lOMoARcPSD| 61184739
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-
------***-------
BÀI TẬP LỚN
MÔN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
PHÂN TÍCH NỘI DUNG CỦA LIÊN MINH GIAI
CẤP,
TẦNG LỚP
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.
Họ và tên: Lê Phương Sang
Mã sinh viên: 11219790
Lớp
tín chỉ
:
POHE Luật Kinh Doanh
GVHD: TS Nguyễn Văn Hậu
HÀ NỘI 202
2
lOMoARcPSD| 61184739
I. MỤC LỤC
I. MỤC LỤC
II. LỜI NÓI ĐẦU
III. ĐẶT VẤN ĐỀ IV. NỘI DUNG
I. Cơ cấu xã hội – giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.............. 1.1. Khái niệm và vị trí của cơ cấu xã hội – giai cấp trong
cơ cấu xã hội......... 1.1.1. Khái niệm cơ cấu xã hội và cơ cấu xã hội giai
cấp..................................... 1.1.2. Vị trí của cơ cấu xã hội-giai cấp trong
cơ cấu xã hội....................................
1.2. Sự biến đổi có tính quy luật của cơ cấu xã hội- giai cấp trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội...........................................................................
1.2.1. Cơ cấu xã hội giai cấp biến đổi gắn liền và bị quy định bởi cơ cấu
kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.....................................................
1.2.2. Cơ cấu xã hội-giai cấp biến đổi phức tạp, đa dạng, làm xuất hiện
các tầng lớp xã hội mới.........................................................................................
1.2.3. Cơ cấu xã hội – giai cấp biến đổi trong mối quan hệ vừa đấu tranh, vừa
liên minh, từng bước xóa bỏ bất bình đẳng xã hội dần xích lại gần
nhau................................................................................................................
.......
II. Liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội....................................................................................................................
2.1. Góc độ chính trị..............................................................................................
2.2. Góc độ kinh tế...............................................................................................
III. Tầng lớp, giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam..............................................................................................
3.1. Cơ cấu xã hội- giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.......................................................................................................
3.1.1. Sự biến đổi cơ cấu xã hội- giai cấp vừa đảm bảo tính qui luật phổ biến,
vừa mang tính đặc thù của xã hội Việt Nam................................................
3.1.2. Trong sự biến đổi của cơ cấu xã hội- giai cấp, vị trí, vai trò của các giai
cấp, tầng lớp xã hội ngày càng được khẳng định.........................................
3.2. Liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam..............................................................................................
3.2.1. Nội dung của liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.............................................................................
3.2.2. Phương hướng cơ bản để xây dựng cơ cấu xã hội – giai cấp và tăng
cường liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt
Nam...................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO
lOMoARcPSD| 61184739
II. LỜI NÓI ĐẦU
Tập thể nhóm tác giả xin trình bày chủ đề Nội dung của liên minh giai cấp tầng
lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội Việt Nam. Đây một nội dung
rất hay nhưng khá khó trong việc tiếp cận nên nhóm tác giả làm i tiểu luận
này nhằm cung cấp nội dung một cách dễ hiểu nhất cho mọi người.
Lý do nhóm chọn chủ đề này phù hợp với bối cảnh trong nước đang trong thời
kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và bối
cảnh nước ngoài đang diễn biến phức tạp: “Cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu
sắc đến sự phát triển của nhiều nước. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu
hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển. Hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác phát triển xu thế lớn; nhưng đấu
tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung
đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố,
tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên cạnh tranh quyết liệt về lợi ích
kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp” ( trích Cương lĩnh xây dựng đất ớc trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội). Với bối cảnh như thế đã đặt ra cho đất
nước ta nhiều hội nhưng cũng đối mặt với nhiều thách thức về những sự
biến đổi trong cơ cấu xã hội, giai cấp, tầng lớp.
Vì thế việc tìm hiểu chủ đề này giúp chúng ta nắm được những kiến thức nền
tảng về cơ cấu xã hội-giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, giúp chúng ta nhận diện sự biến đổi trong cấu hội-giai cấp nội
dung liên minh giai cấp, tầng lớp để từ đó giúp ta nhận thấy được tầm quan
trọng, sự cần thiết góp sức tăng cường xây dựng khối liên minh giai cấp, tầng
lớp vững mạnh trong snghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa
III. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính tất yếu của việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công nghiệp hóa hiện đại hóa là một trong các nhiệm vụ kinh tế cơ bản của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa ở nước ta. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa được là quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xã hội, từ sử dụng
lao động thủ công là phổ biến sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động được đào
tạo cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra
năng suất lao động xã hội cao và tạo ra những biến đổi về chất trong toàn bộ các hoạt
động của đời sống xã hội (trước hết là hoạt động sản xuất vật chất).
Đó là quá trình sử dụng năng lực, kinh nghiệm, trí tuệ, bản lĩnh của con người để tạo
ra và sử dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại kết hợp với giá trị
truyền thống của dân tộc để đổi mới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm hướng tới
lOMoARcPSD| 61184739
một xã hội văn minh, hiện đại. Ngày nay, công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đã
trở thành tất yếu của sự phát triển, là làn sóng mạnh mẽ tác động đến tất cả các quốc
gia trên thế giới cũng như mọi mặt của đời sống xã hội.
Trước đây, nền công nghiệp của Việt Nam còn khá nhỏ và chưa hoàn chỉnh, hầu hết
các cơ sở sản xuất lớn đều là của tư bản Pháp, còn công nghiệp bản địa chủ gồm
những doanh nghiệp nhỏ, hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất hàng hóa tiêu dùng và
các hộ gia đình sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Do yêu cầu đặt ra là mỗi một phương
thức sản xuất xã hội nhất định phải có một cơ sở vật chất, kĩ thuật tương ứng. Do Việt
Nam chưa chú trọng vào việc phát triển cơ sở vật chất, kĩ thuật cho nên năng suất lao
động không thể gia tăng. Cơ sở vật chất, kĩ thuật của một xã hội là hệ thống các yếu tố
vật chất của lực lượng sản xuất xã hội, phù hợp với trình độ kĩ thuật tương ứng mà lực
lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất, đáp ứng nhu cầu của xã
hội. Không chỉ vậy, Việt Nam vốn là một nước nhỏ bé, luôn bị các nước khác xâm
chiếm, nền kinh tế, kĩ thuật và công nghệ của Việt Nam vẫn còn quá lạc hậu so với thế
giới. Việt Nam là một nước có lợi thế về lương thực, thực phẩm nên vốn chỉ chú trọng
vào nông nghiệp, mức sống người dân vẫn còn khá thấp và cuộc sống còn nghèo nàn.
IV. NỘI DUNG
I. Cơ cấu xã hội – giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1.1. Khái niệm và vị trí của cơ cấu xã hội – giai cấp trong cơ cấu xã hội
1.1.1. Khái niệm cơ cấu xã hội và cơ cấu xã hội – giai cấp
cấu hội những cộng đồng người cùng toàn bộ những mối quan hệ
hội do sự tác động lẫn nhau của các cộng đồng ấy tạo nên.
1
Cơ cấu xã hội có nhiều loại, như: cơ cấu xã hội – dân cư, cơ cấu xã hội – nghề
nghiệp, cấu hội giai cấp, cấu hội dân tộc, cấu hội tôn
giáo, v.v... Dưới góc độ chính trị - xã hội, môn Chủ nghĩa xã hội khoa học tập
trung nghiên cứu cấu hội giai cấp đó một trong những cơ sở để
nghiên cứu vấn đề liên minh giai cấp, tầng lớp trong một chế độ hội nhất
định.
Cơ cấu xã hội – giai cấp là hệ thống các giai cấp, tầng lớp xã hội tồn tại khách
quan trong một chế đhội nhất định, thông qua những mối quan hệ về sở
hữu liệu sản xuất, về tổ chức quản quá trình sản xuất, về địa vị chính trị
- xã hội...giữa các giai cấp và tầng lớp đó.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cơ cấu xã hội – giai cấp là tổng thể
các giai cấp, tầng lớp, các nhóm xã hội có mối quan hệ hợp c và gắn bó chặt
chẽ với nhau. Yếu tố quyết định mối quan hệ đó là họ cùng chung sức cải tạo
xã hội xây dựng xã hội mới trên mọi lĩnh vực của đời sốnghội. Các
giai cấp, tầng lớp xã hội và các nhóm xã hội cơ bản trong cơ cấu xã hội – giai
cấp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bao gồm: giai cấp công nhân, giai
lOMoARcPSD| 61184739
cấp nông dân, tầng lớp trí thức, tầng lớp doanh nhân, tầng lớp tiểu chủ, tầng
lớp thanh niên, phụ nữ v.v... Mỗi giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội này có
những vị trí vai trò xác định song ới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
đội tiên phong của giai cấp công nhân cùng hợp lực, tạo sức mạnh tổng hợp
để thực hiện những mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, tiến tới xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản với tư cách là một hình thái kinh tế - xã hội mới thay thế hình thái kinh tế
- xã hội cũ đã lỗi thời. Đặc điểm của cơ cấu xã hội-giai cấp
- cấu xã hội-giai cấp là hệ thống các giai cấp, tầng lớp xã hội tồn tại khách quan
trong một hệ thống xã hội nhất định mà không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của
con người.
- Việc xác định cấu hội-giai cấp thông qua những mối quan hệ vsở hữu
liệu sản xuất, về tổ chức quản quá trình sản xuất, về địa vị chính trị-xã hội,…
giữa các giai cấp tầng lớp đó. Đặc biệt mối quan hệ về sở hữu tư liệu sản suất.
Cụ thể đối với hội sản thì giai cấp sản người nắm giữa liệu còn
những người không nắm giữ tư liệu sản xuất là giai cấp vô sản, đối với xã hội Xã
hội chủ nghĩa kế thừa từ xã hội Tư bản chủ nghĩa, giai cấp vô sản đấu tranh giành
thắng lợi thay thế tư sản nắm giữ tư liệu sản xuất
1.1.2. Vị trí của cơ cấu xã hội-giai cấp trong cơ cấu xã hội
Trong hệ thống hội, mỗi loại hình cấu hội đều vtrí, vai trò xác định
giữa chúng mỗi quan hệ, phụ thuộc lẫn nhau. Song vị trí, vai trò của các loại
cấu hội không ngang nhau, cấu hội-giai cấp vị trí quan trọng hàng đầu,
chi phối các loại hình cơ cấu xã hội khác. Điều này xuất phát từ một số nguyên nhân
như sau:
- Cơ cấu hội-giai cấp liên quan đến các đảng phái chính trị nhà nước, quyền
sở hữu tư liệu sản xuất , quản lý tổ chức lao động, vấn đề phân phối thu nhập…
- Sự biến đổi cấu hội-giai cấp tất yếu sẽ ảnh hưởng đến sự biến đổi của các
cấu hội khác tác động đến sự biến đổi của toàn bộ cơ cấu xã hội, dụ
như: nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội cấu hội-giai
cấp có sự biến đổi, Giai cấp công nhân lên nắm chính quyền, làm chủ tư liệu sản
xuất từ đó ảnh hưởng đến cấu xã hội-nghề nghiệp có sự thay đổi khi số lượng
công nhân đang xu ớng tăng mạnh, số lượng nông dân đang xu hướng
giảm và các nhà bản từ một giai cấp nắm quyền liệu sản xuất dần trở thành
các tư nhân, doanh nghiệp,…(những tầng lớp xã hội mới).
