-
Thông tin
-
Quiz
Phân tích Làng Kim Lân - Ngữ văn 9
Đó là bài học về tình yêu quê hương, về niềm tin, về lòng yêu nước. Và có lẽ chính vì thế mà sau bao thăng trầm của lịch sử truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân vẫn còn mãi trong lòng bạn đọc. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Văn mẫu 9 439 tài liệu
Ngữ Văn 9 0.9 K tài liệu
Phân tích Làng Kim Lân - Ngữ văn 9
Đó là bài học về tình yêu quê hương, về niềm tin, về lòng yêu nước. Và có lẽ chính vì thế mà sau bao thăng trầm của lịch sử truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân vẫn còn mãi trong lòng bạn đọc. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!




















Tài liệu khác của Ngữ Văn 9
Preview text:
Phân tích Làng Kim Lân
Truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân là một trong những tác phẩm tiêu biểu và
thành công của ông khi viết về đề tài làng quê Việt Nam. Tác phẩm Làng đã khắc họa
thành công hình ảnh ông Hai, một người nông dân yêu làng, yêu quê hương đất nước
sâu sắc. Mời các bạn cùng tham khảo phân tích Làng dàn ý, phân tích tác phẩm Làng
ngắn nhất, phân tích tác phẩm Làng học sinh giỏi, phân tích tác phẩm Làng nhân vật
ông Hai hay và chi tiết sẽ giúp các em học sinh nâng cao kĩ năng phân tích cũng như
vốn từ vựng khi viết bài.
1. Hoàn cảnh sáng tác truyện ngắn Làng Tác giả Kim Lân
Kim Lân tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, (1920-2007), quê ở huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
- Ông là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và đã có sáng tác đăng báo trước Cách mạng
tháng Tám 1945. Vốn gắn bó và am hiểu sâu sắc cuộc sống ở nông thôn, Kim Lân hầu
như chỉ viết về sinh hoạt làng quê và cảnh ngộ của người nông dân.
- Phong cách nghệ thuật : Kim Lân có một lối viết tự nhiên, chậm rãi, nhẹ nhàng, hóm
hỉnh và giàu cảm xúc ; cách miêu tả rất gần gũi, chân thực. Đặc biệt ông có biệt tài
phân tích tâm lí nhân vật.
Hoàn cảnh sáng tác
“Làng” được viết vào giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong thời kì
này thì người dân nghe theo chính sách của chính phủ: kêu gọi nhân dân ta tản cư,
những người dân ở vùng địch tạm chiếm đi lên vùng chiến khu để chúng ta cùng kháng
chiến lâu dài. – Kim Lân kể lại: “Hồi ấy gia đình tôi cũng đi sơ tán. Trên khu ở mới, có
tin đồn làng tôi là làng Việt gian. Mọi người đều nhìn những người dân làng với con mắt
chế giễu, khinh thường. Tôi yêu ngôi làng của tôi và không tin làng tôi lại có thể đi theo
giặc Pháp. Tôi viết truyện ngắn “Làng” như thể để khẳng định niềm tin của mình và minh oan cho làng tôi”
2. Dàn ý Phân tích truyện ngắn Làng của Kim Lân a) Mở bài
- Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm:
Kim Lân thuộc lớp các nhà văn đã thành danh từ trước Cách mạng Tháng 8 - 1945 với
những truyện ngắn nổi tiếng về vẻ đẹp văn hoá xứ Kinh Bắc, gắn bó với thôn quê, từ
lâu đã am hiểu người nông dân.
Làng (1948) đã thể hiện thành công vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam với
làng, với nước trong những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp. b) Thân bài
* Khái quát về tác phẩm
Hoàn cảnh sáng tác: Truyện ngắn “Làng” được viết năm 1948 - thời kì đầu của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp.
Nội dung cốt truyện: Ông Hai là một người vô cùng yêu quý làng quê mình vì thế khi
Pháp đến đánh chiếm ông quyết định ở lại làng làm du kích, làm thanh niên chống giặc dù tuổi đã cao.
Nhưng vì hoàn cảnh gia đình ông buộc phải tản cư lên thị trấn Hiệp Hòa. Thế rồi một
hôm ông nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, khi đó ông đã vô cùng đau khổ. Nhưng cho
đến khi nghe tin cải chính về làng ông vui sướng đến mức đi khoe nhà ông bị đốt hết trong niềm tự hào.
* Luận điểm 1: Phân tích tình huống truyện
- Tình huống: Ông Hai luôn yêu và tự hào về làng của mình, nay nghe tin làng chợ Dầu theo giặc
-> Tình huống đối nghịch với tình cảm tự hào mãnh liệt về làng Chợ Dầu của ông Hai,
khác với suy nghĩ về một làng quê “tinh thần cách mạng lắm” của ông.
- Ý nghĩa của tình huống: Tình huống khiến diễn biến tâm trạng nhân vật thay đổi mạnh
mẽ, thử thách lòng yêu làng và yêu nước của nhân vật ông Hai.
* Luận điểm 2: Tình yêu làng, yêu nước ở nhân vật ông Hai
- Tình yêu làng của ông Hai trước Cách mạng
Ông khoe về làng: giàu và đẹp, lát đá xanh, có nhà ngói san sát sầm uất như tỉnh,
phong trào cách mạng diễn ra sôi nổi, chòi phát thanh cao bằng ngọn tre...
Ông tự hào về làng mình từ cơ sở vật chất cho tới cái sinh phần của tổng đốc làng ông,
vinh dự vì làng có bề dày lịch sử.
- Tình yêu làng của ông Hai sau Cách mạng.
+ Ông khoe về tinh thần cách mạng của làng ông, ngay cả cụ râu tóc bạc phơ cũng vác
gậy đi tập, ông khoe những hố, ụ và hào.
- Diễn biến tâm trạng ông Hai:
Trước khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc.
Khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc.
Khi biết tin làng chợ Dầu theo Tây được cải chính.
- Đặc sắc nghệ thuật:
Ngôn ngữ đậm tính khẩu ngữ và lời ăn tiếng nói của người nông dân
Lời nói trần thuật có sự thống nhất về sắc thái, giọng điệu theo lời nhân vật ông Hai (ngôi thứ 3)
Ngôn ngữ nhân vật của ông Hai vừa mang nét chung của người nông dân nhưng cũng
mang điểm riêng biệt đậm cá tính của nhân vật nên rất sinh động
Giọng điệu trần thuật tự nhiên thân mật đôi khi dí dỏm của nhân vật.
Miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ đối thoại và độc thoại. c) Kết bài
Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật của truyện.
3. Viết đoạn văn nghị luận về tác phẩm Làng
Văn bản Làng của Kim Lân mặc dù chỉ là một truyện ngắn nhưng cũng đủ để lại những
dư vị khó quên trong lòng người đọc về tình cảm quê hương đất nước. Nổi bật trong
tác phẩm là nhân vật ông Hai đã được tác giả miêu tả là mọt người nông dân chân chất
thật thà và có một lòng yêu làng tha thiết. Lúc nào ông cũng muốn khoe với mọi người
về làng của mình, đối với ông đó là một niềm vui sướng mãnh liệt. Đặc biệt tình cảm
yêu làng của ông được tác giả miêu tả rất rõ khi ông Hai hay tin làng mình đã theo giặc.
Suy nghĩ khi nghe tin làng theo giặc, trong ông luôn có tâm trạng cùng sự đấu tranh nội
tâm trở nên xung đột, đây là tình huống mà tác giả tập trung miêu tả hình ảnh ông Hai
với tấm lòng yêu làng, yêu nước tha thiết và chân thành. Ông thấy xấu hổ vì niềm tin
mà mình đã dành cho làng bấy lâu nay đã thực sự sụp đổ trong phút chốt. Nhưng rồi
ông cực kỳ vui sướng khi nghe tin làng chợ Dầu vẫn theo Kháng chiến, vẫn đang chống
Tây, ông không còn nỗi tủi nhục không còn buồn mà lại vui vẻ khỏe làng của mình
người khác. Cuộc sống phải bỏ làng ra đi ai buồn nhưng ta lại thấy hình ảnh ông Hai đi
khoe cái tin đó là “Tây nó đốt hết nhà tôi rồi, hết hẳn”, ông vui và tự hào bởi việc Tây
đốt nhà giúp cho mọi người hiểu rằng làng chợ Dầu vẫn theo kháng chiến, vẫn yêu
nước, đó là niềm vui thực sự. Làng trong ông Hai là một phần ruột thịt, nhà cửa hay tài
sản mất đi có thể lấy lại, miễn sao cống hiến cho đất nước vững mạnh đó là niềm vui
lớn lao nhất. Tình yêu làng yêu quê hương đất nước trong ông Hai thật giản dị, chân
thành, tác giả tập trung miêu tả tâm lí cùng ngôn ngữ nhân vật để làm nổi bật tình cảm
của ông Hai với làng, với quê hương.
4. Phân tích Làng siêu ngắn
Kim Lân là một cây bút tiêu biểu của nên văn học cách mạng Việt Nam. Các sáng tác
của ông chủ yếu viết về đề tài người nông dân nghèo cũng như cuộc sống bình dị ở
các làng quê Việt Nam. Nhắc đến các tác phẩm nổi tiếng của Kim Lân chắc hẳn người
đọc không thể quên được truyện ngắn Làng. Tác phẩm Làng xoay quanh câu chuyện
về lòng yêu nước của nhân vật ông Hai, một người nông dân nghèo có tình yêu làng,
yêu quê hương tha thiết.
Làng là một tác phẩm nhằm tái hiện lại xã hội xưa với rất nhiều những biến cố, khó
khăn và bom đạn vẫn đang đe dọa mỗi ngày. Nhưng trong đó hình ảnh những người
nông dân hiền lành chất phát vẫn luôn được đề cao bởi tinh thần yêu nước, yêu quê hương.
