Phân tích đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang lớp 9. | Văn mẫu lớp 9

Rô-bin-xơn sinh năm 1632 ở Yoóc-sai. Là người ham thích phiêu lưu, mạo hiểm, chàng say sưa đi đến những miền đất lạ, bất chấp gian nan, nguy hiểm. Rô-bin-xơn xuống tàu ở cảng Hơn, theo bạn đi Luân Đôn bằng đường biển. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Thông tin:
10 trang 3 ngày trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phân tích đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang lớp 9. | Văn mẫu lớp 9

Rô-bin-xơn sinh năm 1632 ở Yoóc-sai. Là người ham thích phiêu lưu, mạo hiểm, chàng say sưa đi đến những miền đất lạ, bất chấp gian nan, nguy hiểm. Rô-bin-xơn xuống tàu ở cảng Hơn, theo bạn đi Luân Đôn bằng đường biển. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Phân tích đoạn trích -bin-xơn ngoài đảo hoang lớp 9
Phân tích đoạn Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang mẫu 1
Đe-ni-ơn Đi-phô (1660 – 1731) là nhà văn Anh, sinh ra và lớn lên ở Luân Đôn, trong một gia
đình buôn bán nhỏ. Ông từng làm nhiều nghề, hoạt động trong nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội
và đi nhiu nơi trên thế giới. Hoàn cảnh sống ấy đã ảnh hưởng đến quan điểm sáng tác ca
ông và để lại dấu ấn k rõ trong tác phẩm văn học. Tuy mãi đến năm u mươi tuổi, Đi- phô
mới đến với văn chương nhưng ông đã đ lại cho đời một số tiu thuyết có giá trị, trong đó
cuốn Rô-bin-xơn Cru-xô là nổi tiếng hơn cả.
Tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô nhan đề đầy đủ Cuộc đời và những chuyện phiêu lưu kì lạ
của Rô-bin-xơn Cru-. Tác phẩm được viết dưới hình thức tự truyện mà nhân vật cnh là
-bin-xơn. Tóm tt nội dung như sau:
-bin-xơn sinh năm 1632 ở Yc-sai. Là người ham thích phiêu lưu, mạo him, chàng say
sưa đi đến những miền đất lạ, bất chấp gian nan, nguy hiểm. Rô-bin-xơn xuống tàu ở cảng
Hơn, theo bạn đi Luân Đôn bằng đường biển. Cuộc hành trình không thành vì tàu bị đắm
Y-a-mớt. Tai họa ấy chẳng làm chàng trai nhụt chí. Cha mẹ khóc lóc, bạn bè can ngăn cũng
không lay chuyển được ý c và quyết tâm của chàng. Lần này, chàng làm quen với một viên
thuyền trưởng tàu buôn, rời bến đi Ghi-nê. Chuyến đầu tiên thuận buồm xuôi gió. Chuyên
thhai gp cướp biển, Rô-bin-xơn bị bắt làm nô lệ ở Xa-lê, một hải cảng của Ma-rốc. Hai
năm sau, cng trốn thoát sang Bra-xin lập trang trại trồng trọt. Ít năm sau, nghe mấy người
bạn rủ rê, chàng lại xuống tàu đi Ghi-, định thực hiện một chuyến buôn bán đổi chác lớn.
Tàu gặp bão, mất phương hướng rồi bị đắm.c thủy thủ trên tàu chết hết, chỉ còn một
mình Rô-bin-xơn sống sót dt vào đảo hoang. Hôm ấy là ngày 30 tháng Chín 1659, Rô-bin-
xơn hai mươi bảy tuổi. Trơ trọi một mình giữa chốn hoang vu chẳngdấu chân người
nhưng chàng không tuyệt vọng. Sau khi vớtt tchiếc tàu đm những thứ gì còn có thể
dùng được như: bao lúa mì, chút thực phẩm, mấy khẩu súng, bao đạn ghém, hòm đồ nghề
thmộc... chàng lên hoang đảo dựng túp lều dưới cn núi để che nắng, che mưa và rào
giậu kín xung quanh đề phòng thú dữ. Ngày ngày, chàng săn bn và kiếm cây rừng, quả dại
để ăn. Sau đó, chàng tự tay trồng trọt, chăn nuôi nên cuộc sống dần dần ổn định và ngày
càng đầy đủ hơn. Tuy quanh quẩn chỉ có con chó và con vẹt làm bạn, nhưng Rô-bin-xơn
cũng cảm thấy sung sướng mỗi khi ngắm nhìn cơ ngơi do mồ hôi, công sức của mình gây
dựng nên.
Một hôm, tình cờ -bin-xơn phát hin những thổ dân ở vùng biển g thuyn lên đảo để
hành hình tù binh. Chàng chiến đấu rất dũng cm, cứu được một nạn nhân thoát khỏi bọn
ăn thịt nời. Rô-bin-xơn đặt tên cho người da màu vừa thoát nạn là Thứ Sáu để ghi nhớ
ngày hôm ấy. Từ đó, hai người chung sống với nhau và Rô-bin-xơn cm thấy đỡ cô đơn. Ít lâu
sau lại xuất hiện đám thổ dân khác cùng với hai tù binh, một người Tây Ban Nha, còn ngưi
kia chính là cha của anh cng Thứ Sáu. C hai đều được Rô-bin-xơn cứu thoát. Cuộc sống
trên đảo càng tm đông vui. Cuối cùng, một chiếc tàu buôn ghé đậu ở cái vịnh nhỏ gần nơi
-bin-xơn . Bọn thủy thủ nổi loạn chiếm tàu, trói thuyn trưởng, thuyền phó giải lên bờ,
định bỏ cho chết dần trên đảo. Rô-bin-xơn giúp viên thuyền trưởng thu hồi được tàu. Chàng
trvề quê hương, mang cả Thứ Sáu cùng đi. Sau 28 năm 2 tháng 19 ngày sống trên đảo
hoang, Rô-bin-xơn đành chia tay với nơi chàng đã có bao k nim vui, buồn không thể nào
quên.
Qua bức chân dung thọa và giọng kể của Rô-bin-xơn trong đoạn trích, chúng ta hình dung
được cuộc đời vô cùng gian khổ và tinh thần lạc quan hiếm có của nhân vật khi phải sống
một mình nơi đảo hoang suốt mấy chục năm trời.
-bin-xơn ngi đảo hoang chỉ là một đoạn ngắn trong cả một cuốn tiu thuyết dài. Đoạn
tch là bức cn dung thọa khá cụ th và đầy đủ của nhân vật Rô-bin-xơn.
Bức cn dung tự họa được tác giả miêu tả bằng bốn đoạn văn. Đoạn thứ nht: Nhân vật t
giới thiu. Đoạn thứ hai và thứ ba: Trang phục của Rô- bin-xơn. Đoạn thứ tư: Diện mạo của
-bin-xơn.
Thông thường, trong một bức chân dung thì gương mặt nhân vật chiếm vị t quan trọng
nht, sau đó mới đến trang phục các thứ khác. Thế nhưng ở đây, gương mặt lại được
miêu tả sau cùng chỉ bằng một vài dòng và chi tiết được đặc tả lại là bộ riap.
Chủ ý của Rô-bin-xơn muốn giới thiệu với độc gi cách ăn mặc quặc và những đồ l
lỉnh kỉnh mà chàng mang theo người. Do đứng ở ngôi thứ nht để kể chuyện nên Rô-bin-xơn
chỉ có thể k về những chàng nhìn thấy được.
-bin-xơn người Anh, một đất nước nằm min ôn đới phía bắc bán cầu. Trong một
chuyến đi biển xuất pt từ Bra-xin, chàng bị đắm tàu và dạt o một đo hoang thuộc vùng
xích đạo. Qua bộ trang phục kì dị của cng, chúng ta có thể hình dung phần nào thời tiết
khắc nghit và sức chịu đựng phi thường của Rô-bin-xơn.
Trang phục t to của Rô-bin-xơn tt c đều làm bằng da dê. Mũ bằng tấm da dê; bộ qun
áo là những tấm da dê buộc túm lại và đôi ủng cũng bằng da dê nt.
-bin-xơn đội cái mũ không giống bất cứ một kiểu mũ nào. Đó là một chiếc mũ to tướng
cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm bằng da của một con dê, với mảnh da rxuống phía
sau gáy. Tuy xấu xí như vậy nhưng nó hết sức tiện lợi, vừa để che nắng, vừa để chn không
cho mưa hắt vào cổ; min khí hậu y, chẳng tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm
vào da thịt.
-bin-xơn vừa kể, vừa tả mình với giọng điệu khôi hài, hóm hỉnh:
Tôi mặc một chiếc áo bằng tấm da, vạt áo dài tới khoảng lưng chừng hai bắp đùi, và mỗi
cái quần loe đến đầu gối cũng bằng da dê; quần may bằng tấm da một con dế đực già, lông
dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp cn, chằng khác nào quần dài; tôi không có bít tất
mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi chẳng biết gọi là gì, giống như
đôi ủng, bao quanh bắp cn và buộc dây hai bên..., nhưng hình dáng hết sức kì cục chẳng
khác gì áo quần của tôi.
