh Kiều, gió cuốn mặt duềnh tạo nên từng
đợt sóng lớn. Kiều tưởng chừng như có tiếng sóng ầm ầm đang kêu quanh ghế ngồi, những
cơn sóng lớn từ xa đang dần dần áp sát vào, nhăm nhe nuốt chửng nàng. Hình ảnh đó đã dự
báo về tương lai cay đắng phía trước sắp ập đến của Thúy Kiều do mụ tú bà độc ác gây ra.
Trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình
một cách thành công và xuất sắc để khắc họa thế giới nội tâm của nhân vật. Từ đó giúp
người đọc hiểu thêm và đồng cảm hơn với những nỗi đau đớt, buồn thương, cay đắng mà
Thúy Kiều phải chịu đựng.