Hình ảnh đó đã thể hiện sự gắn bó da diết của những con người nơi đây, vì tổ quốc
quê hương, những người nông dân đó phải bỏ lại quê hương, làng để đi bảo vệ đất
nước. Ông Hai là nhân vật điển hình trong đó, do giặc đến làng nên ông phải xa làng,
nhưng ra đi nhưng một lòng vẫn luôn nhớ đến làng của mình, ông tự phải động viên
mình để bớt đi cảm xúc nhớ thương.
Với niềm vui và sự tự hào về làng của mình, ông luôn hăm hở và khoe với tất cả mọi
người về ngôi làng của mình, ông giãi bày với mọi người về tình cảm với cái chợ Dầu
thân yêu, ông luôn thể hiện tình cảm của mình một cách mãnh liệt. Với tình cảm về làng
nên những gì ông kể với mọi người cũng mang một niềm da diết, khuôn nguôi, ông kể
say mê, và không thấy mỏi miệng.
Ông gặp ai cũng kể về ngôi làng của mình, từ những người hàng xóm ở nơi tản cư
mới, đến cả những người an hem đào hào, đắp ụ cùng, ông thể hiện tình cảm của mình
ở tất cả mọi lúc, mọi nơi, niềm vui đó đã mang lại cho ông một cái nhìn mới mẻ, và đầy chất nhân văn.
Ông coi làng của mình như ruột thịt của mình, háo hức vui vẻ say mê trong những câu
chuyện kể về làng, ông khoe những người xuất thân từ làng đều là những người có tinh
thần cách mạng cao, những con người anh dũng luôn hết mình vì dân tộc. Với tình cảm
đó chính vì thế mà ông không muốn tản cư một chút nào, khi phải ra đi ông đau khổ,
tuyệt vọng, ban đầu ông còn trở nên trầm tính, khó tính với vợ con, bởi tấm lòng của
mình gắn bó với quê hương đất nước rất lớn, với ngôi làng của mình.
Ông còn khoe với mọi người về chiếc chợ Dầu, nơi đã đánh tây, ông kiêu hãnh để khoe
với tất cả mọi người về ngôi làng của mình, niềm vui đó của ông vẫn luôn khơi dậy
trong tâm hồn của ông một niềm vui, hạnh phúc biết bao. Với sự tự hào vô bờ bến với ngôi làng của mình.
Nhưng khi ông Hai nghe tin làng của mình theo giặc, ông đã vô cùng đau khổ, cổ của
ông nghẹn đứng lại, da mặt rân rân, ông không thể thở được, ông vẫn coi đó không
phải là sự thật. “Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ…giọng lạc hẳn
đi” ; ” Ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi”.
Ông cảm thấy xấu hổ, ông không tin đó là sự thật, nếu trước đây ông tôn sùng và yêu
quý làng như thế nào thì đây lại là tiếng sấm đánh ngang tai làm ông chết điếng người.
Ông mang trong mình những nỗi nhục nhã, ê trề: ” Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông
cứ giàn ra…chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư…? “Sự đau khổ tuyệt vọng
đang dần thể hiện lên đôi mắt và trái tim của ông.
Ông xấu hổ với tất cả mọi người, khi mọi người biết tin đó, gia đình ông lâm vào cảnh
không có chỗ nương thân. Tinh thần của ông Hai vô cùng cứng rắn, với tấm lòng yêu
làng vô bờ bến nhưng khi biết tin nó theo Tây thì ông thấy nhục nhã và không muốn
quay về đó, nó là nơi nhục nhã, ê trề, ông căm thù nó, khi đã bỏ lại kháng chiến, cụ Hồ….
Một con người với tình cảm rõ rệt, vẫn quý quê hương khi quê hương có những người
luôn vì cách mạng, chiến đấu vì cách mạng, nhưng khi nghe theo Tây, với sự dứt
khoát, ông không thể sùng bái một vùng mà bỏ lại dân tộc của mình để theo giặc được.
Một tâm hồn đang đau khổ, đang chìm đắm trong sự nhục nhã, ê trề đã làm cho ông cảm thấy đau khổ.
Nhưng niềm vui mạnh mẽ đến với ông khi ông nghe tin làng cải chính, ông bỗng vui vẻ
hẳn lên, rạng rỡ nụ cười, đi mua quà cho con, và lại đi khoe về làng của mình không
theo tây, sự sung sướng lại quay trở lại với ông. Với tình yêu quê hương, đất nước của
mình, ông đã thể hiện một tính cách đa diện về tình yêu với làng của mình.
Tác phẩm đã để lại cho người đọc nhiều cảm xúc, về tình cảm của những con người
đối với quê hương, và với làng của mình.
5. Phân tích Làng ngắn gọn
Trong những năm tháng kháng chiến của đất nước, hòa vào tinh thần kháng chiến của
cả dân tộc, lòng yêu nước của mỗi con người chính là sức mạnh tạo nên thắng lợi vẻ
vang. Có nhiều cách để thể hiện lòng yêu nước, yêu làng, gắn bó với làng cũng chính
là thể hiện lòng yêu nước. Truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân đã nói về một
người nông dân có tình yêu làng, yêu nước sâu sắc.
Nhân vật chính của truyện là ông Hai, ông là người dân của làng Chợ Dầu và ông yêu
lắm cái làng của mình, lúc nào cũng khoe làng mình với tất cả niềm hãnh diện, tự hào.
Lúc nào kể về làng ông cũng kể say xưa, cứ kể mà không cần biết người ta có chú ý
nghe hay không. Ông kể về mọi thứ, từ những mái nhà ngói san sát sầm uất như thành
phố, những con đường lát đá xanh trời mưa bẩn không đến gót chân, đường ấy mà
phơi thóc thì thượng hạng, không một hạt thóc đất. Đối với ông cái gì của làng cũng to
lớn và đẹp đẽ nhất, bên cạnh đó ông còn vinh dự và tự hào vì làng mình có bề dày lịch
sử, về tinh thần kháng chiến của làng.
Những buổi tập có cả ông cụ râu tóc bạc phơ vác gậy đi tập, những hố, ụ, hào, lắm
công trình không kể đâu cho hết. Khi phải xa làng đến nơi tản cư, ông đã mang theo nỗi
nhớ thương, trông ngóng về làng, dù xa làng nhưng ông luôn dõi theo, nghe ngóng tin
tức từ làng. Tới khi ông nghe phải tin dữ, rằng làng ông theo Tây, ông đã đau đớn và
nhục nhã biết bao, ông dù không dám tin nhưng vẫn cảm thấy mặc cảm, tủi nhục và
xấu hổ vô cùng khi người ta cứ chửi cả làng ông như thế. Ông không dám đối diện,
cũng không có cách nào nghĩ khác đi, ông chỉ biết ru rú trong nhà, ám ảnh nỗi xấu hổ
và nhục nhã, cho tới khi bà chủ nhà muốn đuổi gia đình ông đi, ông cảm thấy bế tắc,
ông thoáng nghĩ trở về làng nhưng đã gạt phắt đi “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù”.
Có thể nói, nhà văn đã rất đồng cảm, thấu hiểu để có thể miêu tả chân thật và sinh
động tâm trạng của ông Hai khi chứng kiến nỗi đau làng theo Tây, ông yêu làng nhưng
ông vẫn rạch ròi với yêu nước, dù làng có còn hay mất thì tấm lòng của ông vẫn luôn
hướng về cách mạng, ủng hộ cụ Hồ và kháng chiến. Khi ông nghe được tin cải chính
làng Chợ Dầu của ông không theo giặc, chẳng có gì có thể diễn tả nỗi niềm sung
sướng và hạnh phúc của ông, niềm vui hiện rõ trên khuôn mặt và cử chỉ. Ông cứ đem
cái tin mà Tây nó đốt nhà ông cháy tàn cháy rụi ra mà khoe, ông chẳng tiếc gia tài của
mình miễn đó minh chứng cho sự trung thành và danh dự của làng. Tình cảm của ông
Hai đối với làng thật khiến cho người ta xúc động và khâm phục.
Qua truyện ngắn “Làng”, nhà văn Kim Lân đã để lại một ấn tượng khó phai trong lòng
người đọc, đó chính là một nhân vật ông Hai với tình yêu làng, yêu nước sâu sắc, tinh
thần kháng chiến bất diệt. Ông chính là đại diện cho những người nông dân yêu nước
trong thời kì chống Pháp lúc bấy giờ.
6. Phân tích bài Làng chi tiết
Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với
vốn am hiểu sâu sắc và gắn bó với nông thôn và người nông dân nên truyện của ông
thường xoay quanh những nếp sinh hoạt, cảnh ngộ, phong tục truyền thống của người
nông dân Bắc Bộ. Nguyên Hồng nhận xét: Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với "đất"
với "người" với "thuần hậu nguyên thủy" của cuộc sống nông thôn.
Truyện ngắn "Làng" (1948) là một minh chứng tiêu biểu cho lời nhận xét đó của
Nguyên Hồng. Bằng việc khai thác đề tài tình yêu làng, lòng yêu nước, tinh thần kháng
chiến của người nông dân phải rời làng đi tản cư qua nhân vật ông Hai, Kim Lân đã xây
dựng thành công tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sinh
động bằng một thứ ngôn ngữ mang đậm chất khẩu ngữ và lời ăn tiếng nói hằng ngày của người nông dân.
Trước hết, truyện ngắn "Làng" đã được Kim Lân xây dựng trên tình huống gay cấn để
bộc lộ tình yêu làng, tình yêu đất nước sâu sắc ở nhân vật ông Hai. Đó là tin làng ông
theo giặc lập tề mà chính ông nghe được từ miệng của những người tản cư dưới xuôi
lên. Tình huống ấy đã đẩy câu chuyện vào chỗ thắt nút khi mà ông Hai - một con người
vốn yêu làng, luôn khoe và hãnh diện về làng thì nay lại hay tin là theo giặc.
