Phân tích đoạn trích tự chọn “Thúy Kiều báo ân báo oán” trong “Truyện Kiều” | Văn mẫu 11 Cánh diều

 Phân tích đoạn trích “Thúy Kiều báo ân báo oán” trong “Truyện Kiều” là bài văn mẫu hay do biên soạn nhằm giúp các bạn học sinh có thêm tư liệu học tập môn Ngữ văn 11. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:

Văn mẫu 11 256 tài liệu

Môn:

Ngữ Văn 11 1.1 K tài liệu

Thông tin:
5 trang 8 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phân tích đoạn trích tự chọn “Thúy Kiều báo ân báo oán” trong “Truyện Kiều” | Văn mẫu 11 Cánh diều

 Phân tích đoạn trích “Thúy Kiều báo ân báo oán” trong “Truyện Kiều” là bài văn mẫu hay do biên soạn nhằm giúp các bạn học sinh có thêm tư liệu học tập môn Ngữ văn 11. Mời các bạn tham khảo!

66 33 lượt tải Tải xuống
Trong tác phẩm “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?”, nhà thơ Chế Lan
Viên đã nói về “những ngày đẹp nhất” của dân tộc:
Khi Nguyễn Trãi làm thơ đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hoá thành văn
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng
Trong cảm nhận của nhà thơ, khi “Nguyễn Du viết Kiều” là một trong
những ngày đẹp nhất. Câu chuyện về nàng Kiều lưu lạc đã đi vào tâm
thức của con người Việt Nam, nối dài vẻ đẹp văn hóa cho đất nước.
Đoạn trích “Thúy Kiều báo ân báo oán” là một trong những trích đoạn
tiêu biểu nhất của kiệt tác này, cho thấy ước mơ của nhân dân về công
bằng xã hội.
Đoạn trích “Kiều báo ân báo oán” nằm ở phần “Gia biến và lưu lạc”.
Sau khi đã trải qua nhiều đắng cay và tủi nhục, Kiều chẳng còn thiết tha
với cuộc sống. Trong những tháng ngày đau thương nhất, Kiều đã gặp
Từ Hải. Người anh hùng “chọc trời khuấy nước” là nguồn sáng hiếm hoi
trong cuộc đời đoạn trường của Kiều. Từ Hải đã đưa Kiều lên vị trí của
một quan tòa uy nghi để báo ân, báo oán - một điều chưa từng có tiền l
trong xã hội phong kiến. Mười hai câu đầu của trích đoạn là cảnh Thúy
Kiều báo ân với Thúc Sinh và những câu còn lại là lời đối đáp với Hoạn
Thư.
Cho gươm mi đến Thc Lang
Mặt như chm đ mnh dưng d run
Nng rằng: “Ngha nặng nghn non
Lâm Tri ngưi c chng cn nhớ không?
Sâm Thương chng vn ch tng,
Tại ai dám ph lng c nhân?
Gấm trăm cun bạc nghn cân,
Tạ lng dễ xng báo ân gi l.
V chng qu quái tinh ma
Phen ny k cấp b gi gặp nhau.
Kiến b miệng chn chưa lâu,
Mưu sâu cng tr ngha sâu cho va”
Đứng trước công đường oai nghiêm, trang trọng, Thúc Sinh vô cùng
hoảng sợ. Chàng Thúc “Mặt như chàm đổ”, mất hết thần sắc, bước đi
còn không vững. Những cử chỉ này góp phần cho thấy tính cách có phần
nhu nhược, đớn hèn của Thúc Sinh. Đối mặt với Thúc Sinh, Kiều bày tỏ
tấm lòng trân trọng với những điều mà “người cũ” đã làm cho nàng
trong cơn hoạn nạn. Thúc Sinh đưa nàng ra khỏi lầu xanh, cho Kiều
những tháng ngày êm ấm. “nghĩa nặng nghìn non” tức là tình nghĩa nặng
như nghìn núi, không thể đong đếm, cho thấy sự biết ơn của Kiều dành
cho Thúc. Tuy nhiên, cũng vì gắn bó với Thúc Sinh mà Kiều đã vướng
phải những đau khổ của phận làm lẽ. Ở đây, ta thấy Kiều toát lên vẻ đẹp