Còn trang bị trên người ra sao? Rô-bin-xơn k tiếp:
Quanh người tôi là một chiếc thắt lưng rộng bản bằng da dê phơi khô thắt li bằng hai si
dây cũng bằng da dê để thay cho khóa hai bên cổ hai quai đeo, nhưng không đeo kiếm và
dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con. Quàng qua
vai tôi là một đai da khác hẹp bản hơn, hai đầu cũng buộc lại bằng dây như thế; vàcui
đai, phía dưới cánh tay trái của tôi, đeo lủng lẳng hai cái túi, cả hai cũng đều làm bằng da
, một i đựng thuốc súng và túi kia đựng đạn ghém. Tôi đeo gùi sau lưng, khoác súng bên
vai, và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê, xấu xí vụng về nhưng lại là thứ cn
thiết nhất cho tôi, bên khẩu súng của tôi.
-bin-xơn không đeo kiếm và dao găm mà lại đeo một cái cưa nhỏ và một cái rìu nhỏ,
chứng tỏ trên đảo hoang chàng không có k thù. Cái cưa, cái rìu rất cn thiết để cho chàng
dùng vào việc chặt cây, cưa gỗ đựng lều, lấy chỗ che nắng che mưa, rào giu xung quanh
chđề phòng thú dữ sau này còn rào một khoảnh đất rộng để nuôi dê...
Trên hòn đảo hoangy có rất nhiều dê rừng. May ma Rô-bin-xơn còn giữ được cây súng,
thuốc súng và đạn ghém. Nhờ có những thứ đó mà chàng duy trì được cuộc sống qua bao
nhiêu năm. V sau, chàng còn trồng được lúa mì nhờ mấy hạta tình cờ sót lại trong những
thvớt vát tcon tàu đắm và chàng còn bẫy được c về nuôi cho chúng sinh sản thành
bầy.
Cuộc sống hết sức khó khăn của Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang hiện lên thấp thoáng qua
những chi tiết của bức chân dung tự họa. Đồng thời, bức chân dung kì dị ấy cũng thể hin
bản lĩnh, ý chí và nghị lực tuyệt vời của Rô-bin-xơn khi đối mặt với nỗi cô đơn và cái chết.
T họa chân dung của mình, Rô-bin-xơn không hề thốt ra lời than phin đau khổ nào. Trong
bộ trang phục dị ấy, trông Rô-bin-xơn chẳng khác gì người nguyên thủy. Đã vậy, các đồ lề
lỉnh kỉnh đeo quanh lưng càng khiến chàng chẳng giống ai. Rô-bin-xơn hiện lên trước mt
chúng ta như một vị chúa đảo thời tin str vì trên đảo quốc của mình.
Tuy diện mạo của Rô-bin-xơn chỉ được tả bằng một đoạn văn ngắn nhưng cũng tt n tính
cách của chàng:
Còn về din mạo tôi, nó không đến nỗi đen cháy như các bạn có thể nghĩ về một k chng
quan tâm tí gì đến da dẻ của mình lại sống ở vào khoảng chín hoặc mười độ vĩ tuyến miền
xích đạo. Râu ria của tôi đã có lúc tôi để mặc cho nó mọc dài đến hơn một gang tay. Nhưng
vì tôi có cả kéo và dao cạo đủ dùng nên tôi cắt đi khá ngn gọn, trừ hàng ria ở môi trên tôi
n tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi go như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gp Xa-
, vì người Ma-rốc không để ria theo kiu như người Thổ; tôi chng dám nối cặp riap ấy
dài đến mức có thể dùng treo mủ của tôi; nhưng chiu dài và hình dáng kì quái của chúng
cũng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở ớc Anh.
Giọng k hóm hỉnh của Rô-bin-xơn thể hin rõ khiếu hài hước và tinh thần lạc quan của
chàng.
Đoạn tch trên đây tuy ngn nhưng lại là một bài học lớn cho mỗi chúng ta. Một người khác
ở vào hoàn cảnh của Rô-bin-xơn có lẽ đã chán nản, tuyệt vọng, buông xuôi đợi chết. Rô-
bin-xơn không như vậy. Chàng bám chc ly cuộc sống, không chấp nhận sống lay lắt, mòn
mỏi mà luôn luôn phấn đấu để làm cho cuộc sống ngày càng tốt hơn. Chàng không khut
phục trước hoàn cảnh nghit ngã đã chinh phục được thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục
vụ cho mình. Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang là ví dụ tiêu biểu nhất, chứng minh cho cn lí
chiến thắng chính mình là chiến thắng vĩ đại nhất và vinh quang nhất!
Phân tích đoạn Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang mẫu 2
-bin-xơn ngi đảo hoang trích chương 10 tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô của nhà văn Đi-
phô người Anh trong thế kỉ XVIII. Tác phẩm lúc đầu mang một cái tên dài Cuộc đời những
chuyện phiêu lưu kỳ lạ của Rô-bin-xơn Cru-. Phiêu lưu và tự truyện là hai tính chất nổi bật
của tác phẩm này. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang cũng như toàn bộ cuốn tiểu
thuyết thấm nhuần một vẻ đẹp nhân văn, vừa cm thông với sự rủi ro, bất hạnh của một
con người, vừa ca ngợi sức sống mạnh mẽ, đầy nghị lực và sáng tạo của một thanh niên
giữa một thiên nhiên hoang dã, ngi hoang đo!
Nhiều năm tháng đã trôi qua, Rô-bin-xơn đã sống một mình giữa hoang vu. Trước mắt vẫn là
những chặng đường đầy thử tch. Anh nói: “Tôi sống yên ổn trên đảo và chịu đựng số phn
của mình hơn một năm nữa. Ta như đang nghe tiếng anh thầm thì k lại những nếm trải cay
đắng ngọt bùi. Tiếng anh như chìm đi trong sóng gió đại dương đang bủa vây hoang đảo.
Anh đã nói với chúng ta những gì anh đã làm và anh đã sống trong ngót ba thập kỷ. Cô đơn,
tdữ, bệnh tật, thiếu thốn. Không thể chết được! Phải sống và biết cách sống. Vốn là một
thanh niên ưa mạo him, thích làm gu, giờ đây hoàn cảnh khắc nghiệt đã rèn luyện anh
trthành một con người “lành nghề trong nhiu ngành thủ công". Anh làm việc không mệt
mỏi để không còn thì gi“nghĩ ngợi vẩn vơ". Đó cũng là một phương pháp tư tưởng đúng đắn
tích cực. Nhờ thế, anh đã trtnh một thợ nặn rất khéo, nặn được đủ thvật dụng, từ
chum vại, bình vò đến bát đĩa. Anh đã trồng được thuốc để hút, giờ đây lại nặn được cái tẩu
“tuyệt mĩ” nữa, vì thế anh vô cùng “thích thú”. Anh dùng cây miên liu để đan lát. Đan thúng
để quy mồi săn được, đựng hoa trái kiếm được. Đan bồ đựng thóc, đan được nhiều đồ
dùng khác nữa. Nói lao động làng tạo, lao động là phát trin năng khiếu thẩm mĩ của con
người, trong trường hợp này đối với Rô-bin-xơn là hoàn toàn đúng.
Ở đời, những k yếu hèn dễ bị khó khăn quật ngã. Với Rô-bin-xơn, anh đã trải qua một vạn
ngày cô đơn trên hoang đảo rồi! Tuổi tr đã trôi qua. Thể lực và chí khí đã hao mòn. Chng
cuối cùng bao giờ cũng vậy, khó khăn, thử thách như được nhân lên một cách ghê gớm!
"Thuốc đắng cạn liều càng thấy đắng - Đường gay cuối chặng lại thêm gay” (Hồ Chí Minh).
Đó là quy luật. Rô-bin-xơn cho biết hoàn cảnh mình: “Thuốc đạn ngày càng khan, thực
phm cũng vơi dần”. Bước sang năm thứ 11 trên đảo, anh đã bắt tay vào việc cn nuôi,
sau khi đã trồng lúa, trồng mạch tnh công. Anh đã đánh bẫy dê rừng, làm chuồng và nuôi
nấng, thuần dưỡng dê. Chỉ 2 năm sau, anh đã có một đàn dê lên tới 43 con để giết thịt ăn
dần. Vừa giàu chí khí, vừa gu sáng tạo và khéo chân tay, anh đã biết vắt sữa, làm bơ, làm
pho mát, thuộc da dê may áo quần, trồng hoa quả. Anh đã nói v đời sống vật chất ca
mình trên hoang đảo sau những năm dài vật lộn, với tt c nim vui ánh lên tự hào:
“Các bạn thử nghĩ, một mình trên một hòn đảo hoang vắng mà bữang có sữa tươi, bữa
ăn thường ngày có bánh mì, bánh bột gạo tẻ, thịt dê, trứng rùa, bơ và pho mát; tráng ming
thì có các thhoa quả, nhất là nho tươi, nho khô, thiết tưởng cũng thịnh soạn không kém ở
những kch sạn bình thường tại các tnh phố lớn”. Rô-bin-xơn đã không bị thiên nhiên
khuất phục. Trái lại, anh biếtng trí tuệ, đôi bàn tay và ý c của mình - của con người - để
cải tạo thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vđời sống mình. Vic nuôi dưỡng và thuần dưỡng
dê rừng của Rô-bin- xơn là một kỳ công. Sữa tươi, pho mát, , áo da mà anh làm ra
thành quả lao động trong gian khổ và cô đơn. Người đọc gần 300m nay trên trái đất
cùng khâm phục anh - một con người bất hạnh mà vĩ đại.