Vì thế ông đau đớn, xót xa và cảm thấy tủi hổ, bẽ bàng. Trong thế giới nội tâm nhân vật
có sự đấu tranh xung đột giữa tình yêu làng và tình yêu nước mà tình cảm nào cũng
mãnh liệt, song tình yêu nước, tinh thần kháng chiến rộng lớn, bao trùm lên tình yêu
làng. Nhưng cuối cùng, cũng từ tình huống ấy đã mở nút cho câu chuyện khi mà ông
nhận được tin cải chính về làng. Tình huống này đã khẳng định ông Hai và làng chợ
Dầu luôn trung thành tuyệt đối với kháng chiến với cụ Hồ, với dân tộc.
Cũng qua tình huống truyện, người đọc còn nhận ra tài năng khắc họa, miêu tả tâm lí
nhân vật sắc sảo của nhà văn Kim Lân qua nhân vật ông Hai. Có thể nói, dưới tác động
của tình huống, sự việc khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, tâm lý nhân vật ông Hai
đã có những diễn biến phức tạp và nhà văn đã trực tiếp nhập vai vào nhân vật để nói
bằng tiếng nói nhân vật, mô tả sự giằng xé trong thế giới nội tâm với những mâu thuẫn,
xung đột gay gắt, dữ dội.
Cũng như biết bao người dân quê khác, ông Hai gắn bó sâu nặng với nơi chôn rau cắt
rốn của mình - làng chợ Dầu. Tình yêu ấy của ông thật đặc biệt, biểu hiện của nét tâm lí
đó là luôn tự hào và thích khoe về làng. Nhưng có một sự kiện bất ngờ đã xảy ra với
ông, từ phòng thông tin bước ra đang rất phấn khởi, náo nức vì những tin vui của
kháng chiến, gặp người tản cư, nghe họ nhắc tới tên làng, ông Hai quay phát lại, lắp
bắp hỏi, hi vọng được nghe những tin tốt lành về làng, nào ngờ lại hay tin: cả làng chợ Dầu theo giặc.
Trước tin dữ ấy, ông Hai sững sờ chết lặng "Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê
rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như không thở được". Từ niềm vui, niềm tin hi vọng,
ông Hai rơi xuống vực thẳm đau buồn, xót xa, tuyệt vọng. Ông cố gắng trấn tĩnh bản
thân và tìm cách lảng ra về, muốn che giấu đi tâm trạng ấy nhưng nỗi tủi hổ, bẽ bàng,
lo lắng khiến ông "cúi gằm mặt mà đi", còn văng vẳng tiếng chửi "giống Việt gian bán nước".
Khi về đến nhà, ông Hai nằm vật ra giường, rồi tủi thân khi nhìn đàn con nhỏ: "nước
mắt ông lão cứ giàn ra". Những dòng độc thoại nội tâm trong ông thể hiện nỗi day dứt,
đau đớn: "Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ
rúng hắt hủi đấy ư?...". Ông căm giận lũ người theo giặc, phản bội làng nước, ông lão
nắm chặt hai tay mà rít lên: "Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi
làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này".
Nhưng sau đó, ông lại cảm thấy "ngờ ngợ" như lời của mình không được đúng lắm.
Niềm tin và nỗi thất vọng đang giằng xé trong ông. "Ông kiểm điểm từng người trong
óc" thấy họ đều là những người có tinh thần kháng chiến, một sống một chết với giặc,
có đời nào lại can tâm làm điều nhục nhã ấy được. Trong hoàn cảnh giặc giã thì tinh
thần yêu nước, tinh thần kháng chiến là một thứ tình cảm thiêng liêng, cao đẹp; còn
phản bội là điều xấu xa ô nhục nhất.
Vì thế từ khi nghe tin làng mình theo giặc, nó đã trở thành nỗi ám ảnh, day dứt trong
tâm trí của ông, khiến ông ba bốn hôm nay không dám bước chân ra đến ngoài. Suốt
ngày chỉ quanh quẩn ở trong cái gian nhà chật chội ấy mà nghe ngóng binh tình. "Một
đám đông túm lại ông cũng để ý, dăm bảy tiếng nói xa xa ông cũng chột dạ", lúc nào
ông cũng nơm nớp tưởng người ta đang để ý, đang bàn tán đến "cái chuyện ấy"; cứ
thoáng nghe những tiếng Tây, cam nhông, Việt gian là ông lại lủi thủi ra một góc nhà
nín thít... "Thôi lại chuyện ấy rồi!".
Ông luôn thu mình lại, cảm thấy xấu hổ, đau xót và dường như cảm thấy chính mình
cũng có tội vậy. Ông rời vào tình trạng tuyệt vọng khi mà bà chủ nhà đánh tiếng đuổi
gia đình ông đi vì "nghe nói, bảo có lệnh đuổi hết những người làng chợ Dầu khỏi vùng
này, không cho ở nữa". Ông Hai không biết đi đâu, cũng không thể quay lại trở về làng
vì về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ, "về làng tức là chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây".
Trong ông Hai diễn ra cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt và dứt khoát lựa chọn theo cách
của mình "Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù". Tình yêu nước
đã bao trùm lên tình yêu làng. Song ông không thể vứt bỏ nhưng yêu làng nên ông Hai
càng đau xót, tủi hổ. Trong tâm trạng bị dồn nén, không biết giải tỏa như thế nào, ông
Hai chỉ còn biết trút lòng mình với đứa con nhỏ.
Cuộc đối thoại giữa ông và đứa con trai đã bộc lộ thật cảm động tấm lòng gắn bó sâu
sắc với làng quê, với đất nước và với kháng chiến của ông Hai. Ông nói với con mà
như tự nói với chính mình, tự mình oan, tự chiêu tuyết cho mình. Đoạn thoại, vừa chất
chứa nỗi đau đớn, xót xa, lại vừa thể hiện tấm lòng thủy chung, son sắt với kháng
chiến, với cách mạng, với cụ Hồ.
Có lẽ, nếu không nhận được tin cải chính thì cả đời ông Hai sẽ chết dần, chết mòn
trong nỗi đau đớn, tủi hổ, bẽ bàng về cái làng của mình mất. Những sau đó, chính
quyền làng ông đã lên cải chính cái tin làng chợ Dầu theo giặc. Nhận được tin, ông Hai
như sống lại, niềm vui tràn ngập trong ông: quần áo chỉnh tề, mặt tươi vui, rạng rỡ hẳn
lên, mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy, nói bô bô, mua quà cho các con....
Đặc biệt là hành động ông chạy đi khoe với tất cả mọi người cái tin vui ấy. Niềm vui
sướng, hạnh phúc dâng trào khiến ông cứ múa tay lên mà khoe. Và lạ thay, câu đầu
tiên ông khoe không phải là việc làng ông không theo giặc mà là "Tây nó đốt nhà tôi
rồi... đốt nhẵn!". Với người nông dân, căn nhà là cả cơ nghiệp của họ mà cả đời họ làm
lụng vất vả mới có được.
Nhưng ông Hai không hề tiếc căn nhà của mình bởi nó là minh chứng khẳng định làng
ông không theo giặc và trên hết là nó như là sự "đóng góp" của gia đình ông với kháng
chiến. Điều đó, một lần nữa càng khẳng định rõ ràng hơn tình yêu làng, tình yêu nước
và sự trung thành với kháng chiến ở ông Hai.
Đến đây, chúng ta thấy được sức sáng tạo độc đáo của Kim Lân trong nghệ thuật tạo
tình huống, thực sự gay cấn, kịch tính với những thử thách của nội tâm nhân vật, từ đó
bộc lộ chiều sâu đời sống bên trong, tình cảm, tư tưởng của nhân vật. Tác giả đã miêu
tả tâm lí nhân vật sâu sắc, tinh tế, rất cụ thể, gợi cảm qua thế giới nội tâm với các ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ.
Đặc biệt, nhà văn đã diễn tả rất đúng, rất ấn tượng về sự ám ảnh day dứt trong tâm
trạng nhân vật. Điều đó chứng tỏ Kim Lân am hiểu sâu sắc con người và những nét
tâm lí vôn có của người nông dân Việt Nam sau lũy tre làng. Thông qua tác phẩm,
người đọc còn nhận ra ngôn ngữ của truyện rất đặc sắc, nhất là ngôn ngữ nhân vật ông
Hai. Ngôn ngữ mang đậm chất khẩu ngữ và lời ăn tiếng nói hằng ngày của người nông dân.
Lời trần thuật và lời nhân vật có sự thống nhất về sắc thái, giọng điệu do truyện được
trần thuật chủ yếu theo điểm nhìn của ông Hai, dù vẫn dùng cách trần thuật ở ngôi thứ
ba. Ngôn ngữ nhân vật ông Hai vừa có nét chung của người nông dân, lại vừa mang
đậm cá tính của nhân vật, rất sinh động, chân thực, gần gũi.
Tóm lại, "Làng" của Kim Lân là một truyện ngắn đặc sắc, khai thác một tình cảm bao
trùm và phổ biến trong con người thời kháng chiến: tình yêu quê hương, đất nước;
trong đó, nhân vật ông Hai là nhân vật có tính chất đại diện điển hình cho nét tâm lí,
tình cảm đó của người nông dân Việt Nam trong thời kì tiến công cách mạng.
Qua tác phẩm chúng ta thấy được tài năng độc đáo trong nghệ thuật tạo tình huống,
xây dựng hình tượng nhân vật có tính chất đại diện điển hình với thế giới nội tâm phong
phú, phức tạp, sinh động; ngôn ngữ truyện mộc mạc, giản dị, gần gũi với đời sống, xen
lẫn giữa độc thoại và đối thoại đan xen... tất cả đã làm nên sự thành công độc đáo, hấp
dẫn cho thiên truyện ngắn.