Sự biến đổi cấu hội-giai cấp tất yếu sẽ ảnh hưởng đến sự biến đổi của các
cấu xã hội khác và tác động đến sự biến đổi của toàn bộ cấu xã hội. Lê-nin đã từng
viết rằng: “Kết cấu hội chính quyền nhiều biến đổi, nếu không hiểu những
biến đổi này thì không thể tiến được một bước trong bất kỳ lĩnh vực hoạt động nào.”,
ví dụ như nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cấu hội-giai
cấp sự biến đổi, Giai cấp công nhân lên nắm chính quyền, m chủ tư liệu sản xuất
từ đó ảnh hưởng đến cơ cấu hội-nghề nghiệp sự thay đổi khi số lượng công
nhân đang có xu hướng tăng mạnh, số lượng nông dân đang có xu hướng giảm và các
nhà bản từ một giai cấp nắm quyền liệu sản xuất dần trở thành các nhân,
doanh nghiệp,…(những tầng lớp xã hội mới).
Mặc dù cơ cấu xã hội-giai cấp giữ vị trí quan trong song cũng không vì thế mà tuyệt
đối hóa nó, xem nhẹ các loại hình cấu hội khác, từ đó thể dẫn đến sự tùy
tiện, muốn xóa bỏ nhanh chóng các giai cấp, tầng lớp xã hội một cách đơn giản theo
ý muốn chủ quan.
lOMoARcPSD| 61184739
1.2. Sự biến đổi có tính quy luật của cơ cấu xã hội- giai cấp trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội
cấu hội-giai cấp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội thường xuyên
những biến đổi mang tính quy luật sau đây:
1.2.1. Cơ cấu xã hội giai cấp biến đổi gắn liền và bị quy định bởi cơ cấu kinh tế của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Theo luận chủ nghĩa Mác, vật chất quyết định ý thức, thì trong xã hội kinh tế quyết
định chính trị, tức là cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Như vậy, cơ cấu
xã hội giai cấp nó sẽ phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế của xã hội. Nói cách khác, cơ cấu
kinh tế xã hội nó sẽ quyết định cơ cấu xã hội giai cấp.
Trong cấu kinh tế của thời kỳ phong kiến, quyết định đến cấu hội giai
cấp của thời kỳ phong kiến, đó là giai cấp địa chủ phong kiến thống trị của giai cấp
nông dân và các tầng lớp bị trị khác.
Trong cơ cấu kinh tế của thời kỳ tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản sẽ là giai cấp thống
trị bởi giai cấp sản là giai cấp nắm tư liệu sản xuất, giai cấp ng nhân và những
thành phần khác là giai cấp bị trị.
Ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cơ cấu xã hội giai cấp cũng tuân theo quy luật
trên. Tức là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì cơ cấu hướng đến là sở hữu công
cộng, công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu, phục vụ thiết thực lợi ích của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động do Đảng cộng sản lãnh đạo. Điều đó dẫn đến cơ cấu
xã hội giai cấp lúc này giai cấp công nhân, lực lượng đông đảo to lớn trong
hội sẽ giai cấp lãnh đạo, giai cấp thống trị. Giai cấp công nhân, do lợi ích phù
hợp với dân tộc, đất ớc, cho nên sự lãnh đạo, thống trị của giai cấp công nhân sẽ
phù hợp với lợi ích chung, mục đích chung của toàn hội do đó thống nhất,
tập hợp liên minh đông đảo những cái giai cấp, tầng lớp khác vào công việc chung
đó là tổ chức và xây dựng xã hội mới xã hội cộng sản chủ nghĩa. Ở ớc ta, Văn kiện
Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định: “Trong thời kỳ quá độ, nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng cơ cấu,
tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều cùng với những biến
đổi về kinh tế, xã hội”.
1
Quá trình biến đổi trong cấu kinh tế dẫn đến những biến đổi trong cấu hội
giai cấp, từ đó dẫn đến sự thay đổi các vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp, các
nhóm hội. Cụ thể những nước bước vào thời kỳ quá độ lên chnghĩa hội
với xuất phát điểm thấp, cơ cấu kinh tế sẽ có những biến đổi đa dạng: từ một cơ cấu
kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và công nghiệp còn ở trình độ sơ khai chuyển sang
cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp dịch vụ, giảm tỷ trọng nông
nghiệp; chuyển từ cấu vùng lãnh thổ còn chưa định hình sang hình thành các vùng,
các trung tâm kinh tế lớn; chuyển từ cơ cấu lực lượng sản xuất hiện đại nhưng không
cân đối, trình độ công nghệ nhìn chung còn lạc hậu hoặc trung bình chuyển sang phát
triển lực lượng sản xuất với trình độ công nghệ cao, tiên tiến theo xu hướng ng dụng
những thành quả của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, của kinh tế tri thức,
kinh tế số, cách mạng công nghiệp lần thứ tư…, từ đó hình thành những cơ cấu kinh
tế mới hiện đại hơn, với trình độ hội hóa cao đồng bộ hài hòa hơn giữa các
vùng, các khu vực, giữa nông thôn thành thị, đô thị...Quá trình biến đổi trong
cấu kinh tế đó tất yếu dẫn đến những biến đổi trong cơ cấu xã hội- giai cấp, cả trong
1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, tr.85.
lOMoARcPSD| 61184739
cơ cấu tổng thể cũng như những biến đổi trong nội bộ từng giai cấp, tầng lớp xã hội,
nhóm hội. Từ đó, vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp, các nhóm hội cũng
thay đổi theo. Mặt khác, nền kinh tế thị trường phát triển mạnh với tính cạnh tranh
cao, cộng với xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng khiến cho giai cấp, tầng lớp xã hội
cơ bản trong thời kỳ này trở nên năng động, có khả năng thích ứng nhanh, chủ động
sáng tạo trong lao động sản xuất để tạo ra những sản phẩm có giá trị, hiệu quả cao
chất lượng tốt đáp ứng của nhu cầu thị trường trong bối cảnh mới.
2
những sản phẩm giá trị, hiệu quả cao chất lượng tốt đáp ứng của nhu cầu thị
trường trong bối cảnh mới.
3
1.2.2. Cơ cấu xã hội-giai cấp biến đổi phức tạp, đa dạng, làm xuất hiện các tầng lớp
xã hội mới.
Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ ra rằng, hình thái kinh tế- hội cộng sản chủ nghĩa đã
được “thai nghén” từ trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩam do vậy ở giai đoạn đầu của
nó vẫn n những “dấu vết của xã hội cũ” được phản ánh “về mọi phương diệnkinh
tế,đạo đức, tinh thần”
4
. Song bên cạnh đó, ng xuất hiện những yếu tố mới do giai
cấp công nhân các giai cấp, tầng lớp khác trong hội bắt tay vào tổ chức xây
dựng, làm xuất hiện sự đan xen giữa yếu tố yếu tố mới. Đây là vấn đề mang
tính quy luật thể hiện rõ nét nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội. Về mặt
kinh tế, còn tồn tại kết cấu kinh tế nhiều thành phần. Chính sự phát triển của nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần đưa đến sự biến đổi cấu thành phần kinh tế, cơ cấu
ngành nghề, cấu hành chính, kinh tế, xã hội. Điều đó đưa tới cơ cấu hội- giai
cấp đa dạng phức tạp với những giai cấp tầng lớp khác nhau. Sự biến đổi đó đưa tới
một cấu hội mới, tác động trực tiếp đến cấu kinh tế tạo cho định hướng
xã hội chủ nghĩa. Biểu hiện của sự biến đổi đó là:
- Trong giai cấp nông dân đã hình thành những nông n làm dịch vụ, mở xưởng
khí, làm nghề phụ, buôn bán nhỏ...; có nông dân làm chủ trang trại, có nông dân làm
thuê, có nông dân sống làm việc nông thôn nhưng cũng đã ly nông. Sự chuyển
dịch đó dẫn đến tính chất thuần nông trong giai cấp nông dân ngày một thuyên giảm.
Trong thời gian tới, thực hiện chủ trương chuyển mạnh cơ cấu lao động ở nông thôn
theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động m nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động
công nghiệp, dịch vụ, tạo điều kiện để nông dân có việc làm trong và ngoài khu vực
nông thôn, kể cả ở nước ngoài sẽ làm cho giai cấp nông dân có sự chuyển dịch mạnh
về kết cấu và tính chất giai cấp.
- Trong giai cấp công nhân nước ta hiện nay hình thành một nhómhội có vị trí kinh
tế, hội dễ nhận thấy vai trò của họ trong sản xuất, kinh doanh như: chủ trang
trại. Tên gọi chủ trang trại chỉ mới phản ánh vị trí, vị thế trong sản xuất của họ - với
tính cách những ông chủ sở hữu (sử dụng một số đất đai, ao hồ, ruộng vườn, mở
mạng sản xuất, thuê khoán nhân công, sản xuất ra nông lâm, hải sản), chứ chưa phản
ánh vị trí, vị thế xã hội. Trên thực tế, họ chưa có sự “liên hệ bên trong” để hình thành
một tầng lớp hội, tuy nhiên cho thấy hơn sự phân hóa, tính phức tạp trong kết
cấu của giai cấp nông dân.Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
mở cửa hội nhập quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam đã nhiều chuyển dịch
về ngành nghề, dẫn đến sự chuyển dịch về kết cấu trong nội bộ giai cấp. Tính phức
tạp trong giai cấp công nhân ngày càng tăng lên, công nhân làm thuê đan xen với
công nhân có cổ phần, thậm chí là chủ xưởng. Trong giai cấp công nhân đã xuất hiện
2
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB Hà Nội, 2019, tr.90.
lOMoARcPSD| 61184739
công nhân “cổ trắng” bên cạnh những công nhân “cổ xanh” truyền thống. Điều này
rất cần chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu để thể đưa ra những quyết sách thích
hợp.
- Tầng lớp trí thức ngày càng đông đảo về mặt số ợng cũng chứa đựng sự phức
tạp về kết cấu sự biến động về tính chất của tầng lớp trong hội. Tầng lớp trí
thức Việt Nam một tầng lớp hội đủ các thành phần hội: nông dân, công nhân,
tiểu thương, tiểu chủ với mọi lứa tuổi và dân tộc. Đây cũng là tầng lớp làm việc trong
tất cả các ngành nghề trong hội, họ gia nhập “không tự giác” vào các giai cấp
tầng lớp hội khác. trí thức đã trở thành doanh nhân, trí thức chỉ những
người lao động bình thường trong các cơ sở sản xuất kinh doanh...
3
1.2.3. Cơ cấu xã hội – giai cấp biến đổi trong mối quan hệ vừa đấu tranh, vừa liên
minh, từng bước xóa bỏ bất bình đẳng xã hội dần xích lại gần nhau
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội vẫn còn xuất hiện những mâu thuẫn, sự
đấu tranh giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, tàn dư của chế độ cũ liên tục
không ngừng chống phá đòi hỏi cần phải chú ý và có những biện pháp để giải quyết
mâu thuẫn đấu tranh đó trong thời kỳ nhảy cảm được ví như “những cơn đau đẻ
kéo dài”.