Phn sau của chương 10 nói v “Một vài nét hình thù ông “chúa đảo" khi đi chu du trong
vương quốc của mình". Đây là bức cn dung tự họa rất hóm hỉnh giàu giá trị nhân bản, một
điu rt thú vị là trên cái " vương quốc hoang đảo này, chỉ có một vị “chúa đảo” là Rô-bin-
xơn, chỉ có một thần dân, đó cũng là Rô-bin-xơn. Anh đã nói về trang phục, về mày râu của
mình. Ta có th đi theo vị “chúa đảo” chiêm ngưỡng. Bộ áo quần bằng da rt kỳ lạ, có
th làm “kinh sợ” hay “bò ra mà cười” ai đó khi lần đầu bắt gặp. Cái mũ bằng da dê “cao lêu
đêu”.
Một cái áo chẽn cũng cắt bằng da dê “tà áo chm ngang đầu gối rất quý tộc; cái quần ngn
may bằng da dê xồm, lông dê dài lê thê, buông thõng đến mắt cá, thành ra quần đùi mà
không khác quần dài! Cái thắt lưng cũng bằng da dê để git cưaa. Hai cáii bằng da
“hình dáng lạng" để dựng đạn ghém và đựng thuốc súng, đeo lủng lẳng bằng một dây
da vòng qua cổ. Đây là nhữngt miêu tả rất hiện thực nói lên cuộc sống của con người nơi
hoang đảo về mặt trang phục, hình hài đã trởn “cổ qi”, kỳ dị. thế cng trai Rô-bin-
xơn càng ngày càng '‘ rám nắng, đen sm lại". Râu thỉnh thoảng được cạo nhưng vẫn “đâm
ra tua tủa như chổi xể”.
Trên mép là một cp ria theo kiểu người Thổ Nhĩ Kỳ “vừa dài vừa rậm khác tờng”. Chó vốn
là một vật nuôi vô cùng tinh khôn, Rô-bin-xơn có một con cnhư một người bạn, một vệ
rất trung thành với chủ, từng chia ngọt sẻ bùi với chủ, mà nay,lúc nhìn “lệ bộ” da dê, râu
ria của Rô-bin-xơn, nó có vẻ “kinh ngc khiếp sợ”,“nghi nghi hoặc hoặc", sợ hãi, dò xét
“cái con quái vật kỳ dị kia là bạn hay là thù’'. Đó là chất hoang dã lấn chiếm, hoang dã hóa
con người. Phải có một sức mạnh to lớn lm mới chế ngự và hạn chế sức mạnh g gm
của thiên nhiên nơi hoang đảo.
Nhân vật "tôi” tự k chuyn mình. Một giọng văn trầm, có lúc thoáng một t buồn, có lúc
hài hước. Một trang đời vất vả, cay đắng cũng có khoảnh khắc “thịnh soạn” đàng hoàng.i
rủi ro phải trả giá cả một thời thanh xuân trong đơn và gian nan. Rô-bin-xơn hiện lên với
tt cả sức mnh của con người. Anh đã khẳng định và cho mọi người tìm được mộti học:
m sống biết cách sống; sống một cách mạnh mẽ, dũng cảm vàng tạo trong bất c
hoàn cảnh nào.
Có người đã từng ngợi ca, đoạn văn Rô-bin-xơn ngoài hoang đảo là bài ca lao động sáng tạo
hào hùng của con người. Rô-bin-xơn đã phiêu lưu và mạo hiểm.i vĩ đại và đáng quý nhất
ở anh là anh đã sống đẹp như một con người chân chính.
Phân tích đoạn Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang mẫu 3
Đe ni ơn đi phô là nhà văn người Anh. Ông là một người tham gia rất tích cực tất c các hoạt
động chính trị của thời đại mình đồng thời cũng là một nhà văn dùng ngòi bút mình làm vũ
khí chiến đấu. Ông đã viết hàng trăm tác phẩm v những vấn đề nhức nhối trong xã hội. Ông
đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ và có tm nh hưởng lớn đối với thời đại. Kể đến
những tác phm nổi tiếng của ông ta không thể không nhắc đến tác phẩm “Rô bin xơn ngoài
đảo hoang. Tác phẩm k về nhân vật Rô bin xơn thích ngao du đi phiêu lưu say mê những
min đất lạ.
Trước hết ta cùng nhìn nhận đánh giá về hình dạngng như trang phục của Rô bin xơn đã
được tác gi khắc họa như thế nào. Tôi đội một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng ra
hình thù gì làm bằng da một con dê, với mảnh da rxuống phía sau gáy, vừa để che nắng,
vừa để chn không cho mưa hắt vào cổ”. Bộ dạng ấy quả thật đã tạo nên được nụ ời mỉm
từ phía bạn đọc và có l chính người to ra nó cũng phải thú vị trước hiệu quả, công dụng
của chiếc mũ này. Không chỉ có chiếc mũ, mà cả áo, quần, giày” cũng được làm bằng da
dê - trang phục y không còn bất cứ dấu vết nào của đời sống văn minh.
-bin-xơn tự ngm nghía mình, phô ra tất c những nét vụng về thô kch trong bộ dạng từ
đầu đến chân là … dê của mình, hài lòng với sự hào phóng của đảo hoang đã hào phóng
cho chàng những tấm da dê quý giá. Nhưng có lẽ sự hài lòng hin ra sau lời k chính là ở
chtất c đều được to nên từ bàn tay lao động, là công sức và sự ko léo của cnh
chàng để chế tác ra những sản phẩm độc nhất vô nhị này ở đây ta thấy nhân vật, một mình
trên một hòn đảo hoang vắng mà bữang có sữa tươi, bữa ăn thường ngày có bánh mì,
bánh bột gạo tẻ, thịt, dê, trứng rùa, và phó mát; tráng ming thì có các thứ hoa quả, nhất
là nho tươi, nho khô, thiết tưởng cũng thịnh soạn không kém ở những khách sạn bình
thường tại các thành phố lớn”.
-bin-xơn đã không bị thiên nhiên khuất phục. Trái lại, anh biết dùng t tuệ, đôi bàn tay và
ý c của mình của con người để cải tạo thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ đời sống mình.
Vic nuôi dưỡng và thuần dưỡng dê rừng của Rôbinxơn là một kỳ công. Sữa tươi, phó mát,
, áo da mà anh làm ra là thành quả lao động trong gian khổ và cô đơn. Cuộc sống gần ba
mươi năm buồn t không lấy mất được của chàng tính hài hước khi tự thuật : “tôi không có
bít tt mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi, chng biết gọi là gì,
giống như đôi ủng, bao quanh bắp cn và buộc dây hai bên…. Thông thường thì trong bức
họa chân dung t gương mặt được chiếm một phần quan trọng nhất được người nghệ
quan tâm trước tiên sau đó mới đến trang phục và những thứ khác. Nhưng ở đây nó lại được
tác gi xếp sau cùng và còn được dành cho những dòng rất ít ỏi.
Trên gương mặt của Rô bin xơn không có gì đặc biệt ngoài cái riap ta không h biết đến
những bộ phn khác như mắt mũi miệng. Rô bin xơn là một nời nước Anh, thuyền chàng
bị trôi dạt o một bbin xích đo. Anh đã sống một mình trong khoảng thời gian mười
năm ngoài đảo hoang. Tt c những điều đó làm nên một hình tượng nhân vật Ro bin xơn
được tác gi khắc họa rất sinh động và nổi lên đó là tinh thần của một con người ngoài đảo
hoang.
Cuộc sống của Rô bin xơn rt khó khăn cực nhọc như thế nhưng khi khắc họa chân dung
của mình chàng không h thốt ra những lời buồn đau hoặc gian khổ mà cả bài thơ ta chỉ
thấy cái hài hước vui vẻ của con người này. Đng sau nụ ời thấp thoáng qua lời k, ta có
th hình dung ra quyết tâm và ý chí của một con người đầy nghị lực vươn lên. Biết bao lo
toan, tính tn từ “sáng tạo” để thích nghi với hoàn cảnh, khẳng định bản năng sinh tồn
mạnh mẽ của con người hiện lên qua câu chuyện của Rô-bin-xơn. Chiếc mũ da quái
che đến tận c“chẳng có gì tai hi bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt”.