7. Phân tích truyện ngắn Làng hay nhất
Nhà văn Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920, quê ở làng Chợ Dầu,
huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông chuyên viết truyện ngắn và có tác phẩm đăng báo
từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Vốn gắn bó và am hiểu sâu sắc cuộc sống
nông thôn nên Kim Lân thường viết về đề tài sinh hoạt ở làng quê và cảnh ngộ của
người nông dân nghèo trong chế độ phong kiến, thực dân.
Truyện ngắn Làng được ông sáng tác trong những năm đầu của cuộc kháng chiến
chống Pháp và in trên tạp chí Văn nghệ năm 1948. Tình yêu làng quê và lòng yêu
nước, tinh thần kháng chiến của người nông dân đã được tác giả thể hiện chân thực,
sâu sắc và cảm động qua nhân vật ông Hai. Cốt truyện không xây dựng trên các chi tiết
và sự kiện bên ngoài mà chú trọng đến diễn biến tâm lí, từ đó làm nổi bật tính cách
nhân vật và chủ đề tác phẩm.
Bối cảnh của truyện là những năm đầu kháng chiến. Theo lệnh của uỷ ban xã, ông Hai
cùng dân làng phải đi tản cư để tránh những trận càn lớn của giặc. Xa làng, ông nhớ
cảnh, nhớ người, muốn về thăm nhà. Một hôm ra phố huyện, nghe đám người mới ở
dưới xuôi lên bảo rằng dân làng Chợ Dầu theo giặc làm Việt gian, ông buồn lắm.
Nhưng rồi ông ngẫm nghĩ, có thể là một sự nhầm lẫn. Kiểm điểm lại từng người trong
óc, ông thấy ai cũng quyết chiến với giặc. Trong lúc ông Hai đang băn khoăn, khổ sở
thì bà chủ nhà lại muốn đuổi đi, không cho ở nhờ nữa vì ông là dân làng Chợ Dầu
“phản động”. Ông Hai càng buồn tủi và xấu hổ. Bây giờ về làng là theo giặc, ở lại thì
không được. Trong lúc ông Hai dường như tuyệt vọng thì chủ tịch làng Chợ Dầu lên tận
nơi tản cư cải chính và thông báo tin chiến thắng của quân dân làng Chợ Dầu. Ông Hai
vui lắm, đi đâu cũng kể về làng Chợ Dầu, tưởng như chính mình vừa cùng dân làng đánh giặc.
Ở phần đầu truyện, tác giả thuật lại rằng, mỗi khi kể về cái làng Chợ Dầu nổi tiếng khắp
vùng Kinh Bắc, ông Hai đều kể bằng giọng say mê náo nức lạ thường. Nào là làng
mình nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh; nào là đường làng toàn lát đá xanh, trời mưa
đi từ đầu làng đến cuối làng không hề lấm gót, ngày mùa phơi thóc phơi rơm thì tốt
thượng hạng... Yêu mến, hãnh diện về làng mình, nên ông Hai mắc tật hay khoe. Theo
ông thì cái gì của làng Chợ Dầu quê ông cũng hơn hẳn thiên hạ.
Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, cuộc sống của gia đình ông Hai có nhiều thay đổi,
duy niềm tự hào về làng Chợ Dầu dường như vẫn y nguyên. Ở nơi tản cư, ông hay kể
cho mọi người nghe về làng mình với những hố, những ụ chống càn, những giao thông
hào chằng chịt như mạng nhện, những cụ phụ lão râu tóc bạc phơ vẫn tập đi một, hai,
một, hai... Làng ông có chòi phát thanh cao nhất vùng, có nhà thông tin rộng rãi sáng
sủa nhất vùng... Ông Hai rất kiêu hãnh về phong trào kháng chiến sôi nổi của làng Chợ
Dầu. Ông đã tích cực cùng mọi người đào đường đắp luỹ, rào làng kháng chiến, góp
phần vào những thành tích đáng tự hào của quê hương.
Ở đoạn trích này, tình yêu làng của ông Hai được thể hiện một cách cảm động trong
những ngày buộc phải tản cư. Mọi niềm vui, nỗi khổ của ông gắn liền với vận mệnh của làng Chợ Dầu.
Lúc nào ông cũng nghĩ về cái làng của ông, lại nghĩ đến những ngày cùng làm việc với
anh em,... cùng anh em đào đường đắp , xẻ hào, khuân đá... Chao ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá.
Khi đứa con gái lớn từ quán về, giao vội nhà cho con, ông Hai náo nức ra phòng thông
tin rồi rẽ lên huyện để nghe tin tức kháng chiến.
Tác giả đặt nhân vật vào một tình huống gay cấn để làm nổi bật tính cách nhân vật, bộc
lộ sâu sắc tình cảm yêu làng, yêu nước của ông Hai. Tình huống ấy là cái tin làng Chợ
Dầu theo giặc, mà chính ông nghe được từ miệng những người mới tản cư dưới xuôi lên.
Khi nghe cái tin đột ngột ấy, ông Hai đau đớn, sững sờ : Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại,
da mặt tê rần rần. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được... Lúc đã trấn tĩnh
được phần nào, ông vẫn ngờ ngợ, nhưng rồi những người tản cư đã kể rành rọt, lại
khẳng định vừa ở dưới ấy lên, khiến ông không thể không tin.
Ông cảm thấy đau đớn vì làng Chợ Dầu yêu quý của ông đã rời bỏ kháng chiến. Không
chịu nổi sự nhục nhã, ông vờ đứng lảng ra chỗ khác. Từ lúc ấy, trong tâm trí của ông
Hai, cái tin dữ ấy trở thành một nỗi ám ảnh day dứt. Nghe tiếng bà con chửi bọn Việt
gian, ông cúi gằm mặt mà đi. Về đến nhà, ông nằm vật ra giường. Nhìn đàn con, ông
Hai tủi thân. Nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy
ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?
Tủi nhục và xấu hổ, lúc nào ông Hai cũng nơm nớp lo sợ người ta để ý, bàn tán về dân
làng Chợ Dầu theo giặc. Có lúc uất quá, ông nắm chặt tay, nghiến răng nguyền rủa:
Chúng bay ăn miếng cơm hay ăn miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán
nước để nhục nhã thế này.
Suốt mấy ngày sau, ông Hai không dám đi đâu, ông chỉ quanh quẩn ở nhà, nghe ngóng
tình hình bên ngoài: Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa
xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý,
người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian,
cam-nhông... là ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi!
Tác giả đã diễn tả rất cụ thể nỗi ám ảnh nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên
cùng với nỗi đau xót, tủi hổ của ông Hai trước cái tin làng mình theo giặc.
Ông lão yêu làng tha thiết nhưng lại vô cùng căm uất khi nghe tin dân làng theo giặc.
Hai tình cảm tưởng chừng mâu thuẫn ấy đã dẫn đến một sự xung đột nội tâm dữ dội.
Ông Hai dứt khoát lựa chọn theo cách của ông: Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây
mất rồi thì phải thù. Tình cảm yêu nước rộng lớn hơn đã bao trùm lên tình cảm đối với
làng quê. Dù đã xác định như thế, nhưng ông Hai vẫn không thể dứt bỏ tình cảm đối
với quê hương; vì thế mà ông càng xót xa, cay đắng.
Ông Hai càng bị đẩy vào tình thế bế tắc, tuyệt vọng khi bà chủ nhà nơi tản cư muốn
đuổi gia đình ông đi. Đi đâu bây giờ? Không ai muốn chứa chấp dân của cái làng Việt
gian, cũng không thể quay về vì về làng tức là chịu quay về làm nô lệ cho Tây. Mâu
thuẫn trong tình thế và trong nội tâm nhân vật dường như đã tới đỉnh điểm, đòi hỏi phải được giải quyết.
Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời, ông Hai oán giận làng mình. Không thể san sẻ với
người ngoài, ông chỉ còn biết tâm sự với đứa con nhỏ cho vơi nỗi đau. Đây là đoạn
truyện bộc lộ một cách chân thực và cảm động tâm trạng của ông Hai:
Ông lão ôm thằng con út lên lòng, vỗ nhè nhẹ vào lưng nó, khẽ hỏi:
- Húc kia! Thầy hỏi con nhé, con là con ai?
- Là con thầy mấy lị con u. - Thế nhà con ở đâu?
- Nhà ta ở làng Chợ Dầu.
- Thế con có thích về làng Chợ Dầu không?
Thằng bé nép đầu vào ngực bố trả lời khe khẽ: - Có.
Ông lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu ông lại hỏi:
- À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?.
Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:
- Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!
Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ:
- Ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ.
Mấy hôm nay ru rú ở xó nhà, những lúc buồn khổ quá chẳng biết nói cùng ai, ông lão
lại thủ thỉ với con như vậy. Ông nói như thế để ngỏ lòng mình, như để mình lại minh oan cho mình nữa.
Anh em đồng chí biết cho bố con ông.
Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông.
Cải lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ
dám đơn sai. Mỗi lần nói ra được đôi câu như vậy nỗi khổ trong lòng ông cũng vơi đi được đôi phần.
Qua những lời tâm sự với đứa con nhỏ, thực chất là tự nhủ với mình, tự giãi bày nỗi
lòng mình, ta thấy rõ ở ông Hai tình yêu sâu nặng với cái làng Chợ Dầu của ông. Ông
muốn đứa con nhỏ ghi nhớ câu Nhà ta ở làng Chợ Dầu, thuỷ chung với kháng chiến,
với cách mạng, với Cụ Hồ. Tình cảm ấy thật bền vững và thiêng liêng.
Nhưng rồi nỗi đau khổ, nhục nhã đã được thay thế bằng niềm vui sướng, hân hoan.
Ông Hai vội vã thông báo với mọi người cái tin làng ông bị giặc phá, nhà ông bị giặc
đốt: Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn. Ông chủ tịch làng em vừa lên cải
chính... cải chính cái tin làng Chợ Dầu chúng em là Việt gian ấy mà. Ra láo! Láo hết,
chẳng có gì sất. Toàn là “sai sự mục đích” cả!.