4
Bên cạnh nhưng mâu thuẫn đấu tranh thì các giai cấp trong hội còn mối quan
hệ liên minh gắn kết giữa giai cấp công nhân, nông dân, và tầng lớp tri thức. Sự liên
minh gắn kết này xuất phát từ việc giai cấp công nhân nông n những đặc
điểm giống nhau. Họ đều là giai cấp bị trị, bị bóc lột, có số lượng đông đảo trong xã
hội, đặc biệt giai cấp công nhân ở Việt Nam còn có nguồn gốc xuất thân từ nông dân,
còn đối với tầng lớp trí thức họ là người nắm giữ tri thức tiếp cận nhanh với luồng
tưởng mới, nhạy bén với thời cuộc, họ cũng bị bóc lột một cách gián tiếp. Chính
điều đó đã tạo sở để hình thành một liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân,
giai cấp nông dân tầng lớp tri thức Mức độ liên minh, xích lại gần nhau giữa
các giai cấp, tầng lớp trong hội tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - hội của đất
nước trong từng giai đoạn của thời kỳ quá độ. Ở giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ sự
phân chia giai cấp thống trị và bị trị rất rõ ràng khi giai cấp sản nắm giữ tư liệu sản
xuất tiến hành bóc lột giai cấp bị trị cụ thể giai cấp công nhân giai cấp nông
dân và tầng lớp tri thức, cho đến khi giai cấp công nhân nhận thức được vai trò và sứ
mệnh lịch sử của tiến hành cách mạng cùng với giai cấp khác giành chiến quyền
tiến lên chủ nghĩa hội từ lúc đó mối quan hệ giữa giai cấp công nhân giai cấp
nông dân và tầng lớp tri thức ngày càng gắn bó, liên kết với nhau.
Sự gắn kết này phù hợp với quy luật phổ biến. Trong một chế độ hội nhất định,
chính cuộc đấu tranh giai cấp của các giai cấp lợi ích đối lập nhau đều đặt ra nhu
cầu tất yếu khách quan mỗi giai cấp đứng vị trí trung tâm đều phải tìm cách liên
minh với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác có những lợi ích phù hợp với mình để tập
hợp lực lượng thực hiện những nhu cầu và lợi ích chung.
Tính đa dạng và tính độc lập tương đối của các giai cấp, tầng lớp sẽ diễn ra trong việc
hòa nhập, chuyển đổi bộ phận giữa các nhóm hội xu ớng tiến tới từng
bước xóa bỏ dần tình trạng bóc lột giai cấp trong xã hội, vươn tới những giá trị công
bằng bình đẳng. Số lượng giai cấp công nhân hiện nay nhiều số ợng tương đối
3
Bàn luận về giai tầng hội, cấu hội - giai tầng hội, Tạp chí Thông tin Khoa
học xã hội, số 9/2007, tr.51-tr.53.
4
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.47.
lOMoARcPSD| 61184739
khác biệt do tiêu chí, quy và cách đánh giá của mỗi chủ thể nghiên cứu. m
2012, Ngân hàng Thế giới (WB) cho biết, thế giới đã 1.000 triệu công nhân. Một
nghiên cứu của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) năm 2014 khẳng định, trên thế giới
hiện có 1.540 triệu “công nhân làm công ăn lương” (salaried workers) trong tổng số
gần 3.300 triệu người lao động của thế giới hiện nay. Cũng theo ILO, dự báo về số
lượng nhóm này, năm 2018 sẽ là 1.702 triệu người
5
. Cũng có một phân tích khác đưa
ra số liệu tương đương: “Khi C. Mác viết Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, năm 1848,
trên thế giới chỉ có khoảng 10 - 20 triệu công nhân, tương đương chiếm 2% - 3% số
dân toàn cầuchỉ trong vài lĩnh vực có máy móc. Đến đầu thế kỷ XX, toàn thế giới
có 80 triệu công nhân. Năm 2013, lần đầu tiên trong lịch sử có đa số cư dân tham gia
vào lực lượng lao động người lao động ăn lương. Hiện nay khoảng 1,6 t
người lao động ăn lương, tăng thêm 600 triệu kể từ giữa những năm 1990, hơn 1 tỷ
trong số đó là công nhân”
6
. Số liệu về số lượng công nhân có thể khác nhau đôi chút,
nhưng nhận thức chung sự tăng lên mạnh mẽ của lao động công nghiệp trên thế
giới trong vài thập niên gần đây. Tỷ lệ lao động bằng phương thức công nghiệp hiện
nay chiếm trên 60% số lao động toàn cầu. Quá trình công nghiệp hóa, nhu cầu phát
triển văn minh (toàn cầu hóa, đô thị hóa, hiện đại hóa cuộc sống...) là những nguyên
nhân của hiện tượng này.
cấu nghề nghiệp của công nhân hiện nay cùng đa dạng chưa ngừng lại
những nghề hiện có. Năm 1893, Ph. Ăngghen quan niệm: “Khi tôi nói “công
nhân”, tôi ý nói người lao động của tất cả mọi giai cấp. Người tiểu thương bị các
hãng buôn lớn lấn gạt, viên chức văn phòng, thợ thủ công, công nhân thành thị
công nhân nông nghiệp bắt đầu cảm thấy ách áp bức của chế độ tư bản chủ nghĩa hiện
nay ở nước chúng tôi”.
7
Như vậy, quan niệm “giai cấp công nhân” đã được lý luận mở rộng rất nhiều, không
chỉ những người trực tiếp hoặc gián tiếp vận hành công cụ lao động tính chất
công nghiệp nữa, mà còn là tất cả những người lao động trong chế độ tư bản. Cơ cấu
công nhân theo lĩnh vực hoạt động. Giai cấp công nhân hiện nay lao động trên ba lĩnh
vực cơ bản là nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Mặc dù đang có sự dịch chuyển
lao động giữa các lĩnh vực nhưng xu hướng chung là nhóm lao độnglĩnh vực dịch
vụ tăng mạnh, số lượng lao động trong lĩnh vực công nghiệp nông nghiệp giảm
nhẹ. Số liệu của ILO về so sánh tỷ trọng lao động trong các ngành sản xuất nông
nghiệp, ng nghiệp dịch vụ trong những năm cuối thế kỉ XX, đầu thế kỷ XXI cho
thấy rõ điều đó.
Cơ cấu của giai cấp công nhân xét theo trình độ công nghệ hiện nay được nhìn nhận
là đa dạng và không đồng đều. Các nghiên cứu về trình độ công nghệ của công nhân
thường xét theo khả ng tiếp cận các cuộc cách mạng công nghiệp, cách tính toán
thường công nghiệp 2.0; 3.0 hoặc tiệm cận 4.0. Cũng những đánh giá trình độ
công nghệ của công nhân theo đặc tính của kỹ thuật của từng ngành công nghiệp mà
họ đang hoạt động. Nhìn chung, công nghệ mà công nhân trên thế giới hiện đang sử
dụng là một “dải khá rộng” được mô tả bằng “cây phả hệ công nghệ đa tầng”, hàm
5
Website ILO, Báo cáo Xu hướng việc làm toàn cầu 2014: Bộ dữ liệu hỗ trợ: Việc
làm theo ngành và giới tính của toàn cầu, khu vực và từng nước. Hiện nay chưa có
số liệu nào mới hơn và đáng tin cậy hơn.
6
Báo Công nhân xã hội chủ nghĩa (Socialist Worker) của Đảng Công nhân xã hội chủ
nghĩa Anh, số ra ngày 11-8-2015.
7
C. Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.22, tr. 809.
lOMoARcPSD| 61184739
ý là ở nhiều trình độ, phát triển vốn theo quy luật không đều và sự phát triển của giai
cấp công nhân hiện nay cũng vẫn tuân theo quy luật đó.
cấu giai cấp công nhân dựa theo trình độ phát triển kinh tế thường được giới
nghiên cứu phân tích theo hai nhóm nước là nước phát triển và nước đang phát triển.
Trình độ phát triển kinh tế, trình độ công nghthường tỷ lệ thuận với năng suất lao
động đạt được. Công nhân của các nước phát triển có năng suất lao động cao hơn so
với các nước đang phát triển.
cấu giai cấp công nhân theo chế độ hội cách tiếp cận theo chế độ chính trị.
Theo quan niệm của chnghĩa Mác, mối quan hệ biện chứng giữa công nhân, công
nghiệp và chủ nghĩa xã hội (chế độ chính trị). Chế độ chính trị cũng thể tác động
đến sự phát triển của công nhân công nghiệp. Lịch sử cận đại, hiện đại xác định
điều đó. Thống về giai cấp công nhân các ớc hội chủ nghĩa năm 2019 cho
thấy: Việt Nam khoảng 15 triệu; Lào khoảng gần 0,8 triệu; Cu-ba gần 3 triệu,
Trung Quốc có khoảng 300 triệu công nhân và 270 triệu “nông dân - công” (nhóm
hội tham gia 2 phương thức và 2 lĩnh vực lao động, có 2 nơi cư trú; là trung giới của
quá trình chuyển biến từ nông dân sang công nhân, nhưng chưa hoàn toàn sống bằng
thu nhập từ lao động công nghiệp).
Trình độ của giai cấp công nhân n được tính theo quan điểm của chủ nghĩa Mác
Lênin trình độ giác ngộ chính trị, ý thức về sứ mệnh lịch sử của mình. Cách tiếp
cận này khá phổ biến trong nhiều nghiên cứu của các ớc phát triển theo định hướng
hội chủ nghĩa hiện nay. Nhận thức chung là, giác ngộ chính trị của công nhân
không đồng đều, có biểu hiện bất cập so với yêu cầu của sứ mệnh lịch sử mà họ phải
đảm trách. Điều đáng quan tâm là hiện tượng suy giảm tính tích cực chính trị của một
bộ phận công nhân trong cơ chế kinh tế thị trường hiện đại đang diễn ra ở nhiều quốc
gia. Có thể thấy sự đa dạng của các giai cấp, tầng lớp đặc biệt giai cấp công nhân
với sự tăng lên không ngừng cả số lượng chất lượng trên các mặt kinh tế, chính
trị, xã hội. Họ nhận thức được vai trò của mình biết mình cần phải làm gì, với sự
đa dạng đó các giai cấp tầng lớp thể dễ ng liên kết với nhau n sự liên kết
đó diễn ra trong hòa hợp từng bước thể loại bỏ mâu thuẫn để tiến lại gần nhau hơn.
C. Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin trong các tác phẩm kinh điển đã dành sự quan tâm
đặc biệt đến vấn đề n tộc độc lập dân tộc; chỉ con đường đấu tranh để giải
phóng dân tộc. V.I.Lênin đã phát triển luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen "vô sản
toàn thế giới liên hiệp lại" thành "vô sản toàn thế giới các dân tộc bị áp bức đoàn
kết lại", trở thành khẩu hiệu của phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc của các
nước bị áp bức trên toàn thế giới. Độc lập dân tộc chủ nghĩa hội hai chặng
đường nối tiếp nhau của một tiến trình cách mạng. Trong đó, độc lập dân tộc là mục
tiêu của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thực hiện người cày ruộng, hoàn
chỉnh chế độ dân chủ nhân dân. Đây nhiệm vụ hàng đầu của ch mạng dân tộc,
dân chủ, làm tiền đề để thực hiện các mục tiêu khác, như quyền lực chính trị, dân
chủ, vấn đề ruộng đất, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần, nâng cao trình độ dân
trí. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ mối liên hbiện chứng giữa đấu tranh giải phóng
dân tộc y dựng chủ nghĩa hội. tưởng này squá đtừ cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng hội chủ nghĩa. Chính cách mạng hội
chủ nghĩa đã kế thừa, khẳng định bảo đảm vững chắc thành qucủa cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Sự phát triển này là quy luật tất yếu của lịch sử. Sự
nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI của Đảng (1986) đã từng bước hồi sinh đất nước về mọi mặt. Trước
những bối cảnh mới của tình hình, Đảng ta luôn xác định phải giương cao ngọn cờ
“Độc lập dân tộc chnghĩa hội”. Công cuộc đổi mới theo định hướng hội
chủ nghĩa một chủ trương chiến lược đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan
lOMoARcPSD| 61184739
trong thời kỳ qđn chủ nghĩa xã hội; tạo điều kiện, tiền đề cho chủ nghĩa hội.
Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta vẫn kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong mối liên hệ gắn kết biện chứng. Học thuyết C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội luôn đề cao các giá trị của độc lập dân
tộc, khẳng định chủ nghĩa xã hội là mục tiêu của độc lập dân tộc.
Từ những điều nêu trên thể thấy đây một quá trình lâu dài thông qua
những cải biến cách mạng toàn diện của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội.
Đó là xu hướng tất yếu và là biện chứng của sự vận động, phát triển cơ cấu xã
hội – giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
II. Liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận bàn đến liên minh giai cấp. Từ những cuộc đấu
tranh thất bại giai cấp công nhân đơn độc đấu tranh, điển hình Công
Paris, đi đến kết luận rằng những cuộc ch mạng sắp tới chỉ thể thu
được những thắng lợi nếu giai cấp công nhân được sự ủng hộ, liên minh của
các giai cấp khác. Đó là những nguyên tắc mang tính sống còn, nếu không thì
cách mạng của giai cấp sản sẽ trở thành “bài đơn ca ai điếu”.
10
Ở trong bài
tiểu luận này, nhóm tác giả sẽ phân tích liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội về hai khía cạnh là chính trị và kinh tế.
2.1. Góc độ chính trị
Trong một chế độ hội, các cuộc đấu tranh giai cấp giữa các giai cấp lợi
ích đối lập nhau đặt ra nhu cầu tất yếu khách quan mỗi giai cấp đứng vị trí
trung tâm phải liên minh với các tầng lớp, giai cấp khác có lợi ích phù hợp với
mình để tập hợp lực ợng thực hiện những nhu cầu lợi ích chung đó
quy luật mang tính phổ biến và là động lực to lớn cho sự phát triển của các xã
hội giai cấp. ới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân trong
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa phải liên minh với giai cấp nông dân và các
tầng lớp nhân dân lao động khác để tạo sức mạnh tổng hợp đảm bảo cho thắng
lợi của cuộc cách mạng trong giai đoạn giành chính quyền giai đoạn xây
dựng chế độ xã hội mới.
Sự cần thiết của liên minh công - nông không chỉ từ phía giai cấp công nhân,
mà còn từ phía giai cấp nông dân. Bên cạnh mâu thuẫn giai cấp phổ biến giữa
công nhân với sản, giai cấp nông dân các tầng lớp nhân dân lao động
khác cũng
10
C. Mác Ph Ăngghen, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1993, tập 8,
tr.762.
Không thể thoát khỏi ách áp bức bóc lột của giai cấp sản, không thể được giải
phóng một cách thực sự triệt để nếu không liên minh với giai cấp công nhân, không
trở thành người bạn đồng minh của giai cấp công nhân. C.Mác khẳng định: “Đứng
trước giai cấp sản phản cách mạng đã liên minh lại thì nhiên những phần tử
đã được cách mạng a của giai cấp tiểu sản của nông dân, phải liên minh với
người đại biểu chủ yếu cho những lợi ích cách mạng, tức giai cấp sản cách
mạng”. “...người nông dân thấy rằng giai cấp sản thành thị, giai cấp sứ mệnh
lật đổ chế độ sản người bạn đồng minh, người lãnh đạo tự nhiên của mình”
8
.
8
C.Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, Sđd, t.8, tr. 269.
lOMoARcPSD| 61184739
Tuy vậy, để có thể liên minh được với giai cấp nông dân, cần phải thấy rõ đặc điểm,
vai trò của giai cấp ng dân trong tiến trình cách mạng. Nông dân kinh tế gần như
tự túc, văn hóa tưởng còn rất hạn hẹp, không có ởng chính trị, những đặc điểm
trên đã quy định vị trí, vai trò của giai cấp nông dân trong hội bản tầng lớp
trung gian. Tính tự phát tiểu sản cũng được nảy sinh trên sở hữu của người
nông dân, do tập quán điều kiện sản xuất. Mặc đã xoá bỏ hữu ruộng đất,
nhưng do nông dân vẫn còn chút quyền hữu về công cụ sản xuất hay gia súc, vẫn
tự do buôn bán nên tính tự phát của họ vẫn tồn tại. Về thái độ đối với nông dân và tư
tưởng liên minh công - nông do giai cấp công nhân lãnh đạo, trong tác phẩm “Những
người bạn dân” là thế nào họ đấu tranh chống những người dân chủ - hội ra
sao?”, V.I.Lênin cho rằng, do quan niệm không đúng, nên Plêkhanốp đã đoạn tuyệt
với nông dân, V.I.Lênin đã luận chứng vai trò của nông n, đưa ra ởng liên minh
công - ng yêu cầu cần phải ủng hộ yêu sách của họ. Người chỉ rõ: Phải thái
độ đúng với nông dân, tuyên truyền giác ngộ họ, cần phải đoạn tuyệt với tưởng
nông dân, nhưng không đoạn tuyệt với nông dân, phải sách lược với họ.
cho rằng, những người dân chủ - hội nhiệm vụ thành lập một đảng công nhân
mácxít và đề ra tư tưởng liên minh cách mạng giữa giai cấp công nhân và nông dân,
coi đó phương sách chủ yếu để lật đổ chế độ Nga hoàng, bọn địa chủ giai cấp
tư sản Do đó nhiệm vụ chủ yếu của chính đảng vô sản là phải không ngừng giải thích
cho nông n thấy rằng, chừng nào chnghĩa bản đang còn nắm chính quyền thì
tình cảnh của họ vẫn là tuyệt vọng mà thôi, tuyệt đối chắc chắn nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa quy mô lớn sẽ đè bẹp sản xuất quy mô nhỏ, bất lực lỗi thời của họ. Để
liên minh, cần phải cho giai cấp nông dân biết giai cấp công nhân mới lợi ích
chung phù hợp với mình.
Xét mọi phương diện đều sự phát triển của tính tự phát tiểu sản, thời kỳ
chứa đựng mâu thuẫn không thể dung hoà giữa tính kỷ luật của giai cấp sản
tính kỷ luật, vô chính phủ của tầng lớp tiểu sản. Lênin đã từng nói: “Và đằng
sau bọn bản bóc lột quảng đại quần chúng tiểu sản, tầng lớp hàng chục
năm kinh nghiệm lịch sử tất cả các nước đã chứng tỏ rằng họ ngập ngừng dao
động, hôm nay thì đi theo giải cấp vô sản ngày mai, sợ những khó khăn của
cách mạng khi thấy công nhân hơi thất bại hoặc thất bại một nửa, thì đã sinh ra
hoảng sợ, hoang mang, cuống cuồng, khóc lóc, chạy hết phe này sang phe khác”.
9
vậy nhiệm vụ kêu gọi tầng lớp tiểusản, trí thức vào liên minh cũng rất quan trọng.
Họ trình độ nhận thức cao nhưng do mang lợi ích trung gian giữa sản với
sản nên khó gắn với cách mạng. Cần phải cho tầng lớp tiểu sản thấy rằng nếu
để tư bản nắm quyền, thì tầng lớp tiểu tư sản với địa vị thấp sớm muộn gì cũng bị tư
sản chèn ép, cần cho họ thấy giai cấp công nhân nông dân những người đảm
bảo được lợi ích cho họ.
Vận dụng ng tạo quan điểm của C.Mác Ph.Ăngghen trong giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa, V.I.Lênin khẳng định Nếu không liên minh với nông dân thì không thể
được chính quyền của giai cấp sản, càng không thể nghĩ đến việc duy trì chính
quyền đó… Nguyên tắc cao nhất của chuyên chính là duy trì khối liên minh giữa giai
cấp vô sản và nông dân để giai cấp vô sản có thể giữ được và duy trì lãnh đạo chính
quyền nhà nước”.
10
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga một điển hình về
sự chuẩn bị lực lượng: tập hợp sức mạnh từ quần chúng nhân n, xây dựng lực lượng
trang, xây dựng kế hoạch khởi nghĩa trang với những nguyên tắc bản như
9
V.I Lênin: Sđd, t.37, tr. 320-tr.321.
10
V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1978 tập 44, tr.57.
lOMoARcPSD| 61184739
phải dựa vào quần chúng nhân dân nòng cốt là liên minh giai cấp công nhân, nông
dân các tầng lớp nhân dân lao động khác.VI.Lênin đã khẳng định: “Không sự
đồng tình ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiền phong của mình
tức là đối với giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được”
11
. Một
nguyên tắc trong liên minh giai cấp, tầng lớp theo quan điểm của V.I.Lênin đó là vấn
đề thỏa hiệp cả với giai cấp sản. Trong tác phẩm “Bệnh u trĩ “tả khuynh” trong
phong trào cộng sản”, V.I.Lênin đã phê phán: “Những người cộng sản Đức đã gạt bỏ
việc tham gia nghị viện phản động sản việc tham gia các công đoàn phản động”.
V.I.Lênin n khẳng định: Đấu tranh cách mạng lúc phải thoả hiệp. Bởi vì, tiến
hành cách mạng không phải hoàn toàn thuận lợi dễ dàng, còn những lúc
cách mạng gặp khó khăn. Trong những hoàn cảnh khó khăn phức tạp đòi hỏi người
cách mạng phải biết lựa chiều, liên minh, thoả hiệp để tránh tổn thất cho cách mạng.
Cách mạng không phải chỉ biết tiến công, khoa học tiến công phải được bổ sung
bằng khoa học rút lui khi cần thiết, rút lui để chuẩn bị tiến công những thắng lợi
lớn hơn. Vì vậy, V.I.Lênin đòi hỏi những người cộng sản có nhiệm vụ phải tìm kiếm
và tìm ra một hình thức thoả hiệp thích đáng để thể, một mặt làm dễ dàng xúc
tiến việc thống nhất hoàn toàn và cần thiết với cách ấy, mặt khác, không làm trở ngại
đến cuộc đấu tranh tưởng chính trị của những người cộng sản. Người nhấn
mạnh nguyên tắc: “Không bao giờ được thoả hiệp, không bao giờ được lựa chiều chỉ
làm hại cho sự mở rộng ảnh ởng của giai cấp sản” Thực tiễn của Cách mạng
Tháng Mười Nga cho thấy sự cần thiết phải xây dựng được khối liên minh công nhân
nông dân – trí thức vững mạnh nhằm thực hiện các mục tiêu chính trchung, sự cần
thiết của việc thỏa hiệp với kẻ thù tư sản ở thời điểm phù hợp nhằm giúp cách mạng
tiến lên. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Trung Quốc dẫn đến sự ra đời của
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, hay Cách mạng Tháng Tám 1945 ở Việt Nam cũng
là những minh chứng lịch sử về việc liên minh giai cấp đoàn kết sẽ tạo sức mạnh
cả sự thỏa hiệp cần thiết có thể mang đế thành công.