Những công vic bận rộn với vật dụng bất li thân đáp ứng những nhu cu tối thiểu cũng là
cách để chàng vượt qua cảm gc buồn cn tờng dễ xảy đến với con người cô đơn.
Chàng không chỉ đối chọi với thiên nhiên mà đã thể hin rõ tư thế người làm chủ, bắt thiên
nhiên phải khuất phục. Không những thế, qua những chi tiết cng tự mô tả bản thân, ta
hiu Rô-bin-xơn đã tự chiến thắng chính mình.
Nhân vật "tôi” tự k chuyn mình. Một giọng văn trầm, có lúc thoáng một t buồn, có lúc
hài hước. Một trang đời vất vả, cay đắng cũng có khoảnh khắc “thịnh soạn” đàng hoàng.i
rủi ro phải trả giá cả một thời thanh xuân trong đơn và gian nan. Rô-bin-xơn hiện lên với
tt cả sức mnh của con người. Anh đã khẳng định và cho mọi người tìm được mộti học:
m sống biết cách sống; sống một cách mạnh mẽ, dũng cảm vàng tạo trong bất c
hoàn cảnh nào.
Tác phẩm đã cho chúng ta thấy một con người Rô bin xơn hiện lên là một người có ý c rt
mạnh mẽ. Tác phẩm cũng làm một i học đối với chúng ta là phải phấn đấu bám chắc với
cuộc sống đểđược một cuộc sống ngày càng tươi đẹp hơn.
Phân tích đoạn Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang mẫu 4
“Rô- bin- xơn ngoài đảo hoang là một trích đoạn trong tiểu thuyết nổi tiếng “Rô- bin- xơn
Cru- xô” của nhà văn nổi tiếng người Anh là Dê- ni- ơn Đi- phô. Trích đon này đã tái hin,
y dựng thành công bức chân dung của Rô- bin- xơn, một con người thích những phiêu
lưu, mạo hiểm nhưng sau một sự cố anh ta đã lưu lc trên một hòn đảo hoang. Sống một
mình ở nơi hoang vu, rộng lớn không có sự sống của con người nhưng Rô bin- xơn vẫn vô
cùng lạc quan, yêu đời, điều mà không phải ai cũng có th làm được, không phi ai cũng có
th mạnh mẽ t qua được như vậy.
- ni- ơn Đi- phô bắt đu sự nghip sáng tác văn chương của mình từ rt sớm nhưng không
để lại được những dấu n rõ rt, phải đến năm sáu mươi tuổi t sự nghip văn chương của
ông mới có những khởi sắc nhất định, ông cho ra đời những tác phm không chỉ có giá trị về
nội dung mà nghệ thut cũng vô cùng đặc sắc. Đó là những tiểu thuyết có giá trị, trong đó
có tiểu thuyết nổi tiếng lẫy lừng, đó chính là “Rô- bin-xơn Cru-xô”. Trích đoạn “Rô- bin- xơn
ngoài đảo hoang chỉ là một trích đoạn rất ngắn trong cun tiu thuyết này. Đó là trích đoạn
phác họa rõ nét bức chân dung của nhân vật trung tâm của cuốn tiểu thuyết y, đó chính
là Rô- bin- xơn.
Mở đầu tch đoạn này, nhà văn đã đi khắc họa cn dung đầy kì quái của Rô- bin- xơn khi
một mình sống trên đảo hoang. Thông thường, các nhà văn khác khi đi miêu tả chân dung
cho nhân vật của mình thường bắt đầu miêu tả từ khuôn mặt đến vóc dáng, sau đó với đến
những tiểu tiết của ngoại hình, nhưng ở đây, nhà văn Đi- phô đã đi miêu tả những chi tiết
phụ trước sau đó mới đi sâu miêu tả khuôn mặt của anh ta. Đó chính là một người đàn ông
với cách ăn mặc kì quái và mang theo bên người những đồ đạc lỉnh kỉnh. Ngoài ra bộ ria
mép của anh ta cũng làm cho tổng thể hình dáng của anh ta trở n kì quặc, khác tờng.
- bin- xơn vốn là một người ưa thích những chuyến đi mạo hiểm, những cuộc phiêu lưu
thú. Nhưng trong một lần đi biển cùng những người đồng đội, đó là chuyến đi xuất phát từ
bin Bra-xin thì anh bị đắm thuyền, trôi dạt trên biển rồi cuối cùng bị dạt o vùng đảo
hoang. Đây là một hòn đảo hoang sơ, không có người sinh sống. Ngay qua bộ trang phục
quc, diện mạo kì lạ của Rô- bin- xơn ta có thể phn nào tưởng tượng được hoàn cảnh sống
vô cùng khắc nghiệt nơi đây. Đó là bộ qun áo làm bằng da dê, không được may vá cẩn thận
mà chỉ buộc li với nhau một cách rúm ró, và đôi ủng của anh ta cũng làm bằng da dê.
Chiếc mũ trên đầu Rô- bin- xơn cũng rất khác nời, đó là “chiếc mũ to tướng, cao lêu đêu
chng ra hình thù gì”, làm bằng da của một con dê, với mảnh vải rủ xuống phía sau gáy nhìn
tht kì quặc.
Với những điều kiện thiếu thốn, khắc nghit nơi đảo hoang thì những trang phục như vậy
cũng được xem là khá tươm tất, hơn nữa chúng còn những trang phục rất tin lợi cho vic
đi lại cũng như kiếm sống trên đảo hoang, vì nước cũng không thể thm vào những miếng
da dê, hơn nữa khi trời trlạnh cũng có thể giữ ấm cho cơ thể. Trong trích đoạn này, Rô- bin-
xơn đã tự thuật lại theo ngôi k thnht, giọng nói của anh ta khi kể về mình đầy hóm hỉnh,
hài hước. Khác hẳn với con người đang bị cô lp nơi đảo hoang, một mình sống trong điều
kin khắc nghit nơi đây.
Trang phục của Rô- bin- xơn cũng rất quặc, đó là một chiếc áo làm bằng da dê, vạt áo dài
đến lưng bắp đùi và chiếc quần rúm ró bằng da dê dài đến đầu gối. Trang bị mang trên người
của Rô- bin- xơn cũng là những vật dụng kiếm được khi sóng biển cuốn chúng trôi vào bờ,
đó là một chiếc cưa nhỏ và một chiếcu nhỏ. Qua những vật dụng này tathể thy cuc
sống trên đảo hoang của Rô- bin- xơn không có những k thù hay những nguy hiểm rình rp.
Cưa và rìu tuy là những vật dụng đơn giản, thô sơ nhưng cũng rất hữu ích đối với Rô- bin -
xơn vì chúng có thể dùng để cho việc mưu sinh của anh ta trên đảo hoang, có thể dùng để
cht cây, cưa gỗ dựng lều, lấy chỗ che mưa, che nắng, phòng trừ có thú dữ, ngi ra còn có
một khoảng đất trống dùng để nuôi dê sau này. Ta có thể thy Rô- bin-xơn vô cùng lạc quan,
vì ngay trong những hoàn cnh khó khăn nhất thì vẫn tin tưởng vào cuộc sống phía tớc,
lên kế hoạch cho tương lai. Đây là điu không phải ai cũng làm được, thể hin một con
người mạnh mẽ, đầy bản lĩnh.
Tuy là mảnh đất bị bỏ hoang, nằm giữanh mông sóng biển nhưng cũng thật may ở đây
còn có những chú , vì vậy mà cuộc sống của Rô- bin- sơn có thể được duy trì. Ngoài ra
anh ta còn mang theo bên mình một chiếc súng, thuốc súng và đạn ghém. Nhờ vậy mà
cuộc sống của anh ta ở trên đảo hoang này bớt khắc nghit đi rất nhiều, anh ta có thn
dê để lấy thịt ăn, da dê thì làm trang phục, giày, bốt đi lại. sự lạc quan, cùng với sức mạnh
trai tráng, Rô- bin- xơn đã vượt qua mọi khó khăn, một mình vẫn có thể sống tốt nơi hoang
đảo, không những thế mà về sau Rô- bin- xơn còn có thể tự trồng lúa mì nhnhững hạt lúa
mì còn sót lại khi anh ta đi vớt những vật dụng còn lại khi con tàu đắm.