Ông Hai mừng rỡ vì dân làng Chợ Dầu vẫn trung thành với kháng chiến. Làng Chợ Dầu
vẫn xứng đáng với niềm tự hào của ông. Không nén nổi cảm xúc, ông Hai múa tay lên
mà khoe. Nỗi khổ, niềm vui của ông Hai không bó hẹp trong phạm vi của bản thân và
gia đình mà tất cả đều gắn liền với làng Chợ Dầu xứ Kinh Bắc.
Mỗi người dân Việt Nam đều yêu thương, gắn bó với quê hương mình bởi đó là nơi tổ
tiên, ông cha đã sinh cơ lập nghiệp bao đời; là nơi chôn nhau cắt rốn; nơi có những
người thân yêu đang cần cù làm lụng một nắng hai sương. Vì vậy, lòng yêu mến làng
quê đã trở thành tình cảm truyền thống của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là người nông
dân Việt Nam. Yêu làng cũng là yêu nước. Ông Hai đã buồn vui sướng khổ, đã kiêu
hãnh, tự hào vì làng Chợ Dầu quê hương ông. Đó chính là vẻ đẹp mới trong tâm hồn
người nông dân thời kháng chiến chống Pháp đã được nhà văn Kim Lân khám phá và
thể hiện rất thành công.
8. Phân tích bài Làng mẫu 1
Kim Lân là một nhà văn có sở trường viết truyện ngắn. Hầu hết các tác phẩm của ông
chỉ viết về sinh hoạt của nông dân và cảnh ngộ của người nông dân. Truyện "Làng"
được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ 1948.
Truyện tập trung nói về lòng yêu nước của ông Hai, lòng yêu nước này phát xuất từ
tình yêu nơii chôn nhau cắt rốn của mình và nó đã hòa hợp giữa làng và nước. Tình
cảm và ý nghĩa này đã trở thành phổ biến ở mỗi người dân Việt Nam ta trong những
ngày đầu kháng chiến chống Pháp.
Qua hình tưởng ông Hai, ta sẽ hiểu rõ lòng yêu nước của nhân dân ta lúc bây giờ. Làng
chợ Dầu có chiến sự, ông Hai phải tản cư đốt làng Thắng, vùng tự do theo chính sách
của Cụ Hồ. "Tản cư là yêu nước". Nhưng không phải ra khỏi làng chợ Dầu là ông Hai
bỏ lại sau lưng tất cả mà ngược lại lúc nào ông cũng trông ngóng tin tức và theo dõi
những biến chuyển của làng chợ Dầu. Đó là nơi ông sinh cơ lập nghiệp, nơi ông sinh ra
và lớn lên. Biết bao tình cảm đã gắn bó ông với cảnh vật, với dân làng nơi mảnh đất
quê hương ấy. Bỡi lẽ đó mà mỗi khi nói đến làng chợ Dầu ông nói với giọng "say mê và
náo nức lạ thường. ông Hai đã yêu làng chợ Dầu bằng một tình yêu thật đặc biệt. Ông
yêu tất cả nhũng gì ở làng ông : Những nhà ngói san sát, đường lát toàn đá xanh... Cái
sinh phần của viên quan Tổng đốc...
Từ sau Cách mạng tháng Tám, lòng yêu làng quê của ông Hai có những chuyển biến
rõ rệt. Trước kia ông hãnh diện vì làng ông giàu có, to đẹp. Giờ đây ông lại tự hào về
những cái khác : phong trào cách mạng sôi nổi, những buổi tập quân sự, những buổi
đắp ụ, hô, giao thông hào... luôn cả cái phòng thông tin, cái chòi phát thanh... Trong con
mắt ông Hai, cái gì của làng chợ Dầu đều đáng tự hào tốt. Vì vậy cho nên từ lúc phải đi
tản cư, ông khổ tâm day dứt không nguôi. Quả thật cuộc đời và số phận của ông thật
sự gắn bó với những buồn vui của làng. Tự hào và yêu nỗi chôn nhau cắt rốn của mình
đã trở thành truyền thống, là tâm lí chung của mọi người dân lúc bấy giờ.
Chính cách mạng và kháng chiến đã khơi dậy ở những người nông dân tình cảm yêu
nước hoà nhập thống nhất với tình cảm làng quê thành một thứ tình cảm rộng lớn nhất.
Đến đây tác giả đã đặt nhân vật vào một tình huống gay gắt để bộc lộ sâu sắc lòng yêu
làng, yêu nước của ông Hai tình huống ấy là cái tin làng chợ Dầu theo giặc : "Cả làng
chúng nó Việt gian theo Tây". Nghe tin đột ngột, ông Hai sững sờ "cổ ông lão nghẹn
đắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được". Ông
cảm thấy nhục nhã vì cái làng chợ Dầu yêu quí của mình đã theo giặc, làm Việt giam
Bao nhiêu điều tự hào trước kia giờ đây sụp đổ và nó trở thành nỗi xấu vô cùng. Từ lúc
ấy ông Hai không dám đi đâu, lúc nào cũng im nớp lo sợ tưởng như người ta đang bàn
tán đến cái chuyện ấy... Và từ nỗi ám ảnh trở thành sự sợ hãi thấu xuyên trong ông Hai
với nỗi đan xọt, tủi hổ trong lòng : Làng và nước trở thành dõi dịch. Hai tình cảm này đã
dẫn đến một cuộc xung đột nội tâm ở ông Hai. Vì thế có lúc ông nghĩ "làng thì yêu thật,
nhưng làng theo Tây mất rồi thi phải thù". Rõ ràng tình yêu nước rộng lắm hơn nên bao
trùm lên tình yêu làng quê. Mặc dù đã xác định như vậy nhưng ông vẫn không rứt bẻ
tình cảm đối với làng chợ Dầu được, nên nỗi day dút ngày càng tăng thêm. Phải thật sự
ám hiện sâu sắc về con người nhất là tâm lí của ngừơi nông dân nên nhà văn Kim Lân
mới diễn tả rất đúng tâm trạng nhân vật ông Hai như vậy.
Từ đó vì nỗi khổ tâm này ông Hai chỉ còn biết trút vào đứa con nhỏ ngây thơ: "Nhà ta ở
làng chợ Dầu", "ủng hộ Cụ Hé con nhỉ !" Những lần tâm sự ấy thực chất là lần tự nhủ
với chính mình, tự giãi bày nỗi lòng mình nhằm khẳng định tình yêu sâu nặng của mình
với cái làng chợ Dầu đồng thời cũng khẳng định lòng thủy chung với cách mạng với
kháng chiến mà biểu tượng là Cụ Hồ Lòng yêu nước của ông Hai còn được biểu hiện
rõ nét hơn khi nghe tin đính chính : Làng bị giặc tàn phá, không theo Tây. Những nỗi lo
âu, xấu hổ tan biến đi thay vào đó là niềm vui mừng khôn xiết nên ông nói "Tây nó đốt
nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn !". Đây quả là một niềm vui kì lạ. Niềm vui mừng này thể
hiện một cách đau xót và đầy cảm động về tinh thần yêu nước và cách mạng của ông
Hai. Đây là tình cảm đặc biệt của ông Hai cũng là tình cảm chung của những người
nông dân hay đúng hơn là của nhân dân ta lúc bây giờ, thời kháng chiến chống Pháp.
Đối với lũ trong lúc này, trước hết và trên hết là Tổ quốc. Vì Tổ quốc họ sẵn sàng hi
sinh tất cả dù đó là tính mạng hay tài sản. Tình yêu nước của nhân dân ta là như thế.
Thành công của Kim Lân là xây dựng theo cốt truyện tâm lí, tạo tình huống có tính căng
thẳng thử thách nội tâm nhân vật để từ đó bộc lộ tâm trạng, tính cách nhân vật. Nơi đặt
tác phẩm vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp ta mới thấy giá trị thành
công của nó. Bởi lẻ thông qua nhân vật ông Hai với những ngôn ngữ, cử chỉ, tâm
trạng... tiêu biểu là một người nông dân có cá tính riêng : vui tính, thích trò chuyện
nhưng cũng ham nói chữ đó cũng là nét tâm lí chung của quần chúng. Cách trần thuật
tự nhiên, linh hoạt khiến cho truyện sinh động, hấp dẫn hơn.
Tóm lại, "Làng" của Kim Lân là một truyện ngắn đặc sắc khai thác một tình cảm bao
trùm và phổ biến trong con người thời kì kháng chiến : Tình cảm quê hương, đất nước.
Đây Ịà một tình cảm mang tính cộng đồng. Nhưng thành công của Kim Lân là đã diễn
tả tình cảm, tâm lí chung ấy trong sự thể hiện cụ thể, sinh động ở một con người, trở
thành một nét tâm lí sâu sắc ở nhân vật ông Hai. Vì thế nó là tình cảm chung mà lại
mang rõ màu sắc riêng, cá nhân in rõ cá tính của nhân vật. Tình yêu làng quê, yêu
nước, yêu kháng chiến của nhân vật ông Hai trong truyện là tình cảm thực sự của nhân
dân ta trong thời kháng chiến. Truyện giúp chúng ta hiểu, yêu mến và khâm phục biết
bao những người nông dân bình dị, chất phác mà lại có lòng yêu nước thiết tha và cao cả đến thế.
9. Phân tích Làng của Kim Lân mẫu 2
Kim Lân là nhà văn hiện đại Việt Nam. Ông có một vốn sống vô cùng sâu sắc về nông
thôn Việt Nam. Những thú chơi dân dã mang cốt cách "phong lưu đồng ruộng" như thả
diều, chọi gà, nuôi chó săn, thả chim bồ câu, chơi núi non bộ, gánh hát chèo, trẩy hội
mùa xuân, v.v... được ông viết rất hay và cho ta nhiều thú vị. Ông là một trong những
cây bút truyện ngắn xuất sắc mang hương đồng gió nội qua 2 tác phẩm: Con chó xấu xí và Nên vợ nên chồng.