thông minh và vị tha, nhân hậu. Kiều nhận thức rằng kẻ gây ra đau khổ
cho nàng chính là Hoạn Thư nên không oán trách Thúc Sinh. Nàng rất
thấu tình đạt lí, hiểu cho tình cảnh của Thúc: “Tại ai há dám phụ lòng cố
nhân?”. Vì thế, nàng tặng cho Thúc Sinh “Gấm trăm cuốn, bạc nghìn
cân”. “trăm”, “nghìn” đều là những từ chỉ số lượng vô cùng nhiều, thể
hiện sự tri ân sâu sắc. Nàng nhắc đến điển tích Sâm Thương cùng nhiều
từ Hán – Việt như “nghĩa”, “tòng”, “cố nhân” tạo nên không khí trang
trọng cho cuộc đối thoại. Điều đặc biệt nằm ở chỗ, Kiều đã nhắc đến
Hoạn Thư khi nói chuyện cùng Thúc Sinh bằng những thành ngữ như
“kẻ cắp bà già”, “kiến bò miệng chén” rất gần gũi với lời ăn tiếng nói
hằng ngày của nhân dân.
Thoắt trông nng đ cho thưa:
“Tiu thư cng c bây gi đến đây!
Đn b dễ c mấy tay,
Đi xưa mấy mặt đi ny mấy gan!
Dễ dng l thi hng nhan,
Cng cay nghiệt lắm cng oan trái nhiều”.
Hoạn Thư hn lạc phách xiêu,
Khấu đu dưới trướng liệu điều kêu ca.
Rằng: “Tôi cht phn đn b,
Ghen tuông th cng ngưi ta thưng tnh.
Ngh cho khi gác viết kinh,
Với khi khi cửa dt tnh chng theo.
Lng riêng riêng nhng knh yêu,
Chng chung chưa dễ ai chiều cho ai.
Trt lng gây việc chông gai,
Cn nh lưng b thương bi no chăng”.
Ở đây, Kiều vẫn gọi Hoạn Thư là “tiểu thư”, giữ nguyên cách xưng hô
khi làm nô tì để mỉa mai Hoạn Thư. Điều này đã giáng đòn tâm lí vào
Hoạn Thư, khiến “tiểu thư” cảm thấy xấu hổ. Lời đối thoại trong đoạn
thơ này thể hiện rõ sự bung tỏa những đau thương, uất ức đã dồn nén
bấy lâu của Kiều. Cách nói “dễ có”, “dễ dàng”, “mấy tay”, “mấy mặt”,
“càng cay nghiệt”, “càng oan trái”,… thể hiện rõ sự đay nghiến mà Kiều
dành cho Hoạn Thư. Có ngày hôm nay đứng trên công đường cũng là hệ
quả tất yếu của những gì Hoạn Thư gây ra nên “Mưu sâu cũng trả nghĩa
sâu cho vừa”. Ngay cả trong lúc sợ hãi, Hoạn Thư vẫn cố gắng “liệu
điều kêu ca” cho thấy sự khôn khéo của người phụ nữ quyền quý. Hoạn
Thư vin vào tâm lí thường tình của người phụ nữ: “Ghen tuông thì cũng
người ta thường tình”. Bỗng chốc, Hoạn Thư biến Kiều trở thành người
đồng cảnh “phận đàn bà” với mình, mong được Kiều thấu hiểu rằng
mình cũng chỉ là một người phụ nữ chịu cảnh đa thê. Thậm chí, Hoạn
Thư còn kể “công” đã cho Kiều ra viết kinh ở gác Quan Âm và không
cho người truy bắt Kiều khi nàng bỏ trốn khỏi nhà họ Hoạn.
Khen cho: “Tht đ nên rằng,
Khôn ngoan đến mc ni năng phi li.
Tha ra th cng may đi,
Lm ra th cng ra ngưi nh nhen.
Đ lng tri quá th nên”.
Trước những lời nói ấy của Hoạn Thư, Kiều đã bị thuyết phục. Nàng
công nhận rằng đây là con người “nói năng phải lời”. Hoạn Thư thể hiện
sự hối cải, Kiều cũng bằng lòng tha bổng. Điều này đã làm nổi bật lòng
nhân hậu của Kiều. Nguyễn Du đã thể hiện tài năng bậc thầy trong việc
miêu tả tính cách, tâm lí phức tapj của các nhân vật.
Đoạn trích “Thúy Kiều báo ân báo oán” đã thể hiện ước mơ cao đẹp của
nhân dân về công lí cùng đạo lí “Gieo nhân nào, gặt quả nấy”. Hình ảnh
Thúy Kiều đứng trên công đường, cầm cân nảy mực mọi oan trái ở đời
trở thành một trong những hình ảnh đẹp nhất của “Truyện Kiều”.
| 1/5