Trên thực tế, V.I.Lênin luôn chủ trương mở rộng khối liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và các tầng lớp xã hội khác. Trong suốt thời kỳ quá độ, các giai
cấp bóc lột vẫn thường xuyên nuôi hy vọng phục hồi chính quyền tư sản. Từ hy vọng
chúng sẽ biến thành hành động. Và nguy tầng lớp tiểu sản-những người
hoang mang dao động sẽ tiếp tay cho chúng. V.I Lênin viết: "Sau khi bị thất bại nặng
nề lần đầu tiên, bọn bóc lột bị lật đổ vốn không ngờ mình sẽ bị quật xuống, không tin
tình hình sẽ như thế và không thừa nhận ý nghĩ về việc đó, thì nay lao mình vào cuộc
chiến với một nghị lực tăng gấp mười lần, với một sự cuồng nhiệt và lòng hận thù
gấp trăm lần, để chiếm lại cái "thiên đường" đã mất.
12
V.I.Lênin chỉ : “Chuyên chính
vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiên
phong của những người lao động, với đông đảo những tầng lớp lao động không phải
vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức, v.v…), hoặc với phần lớn những tầng
lớp đó, liên minh nhằm chống lại tư bản, liên minh nhằm lật đhoàn toàn bản, tiêu
diệt hoàn toàn sự chống cự của giai cấp sản và những mưu toan khôi phục của giai
cấp ấy, nhẳm thiết lập và củng cố vĩnh viễn chủ nghĩa xã hội”.
13
Điều này có thể được
chứng minh qua cuộc chiến bảo vệ nước Nga viết của nhân n Nga chống lại
Bạch Vệ, Chiến tranh Vệ quốc, toàn thể tầng lớp, giai cấp, nhân dân Liên Xô dưới sự
lãnh đạo của Stalin đã đoàn kết bảo vệ Tổ quốc tiêu diệt phát xít Đức, hay ở Việt
11
V.I.Lênin: Toàn tâp, t. 39, NXB Tiến bô, Mát-xcơ-va, 1977, tr. 251.
12
V.I Lênin: Sđd, t.37, tr.320-tr.321.
13
V.I.Lênin: Toàn tâp, t.38, NXB Tiến bô, Mát-xcơ-va, 1977, tr.452.
lOMoARcPSD| 61184739
Nam các cuộc cách mạng dân tộc dân chnhân dân giai đoạn 1945- 1975. Nội
dung chính trị liên minh giai cấp không chỉ tạo nên, mà còn duy trì củng cố chính
quyền của giai cấp vô sản.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội, tính tất yếu của liên minh giai cấp tầng
lớp được phản ánh trong nhiệm vụ chính trị - xã hội mà giai cấp công nhân phải tiến
hành. Giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tầng lớp lao động khác vừa lực
lượng sản xuất cơ bản, vừa là lực lượng chính trị xã hội to lớn. Khi cơ cấu xã hội
-giai cấp diễn biến rất phức tạp trong thời kỳ quá độ, giai cấp công nhân, thông qua
đội tiên phong Đảng Cộng sản, chỉ thể xây dựng, kiểm soát sử dụng chính
quyền Nhà nước của mình khi đường lối, chính sách liên minh đúng đắn với giai
cấp, tầng lớp lao động khác, trong đó có đội ngũ trí thức. V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Tớc
sự liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp sản giới kỹ thuật, không một
thế lực đen tối nào đứng vững được”.
14
2.2. Góc độ kinh tế
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bên cạnh tính tất yếu của chính trị xã hội,
nổi lên là tất yếu kinh tế của liên minh với tư cách là nhân tố quyết định nhất cho sự
thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa hội, liên minh về kinh tế liên minh bản,
thường xuyên lâu dài, sở cho liên minh trên các lĩnh vực khác . Liên minh
này được hình thành xuất phát từ yêu cầu khách quan của quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa chuyển dịch cấu kinh tế từ một nền sản xuất nhỏ nông nghiệp
chính sang sản xuất hàng hóa lớn, phát triển công nghiệp, dịch vụ và khoa học – công
nghệ....xây dựng nền tảng vật chất – kỹ thuật cần thiết cho chủ nghĩa xã hội. Mỗi lĩnh
vực của nền kinh tế chỉ phát triển được khi gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ cho nhau để cùng
hướng tới phục vụ phát triển sản xuất và tạo thành nền cơ cấu kinh tế quốc dân thống
nhất. Sau khi thực hiện Chính sách kinh tế mới, Lênin thừa nhận 5 thành phần kinh
tế tồn tại trong thời kỳ quá độ. Lênin đã xếp thứ tự 5 thành phần kinh tế nsau:
Kinh tế gia trưởng, kinh tế hàng hoá nhỏ, kinh tế bản; kinh tế nhà nước bản
chủ nghĩa, kinh tế hội chủ nghĩa. Hiện tại ở các ớc xã hội chủ nghĩa cũng phát
triển kinh tế nhiều thành phần như Lênin đã nói. thời kỳ kinh tế hội nhập, liên minh
công nhân, nông dân, tri thức ngày càng được tăng cường khi mà nông nghiệp, công
nghiệp, khoa học-công nghệ ngày càng liên hệ chặt chẽ với nhau. Chính những biến
đổi trong cấu kinh tế này đã đang từng ớc tăng cường khối liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức các tầng lớp trong
hội khác.
Trong giai cấp nông dân, có một bộ phận cốt lõi là tiểu nông. Về kinh tế, mỗi gia đình
nông dân một đơn vị kinh tế gần ntự túc hoàn toàn, cho thấy nh liên kết giữa
họ rất ít. C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ sự liên minh về kinh tế giữa giai cấp công nhân
giai cấp nông dân. Trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa hội tliên minh về
kinh tế liên minh bản, thường xuyên, lâu dài, sở cho liên minh trên các
lĩnh vực khác.Theo Ph.Ăngghen, nhiệm vụ chủ yếu của chính đảng sản phải
không ngừng giải thích cho nông dân thấy rằng, chừng nào chủ nghĩa bản đang
còn nắm chính quyền thì tình cảnh của họ vẫn tuyệt vọng thôi, tuyệt đối chắc
chắn là nền sản xuất tư bản chủ nghĩa quy mô lớn sẽ đè bẹp sản xuất quy mô nhỏ, bất
lực lỗi thời của họ. Chỉ cần cho nông dân thấy lợi ích chân chính của họ phải
chuyển ruộng đất của họ thành tài sản của hợp tác xã, tức là đưa nông dân đi vào sản
xuất hợp tác: sao thì điều chyếu cũng phải làm cho nông dân hiểu rằng chúng
14
V.I.Lênin: Toàn tâp, t.39, NXB Tiến bô, Mát-xcơ-va, 1977, tr. 251.
lOMoARcPSD| 61184739
ta chỉ thể cứu vãn bảo tồn được tài sản của họ bằng cách biến tài sản đó thành
tài sản hợp tác và thành những doanh nghiệp hợp tác xã”
15
. Ph.Ăngghen cũng cho
rằng, đó khâu trung gian trong việc chuyển nền sản xuất thể của nông dân quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, không qua phát triển bản chủ nghĩa. C.Mác Ph.Ăngghen
cũng chỉ nguyên tắc cải tạo hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp nông dân.
Nguyên tắc thứ nhất là, không được dùng bạo lực đối với nông dân, “... bằng
những tấm gương và bằng sự giúp đỡ của xã hội”. Nguyên tắc thứ hai là, tự nguyện,
không được ép, bắt buộc đối với nông dân: “Chúng ta kiên quyết đứng về phía
người tiểu nông... để cho họ có thời gian suy nghĩ với tư cách là người sở hữu mảnh
đất của họ nếu họ chưa thể quyết định như thế”
16
. Nguyên tắc thứ ba là, tiến dần
từ thấp đến cao: phải phát triển các hợp tác từ bậc thấp đến bậc cao, từ quy
từng đến quy liên xã. Các ông cho rằng, để nông dân đi lên chủ nghĩa hội
một cách thuận lợi, nhà nước phải nhiệm vụ giúp đỡ nông dân trong cuộc cải tạo
hội chủ nghĩa. Trong sách lược đối với nông dân, theo Ph.Ăngghen, trong điều
kiện của chủ nghĩa bản không thể coi nông dân một khối thống nhất, họ không
ngừng phân hóa, do đó, sách lược của các đảng xã hội chủ nghĩa cần phải khác nhau
đối với các thành phần nông dân khác nhau.
V.I.Lênin đặc biệt nhấn mạnh khi chuyển từ giai đoạn giành quyền sang giai đoạn
“chuyên chính vô sản”, chính trị đã chuyển sang chính trị trong lĩnh vực kinh tế, liên
minh muốn được phát huy và củng cố hơn phải lấy kinh tế làm cơ sở. Phải xuất phát
từ yêu cầu khách quan về kinh tế - kỹ thuật của một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên
chủ nghĩa hội. Do đó, phải gắn công nghiệp với nông nghiệp và khoa học công
nghệ hiện đại. Về tất yếu kinh tế - kỹ thuật, nin chỉ rõ: “Nếu không có kinh tế nông
nghiệp làm sở, thì một nước nông nghiệp không thể y dựng được nền công
nghiệp”.
17
Khi ớc Nga viết ra đời, bắt đầu thực thi “Sắc lệnh ruộng đất”. Nông dân đã
nhận được miễn phí n 150 triệu ha ruộng đất từ giai cấp địa chủ, được xóa tiền nợ.
Một vấn đề quan trọng nhằm cải thiện đời sống nhân dân lao động cần phải nâng
cao năng suất lao động. Như V.I.Lenin nhận định: “Công nhân tự nguyện tự giác, liên
hợp với nhau, sử dụng kỹ thuật hiện đại thì mới có thể tạo ra năng suất lao động cao
hơn”. Joseph Stalin, người kế tục sự nghiệp của V.I.Lenin từng chỉ rõ: “Biến nước
Nga từ một ớc nông nghiệp thành một nước công nghiệp thể tlực sản xuất
thiết bị cần thiết, đưa nước ta từ một nước nhập khẩu thiết bị thành một nước chế tạo
được các thiết bị ấy. Đó là điều bảo đảm sự độc lập kinh tế của nước ta và không phụ
thuộc vào các nước tư bản chủ nghĩa”. Từ tinh thần đó, Liên Xô quyết tâm trở thành
một quốc gia tự cường. Sau chiến tranh Vệ quốc, dưới sự chỉ đạo của quyết định “Về
những biện pháp cấp bách khôi phục kinh tế các vùng được giải phóng khỏi sự
chiếm đóng của phát-xít” của Joseph Stalin, đến cuối năm 1945, Liên đã khôi
phục được 7.500 nhà máy vànghiệp, hàng nghìn nông trường quốc doanh hợp
tác xã. Thời kỳ 1945 - 1953 giai đoạn niềm phấn khởi, tự hào của người n
Liên dâng cao khi nền kinh tế đã được hồi phục và phát triển nhanh chóng. Thu
nhập quốc dân từ năm 1940 đến năm 1950 tăng 64%. Năm 1954, Liên Xô là quốc gia
đầu tiên nhà máy điện nguyên tử. Hai sự kiện này đặt dấu chấm hết cho sự độc
quyền về vũ khí hạt nhân của Mỹ. Thủ tướng Anh Winston Churchill cũng phải đành
thừa nhận: “Stalin đã tiếp nhận một nước Nga đi giày cỏ và để lại một nước Nga với
15
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Sđd, t.22, tr.737 – tr.738.
16
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Sđd, t.22, tr.738.