Như vậy, “Rô- bin- xơn ngoài đảo hoang là đoạn trích thể hin thật đẹp bức chân dung của
- bin- xơn một con người luôn yêu đời, sống lạc quan, những khó khăn nơi đảo hoang
không là những trngại, không làm cho anh gục ngã mà dường như làm cho anh trở nên
mạnh mẽ hơn, bản lĩnh hơn. Qua chân dung của Rô- bin- xơn, người đọc cũng có thêm
những nim tin vào cuộc sống, tm yêu đời cũng như sốngích hơn. Đó là những giá trị
cao đẹp mà tác phẩm này mang lại cho người đọc.
| 1/10

Preview text:

Phân tích đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang lớp 9
Phân tích đoạn Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang mẫu 1
Đe-ni-ơn Đi-phô (1660 – 1731) là nhà văn Anh, sinh ra và lớn lên ở Luân Đôn, trong một gia
đình buôn bán nhỏ. Ông từng làm nhiều nghề, hoạt động trong nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội
và đi nhiều nơi trên thế giới. Hoàn cảnh sống ấy đã ảnh hưởng đến quan điểm sáng tác của
ông và để lại dấu ấn khá rõ trong tác phẩm văn học. Tuy mãi đến năm sáu mươi tuổi, Đi- phô
mới đến với văn chương nhưng ông đã để lại cho đời một số tiểu thuyết có giá trị, trong đó
cuốn Rô-bin-xơn Cru-xô là nổi tiếng hơn cả.
Tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô nhan đề đầy đủ là Cuộc đời và những chuyện phiêu lưu kì lạ
của Rô-bin-xơn Cru-xô
. Tác phẩm được viết dưới hình thức tự truyện mà nhân vật chính là
Rô-bin-xơn. Tóm tắt nội dung như sau:
Rô-bin-xơn sinh năm 1632 ở Yoóc-sai. Là người ham thích phiêu lưu, mạo hiểm, chàng say
sưa đi đến những miền đất lạ, bất chấp gian nan, nguy hiểm. Rô-bin-xơn xuống tàu ở cảng
Hơn, theo bạn đi Luân Đôn bằng đường biển. Cuộc hành trình không thành vì tàu bị đắm ở
Y-a-mớt. Tai họa ấy chẳng làm chàng trai nhụt chí. Cha mẹ khóc lóc, bạn bè can ngăn cũng
không lay chuyển được ý chí và quyết tâm của chàng. Lần này, chàng làm quen với một viên
thuyền trưởng tàu buôn, rời bến đi Ghi-nê. Chuyến đầu tiên thuận buồm xuôi gió. Chuyên
thứ hai gặp cướp biển, Rô-bin-xơn bị bắt làm nô lệ ở Xa-lê, một hải cảng của Ma-rốc. Hai
năm sau, chàng trốn thoát sang Bra-xin lập trang trại trồng trọt. Ít năm sau, nghe mấy người
bạn rủ rê, chàng lại xuống tàu đi Ghi-nê, định thực hiện một chuyến buôn bán đổi chác lớn.
Tàu gặp bão, mất phương hướng rồi bị đắm. Các thủy thủ trên tàu chết hết, chỉ còn một
mình Rô-bin-xơn sống sót dạt vào đảo hoang. Hôm ấy là ngày 30 tháng Chín 1659, Rô-bin-
xơn hai mươi bảy tuổi. Trơ trọi một mình giữa chốn hoang vu chẳng có dấu chân người
nhưng chàng không tuyệt vọng. Sau khi vớt vát từ chiếc tàu đắm những thứ gì còn có thể
dùng được như: bao lúa mì, chút thực phẩm, mấy khẩu súng, bao đạn ghém, hòm đồ nghề
thợ mộc... chàng lên hoang đảo dựng túp lều dưới chân núi để che nắng, che mưa và rào
giậu kín xung quanh đề phòng thú dữ. Ngày ngày, chàng săn bắn và kiếm cây rừng, quả dại
để ăn. Sau đó, chàng tự tay trồng trọt, chăn nuôi nên cuộc sống dần dần ổn định và ngày
càng đầy đủ hơn. Tuy quanh quẩn chỉ có con chó và con vẹt làm bạn, nhưng Rô-bin-xơn
cũng cảm thấy sung sướng mỗi khi ngắm nhìn cơ ngơi do mồ hôi, công sức của mình gây dựng nên.
Một hôm, tình cờ Rô-bin-xơn phát hiện những thổ dân ở vùng biển ghé thuyền lên đảo để
hành hình tù binh. Chàng chiến đấu rất dũng cảm, cứu được một nạn nhân thoát khỏi bọn
ăn thịt người. Rô-bin-xơn đặt tên cho người da màu vừa thoát nạn là Thứ Sáu để ghi nhớ
ngày hôm ấy. Từ đó, hai người chung sống với nhau và Rô-bin-xơn cảm thấy đỡ cô đơn. Ít lâu
sau lại xuất hiện đám thổ dân khác cùng với hai tù binh, một người Tây Ban Nha, còn người
kia chính là cha của anh chàng Thứ Sáu. Cả hai đều được Rô-bin-xơn cứu thoát. Cuộc sống
trên đảo càng thêm đông vui. Cuối cùng, một chiếc tàu buôn ghé đậu ở cái vịnh nhỏ gần nơi
Rô-bin-xơn ở. Bọn thủy thủ nổi loạn chiếm tàu, trói thuyền trưởng, thuyền phó giải lên bờ,
định bỏ cho chết dần trên đảo. Rô-bin-xơn giúp viên thuyền trưởng thu hồi được tàu. Chàng
trở về quê hương, mang cả Thứ Sáu cùng đi. Sau 28 năm 2 tháng 19 ngày sống trên đảo
hoang, Rô-bin-xơn đành chia tay với nơi chàng đã có bao kỉ niệm vui, buồn không thể nào quên.
Qua bức chân dung tự họa và giọng kể của Rô-bin-xơn trong đoạn trích, chúng ta hình dung
được cuộc đời vô cùng gian khổ và tinh thần lạc quan hiếm có của nhân vật khi phải sống
một mình nơi đảo hoang suốt mấy chục năm trời.
Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang chỉ là một đoạn ngắn trong cả một cuốn tiểu thuyết dài. Đoạn
trích là bức chân dung tự họa khá cụ thể và đầy đủ của nhân vật Rô-bin-xơn.
Bức chân dung tự họa được tác giả miêu tả bằng bốn đoạn văn. Đoạn thứ nhất: Nhân vật tự
giới thiệu. Đoạn thứ hai và thứ ba: Trang phục của Rô- bin-xơn. Đoạn thứ tư: Diện mạo của Rô-bin-xơn.
Thông thường, trong một bức chân dung thì gương mặt nhân vật chiếm vị trí quan trọng
nhất, sau đó mới đến trang phục và các thứ khác. Thế nhưng ở đây, gương mặt lại được
miêu tả sau cùng chỉ bằng một vài dòng và chi tiết được đặc tả lại là bộ ria mép.
Chủ ý của Rô-bin-xơn là muốn giới thiệu với độc giả cách ăn mặc kì quặc và những đồ lề
lỉnh kỉnh mà chàng mang theo người. Do đứng ở ngôi thứ nhất để kể chuyện nên Rô-bin-xơn
chỉ có thể kể về những gì chàng nhìn thấy được.
Rô-bin-xơn là người Anh, một đất nước nằm ở miền ôn đới phía bắc bán cầu. Trong một
chuyến đi biển xuất phát từ Bra-xin, chàng bị đắm tàu và dạt vào một đảo hoang thuộc vùng
xích đạo. Qua bộ trang phục kì dị của chàng, chúng ta có thể hình dung phần nào thời tiết
khắc nghiệt và sức chịu đựng phi thường của Rô-bin-xơn.
Trang phục tự tạo của Rô-bin-xơn tất cả đều làm bằng da dê. Mũ bằng tấm da dê; bộ quần
áo là những tấm da dê buộc túm lại và đôi ủng cũng bằng da dê nốt.
Rô-bin-xơn đội cái mũ không giống bất cứ một kiểu mũ nào. Đó là một chiếc mũ to tướng
cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì làm bằng da của một con dê, với mảnh da rủ xuống phía
sau gáy. Tuy xấu xí như vậy nhưng nó hết sức tiện lợi, vừa để che nắng, vừa để chắn không
cho mưa hắt vào cổ; ở miền khí hậu này, chẳng gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt.
Rô-bin-xơn vừa kể, vừa tả mình với giọng điệu khôi hài, hóm hỉnh:
Tôi mặc một chiếc áo bằng tấm da dê, vạt áo dài tới khoảng lưng chừng hai bắp đùi, và mỗi
cái quần loe đến đầu gối cũng bằng da dê; quần may bằng tấm da một con dế đực già, lông
dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân, chằng khác nào quần dài; tôi không có bít tất
mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi chẳng biết gọi là gì, giống như
đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên..., nhưng hình dáng hết sức kì cục chẳng
khác gì áo quần của tôi.
Còn trang bị trên người ra sao? Rô-bin-xơn kể tiếp:
Quanh người tôi là một chiếc thắt lưng rộng bản bằng da dê phơi khô thắt lại bằng hai sợi
dây cũng bằng da dê để thay cho khóa hai bên cổ hai quai đeo, nhưng không đeo kiếm và
dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con. Quàng qua
vai tôi là một đai da khác hẹp bản hơn, hai đầu cũng buộc lại bằng dây như thế; và ở cuối
đai, phía dưới cánh tay trái của tôi, đeo lủng lẳng hai cái túi, cả hai cũng đều làm bằng da
dê, một túi đựng thuốc súng và túi kia đựng đạn ghém. Tôi đeo gùi sau lưng, khoác súng bên
vai, và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê, xấu xí vụng về nhưng lại là thứ cần
thiết nhất cho tôi, bên khẩu súng của tôi.