Viết về đề tài nông dân và kháng chiến, truyện Làng của Kim Lân thành công hơn cả.
Nhân vật chính của truyện là ông Hai đã để lại trong lòng em nhiều ấn tượng sâu sắc,
đẹp đẽ. Ông Hai là một lão nông, cần cù chất phác, giàu lòng yêu quê hương đất nước.
Ông gắn bó với cách mạng, quyết tâm đi theo kháng chiến, trung thành tuyệt đối vào sự
lãnh đạo sáng suốt của Cụ Hồ Chí Minh.
Cũng như hàng triệu người nông dân khác, ông Hai là một con người cần cù chất phác
rất đáng yêu. Ông hay lam hay làm "ở quê ông làm suốt ngày, không mấy lúc chịu ngơi
chân ngơi tay". Đi cày, đi cuốc, gánh phân, tát nước, đan rổ, đan rá,... ông đều làm khéo, làm giỏi.
Ông Hai đã sống qua hai chế độ, trước kia ông mù chữ, sau nhờ cách mạng mà ông
được học "bình dân học vụ", biết đánh vần. Kim Lân đã kể rất hay về tình yêu làng của
ông Hai. "Làng ta phong cảnh hữu tình"... không yêu làng sao được? Cái làng Chợ Dầu
vốn là nơi chôn nhau cắt rốn của ông, "nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh", "đường
trong làng toàn lát đá xanh, trời mưa trời gió ...bùn không dính đến gót chân"...
Trước kia, ông Hai rất lấy làm tự hào về cái sinh phần quan tổng đốc làng ông. Đi đâu
ông cũng khoe, gặp ai ông cũng khoe "cái dinh cơ cụ thượng làng tôi có lăm lắm là của.
Vườn hoa cây cảnh nom như động ấy...". Ông yêu làng Chợ Dầu với tất cả sự hồn
nhiên, ngây thơ của người ít học. Ông đã mang thương tật trên mình khi bị bắt làm phu
xây cái lăng ấy! Đáng lẽ ông không nên khoe, không nên "hả hê cả lòng".
Nỗi đau, nỗi nhục của một đời người nói làm gì nữa cho thêm phần nhục nhã? Nhắc lại
chuyện xưa, cũ ấy của ông Hai, Kim Lân đã viết với một giọng văn châm biếm nhẹ
nhàng. Từ ngày cách mạng thành công, ông Hai vẫn yêu làng, yêu với tất cả tình cảm
trong sáng, chân thành. Ông đã có nhiều thay đổi về mặt nhận thức. Ông không bao
giờ còn "đả động" đến "cái sinh phần" ấy nữa, ông biết "thù nó" đến tận tim gan.
Ông yêu cái làng Chợ Dầu kháng chiến với tất cả niềm kiêu hãnh cao cả! Cái làng Chợ
Dầu của ông "mà cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng, chòi
phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy". Ông khoe
làng mình "những ngày khởi nghĩa rầm rập", các cụ phụ lão râu tóc bạc phơ vác gậy đi
tập quân sự, "nhất là những hố, những ụ, những giao thông hào của làng ông thì lắm
công trình không để đâu hết!".
Có thể nói, từ ngày đi tản cư, phải xa làng thân yêu, bao nỗi buồn vui của quá khứ và
hiện tại chứa chất trong lòng ông bao tâm sự. Dưới ngòi bút của Kim Lân, ông Hai, một
người nông dân yêu làng, yêu nước, hiền lành, chất phác... hiện lên một cách chân
thực, ta thấy gần gũi, bình dị và đáng yêu lắm. Tình yêu làng, tình yêu quê hương là
một trong những tình cảm sâu sắc nhất của người dân cày Việt Nam.
Quyết tâm kháng chiến, tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Hồ Chủ tịch cũng là
một nét rất đẹp trong tư tưởng, tình cảm của ông Hai. Kháng chiến thì khắp nơi "Ruộng
rẫy là chiến trường. Cuốc cày là vũ khí. Nhà nông là chiến sĩ". Vợ con đi tản cư, nhưng
ông Hai vẫn ở lại cùng với đội du kích "đi đào đường, đắp ụ" để bảo vệ cái làng Chợ
Dầu thân yêu. Khi hoàn cảnh gia đình neo bấn, vợ con thúc hách, cực chẳng đã phải xa
quê hương, ông tự an ủi mình: "Thôi thì chẳng ở lại làng cùng anh em được thì tản cư
âu cũng là kháng chiến!".
Xa làng rồi nhớ làng, tính nết ông Hai có phần thay đổi. Ông ít nói ít cười, lầm lầm lì lì,
thậm chí cáu gắt, chửi bới vợ con. Ồng vô cùng đau khổ: "Chúng mày làm khổ ông!
Chúng mày làm khổ ông vừa vừa chứ! Ông thì giết hết, ông thì giết hết!". Chúng ta cảm
thông với "tâm sự" u uẩn của ông, thương ông lắm!
Trong lúc ông Hai đang hồ hởi với những chiến tích kháng chiến, những gương dũng
cảm anh hùng của quân và dân ta thì ông như bị sét đánh về cái án "dữ" cả làng Chợ
Dầu "Việt gian theo Tây",.., "vác cờ thần ra hoan hô" lũ giặc cướp! ông tủi nhục cúi gằm
mặt mà đi, nằm vật ra giường như bị ốm nặng, nước mắt cứ tràn ra, có lúc ông chửi thề
một cách chua chát! Ông sống trong bi kịch triền miên.
Vợ con vừa buồn vừa sợ. "Gian nhà lặng đi, hiu hắt". Ông sợ mụ chủ nhà... có lúc ông
nghĩ quẩn "hay ta quay về làng"... nhưng rồi ông lại kiên quyết: "Làng thì yêu thật,
nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù!. Kim Lân rất sâu sắc và tinh tế miêu tả những
biến thái vui, buồn, lo, sợ... của người nông dân về cái làng quê của mình. Họ đã yêu
làng trong tình yêu nước, đặt tình yêu nước lên trên tình yêu làng. Đó là một bài học vô
cùng quý giá và sâu sắc của ông Hai đem đến cho mỗi chúng ta!
Cuộc đối thoại giữa hai bố con ông Hai là một tình tiết cảm động và thú vị:
... - "À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?"
- "Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!"
Nghe con ngây thơ nói mà nước mắt ông chảy ròng ròng trên hai má... Lòng trung
thành của cha con ông, của hàng triệu nông dân Việt Nam đối với lãnh tụ là vô cùng
sâu sắc, kiên định, vẻ đẹp tâm hồn ấy của họ rất đáng tự hào, ca ngợi. Vì thế, khi cái tin
thất thiệt "cả cái làng Chợ Dầu Việt gian theo Tây" được cải chính thì ông Hai là người sung sướng nhất.
Ông "tươi vui, rạng rỡ hẳn lên", "mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ...".
Ông mua quà cho con. Ông chạy sang nhà bác Thứ để "khoe" cái tin làng Chợ Dầu
đánh giặc, nhà ông bị Tây đốt. Tự hào lắm chứ! Người đọc như được san sẻ niềm vui sướng cùng ông.
Gấp trang sách lại, chúng ta bồi hồi xúc động về tình yêu làng của ông Hai, về nghệ
thuật kể chuyện tạo tình huống hấp dẫn, hồi hộp của nhà văn Kim Lân. Những phẩm
chất tốt đẹp của ông Hai như cần cù lao động, chất phác, yêu quê hương đất nước...
tiêu biểu cho bản chất cao quý, trong sáng của người dân cày Việt Nam. Chính họ đã
đổ mồ hôi làm nên những bát cơm đầy dẻo thơm nuôi sống mọi người. Chính họ đã
đem xương máu, đánh giặc "giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín"... (Thép Mới).
"Quê hương là chùm khế ngọt..." là niềm vui, nỗi buồn, là ước mơ đẹp của mỗi chúng
ta. Quê hương đang đổi mới "ngói hóa", no ấm, giàu có trong thanh bình. Bài học sâu
sắc nhất đối với em khi đọc truyện ngắn này của Kim Lân là tình yêu quê hương đất
nước, từ lòng tự hào và biết ơn người dân cày Việt Nam.
10. Phân tích Làng của Kim Lân mẫu 3
Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài sinh năm 1921, quê ở Hà Bắc. Là nhà văn chuyên
viết truyện ngắn, ông đã có sáng tác đăng báo từ trước cách mạng tháng 8. Là nhà văn
am hiểu sâu sắc, gắn bó với nông dân và nông thôn, Kim Lân hầu như chỉ viết về sinh
hoạt nông thôn và cảnh ngộ của người nông dân.
Truyện ngắn Làng là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân được viết
trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1948). Đây là một tác phẩm độc
đáo viết về lòng yêu nước của ông Hai Tu, lòng yêu nước này xuất phát từ tình yêu quê
hương, yêu làng sâu sắc của ông. Tình cảm và ý nghĩa này đã trở thành phổ biến ở
mỗi người nông dân VN ta trong những ngày đầu chống Pháp.
Ông Hai yêu cái làng chợ Dầu của ông thật đậm đà, tha thiết , yêu đến nỗi đi đâu ông
cũng khoe về cái làng của ông. Kể về làng chợ Dầu, ông nói một cách say sưa mà
không cần biết người nghe có chú ý hay không. Ông khoe làng ông có nhà ngói san
sát, sầm uất, đường trong làng lát toàn bằng đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối
xóm bùn không dính đến gót chân. Tháng 5 ngày 10 phơi rơm và thóc tốt thượng hạng,
không có lấy một hạt thóc đất.
Ông còn tự hào về cái sinh phần của tổng đốc làng ông. Ông tự hào, vinh dự vì làng
mình có cái nét độc đáo, có bề dày lịch sử. Nhưng khi cách mạng thành công, nó đã
giúp ông hiểu được sự sai lầm của mình. Và từ đó, mỗi khi khoe về làng là ông khoe về
những ngày khởi nghĩa dồn dập, những buổi tập quân sự có cụ râu tóc bạc phơ cũng
vác gậy đi tập. Ông còn khoe cả những hố , những ụ, những hào,... lắm công trình không để đâu hết.