17
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.38, tr.452.
lOMoARcPSD| 61184739
vũ khí hạt nhân”. Hay từ sau công cuộc Đổi mới 1986 Việt Nam lọt top các quốc gia
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất,Từ đó thấy được ý nghĩa của liên minh giai
cấp trên lĩnh vực kinh tế.
Như vậy, theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân tầng lớp trí thức do sự gắn thống nhất giữa sản xuất
công nghiệp, nông nghiệp với khoa học kỹ thuật. Nếu không có sự liên minh chặt chẽ
của cả 3 lực lượng này thì các ngành kinh tế sẽ khó phát triển. Và như vậy, liên minh
giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự liên kết, hợp tác, hỗ
trợ nhau... giữa các giai cấp, tầng lớp hội nhằm thực hiện nhau cầu lợi ích của
các chủ thể trong khối liên minh, đồng thời tạo động lực thực hiện thắng lợi mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, việc thực hiện liên minh giai cấp cũng đem lại những thuận lợi khó
khăn riêng:
Thuận lợi:
Giai cấp công nhân phần lớn xuất phát từ giai cấp nông dân nên giữa họ có nhiều sự
tương đồng,có mối quan hệ gắn mật thiết với nhau. Họ cũng đều những người
bị bóc lột việc họ đoàn kết đấu tranh là điều tất yếu.
Nhu cầu lợi ích của giai cấp công nhân hài hòa với lợi ích của dân tộc, với lợi ích
của đa số nhân dân. Quan hệ hợp tác chặt chẽ trong cả đấu tranh giai cấp và xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Đó là điều kiện thuận lợi để giai cấp công nhân liên minh chặt chẽ
hơn với giai cấp công nhân và các tầng lớp lao động khác.
Về bản thì giai cấp công nhân, nông dân, tri thức đều chung lập trường chính
trị là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế thị trường, quá trình toàn cầu hóa, tầng lớp tri thức
có điều kiện để gắn bó nhiều hơn đối với hoạt động sản xuất công nghiệp của công
nhân và hoạt động sản xuất nông nghiệp của nông dân. Từ đó quan hệ liên minh
giữa các giai cấp tầng lớp được tăng cường.
Khó khăn
Giai cấp nông dân vẫn còn thiếu điều kiện để phát triển, nhất là ở các vùng nông thôn
khó khăn. Đời sống của nhiều nông dân còn khó khăn, trình độ, học vấn,nhận thức
chính trị của họ còn thấp. Điều đó không chỉ ảnh hưởng đến khả nằn phát triển của
nông dân, còn ảnh hưởng đến khả năng liên minh giữa nông dân với công nhân
và tri thức.
Vấn đề thất nghiệp trong giai cấp công nhân tri thức cũng khó khăn lớn trong
thực hiện liên minh giai cấp, nhất là trong thời điểm n sngày ng gia tăng. Trong
xu thế toàn cầu hóa, gia tăng khả năng bị bóc lột của các doanh nghiệp trong và ngoài
nước đối với ng nhân. Thu nhập không đồng đều giữa các công nhân trong doanh
nghiệp vốn đầu ớc ngoài với doanh nghiệp trong nước, rồi cả xu hướng “trung
lưu hóa”. Điều này gây ra sự mất đoàn kết trong nội bộ giai cấp công nhân và cả liên
minh giai cấp.
Vẫn còn tồn tại một số điểm khác biệt về lập trường chính trị giữa công nhân, nông
dân, tri thức, tạo nên một số mâu thuẫn giữa các giai cấp, tầng lớp này với nhau, thêm
vào đó là sự chống phá của các thế lực thù địch khiến mâu thuẫn nặng nề hơn.
Cách giải quyết khó khăn
Nhà nước, công nhân, tri thức cần quan tâm đến nông dân, giúp đỡ phát triển nông
thôn, xóa đói giảm nghèo cải thiện đời sống nông n. Hướng dẫn giai cấp nông
lOMoARcPSD| 61184739
dân chủ động phát triển liên minh với công nhân nông dân. Nhằm phát huy tiềm
năng của nông dân và tăng cường khối liên minh giai cấp.
Cần phải giải quyết vấn đề việc làm cho công nhân tri thức. Không chỉ giúp cải
thiện đời sống của họ, phát triển kinh tế đất nước, mà còn tăng cường sự gắn bó trong
liên minh giai cấp.
Nhà nước phải có biện pháp để hạn chế sự bóc lột của các doanh nghiệp đối với công
nhân. Bên cạnh đó ng cần giải quyết vấn đmâu thuẫn về vấn đề chênh lệch thu
nhập khác biệt lập trường chính trị trong liên minh giai cấp. biện pháp chống
hoạt động chia rẽ của các thế lực thù địch.
III. Tầng lớp, giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam
3.1. Cơ cấu xã hội- giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam
3.1.1. Sự biến đổi cơ cấu xã hội- giai cấp vừa đảm bảo tính qui luật phổ biến, vừa mang
tính đặc thù của xã hội Việt Nam
- Sự vận động, biến đổi cấu hội- giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta biến đổi theo đúng quy luật.
Sự vận động, biến đổi cấu hội- giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
hội nước ta biến đổi theo đúng quy luật đó sự biến đổi của cơ cấu hội - giai
cấp bị chi phối bởi những biến đổi trong cấu kinh tế. Sự biến đổi của cấu
hội-giai cấp gắn liền và được quy định bởi biến động cấu kinh tế, thành phần kinh
tế, cơ cấu hành chính kinh tế-xã hội. Kể từ Ðại hội IX của Ðảng tháng 4-2001, Ðảng
ta đã khẳng định: Kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa là mô hình kinh tế
tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội nước ta kể từ đó đến
nay vấn đề hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng hội Chủ nghĩa được
đặt ra cấp bách trong các Ðại hội X, XI, XII, XIII của Ðảng. Ðại hội XIII khẳng định:
Kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa mô hình kinh tế tổng quát của
nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
18
Khác với những ớc bản phát triển, khi tiến lên chnghĩa hội, họ trực tiếp
thực hiện bước quá độ từ chủ nghĩa bản, Việt Nam khi bước o thời kỳ quá độ
chưa trải qua sự phát triển của chủ nghĩa bản. Sự chuyển đổi trong cấu kinh tế
đã dẫn đến những biến đổi trong cấu xã hội - giai cấp với việc hình thành một
cấu hội - giai cấp đa dạng. Sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế
19
tất yếu dẫn
đến cơ cấu xã hội- giai cấp đa dạng phức tạp với việc hình thành một cấu giai
cấp- hội đa dạng thay thế cho hội- giai cấp đơn giản bao gồm giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức của thời kì trước được đổi mới một cách
rệt. Tính đa dạng thhiện sự tồn tại nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp hội: giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, bphần sản các tầng lớp
18
Báo Nhân dân điện tử, Hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
19
Văn kiện XII của Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh: “Phát triển nền kinh tế
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân; kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực
quan trọng của sự phát triển”.
lOMoARcPSD| 61184739
nhân dân lao động khác. Tính đa dạng còn thể hiện trong cơ cấu nội bộ của mỗi giai
tầng, thậm chí có sự chuyển hóa qua lại lẫn nhau giữa các giai cấp tầng lớp xã hội
cũng đồng thời xuất hiện những tầng lớp xã hội mới. Chính những biến đổi mới này
cũng là một trong những yếu tố có tác động trở lại làm cho nền kinh tế đất nước phát
triển trở nên năng động, đa dạng hơn và trở thành động lực to lớn, quan trọng của sự
nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, ớc mạnh, dân chủ, ng bằng văn minh, định
hướng hội chủ nghĩa.
23
cấu giai cấp biến đổi nhanh chóng yếu tố mang
tính tự phát trong khuôn khổ của hội mới. Nhiều mối quan hệ giai cấp được hình
thành hoặc đã tồn tại ttrước đó song sự thay đổi của cấu kinh tế hội các
quan hệ lại biến đổi nhanh chóng. Cơ cấu giai cấp ở nước ta hiện nay bao gồm: công
nhân, nông dân, tầng lớp trí thức, sản, tiểu sản, tiểu chủ, ththủ ng, tiểu
thương...
Sự vận động, biến đổi cấu hội- giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
hội ở nước ta mang những đặc trưng của hình hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam
vừa mang tính chất định hướng lâu dài, vừa mang tính chất những nhiệm vụ cụ thể
cần đạt tới trong từng bước đi, từng giai đoạn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
hội.
3.1.2. Trong sự biến đổi của cơ cấu xã hội- giai cấp, vị trí, vai trò của các giai cấp,
tầng lớp xã hội ngày càng được khẳng định
- Giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân lực lượng đi đầu của quá trình quá độ lên chủ nghĩa
hội làm biến đổi nhanh cả về số lượng, chất lượng sự thay đổi đa dạng
về cơ cấu. Trước đổi mới, trong điều kiện nền kinh tế khép kín, vận hành theo
cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, giai cấp công nhân nước ta ít về số lượng,
tương đối thuần nhất. Trong quá trình đổi mới, mở cửa hội nhập quốc tế,
chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần đã tạo bước chuyển quan trọng
đối với cấu nền kinh tế. Bên cạnh thành phần kinh tế nhà ớc thành
phần kinh tế tập thể, đã hình thành phát triển nhanh thành phần kinh tế
nhân thành phần kinh tế vốn đầu nước ngoài. Điều đó đã tạo ra sự
chuyển biến trong cấu lực lượng lao động hội, làm cho lực lượng công
nhân- lao động công nghiệp và dịch vụ phát triển nhanh về số lượng, đa dạng
về cơ cấu: “công nhân nước ta đang tiếp tục tăng nhanh về số lượng, đa dạng
về cấu theo ngành nghề thành phần kinh tế. Trong đó, số công nhân
trong khu vực kinh tế nhân khu vực kinh tế vốn đầu nước ngoài
tăng mạnh chiếm tỷ trọng ngày càng lớn”
20
. Sự đa dạng của giai cấp công
nhân không chỉ phát triển theo thành phần kinh tế n phát triển theo ngành
nghề. Bộ phận “công nhân hiện đại”, “công nhân tri thức” sẽ ngày càng lớn
mạnh. Quá trình hội nhập quốc tế đã tiếp nhận những thành tựu khoa học, kỹ
thuật công nghệ hiện đại vào sản xuất, làm cho nền kinh tế nước ta đang
chuyển biến nhanh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại a. Điều đó tạo
động lực để giai cấp công nhân nước ta ngày càng phát triển cao về trình độ
chuyên môn nghề nghiệp. Trình độ công nhân ngày càng được nâng cao, góp
phần nâng cao chất lượng, bảo đảm sứ mệnh của giai cấp công nhân Việt Nam
trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tnh độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ
năng nghề nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp của
20
Tạp chí của Ban Tuyên giáo trung ương, Sự biến đổi giai cấp công nhân Việt Nam
dưới tác động của hội nhập quốc tế
lOMoARcPSD| 61184739
công nhân ng ngày càng được được nâng n nhằm đáp ứng yêu cầu của quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức và cách mạng công
nghiệp lần thứ (4.0) đang xu hướng phát triển mạnh. Bên cạnh đó, sự
phân hoá giàu nghèo trong giai cấp công nhân ngày càng rệt. Trong quá
trình hội nhập kinh tế, dưới sự tác động của kinh tế thị trường, dẫn đến sự
chênh lệch mức thu nhập giữa các công nhân. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học kỹ thuật, việc áp dụng khoa học kỹ thuật với sản xuất ngày càng
đẩy mạnh, dẫn đến sự phân tầng giai cấp về mức thu nhập giữa công nhân lao
động phức tạp công nhân lao động đơn giản, ảnh hưởng sâu sắc đến sự
thống nhất, đoàn kết của giai cấp công nhân. Một số bộ phân công nhân thu
nhập thấp, giác ngộ lập trường giai cấp, ý thức chính trị giai cấp chưa cao.