Rô-bin-xơn không đeo kiếm và dao găm mà lại đeo một cái cưa nhỏ và một cái rìu nhỏ,
chứng tỏ trên đảo hoang chàng không có kẻ thù. Cái cưa, cái rìu rất cần thiết để cho chàng
dùng vào việc chặt cây, cưa gỗ đựng lều, lấy chỗ che nắng che mưa, rào giậu xung quanh
chỗ ở đề phòng thú dữ và sau này còn rào một khoảnh đất rộng để nuôi dê...
Trên hòn đảo hoang này có rất nhiều dê rừng. May ma Rô-bin-xơn còn giữ được cây súng,
thuốc súng và đạn ghém. Nhờ có những thứ đó mà chàng duy trì được cuộc sống qua bao
nhiêu năm. Về sau, chàng còn trồng được lúa mì nhờ mấy hạt lúa tình cờ sót lại trong những
thứ vớt vát từ con tàu đắm và chàng còn bẫy được cả dê về nuôi cho chúng sinh sản thành bầy.
Cuộc sống hết sức khó khăn của Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang hiện lên thấp thoáng qua
những chi tiết của bức chân dung tự họa. Đồng thời, bức chân dung kì dị ấy cũng thể hiện
bản lĩnh, ý chí và nghị lực tuyệt vời của Rô-bin-xơn khi đối mặt với nỗi cô đơn và cái chết.
Tự họa chân dung của mình, Rô-bin-xơn không hề thốt ra lời than phiền đau khổ nào. Trong
bộ trang phục kì dị ấy, trông Rô-bin-xơn chẳng khác gì người nguyên thủy. Đã vậy, các đồ lề
lỉnh kỉnh đeo quanh lưng càng khiến chàng chẳng giống ai. Rô-bin-xơn hiện lên trước mắt
chúng ta như một vị chúa đảo thời tiền sử trị vì trên đảo quốc của mình.
Tuy diện mạo của Rô-bin-xơn chỉ được tả bằng một đoạn văn ngắn nhưng cũng toát lên tính cách của chàng:
Còn về diện mạo tôi, nó không đến nỗi đen cháy như các bạn có thể nghĩ về một kẻ chẳng
quan tâm tí gì đến da dẻ của mình lại sống ở vào khoảng chín hoặc mười độ vĩ tuyến miền
xích đạo. Râu ria của tôi đã có lúc tôi để mặc cho nó mọc dài đến hơn một gang tay. Nhưng
vì tôi có cả kéo và dao cạo đủ dùng nên tôi cắt đi khá ngắn gọn, trừ hàng ria ở môi trên tôi
xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-
lê, vì người Ma-rốc không để ria theo kiểu như người Thổ; tôi chẳng dám nối cặp ria mép ấy
dài đến mức có thể dùng treo mủ của tôi; nhưng chiều dài và hình dáng kì quái của chúng
cũng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh.
Giọng kể hóm hỉnh của Rô-bin-xơn thể hiện rõ khiếu hài hước và tinh thần lạc quan của chàng.
Đoạn trích trên đây tuy ngắn nhưng lại là một bài học lớn cho mỗi chúng ta. Một người khác
ở vào hoàn cảnh của Rô-bin-xơn có lẽ đã chán nản, tuyệt vọng, buông xuôi đợi chết. Rô-
bin-xơn không như vậy. Chàng bám chắc lấy cuộc sống, không chấp nhận sống lay lắt, mòn
mỏi mà luôn luôn phấn đấu để làm cho cuộc sống ngày càng tốt hơn. Chàng không khuất
phục trước hoàn cảnh nghiệt ngã mà đã chinh phục được thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục
vụ cho mình. Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang là ví dụ tiêu biểu nhất, chứng minh cho chân lí
chiến thắng chính mình là chiến thắng vĩ đại nhất và vinh quang nhất!
Phân tích đoạn Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang mẫu 2
Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang trích chương 10 tiểu thuyết Rô-bin-xơn Cru-xô của nhà văn Đi-
phô người Anh trong thế kỉ XVIII. Tác phẩm lúc đầu mang một cái tên dài Cuộc đời và những
chuyện phiêu lưu kỳ lạ của Rô-bin-xơn Cru-xô. Phiêu lưu và tự truyện là hai tính chất nổi bật
của tác phẩm này. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang cũng như toàn bộ cuốn tiểu
thuyết thấm nhuần một vẻ đẹp nhân văn, vừa cảm thông với sự rủi ro, bất hạnh của một
con người, vừa ca ngợi sức sống mạnh mẽ, đầy nghị lực và sáng tạo của một thanh niên
giữa một thiên nhiên hoang dã, ngoài hoang đảo!
Nhiều năm tháng đã trôi qua, Rô-bin-xơn đã sống một mình giữa hoang vu. Trước mắt vẫn là
những chặng đường đầy thử thách. Anh nói: “Tôi sống yên ổn trên đảo và chịu đựng số phận
của mình hơn một năm nữa”. Ta như đang nghe tiếng anh thầm thì kể lại những nếm trải cay
đắng ngọt bùi. Tiếng anh như chìm đi trong sóng gió đại dương đang bủa vây hoang đảo.
Anh đã nói với chúng ta những gì anh đã làm và anh đã sống trong ngót ba thập kỷ. Cô đơn,
thú dữ, bệnh tật, thiếu thốn. Không thể chết được! Phải sống và biết cách sống. Vốn là một
thanh niên ưa mạo hiểm, thích làm giàu, giờ đây hoàn cảnh khắc nghiệt đã rèn luyện anh
trở thành một con người “lành nghề trong nhiều ngành thủ công". Anh làm việc không mệt
mỏi để không còn thì giờ “nghĩ ngợi vẩn vơ". Đó cũng là một phương pháp tư tưởng đúng đắn
tích cực. Nhờ thế, anh đã trở thành một thợ nặn rất khéo, nặn được đủ thứ vật dụng, từ
chum vại, bình vò đến bát đĩa. Anh đã trồng được thuốc để hút, giờ đây lại nặn được cái tẩu
“tuyệt mĩ” nữa, vì thế anh vô cùng “thích thú”. Anh dùng cây miên liễu để đan lát. Đan thúng
để quảy mồi săn được, đựng hoa trái kiếm được. Đan bồ đựng thóc, đan được nhiều đồ
dùng khác nữa. Nói lao động là sáng tạo, lao động là phát triển năng khiếu thẩm mĩ của con
người, trong trường hợp này đối với Rô-bin-xơn là hoàn toàn đúng.
Ở đời, những kẻ yếu hèn dễ bị khó khăn quật ngã. Với Rô-bin-xơn, anh đã trải qua một vạn
ngày cô đơn trên hoang đảo rồi! Tuổi trẻ đã trôi qua. Thể lực và chí khí đã hao mòn. Chặng
cuối cùng bao giờ cũng vậy, khó khăn, thử thách như được nhân lên một cách ghê gớm!
"Thuốc đắng cạn liều càng thấy đắng - Đường gay cuối chặng lại thêm gay” (Hồ Chí Minh).
Đó là quy luật. Rô-bin-xơn cho biết hoàn cảnh mình: “Thuốc đạn ngày càng khan, thực
phẩm cũng vơi dần”. Bước sang năm thứ 11 ở trên đảo, anh đã bắt tay vào việc chăn nuôi,
sau khi đã trồng lúa, trồng mạch thành công. Anh đã đánh bẫy dê rừng, làm chuồng và nuôi
nấng, thuần dưỡng dê. Chỉ 2 năm sau, anh đã có một đàn dê lên tới 43 con để giết thịt ăn
dần. Vừa giàu chí khí, vừa giàu sáng tạo và khéo chân tay, anh đã biết vắt sữa, làm bơ, làm
pho mát, thuộc da dê may áo quần, trồng hoa quả. Anh đã nói về đời sống vật chất của
mình trên hoang đảo sau những năm dài vật lộn, với tất cả niềm vui ánh lên tự hào:
“Các bạn thử nghĩ, một mình trên một hòn đảo hoang vắng mà bữa sáng có sữa tươi, bữa
ăn thường ngày có bánh mì, bánh bột gạo tẻ, thịt dê, trứng rùa, bơ và pho mát; tráng miệng
thì có các thứ hoa quả, nhất là nho tươi, nho khô, thiết tưởng cũng thịnh soạn không kém ở
những khách sạn bình thường tại các thành phố lớn”. Rô-bin-xơn đã không bị thiên nhiên
khuất phục. Trái lại, anh biết dùng trí tuệ, đôi bàn tay và ý chí của mình - của con người - để
cải tạo thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ đời sống mình. Việc nuôi dưỡng và thuần dưỡng
dê rừng của Rô-bin- xơn là một kỳ công. Sữa tươi, pho mát, bơ, áo da mà anh làm ra là
thành quả lao động trong gian khổ và cô đơn. Người đọc gần 300 năm nay trên trái đất vô
cùng khâm phục anh - một con người bất hạnh mà vĩ đại.