Preview text:

Trong tác phẩm “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?”, nhà thơ Chế Lan
Viên đã nói về “những ngày đẹp nhất” của dân tộc:
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hoá thành văn
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng…
Trong cảm nhận của nhà thơ, khi “Nguyễn Du viết Kiều” là một trong
những ngày đẹp nhất. Câu chuyện về nàng Kiều lưu lạc đã đi vào tâm
thức của con người Việt Nam, nối dài vẻ đẹp văn hóa cho đất nước.
Đoạn trích “Thúy Kiều báo ân báo oán” là một trong những trích đoạn
tiêu biểu nhất của kiệt tác này, cho thấy ước mơ của nhân dân về công bằng xã hội.
Đoạn trích “Kiều báo ân báo oán” nằm ở phần “Gia biến và lưu lạc”.
Sau khi đã trải qua nhiều đắng cay và tủi nhục, Kiều chẳng còn thiết tha
với cuộc sống. Trong những tháng ngày đau thương nhất, Kiều đã gặp
Từ Hải. Người anh hùng “chọc trời khuấy nước” là nguồn sáng hiếm hoi
trong cuộc đời đoạn trường của Kiều. Từ Hải đã đưa Kiều lên vị trí của
một quan tòa uy nghi để báo ân, báo oán - một điều chưa từng có tiền lệ
trong xã hội phong kiến. Mười hai câu đầu của trích đoạn là cảnh Thúy
Kiều báo ân với Thúc Sinh và những câu còn lại là lời đối đáp với Hoạn Thư.
Cho gươm mời đến Thúc Lang
Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run
Nàng rằng: “Nghĩa nặng nghìn non
Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?
Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân,
Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là.
Vợ chàng quỷ quái tinh ma
Phen này kẻ cấp bà già gặp nhau.
Kiến bò miệng chén chưa lâu,
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa”
Đứng trước công đường oai nghiêm, trang trọng, Thúc Sinh vô cùng
hoảng sợ. Chàng Thúc “Mặt như chàm đổ”, mất hết thần sắc, bước đi
còn không vững. Những cử chỉ này góp phần cho thấy tính cách có phần
nhu nhược, đớn hèn của Thúc Sinh. Đối mặt với Thúc Sinh, Kiều bày tỏ
tấm lòng trân trọng với những điều mà “người cũ” đã làm cho nàng
trong cơn hoạn nạn. Thúc Sinh đưa nàng ra khỏi lầu xanh, cho Kiều
những tháng ngày êm ấm. “nghĩa nặng nghìn non” tức là tình nghĩa nặng
như nghìn núi, không thể đong đếm, cho thấy sự biết ơn của Kiều dành
cho Thúc. Tuy nhiên, cũng vì gắn bó với Thúc Sinh mà Kiều đã vướng
phải những đau khổ của phận làm lẽ. Ở đây, ta thấy Kiều toát lên vẻ đẹp
thông minh và vị tha, nhân hậu. Kiều nhận thức rằng kẻ gây ra đau khổ
cho nàng chính là Hoạn Thư nên không oán trách Thúc Sinh. Nàng rất
thấu tình đạt lí, hiểu cho tình cảnh của Thúc: “Tại ai há dám phụ lòng cố
nhân?”. Vì thế, nàng tặng cho Thúc Sinh “Gấm trăm cuốn, bạc nghìn
cân”. “trăm”, “nghìn” đều là những từ chỉ số lượng vô cùng nhiều, thể
hiện sự tri ân sâu sắc. Nàng nhắc đến điển tích Sâm Thương cùng nhiều