Chính cái tình huống ngặt nghèo khi giặc tràn vào làng, ông buộc phải xa làng. Xa làng
ông mang theo tất cả nỗi niềm thương nhớ. Vì vậy, nên lúc tản cư, ông khổ tâm day
dứt khôn nguôi. Quả thật, cuộc đời và số phận của ông Hai thật sự gắn bó với buồn vui
của làng. Tự hào và yêu nơi "chôn rau cắt rốn" của mình trở thành một truyền thống và
tâm lý chung của mọi người nông dân thời bấy giờ.
Có thể tình yêu nước của họ bắt nguồn từ cái đơn giản, nhỏ: cây đa, giếng nước, sân
đình... và nâng cao lên đó chính là : tình yêu đất nước. Tới đây, là chợt nhớ đến câu
nói bất hủ của nhà văn I-li-a Ê-ren-bua : "lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở
nên lòng yêu tổ quốc".
Những ngày ở làng Thắng, ông Hai suốt ngày ra trụ sở để nghe ngóng tin tức về làng
chợ Dầu và ông nghe tin cả làng ông Việt gian theo tây. Cổ ông lão "nghẹn ắng lại, da
mặt tê rân rân" ông lão lặng đi, tưởng như không thể thở được. Ông cảm thấy đau đớn
và nhục nhã vì cái làng chợ Dầu yêu quý của mình theo giặc.
Ông nguyền rủa bọn theo Tây: "chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi
làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này". Cũng chính từ lúc ấy, ông
không dám đi đâu hết, suốt ngày ru rú trong nhà và nghe ngóng tin tức. Đến khi mụ chủ
nhà đến báo không cho gia đình ông ở nữa, ông thấy tuyệt đường sinh sống và ông
nảy ra ý định: "hay là quay về làng?" nhưng rồi ý nghĩ đó lập tức bị ông lão phản đối
ngay vì: "làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù."
Có thể nói với ông Hai, làng và nước bây giờ đã trở thành đối địch. Hai tình cảm này đã
dẫn đến cuộc xung đột nội tâm trong lòng ông. Nhưng trong đó, tình yêu đất nước
được ông Hai đặt lên trên hết. Phải thực sự am hiểu sâu sắc về con người, nhất là tâm
lí của người dân thì Kim Lân mới diễn tả đúng tâm trạng nhân vật như vậy.
Trong những ngày này, nỗi niềm và tâm sự của ông được thể hiện trong những lời trò
chuyện của ông với đứa con út. Trò chuyện với con như là để thanh minh cho làng
mình. Ông hỏi con: "con ủng hộ ai?" Thằng bá giơ tay mạnh bạo và rành rọt: "Ủng hộ
cụ Hồ Chí Minh muôn năm". Cái lòng của bố con ông là thế đấy "chết thì chết có bao
giờ dám đơn sai". Thế rồi, một tin khác lại đính chính rằng làng ông không theo giặc.
Những nỗi lo âu, xấu hổ tan biến. Thay vào đó là nỗi vui mừng, sung sướng. Ông đi từ
đầu làng đến cuối xóm khoe cái tin làng mình không theo giặc, khoe cả cái việc nhà ông
bị đốt cháy một cách sung sướng, hả hê: "bác Thứ đâu rồi ! Bác Thứ làm gì đấy? Tây
nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn ! ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính,
ông ấy cho biết... cái tin, cái tin làng chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo ! Láo hết
! toàn là sai sự mục đích cả"
Qua lời khoe của ông Hai, điều làm ta cảm động đó là ông không hề tiếc hay buồn khi
ngôi nhà của ông bị đốt . Niềm vui vì làng không theo giặc đã choáng hết tâm trí ông.
Mọi đau khổ, buồn tủi đã được rũ sạch. Quả thật, Kim Lân rất thành công trong việc
khắc họa hình ảnh của ông Hai, một trong những người dân bấy giờ, đơn giản, chất
phác, tiêu biểu cho tầng lớp nông dân Việt Nam sau cách mạng tháng 8.
Họ đã đặt tình yêu đất nước lên trên tình yêu làng. Kim Lân thật thành công trong nghệ
thuật xây xựng truyện ngắn Làng, nhất là nghệ thật sử dụng ngôn ngữ nhân vật mà ông
Hai là điển hình. Lời nói của ông hai đúng là lời nói của những người nông dân thời bấy
giờ, kể cả những từ dung sai: "bác Thứ đâu rồi... Láo ! Láo hết ! toàn là sai sự mục đích cả".
Bên cạnh đó Kim Lân còn thành công trong việc miêu tả tâm lý nhân vật. Diễn biến tâm
lý của ông Hai từ đầu đến cuối truyện thật cảm động. Yêu làng đến nỗi đi đâu cũng
khoe về làng. Khi biết làng bị tình nghi theo giặc thì ông đau khổ, tủi nhục, và khi biết
làng mình không theo giặc, ông sung sướng, thậm chí còn khoe cả tin nhà mình bị đố
cháy một cách vui sướng, hả hê.
Xây dựng được những chi tiết ấy, miêu tả sự phát triển tâm lý nhân vật như vậy, Kim
Lân đã chứng tỏ được tài nghệ của mình. Truyện ngắn Làng là một tác phẩm khá thành
công khi viết về lòng yêu nước, yêu làng của người nông dân VN thời kháng chiến chống Pháp.
Kim Lân đã thể hiện được tài năng của mình qua tác phẩm này. Đọc truyện ngắn Làng
giúp ta hình dung được một thời kỳ chống Pháp sôi nổi của nhân dân, mọi người một
lòng theo Bác, theo Đảng khánh chiến đến cùng, có lẽ vì vẫy mà cuộc chiến của ta đã
dành được thắng lợi vẻ vang.
11. Phân tích truyện ngắn Làng mẫu 4
Trong cuộc kháng chiến của dân tộc, lòng yêu nước của mỗi người dân sẽ là sức mạnh
vô biên tạo nên những thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Có nhiều cách thể hiện lòng yêu
nước của mình, có thể là những việc làm nhỏ bé những lại có ý nghĩa lớn lao. Yêu
làng, gắn bó với làng cũng là cách thể hiện lòng yêu nước. Truyện ngắn Làng của Kim
Lân nói về một người nông dân có tình cảm gắn bó với làng, với nước sâu sắc.
Truyện ngắn Làng kể về Ông Hai là một người yêu làng, gắn bó với làng, lúc nào ông
cũng khoe về cái làng của mình. Mỗi khi nói về Làng, ông nói một cách say sưa mà
không cần biết người nghe có chú ý hay không. Trước tiên ông khoe về cơ sở vật chất
của làng ông, nhà ngói san sát, sầm uất, đường trong làng lát toàn bằng đá xanh, trời
mưa đi từ đầu làng đến cuối xóm bùn không dính đến gót chân.
Tháng 5 ngày 10 phơi rơm và thóc tốt thượng hạng, không có lấy một hạt thóc đất. Ông
còn tự hào về cái sinh phần của tổng đốc làng ông. Ông tự hào, vinh dự vì làng mình có
cái nét độc đáo, có bề dày lịch sử. Sau cách mạng ông khoe về làng là ông khoe về
những ngày khởi nghĩa dồn dập, những buổi tập quân sự có cụ râu tóc bạc phơ cũng
vác gậy đi tập. Ông còn khoe cả những hố, những ụ, những hào,... lắm công trình không để đâu hết.
Khi giặc kéo về làng, ông muốn ở lại cùng dân làng chiến đấu để bảo vệ làng mình,
nhưng do yêu cầu của cấp trên ông phải xa làng. Phải xa làng đến một vùng đất khác
ông đã mang theo tất cả nỗi niềm thương nhớ. Nơi đất khách quê người, ông khổ tâm
day dứt khôn nguôi. Có thể nói cuộc đời và số phận của ông Hai thật sự gắn bó với
buồn vui của làng. Tình yêu nước của mỗi người có thể bắt nguồn từ cái đơn giản
thuộc về làng mình như cây đa, giếng nước, sân đình.
Dù xa làng nhưng ông lão luôn hướng về làng, khi nghe tin làng theo Tây, cổ ông lão
"nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân" ông lão lặng đi, tưởng như không thể thở được.
Ông cảm thấy đau đớn và nhục nhã vì cái làng chợ Dầu yêu quý của mình theo giặc.
Ông nguyền rủa bọn theo Tây: "chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi
làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này".
Cũng chính từ lúc ấy, ông không dám đi đâu hết, suốt ngày ru rú trong nhà và nghe
ngóng tin tức. Đến khi mụ chủ nhà đến báo không cho gia đình ông ở nữa, ông thấy
tuyệt đường sinh sống và ông nảy ra ý định: "hay là quay về làng?" nhưng rồi ý nghĩ đó
lập tức bị ông lão phản đối ngay vì: " làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải
thù." Ông Hai đã phải trải qua cảm xúc đau đớn khi phải suy nghĩ xem nên về làng hay
không, đó là sự thất vọng và đau đớn đến cùng cực trong nội tậm của nhân vật.
Nhà văn đã rất đồng cảm với nhân vật khi miêu tả một cách chân thật tâm trạng của
nhân vật khi phải chứng kiến nỗi đau mất làng mất nước. Ông Hai không biết tâm sự
nỗi đau giày vò của mình nên đành trò chuyện với đứa con út, đó cũng là cách để ông
thanh minh cho làng mình. Ông hỏi con: "con ủng hộ ai?" Thằng bá giơ tay mạnh bạo
và rành rọt: "Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm". Cái lòng của bố con ông là thế đấy
"chết thì chết có bao giờ dám đơn sai".