Phần sau của chương 10 nói về “Một vài nét hình thù ông “chúa đảo" khi đi chu du trong
vương quốc của mình". Đây là bức chân dung tự họa rất hóm hỉnh giàu giá trị nhân bản, một
điều rất thú vị là trên cái " vương quốc” hoang đảo này, chỉ có một vị “chúa đảo” là Rô-bin-
xơn, chỉ có một thần dân, đó cũng là Rô-bin-xơn. Anh đã nói về trang phục, về mày râu của
mình. Ta có thể đi theo vị “chúa đảo” mà chiêm ngưỡng. Bộ áo quần bằng da rất kỳ lạ, có
thể làm “kinh sợ” hay “bò ra mà cười” ai đó khi lần đầu bắt gặp. Cái mũ bằng da dê “cao lêu đêu”.
Một cái áo chẽn cũng cắt bằng da dê “tà áo chấm ngang đầu gối” rất quý tộc; cái quần ngắn
may bằng da dê xồm, lông dê dài lê thê, buông thõng đến mắt cá, thành ra quần đùi mà
không khác quần dài! Cái thắt lưng cũng bằng da dê để giắt cưa và búa. Hai cái túi bằng da
dê “hình dáng lạ lùng" để dựng đạn ghém và đựng thuốc súng, đeo lủng lẳng bằng một dây
da vòng qua cổ. Đây là những nét miêu tả rất hiện thực nói lên cuộc sống của con người nơi
hoang đảo về mặt trang phục, hình hài đã trở nên “cổ quái”, kỳ dị. Vì thế chàng trai Rô-bin-
xơn càng ngày càng '‘ rám nắng, đen sạm lại". Râu thỉnh thoảng được cạo nhưng vẫn “đâm
ra tua tủa như chổi xể”.
Trên mép là một cặp ria theo kiểu người Thổ Nhĩ Kỳ “vừa dài vừa rậm khác thường”. Chó vốn
là một vật nuôi vô cùng tinh khôn, Rô-bin-xơn có một con chó như một người bạn, một vệ sĩ
rất trung thành với chủ, từng chia ngọt sẻ bùi với chủ, mà nay, có lúc nhìn “lệ bộ” da dê, râu
ria của Rô-bin-xơn, nó có vẻ “kinh ngạc khiếp sợ”, nó “nghi nghi hoặc hoặc", sợ hãi, dò xét
“cái con quái vật kỳ dị kia là bạn hay là thù’'. Đó là chất hoang dã lấn chiếm, hoang dã hóa
con người. Phải có một sức mạnh to lớn lắm mới chế ngự và hạn chế sức mạnh ghê gớm
của thiên nhiên nơi hoang đảo.
Nhân vật "tôi” tự kể chuyện mình. Một giọng văn trầm, có lúc thoáng một nét buồn, có lúc
hài hước. Một trang đời vất vả, cay đắng cũng có khoảnh khắc “thịnh soạn” đàng hoàng. Cái
rủi ro phải trả giá cả một thời thanh xuân trong cô đơn và gian nan. Rô-bin-xơn hiện lên với
tất cả sức mạnh của con người. Anh đã khẳng định và cho mọi người tìm được một bài học:
Dám sống và biết cách sống; sống một cách mạnh mẽ, dũng cảm và sáng tạo trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Có người đã từng ngợi ca, đoạn văn Rô-bin-xơn ngoài hoang đảo là bài ca lao động sáng tạo
hào hùng của con người. Rô-bin-xơn đã phiêu lưu và mạo hiểm. Cái vĩ đại và đáng quý nhất
ở anh là anh đã sống đẹp như một con người chân chính.
Phân tích đoạn Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang mẫu 3
Đe ni ơn đi phô là nhà văn người Anh. Ông là một người tham gia rất tích cực tất cả các hoạt
động chính trị của thời đại mình đồng thời cũng là một nhà văn dùng ngòi bút mình làm vũ
khí chiến đấu. Ông đã viết hàng trăm tác phẩm về những vấn đề nhức nhối trong xã hội. Ông
đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ và có tầm ảnh hưởng lớn đối với thời đại. Kể đến
những tác phẩm nổi tiếng của ông ta không thể không nhắc đến tác phẩm “Rô bin xơn ngoài
đảo hoang”. Tác phẩm kể về nhân vật Rô bin xơn thích ngao du đi phiêu lưu say mê những miền đất lạ.
Trước hết ta cùng nhìn nhận đánh giá về hình dạng cũng như trang phục của Rô bin xơn đã
được tác giả khắc họa như thế nào. Tôi đội một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng ra
hình thù gì làm bằng da một con dê, với mảnh da rủ xuống phía sau gáy, vừa để che nắng,
vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ”. Bộ dạng ấy quả thật đã tạo nên được nụ cười mỉm
từ phía bạn đọc và có lẽ chính người tạo ra nó cũng phải thú vị trước hiệu quả, công dụng
của chiếc mũ này. Không chỉ có chiếc mũ, mà cả áo, quần, “giày” cũng được làm bằng da
dê - trang phục ấy không còn bất cứ dấu vết nào của đời sống văn minh.
Rô-bin-xơn tự ngắm nghía mình, phô ra tất cả những nét vụng về thô kệch trong bộ dạng từ
đầu đến chân là … dê của mình, hài lòng với sự hào phóng của đảo hoang đã hào phóng
cho chàng những tấm da dê quý giá. Nhưng có lẽ sự hài lòng hiện ra sau lời kể chính là ở
chỗ tất cả đều được tạo nên từ bàn tay lao động, là công sức và sự khéo léo của chính
chàng để chế tác ra những sản phẩm độc nhất vô nhị này ở đây ta thấy nhân vật, một mình
trên một hòn đảo hoang vắng mà bữa sáng có sữa tươi, bữa ăn thường ngày có bánh mì,
bánh bột gạo tẻ, thịt, dê, trứng rùa, bơ và phó mát; tráng miệng thì có các thứ hoa quả, nhất
là nho tươi, nho khô, thiết tưởng cũng thịnh soạn không kém ở những khách sạn bình
thường tại các thành phố lớn”.
Rô-bin-xơn đã không bị thiên nhiên khuất phục. Trái lại, anh biết dùng trí tuệ, đôi bàn tay và
ý chí của mình của con người để cải tạo thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ đời sống mình.
Việc nuôi dưỡng và thuần dưỡng dê rừng của Rôbinxơn là một kỳ công. Sữa tươi, phó mát,
bơ, áo da mà anh làm ra là thành quả lao động trong gian khổ và cô đơn. Cuộc sống gần ba
mươi năm buồn tẻ không lấy mất được của chàng tính hài hước khi tự thuật : “tôi không có
bít tất mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình được một đôi, chẳng biết gọi là gì,
giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên…”. Thông thường thì trong bức
họa chân dung thì gương mặt được chiếm một phần quan trọng nhất được người nghệ sĩ
quan tâm trước tiên sau đó mới đến trang phục và những thứ khác. Nhưng ở đây nó lại được
tác giả xếp sau cùng và còn được dành cho những dòng rất ít ỏi.
Trên gương mặt của Rô bin xơn không có gì đặc biệt ngoài cái ria mép ta không hề biết đến
những bộ phận khác như mắt mũi miệng. Rô bin xơn là một người nước Anh, thuyền chàng
bị trôi dạt vào một bờ biển xích đạo. Anh đã sống một mình trong khoảng thời gian mười
năm ngoài đảo hoang. Tất cả những điều đó làm nên một hình tượng nhân vật Ro bin xơn
được tác giả khắc họa rất sinh động và nổi lên đó là tinh thần của một con người ngoài đảo hoang.
Cuộc sống của Rô bin xơn rất khó khăn cực nhọc như thế nhưng khi khắc họa chân dung
của mình chàng không hề thốt ra những lời buồn đau hoặc gian khổ mà cả bài thơ ta chỉ
thấy cái hài hước vui vẻ của con người này. Đằng sau nụ cười thấp thoáng qua lời kể, ta có
thể hình dung ra quyết tâm và ý chí của một con người đầy nghị lực vươn lên. Biết bao lo
toan, tính toán từ “sáng tạo” để thích nghi với hoàn cảnh, khẳng định bản năng sinh tồn
mạnh mẽ của con người hiện lên qua câu chuyện của Rô-bin-xơn. Chiếc mũ da dê kì quái
che đến tận cổ vì “chẳng có gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt”.
Những công việc bận rộn với vật dụng bất li thân đáp ứng những nhu cầu tối thiểu cũng là
cách để chàng vượt qua cảm giác buồn chán thường dễ xảy đến với con người cô đơn.