Hiện nay, mặt trái của hội nhập quốc tế đang làm cho công nhân nước ta không
đồng đều về nhận thức hội, giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, ý thức tổ
chức kluật lao động. Không ít công nhân còn chưa nhận thức đầy đủ về
sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình; ý chí phấn đấu, ý thức tổ chức kỷ luật, tính
tiên phong gương mẫu của một bộ phận công nhân giảm sút. Chnghĩa
nhân, thực dụng, hội điều kiện phát triển nhanh chóng. Một bộ phận
công nhân trẻ còn bị nh hưởng bởi các tệ nạn hội, sống buông thả, phai
nhạt lý tưởng, suy thoái về đạo đức, lối sống, xa rời bản chất tốt đẹp của giai
cấp công nhân. Gây ảnh hưởng đến doanh nghiệp hình ảnh người ng nhân
Việt Nam trong quá trình hội nhập
quốc tế
Giai cấp công nhân Việt Nam có vai trò quan trọng đặc biệt, là giai cấp lãnh đạo cách
mạng thông qua đội tiền phong Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho phương
thức sản xuất tiên tiến; giữ vai trò tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, ng bằng, văn minh lực lượng nòng
cốt trong liên minh giai câos công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức.
21
- Giai cấp nông dân
Giai cấp nông dân giai cấp của những người lao động sản xuất trong nông nghiệp
(bao gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp), trực tiếp sử dụng một tư liệu sản xuất cơ bản
đặc thù gắn với thiên nhiên đất, rừng, biển để sản xuất ra sản phẩm nông nghiệp.
Giai cấp nông n cùng với nông nghiệp, nông thôn vị trí chiến lược trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông
thôn mới, góp phần xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Giai cấp nông dân sở lực
lượng quan trọng để phát triển kinh tế- hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị,
đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc bảo vệ
môi trường sinh thái; là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn
với xây dựng các sở công nghiệp, dịch vụ phát triển đô thị theo hướng quy
hoạch; phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp...
22
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, giai cấp nông dân cũng sự biến đổi đa
dạng về cơ cấu giai cấp; xu hướng giảm dần về số ợng tỉ lệ trong cấu
hội- giai cấp. Một bộ phận nông dân chuyển sang lao động trong các khu công nghiệp,
hoặc dịch vụ tính chất công nghiệp trở thành công nhân. Trong giai cấp nông
21
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương
khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2008, tr.43-tr.44.
22
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương
khóa X, Nxb.Chính trị quốc gia, H. 2008.
lOMoARcPSD| 61184739
dân xuất hiện những chủ trang trại lớn, đồng thời vẫn còn những nông dân mất ruộng
đất, nông dân đi làm thuê... sự phân hóa giàu nghèo trong nội bộ nông dân cũng
ngày càng rõ.
Những đặc điểm trên đã cho thấy rằng trong cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân
giai cấp sản, nông dân tầng lớp trung gian đông đảo, không khả năng tự
giải phóng nh khỏi các chế độ hữu, áp bức bóc lột, càng không thể giai cấp
lãnh đạo hội trong các cuộc giải phóng đó. Giai cấp nông dân chỉ thể liên
minh với giai cấp công nhân, chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua ĐCS,
cả trong giành chính quyền cũng như trong quá trình cải tạo xây dựng Chủ nghĩa
xã hội, thì mới phát huy được vai trò của mình và được giải phóng. - Đội ngũ trí thức
Tthức là những người lao động trí óc, có hiểu biết sâu rộng về một hoặc một slĩnh
vực khoa học công nghệ, văn hóa nghệ thuật, quản kinh tế -xã hội, thường
xuyên vận dụng những hiểu biết đó để phát hiện và giải quyết những vấn đề luận
thực tiễn nảy sinh trong lĩnh vực hoạt động của mình lợi ích chung của cộng
đồng và nhu cầu nhận thức của bản thân.
Đội ngũ trí thức lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình
đẩy mạnh công nghiệp, hóa hiện đại hóa đất nước hội nhập quốc tế, xây dựng kinh
tế tri thức, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; lực
lượng trong khối liên minh.
23
Tthức Việt Nam xuất thân từ nhiều giai cấp, tầng lớp hội, nhất là từ công nhân
nông dân; phần lớn trưởng thành trong hội mới, được hình thành từ nhiều nguồn
đào tạo cả trong ngoài ớc. Đội ngũ trí thức nước ta tinh thần yêu nước,
lòng tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc, luôn gắn với sự nghiệp cách mạng do Đảng
lãnh đạo. Bằng hoạt động sáng tạo, trí thức nước ta đã đóng góp to lớn trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trí thức không có phương thức sản xuất riêng và địa vị kinh tế, xã hội độc lập nên trí
thức cũng không có hệ tư tưởng độc lập. Mặc dù vậy, trí thức luôn giúp giai cấp thống
trị khái quát về luận để hình thành hệ tưởng của giai cấp thống trị hội. Tri
thức tuy có tinh thần đấu tranh chống áp bức, bóc lột nhưng lại thiếu kiên quyết, triệt
để. vậy, trí thức muốn được giải phóng phải chịu sự nh đạo của giai cấp công
nhân và tham gia vào khối liên minh.
Tthức phục vụ cho giai cấp nào thì mang ý thức của hệ giai cấp đó. Tthức chủ
nghĩa xã hội mang ý thức hệ của giai cấp công nhân. Ngày nay, cách mạng khoa học
kỹ thuật công nghệ hiện đại đã đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì
trí thức ngày càng có vai trong quan trọng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
hội nhập khu vực, quốc tế. Chủ tịch Hồ CMinh đã từng nhiều lần khẳng định
rằng: Kiến thiết cần có nhân tài”, cách mạng cần có lực lượng của trí thức”; trong
xây dựng hội chnghĩa, lao động trí óc có một vai trò quan trọng vẻ vang”.
Vai trò quan trọng vvang của trí thức nghĩa vừa lập trường chính trị vững
vàng, vừa giỏi về chuyên môn, tinh thông nghiệp vụ các lĩnh vực được giao, đồng
thời coi phẩm chất ng đầu của người trí thức phải chính tâm trách nhiệm
người trí thức của nhân dân là phải “nhân dân”, phải “đoàn kết chặt chẽ, để phụng
sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”. Trí thức đóng vai trò quan trọng trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa, đặc biệt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa hội. Lenin đã từng
khẳng định: “Không có trí thức không thể chủ nghĩa hội” trí thức những
người có công lao chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, phát triển dân trí, đào tạo nguồn
nhân lực cho đất nước; tham gia y dựng đường lối của Đảng, chính sách của nhà
23
Bộ Giáo dục Đào tạo (2019), Giáo trình Chủ nghĩa hội khoa học, Nhà xuất bản
Hà Nội, tr.95.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61184739
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN - ------***-------
BÀI TẬP LỚN MÔN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH NỘI DUNG CỦA LIÊN MINH GIAI CẤP,
TẦNG LỚP TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.
Họ và tên: Lê Phương Sang
Mã sinh viên: 11219790
Lớp tín chỉ : POHE Luật Kinh Doanh
GVHD: TS Nguyễn Văn Hậu HÀ NỘI 202 2 lOMoAR cPSD| 61184739 I. MỤC LỤC I. MỤC LỤC II. LỜI NÓI ĐẦU III.
ĐẶT VẤN ĐỀ IV. NỘI DUNG I.
Cơ cấu xã hội – giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.............. 1.1. Khái niệm và vị trí của cơ cấu xã hội – giai cấp trong
cơ cấu xã hội......... 1.1.1. Khái niệm cơ cấu xã hội và cơ cấu xã hội – giai
cấp..................................... 1.1.2. Vị trí của cơ cấu xã hội-giai cấp trong
cơ cấu xã hội....................................
1.2. Sự biến đổi có tính quy luật của cơ cấu xã hội- giai cấp trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội...........................................................................
1.2.1. Cơ cấu xã hội giai cấp biến đổi gắn liền và bị quy định bởi cơ cấu
kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.....................................................
1.2.2. Cơ cấu xã hội-giai cấp biến đổi phức tạp, đa dạng, làm xuất hiện
các tầng lớp xã hội mới.........................................................................................
1.2.3. Cơ cấu xã hội – giai cấp biến đổi trong mối quan hệ vừa đấu tranh, vừa
liên minh, từng bước xóa bỏ bất bình đẳng xã hội dần xích lại gần
nhau................................................................................................................ .......
II.
Liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội....................................................................................................................
2.1. Góc độ chính trị..............................................................................................
2.2. Góc độ kinh tế............................................................................................... III.
Tầng lớp, giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam..............................................................................................
3.1. Cơ cấu xã hội- giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.......................................................................................................
3.1.1. Sự biến đổi cơ cấu xã hội- giai cấp vừa đảm bảo tính qui luật phổ biến,
vừa mang tính đặc thù của xã hội Việt Nam................................................
3.1.2. Trong sự biến đổi của cơ cấu xã hội- giai cấp, vị trí, vai trò của các giai
cấp, tầng lớp xã hội ngày càng được khẳng định.........................................
3.2. Liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam..............................................................................................
3.2.1. Nội dung của liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.............................................................................
3.2.2. Phương hướng cơ bản để xây dựng cơ cấu xã hội – giai cấp và tăng
cường liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam...................................................................................................

TÀI LIỆU THAM KHẢO lOMoAR cPSD| 61184739 II. LỜI NÓI ĐẦU
Tập thể nhóm tác giả xin trình bày chủ đề Nội dung của liên minh giai cấp tầng
lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Đây là một nội dung
rất hay nhưng khá khó trong việc tiếp cận nên nhóm tác giả làm bài tiểu luận
này nhằm cung cấp nội dung một cách dễ hiểu nhất cho mọi người.
Lý do nhóm chọn chủ đề này phù hợp với bối cảnh trong nước đang trong thời
kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và bối
cảnh nước ngoài đang diễn biến phức tạp: “Cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu
sắc đến sự phát triển của nhiều nước. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu
hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển. Hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn; nhưng đấu
tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung
đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố,
tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên và cạnh tranh quyết liệt về lợi ích
kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp” ( trích Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội).
Với bối cảnh như thế đã đặt ra cho đất
nước ta nhiều cơ hội nhưng cũng đối mặt với nhiều thách thức về những sự
biến đổi trong cơ cấu xã hội, giai cấp, tầng lớp.
Vì thế việc tìm hiểu chủ đề này giúp chúng ta nắm được những kiến thức nền
tảng về cơ cấu xã hội-giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, giúp chúng ta nhận diện sự biến đổi trong cơ cấu xã hội-giai cấp và nội
dung liên minh giai cấp, tầng lớp để từ đó giúp ta nhận thấy được tầm quan
trọng, sự cần thiết góp sức tăng cường xây dựng khối liên minh giai cấp, tầng
lớp vững mạnh trong sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
III. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính tất yếu của việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công nghiệp hóa hiện đại hóa là một trong các nhiệm vụ kinh tế cơ bản của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa ở nước ta. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa được là quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xã hội, từ sử dụng
lao động thủ công là phổ biến sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động được đào
tạo cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra
năng suất lao động xã hội cao và tạo ra những biến đổi về chất trong toàn bộ các hoạt
động của đời sống xã hội (trước hết là hoạt động sản xuất vật chất).