Khi nhận được tin đính chính rằng làng ông không theo giặc, thì nỗi vui mừng, sung
sướng hiện rõ trên khuôn mặt và cử chỉ của ông. Ông đi từ đầu làng đến cuối xóm khoe
cái tin làng mình không theo giặc, khoe cả cái việc nhà ông bị đốt cháy một cách sung
sướng, hả hê: "bác Thứ đâu rồi! Bác Thứ làm gì đấy? Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt
nhẵn! ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính, ông ấy cho biết... cái tin, cái
tin làng chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! toàn là sai sự mục đích cả".
Nhà bị đốt nhưng ông không hề tỏ ra lo lắng mà còn rất vui, bởi cái nhà kia không quan
trọng bằng danh dự, tinh thần chiến đấu của làng ông. Tình cảm của ông đối với làng
thật xúc động, thật đáng khâm phục biết bao.
12. Phân tích truyện ngắn Làng mẫu 5
Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là cầu tre nhỏ
Con về rợp bướm vàng bay.
(Quê hương – Đỗ Trung Quân)
Quê hương trong tâm khảm mỗi người là nơi thân thương nhất, bình dị nhất. Tình yêu
quê hương vì thế luôn là một chủ đề xuyên suốt trong văn học. Truyện ngắn Làng cũng
nằm trong mạch nguồn cảm xúc ấy. Đây là một trong những truyện ngắn hay nhất của
Kim Lân được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1948). Truyện
đã khắc họa nhân vật ông Hai – một lão nông cần cù, chăm chỉ, mang nặng lòng yêu làng, yêu kháng chiến.
Ông Hai yêu cái làng chợ Dầu của ông thật đậm đà, tha thiết, yêu đến nỗi đi đâu ông
cũng khoe về cái làng của ông. Kể về làng Chợ Dầu, ông nói một cách say sưa mà
không cần biết người nghe có chú ý hay không. Ông khoe làng ông có nhà ngói san
sát, sầm uất, đường trong làng lát toàn bằng đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối
xóm bùn không dính đến gót chân. Tháng 5 ngày 10 phơi rơm và thóc tốt thượng hạng,
không có lấy một hạt thóc đất.
Ông còn tự hào về cái sinh phần của tổng đốc làng ông. Ông tự hào, vinh dự vì làng
mình có cái nét độc đáo, có bề dày lịch sử. Nhưng khi cách mạng thành công, nó đã
giúp ông hiểu được sự sai lầm của mình. Và từ đó, mỗi khi khoe về làng là ông khoe về
những ngày khởi nghĩa dồn dập những buổi tập quân sự có cụ râu tóc bạc phơ cũng
vác gậy đi tập. Ông còn khoe cả những hố, những ụ, những hào,… lắm công trình không để đâu hết.
Chính cái tình huống ngặt nghèo khi giặc tràn vào làng, ông buộc phải xa làng. Xa làng
ông mang theo tất cả nỗi niềm thương nhớ. Vì vậy, nên lúc tản cư, ông khổ tâm day
dứt khôn nguôi. Quả thật, cuộc đời và số phận của ông Hai thật sự gắn bó với buồn vui của làng.
Tự hào và yêu nơi "chôn rau cắt rốn” của mình trở thành một truyền thống và tâm lí
chung của mọi người nông dân thời bây giờ. Có thể tình yêu nước của họ bắt nguồn từ
cái đơn giản, nhỏ: cây đa, giếng nước, sân đình… và nâng cao lên đó chính là: tình yêu
đất nước. Tới đây, là chợt nhớ đến câu nói bất hủ của nhà văn I-li-a Ê-ren-bua: "lòng
yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc".
Tình yêu làng của ông Hai càng được thể hiện rõ qua những ngày ông đi tản cư. Ông
luôn nhớ về làng những ngày ở vùng tản cư, ông yêu làng, yêu đường làng, ngõ xóm,
yêu nhà ngói, sân gạch. Ông yêu tất cả những gì gần gũi, độc đáo của làng. Ông yêu
những giờ phút hạnh phúc được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá. Từ
tình yêu làng nồng cháy ấy, truyền thống ấy, ông đến với Cách mạng từ lúc nào, từ bao
giờ mà chính ông cũng không hay biết.
Ông tham gia tản cư vì tản cư cũng là tham gia kháng chiến. Ở vùng tản cư, ông luôn
dõi theo tin tức của làng, ông hay đến phòng thông tin nghe đọc báo. Hôm ấy, ông nghe
được bao nhiêu là tin hay: “Một em nhỏ xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm
quốc kì lên Tháp Rùa”, “Một anh trung đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc đã tự
sát bằng quả lựu đạn cuối cùng”; “Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người đi mua
hàng đã bắt được một tên quan hai bốt Thao ngay giữa chợ.
Chao ôi! Bao nhiêu là tin hay, ruột gan ông lão cứ náo nức cả lên. Đến đâu, ông cũng
thấy hãnh diện, ông hay khoe về làng, về tinh thần kháng chiến của làng. Sau Cách
mạng, ông khoe về làng cũng khác, ông không còn tự hào vì cái sinh phần cụ Thượng
nữa mà thấy thù nó. Cách mạng tháng Tám thành công đã đưa đến cho người nông
dân những nhận thức mới, suy nghĩ mới về làng. Họ đã biết nhận thức được rằng cái gì đúng, cái gì sai.
Thế nhưng, niềm vui chưa kịp bày tỏ thì một cú sốc lớn đã đến với ông Hai: đó là cái tin
làng Chợ Dầu là Việt gian theo Tây. Hôm ấy, ông vừa bước ra khỏi phòng thông tin thì
nghe được cái tin ấy từ miệng người đàn bà tản cư khiến ông lão: “lặng người đi, tưởng
như đến không thở được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, ông
cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi.
Ông Hai vô cùng bàng hoàng trước cái tin ấy. Thế rồi ông rơi vào tột cùng của sự đau
đớn, ông cố lê những bước chân chậm rãi về nhà. Những ngày sau đó, ông chỉ ru rú ở
trong nhà, không dám đi đâu cả, ở đâu ông cũng được bộc lộ rõ nét. Đầu tiên, ông về
nhà và không dám đi đâu cả, chỉ ở nhà một mình, giọng nói chua lanh lảnh của người
đàn bà tản cư kia lại cứ văng vẳng trong tâm trí ông mãi: "Đói khổ ăn cắp ăn trộm, bắt
được người ta còn thương chứ cái giống Việt gian bán nước ấy thì cứ cho mỗi đứa một nhát".
Chao ôi! Sao lại có chuyện ấy được, chẳng lẽ lại là sự thật, nhìn lũ con thơ, tủi thân,
nước mắt ông lão cứ thế tràn ra: "Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư; Khốn
nạn, bằng ấy tuổi đầu…". Lòng ông lão như bị giằng xé, có cái gì như đang bóp nghẹt
quả tim ông khiến ông khó thở, đau đớn tột cùng. Rồi ông lại tự mình nói chuyện với
mình, lúc thì ông bảo không phải và lấy cớ để thanh minh cho chuyện ấy. Rồi ông lại
thấy điều đó là sự thật thì hợp lí hơn: "Không có lửa làm sao có khói. Ai hơi đâu người
ta bịa tạo ra những chuyện ấy làm gì?
Chao ôi! Cực nhục chưa? Khắp cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm cái giống Việt
gian bán nước…". Rồi lòng ông lại quặn đau, nội tâm ông luôn luôn thay đổi, luôn có
hai quan điểm đối lập nhau. Rồi ông lại trò chuyện với đứa con út để vơi đi đôi phần,
ông hỏi đứa con ông ủng hộ làng hay Cụ Hồ, nghe nó ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh, lòng ông
như được vun đắp phần nào, càng vững trí hơn. Cái lòng bố con ông như thế đấy, đâu
dám đơn sai: “Các đồng chí biết cho bố con ông, Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông”.
Ông rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan khi biết ở vùng tản cư không ai chứa những
người làng Chợ Dầu nữa để đi đến một quyết định cao đẹp. "Làng thì yêu thật nhưng
làng theo Tây mất rồi thì phải thù". Đó là một hành động cao đẹp của ông Hai – một
người dân yêu nước. Cuối cùng, ông đã chọn đi theo Cụ Hồ theo lí tưởng cách mạng,
ở đây ta thấy được sự hòa quyện giữa tình yêu làng với tình yêu nước. Đó là bước
chuyển biến mới trong tư tưởng tình cảm của người nông dân Việt Nam buổi giao thời mới – cũ.
Và rồi tin làng ông Việt gian theo Tây đã được cải chính, ông lại rơi vào sư hả hê sung
sướng, hạnh phúc vô bờ. Ông lại được khoe về làng, được tự hào về làng thậm chí ông
khoe cả cái nhà ông bị Tây đốt cháy, ông kể tỉ mỉ, chi tiết cho bác Thứ nghe về trận
đánh hôm Tây nó vào khủng bố, chúng nó cả bao nhiêu thằng chúng ta đánh được bao
nhiêu, làng ông chống đỡ, phòng ngự ra sao, như chính ông lão vừa dự trận đánh vậy.
Đến đây, ta thấy được nội tâm, tâm trạng ông Hai đã có sự thay đổi rõ rệt, từ tình
huống thay đổi mà con người cũng đổi thay, sự đau đớn tột cùng giờ đã chuyển sang
hả hê sung sướng. Qua đây ta thấy được tầm quan trọng của nghệ thuật xây dựng
tình, huống truyện và miêu tả nội tâm nhân vật đối với một tác phẩm văn học.
Quê hương là hình ảnh không thể phai mờ trong thơ ca. Nhà văn I-li-a Ê-ren-bua đã
từng viết: "Lòng yêu làng quê trở thành tình yêu đất nước”. Kim Lân đã đưa được thông
điệp ấy đến với người đọc thông qua tình huống truyện bất ngờ, gay cấn và nội tâm
nhân vật thay đổi bất ngờ, phù hợp. Đó là nét đẹp mới của người nông dân, hòa quyện