Chàng không chỉ đối chọi với thiên nhiên mà đã thể hiện rõ tư thế người làm chủ, bắt thiên
nhiên phải khuất phục. Không những thế, qua những chi tiết chàng tự mô tả bản thân, ta
hiểu Rô-bin-xơn đã tự chiến thắng chính mình.
Nhân vật "tôi” tự kể chuyện mình. Một giọng văn trầm, có lúc thoáng một nét buồn, có lúc
hài hước. Một trang đời vất vả, cay đắng cũng có khoảnh khắc “thịnh soạn” đàng hoàng. Cái
rủi ro phải trả giá cả một thời thanh xuân trong cô đơn và gian nan. Rô-bin-xơn hiện lên với
tất cả sức mạnh của con người. Anh đã khẳng định và cho mọi người tìm được một bài học:
Dám sống và biết cách sống; sống một cách mạnh mẽ, dũng cảm và sáng tạo trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Tác phẩm đã cho chúng ta thấy một con người Rô bin xơn hiện lên là một người có ý chí rất
mạnh mẽ. Tác phẩm cũng làm một bài học đối với chúng ta là phải phấn đấu bám chắc với
cuộc sống để có được một cuộc sống ngày càng tươi đẹp hơn.
Phân tích đoạn Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang mẫu 4
“Rô- bin- xơn ngoài đảo hoang” là một trích đoạn trong tiểu thuyết nổi tiếng “Rô- bin- xơn
Cru- xô” của nhà văn nổi tiếng người Anh là Dê- ni- ơn Đi- phô. Trích đoạn này đã tái hiện,
xây dựng thành công bức chân dung của Rô- bin- xơn, một con người thích những phiêu
lưu, mạo hiểm nhưng sau một sự cố anh ta đã lưu lạc trên một hòn đảo hoang. Sống một
mình ở nơi hoang vu, rộng lớn không có sự sống của con người nhưng Rô bin- xơn vẫn vô
cùng lạc quan, yêu đời, điều mà không phải ai cũng có thể làm được, không phải ai cũng có
thể mạnh mẽ vượt qua được như vậy.
Dê- ni- ơn Đi- phô bắt đầu sự nghiệp sáng tác văn chương của mình từ rất sớm nhưng không
để lại được những dấu ấn rõ rệt, phải đến năm sáu mươi tuổi thì sự nghiệp văn chương của
ông mới có những khởi sắc nhất định, ông cho ra đời những tác phẩm không chỉ có giá trị về
nội dung mà nghệ thuật cũng vô cùng đặc sắc. Đó là những tiểu thuyết có giá trị, trong đó
có tiểu thuyết nổi tiếng lẫy lừng, đó chính là “Rô- bin-xơn Cru-xô”. Trích đoạn “Rô- bin- xơn
ngoài đảo hoang” chỉ là một trích đoạn rất ngắn trong cuốn tiểu thuyết này. Đó là trích đoạn
phác họa rõ nét bức chân dung của nhân vật trung tâm của cuốn tiểu thuyết này, đó chính là Rô- bin- xơn.
Mở đầu trích đoạn này, nhà văn đã đi khắc họa chân dung đầy kì quái của Rô- bin- xơn khi
một mình sống trên đảo hoang. Thông thường, các nhà văn khác khi đi miêu tả chân dung
cho nhân vật của mình thường bắt đầu miêu tả từ khuôn mặt đến vóc dáng, sau đó với đến
những tiểu tiết của ngoại hình, nhưng ở đây, nhà văn Đi- phô đã đi miêu tả những chi tiết
phụ trước sau đó mới đi sâu miêu tả khuôn mặt của anh ta. Đó chính là một người đàn ông
với cách ăn mặc kì quái và mang theo bên người những đồ đạc lỉnh kỉnh. Ngoài ra bộ ria
mép của anh ta cũng làm cho tổng thể hình dáng của anh ta trở nên kì quặc, khác thường.
Rô- bin- xơn vốn là một người ưa thích những chuyến đi mạo hiểm, những cuộc phiêu lưu kì
thú. Nhưng trong một lần đi biển cùng những người đồng đội, đó là chuyến đi xuất phát từ
biển Bra-xin thì anh bị đắm thuyền, trôi dạt trên biển rồi cuối cùng bị dạt vào vùng đảo
hoang. Đây là một hòn đảo hoang sơ, không có người sinh sống. Ngay qua bộ trang phục kì
quặc, diện mạo kì lạ của Rô- bin- xơn ta có thể phần nào tưởng tượng được hoàn cảnh sống
vô cùng khắc nghiệt nơi đây. Đó là bộ quần áo làm bằng da dê, không được may vá cẩn thận
mà chỉ buộc lại với nhau một cách rúm ró, và đôi ủng của anh ta cũng làm bằng da dê.
Chiếc mũ trên đầu Rô- bin- xơn cũng rất khác người, đó là “chiếc mũ to tướng, cao lêu đêu
chẳng ra hình thù gì”, làm bằng da của một con dê, với mảnh vải rủ xuống phía sau gáy nhìn thật kì quặc.
Với những điều kiện thiếu thốn, khắc nghiệt nơi đảo hoang thì những trang phục như vậy
cũng được xem là khá tươm tất, hơn nữa chúng còn là những trang phục rất tiện lợi cho việc
đi lại cũng như kiếm sống trên đảo hoang, vì nước cũng không thể thấm vào những miếng
da dê, hơn nữa khi trời trở lạnh cũng có thể giữ ấm cho cơ thể. Trong trích đoạn này, Rô- bin-
xơn đã tự thuật lại theo ngôi kể thứ nhất, giọng nói của anh ta khi kể về mình đầy hóm hỉnh,
hài hước. Khác hẳn với con người đang bị cô lập nơi đảo hoang, một mình sống trong điều
kiện khắc nghiệt nơi đây.
Trang phục của Rô- bin- xơn cũng rất kì quặc, đó là một chiếc áo làm bằng da dê, vạt áo dài
đến lưng bắp đùi và chiếc quần rúm ró bằng da dê dài đến đầu gối. Trang bị mang trên người
của Rô- bin- xơn cũng là những vật dụng kiếm được khi sóng biển cuốn chúng trôi vào bờ,
đó là một chiếc cưa nhỏ và một chiếc rìu nhỏ. Qua những vật dụng này ta có thể thấy cuộc
sống trên đảo hoang của Rô- bin- xơn không có những kẻ thù hay những nguy hiểm rình rập.
Cưa và rìu tuy là những vật dụng đơn giản, thô sơ nhưng cũng rất hữu ích đối với Rô- bin -
xơn vì chúng có thể dùng để cho việc mưu sinh của anh ta trên đảo hoang, có thể dùng để
chặt cây, cưa gỗ dựng lều, lấy chỗ che mưa, che nắng, phòng trừ có thú dữ, ngoài ra còn có
một khoảng đất trống dùng để nuôi dê sau này. Ta có thể thấy Rô- bin-xơn vô cùng lạc quan,
vì ngay trong những hoàn cảnh khó khăn nhất thì vẫn tin tưởng vào cuộc sống phía trước,
lên kế hoạch cho tương lai. Đây là điều không phải ai cũng làm được, thể hiện một con
người mạnh mẽ, đầy bản lĩnh.
Tuy là mảnh đất bị bỏ hoang, nằm giữa mênh mông sóng biển nhưng cũng thật may ở đây
còn có những chú dê, vì vậy mà cuộc sống của Rô- bin- sơn có thể được duy trì. Ngoài ra
anh ta còn mang theo bên mình một chiếc súng, thuốc súng và đạn ghém. Nhờ vậy mà
cuộc sống của anh ta ở trên đảo hoang này bớt khắc nghiệt đi rất nhiều, anh ta có thể săn
dê để lấy thịt ăn, da dê thì làm trang phục, giày, bốt đi lại. Vì sự lạc quan, cùng với sức mạnh
trai tráng, Rô- bin- xơn đã vượt qua mọi khó khăn, một mình vẫn có thể sống tốt nơi hoang
đảo, không những thế mà về sau Rô- bin- xơn còn có thể tự trồng lúa mì nhờ những hạt lúa
mì còn sót lại khi anh ta đi vớt những vật dụng còn lại khi con tàu đắm.
Như vậy, “Rô- bin- xơn ngoài đảo hoang” là đoạn trích thể hiện thật đẹp bức chân dung của
Rô- bin- xơn một con người luôn yêu đời, sống lạc quan, những khó khăn nơi đảo hoang
không là những trở ngại, không làm cho anh gục ngã mà dường như làm cho anh trở nên
mạnh mẽ hơn, bản lĩnh hơn. Qua chân dung của Rô- bin- xơn, người đọc cũng có thêm
những niềm tin vào cuộc sống, thêm yêu đời cũng như sống có ích hơn. Đó là những giá trị
cao đẹp mà tác phẩm này mang lại cho người đọc.