từ Hán – Việt như “nghĩa”, “tòng”, “cố nhân” tạo nên không khí trang
trọng cho cuộc đối thoại. Điều đặc biệt nằm ở chỗ, Kiều đã nhắc đến
Hoạn Thư khi nói chuyện cùng Thúc Sinh bằng những thành ngữ như
“kẻ cắp bà già”, “kiến bò miệng chén” rất gần gũi với lời ăn tiếng nói
hằng ngày của nhân dân.
Thoắt trông nàng đã chào thưa:
“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan!
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều”.
Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,
Khấu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca.
Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.
Nghĩ cho khi gác viết kinh,
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
Lòng riêng riêng những kính yêu,
Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai.
Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”.
Ở đây, Kiều vẫn gọi Hoạn Thư là “tiểu thư”, giữ nguyên cách xưng hô
khi làm nô tì để mỉa mai Hoạn Thư. Điều này đã giáng đòn tâm lí vào
Hoạn Thư, khiến “tiểu thư” cảm thấy xấu hổ. Lời đối thoại trong đoạn
thơ này thể hiện rõ sự bung tỏa những đau thương, uất ức đã dồn nén
bấy lâu của Kiều. Cách nói “dễ có”, “dễ dàng”, “mấy tay”, “mấy mặt”,
“càng cay nghiệt”, “càng oan trái”,… thể hiện rõ sự đay nghiến mà Kiều
dành cho Hoạn Thư. Có ngày hôm nay đứng trên công đường cũng là hệ
quả tất yếu của những gì Hoạn Thư gây ra nên “Mưu sâu cũng trả nghĩa
sâu cho vừa”. Ngay cả trong lúc sợ hãi, Hoạn Thư vẫn cố gắng “liệu
điều kêu ca” cho thấy sự khôn khéo của người phụ nữ quyền quý. Hoạn
Thư vin vào tâm lí thường tình của người phụ nữ: “Ghen tuông thì cũng
người ta thường tình”. Bỗng chốc, Hoạn Thư biến Kiều trở thành người
đồng cảnh “phận đàn bà” với mình, mong được Kiều thấu hiểu rằng
mình cũng chỉ là một người phụ nữ chịu cảnh đa thê. Thậm chí, Hoạn
Thư còn kể “công” đã cho Kiều ra viết kinh ở gác Quan Âm và không
cho người truy bắt Kiều khi nàng bỏ trốn khỏi nhà họ Hoạn.
Khen cho: “Thật đã nên rằng,
Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời.
Tha ra thì cũng may đời,
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
Đã lòng tri quá thì nên”.
Trước những lời nói ấy của Hoạn Thư, Kiều đã bị thuyết phục. Nàng
công nhận rằng đây là con người “nói năng phải lời”. Hoạn Thư thể hiện
sự hối cải, Kiều cũng bằng lòng tha bổng. Điều này đã làm nổi bật lòng
nhân hậu của Kiều. Nguyễn Du đã thể hiện tài năng bậc thầy trong việc
miêu tả tính cách, tâm lí phức tapj của các nhân vật.
Đoạn trích “Thúy Kiều báo ân báo oán” đã thể hiện ước mơ cao đẹp của
nhân dân về công lí cùng đạo lí “Gieo nhân nào, gặt quả nấy”. Hình ảnh
Thúy Kiều đứng trên công đường, cầm cân nảy mực mọi oan trái ở đời
trở thành một trong những hình ảnh đẹp nhất của “Truyện Kiều”.