Đó là quá trình sử dụng năng lực, kinh nghiệm, trí tuệ, bản lĩnh của con người để tạo
ra và sử dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại kết hợp với giá trị
truyền thống của dân tộc để đổi mới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm hướng tới lOMoAR cPSD| 61184739
một xã hội văn minh, hiện đại. Ngày nay, công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đã
trở thành tất yếu của sự phát triển, là làn sóng mạnh mẽ tác động đến tất cả các quốc
gia trên thế giới cũng như mọi mặt của đời sống xã hội.
Trước đây, nền công nghiệp của Việt Nam còn khá nhỏ và chưa hoàn chỉnh, hầu hết
các cơ sở sản xuất lớn đều là của tư bản Pháp, còn công nghiệp bản địa chủ gồm
những doanh nghiệp nhỏ, hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất hàng hóa tiêu dùng và
các hộ gia đình sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Do yêu cầu đặt ra là mỗi một phương
thức sản xuất xã hội nhất định phải có một cơ sở vật chất, kĩ thuật tương ứng. Do Việt
Nam chưa chú trọng vào việc phát triển cơ sở vật chất, kĩ thuật cho nên năng suất lao
động không thể gia tăng. Cơ sở vật chất, kĩ thuật của một xã hội là hệ thống các yếu tố
vật chất của lực lượng sản xuất xã hội, phù hợp với trình độ kĩ thuật tương ứng mà lực
lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất, đáp ứng nhu cầu của xã
hội. Không chỉ vậy, Việt Nam vốn là một nước nhỏ bé, luôn bị các nước khác xâm
chiếm, nền kinh tế, kĩ thuật và công nghệ của Việt Nam vẫn còn quá lạc hậu so với thế
giới. Việt Nam là một nước có lợi thế về lương thực, thực phẩm nên vốn chỉ chú trọng
vào nông nghiệp, mức sống người dân vẫn còn khá thấp và cuộc sống còn nghèo nàn. IV. NỘI DUNG I.
Cơ cấu xã hội – giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 1.1.
Khái niệm và vị trí của cơ cấu xã hội – giai cấp trong cơ cấu xã hội
1.1.1. Khái niệm cơ cấu xã hội và cơ cấu xã hội – giai cấp
Cơ cấu xã hội là những cộng đồng người cùng toàn bộ những mối quan hệ xã
hội do sự tác động lẫn nhau của các cộng đồng ấy tạo nên.1
Cơ cấu xã hội có nhiều loại, như: cơ cấu xã hội – dân cư, cơ cấu xã hội – nghề
nghiệp, cơ cấu xã hội – giai cấp, cơ cấu xã hội – dân tộc, cơ cấu xã hội – tôn
giáo, v.v... Dưới góc độ chính trị - xã hội, môn Chủ nghĩa xã hội khoa học tập
trung nghiên cứu cơ cấu xã hội – giai cấp vì đó là một trong những cơ sở để
nghiên cứu vấn đề liên minh giai cấp, tầng lớp trong một chế độ xã hội nhất định.
Cơ cấu xã hội – giai cấp là hệ thống các giai cấp, tầng lớp xã hội tồn tại khách
quan trong một chế độ xã hội nhất định, thông qua những mối quan hệ về sở
hữu tư liệu sản xuất, về tổ chức quản lý quá trình sản xuất, về địa vị chính trị
- xã hội...giữa các giai cấp và tầng lớp đó.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cơ cấu xã hội – giai cấp là tổng thể
các giai cấp, tầng lớp, các nhóm xã hội có mối quan hệ hợp tác và gắn bó chặt
chẽ với nhau. Yếu tố quyết định mối quan hệ đó là họ cùng chung sức cải tạo
xã hội cũ và xây dựng xã hội mới trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các
giai cấp, tầng lớp xã hội và các nhóm xã hội cơ bản trong cơ cấu xã hội – giai
cấp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bao gồm: giai cấp công nhân, giai lOMoAR cPSD| 61184739
cấp nông dân, tầng lớp trí thức, tầng lớp doanh nhân, tầng lớp tiểu chủ, tầng
lớp thanh niên, phụ nữ v.v... Mỗi giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội này có
những vị trí và vai trò xác định song dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản –
đội tiên phong của giai cấp công nhân cùng hợp lực, tạo sức mạnh tổng hợp
để thực hiện những mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, tiến tới xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản với tư cách là một hình thái kinh tế - xã hội mới thay thế hình thái kinh tế
- xã hội cũ đã lỗi thời. Đặc điểm của cơ cấu xã hội-giai cấp
- Cơ cấu xã hội-giai cấp là hệ thống các giai cấp, tầng lớp xã hội tồn tại khách quan
trong một hệ thống xã hội nhất định mà không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người.
- Việc xác định cơ cấu xã hội-giai cấp thông qua những mối quan hệ về sở hữu tư
liệu sản xuất, về tổ chức quản lí quá trình sản xuất, về địa vị chính trị-xã hội,…
giữa các giai cấp tầng lớp đó. Đặc biệt là mối quan hệ về sở hữu tư liệu sản suất.
Cụ thể đối với xã hội Tư sản thì giai cấp tư sản là người nắm giữa tư liệu còn
những người không nắm giữ tư liệu sản xuất là giai cấp vô sản, đối với xã hội Xã
hội chủ nghĩa kế thừa từ xã hội Tư bản chủ nghĩa, giai cấp vô sản đấu tranh giành
thắng lợi thay thế tư sản nắm giữ tư liệu sản xuất
1.1.2. Vị trí của cơ cấu xã hội-giai cấp trong cơ cấu xã hội
Trong hệ thống xã hội, mỗi loại hình cơ cấu xã hội đều có vị trí, vai trò xác định và
giữa chúng có mỗi quan hệ, phụ thuộc lẫn nhau. Song vị trí, vai trò của các loại cơ
cấu xã hội không ngang nhau, cơ cấu xã hội-giai cấp có vị trí quan trọng hàng đầu,
chi phối các loại hình cơ cấu xã hội khác. Điều này xuất phát từ một số nguyên nhân như sau:
- Cơ cấu xã hội-giai cấp liên quan đến các đảng phái chính trị và nhà nước, quyền
sở hữu tư liệu sản xuất , quản lý tổ chức lao động, vấn đề phân phối thu nhập…
- Sự biến đổi cơ cấu xã hội-giai cấp tất yếu sẽ ảnh hưởng đến sự biến đổi của các
cơ cấu xã hội khác và tác động đến sự biến đổi của toàn bộ cơ cấu xã hội, ví dụ
như: nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cơ cấu xã hội-giai
cấp có sự biến đổi, Giai cấp công nhân lên nắm chính quyền, làm chủ tư liệu sản
xuất từ đó ảnh hưởng đến cơ cấu xã hội-nghề nghiệp có sự thay đổi khi số lượng
công nhân đang có xu hướng tăng mạnh, số lượng nông dân đang có xu hướng
giảm và các nhà tư bản từ một giai cấp nắm quyền tư liệu sản xuất dần trở thành
các tư nhân, doanh nghiệp,…(những tầng lớp xã hội mới).
Sự biến đổi cơ cấu xã hội-giai cấp tất yếu sẽ ảnh hưởng đến sự biến đổi của các cơ
cấu xã hội khác và tác động đến sự biến đổi của toàn bộ cơ cấu xã hội. Lê-nin đã từng
viết rằng: “Kết cấu xã hội và chính quyền có nhiều biến đổi, nếu không hiểu những
biến đổi này thì không thể tiến được một bước trong bất kỳ lĩnh vực hoạt động nào.”,
ví dụ như nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cơ cấu xã hội-giai
cấp có sự biến đổi, Giai cấp công nhân lên nắm chính quyền, làm chủ tư liệu sản xuất
từ đó ảnh hưởng đến cơ cấu xã hội-nghề nghiệp có sự thay đổi khi số lượng công
nhân đang có xu hướng tăng mạnh, số lượng nông dân đang có xu hướng giảm và các
nhà tư bản từ một giai cấp nắm quyền tư liệu sản xuất dần trở thành các tư nhân,
doanh nghiệp,…(những tầng lớp xã hội mới).
Mặc dù cơ cấu xã hội-giai cấp giữ vị trí quan trong song cũng không vì thế mà tuyệt
đối hóa nó, xem nhẹ các loại hình cơ cấu xã hội khác, từ đó có thể dẫn đến sự tùy
tiện, muốn xóa bỏ nhanh chóng các giai cấp, tầng lớp xã hội một cách đơn giản theo ý muốn chủ quan. lOMoAR cPSD| 61184739
1.2. Sự biến đổi có tính quy luật của cơ cấu xã hội- giai cấp trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội
Cơ cấu xã hội-giai cấp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thường xuyên có
những biến đổi mang tính quy luật sau đây:
1.2.1. Cơ cấu xã hội giai cấp biến đổi gắn liền và bị quy định bởi cơ cấu kinh tế của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Theo lý luận chủ nghĩa Mác, vật chất quyết định ý thức, thì trong xã hội kinh tế quyết
định chính trị, tức là cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Như vậy, cơ cấu
xã hội giai cấp nó sẽ phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế của xã hội. Nói cách khác, cơ cấu
kinh tế xã hội nó sẽ quyết định cơ cấu xã hội giai cấp.
Trong cơ cấu kinh tế của thời kỳ phong kiến, nó quyết định đến cơ cấu xã hội giai
cấp của thời kỳ phong kiến, đó là giai cấp địa chủ phong kiến là thống trị của giai cấp
nông dân và các tầng lớp bị trị khác.
Trong cơ cấu kinh tế của thời kỳ tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản sẽ là giai cấp thống
trị bởi vì giai cấp tư sản là giai cấp nắm tư liệu sản xuất, giai cấp công nhân và những
thành phần khác là giai cấp bị trị.
Ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cơ cấu xã hội giai cấp cũng tuân theo quy luật
trên. Tức là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì cơ cấu hướng đến là sở hữu công
cộng, công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu, phục vụ thiết thực lợi ích của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động do Đảng cộng sản lãnh đạo. Điều đó dẫn đến cơ cấu
xã hội giai cấp lúc này là giai cấp công nhân, lực lượng đông đảo và to lớn trong xã
hội sẽ là giai cấp lãnh đạo, giai cấp thống trị. Giai cấp công nhân, do có lợi ích phù
hợp với dân tộc, đất nước, cho nên sự lãnh đạo, thống trị của giai cấp công nhân sẽ
phù hợp với lợi ích chung, mục đích chung của toàn xã hội và do đó là thống nhất,
tập hợp liên minh đông đảo những cái giai cấp, tầng lớp khác vào công việc chung
đó là tổ chức và xây dựng xã hội mới xã hội cộng sản chủ nghĩa. Ở nước ta, Văn kiện
Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định: “Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng cơ cấu,
tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều cùng với những biến
đổi về kinh tế, xã hội”.1
Quá trình biến đổi trong cơ cấu kinh tế dẫn đến những biến đổi trong cơ cấu xã hội
giai cấp, từ đó dẫn đến sự thay đổi các vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp, các
nhóm xã hội. Cụ thể là ở những nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
với xuất phát điểm thấp, cơ cấu kinh tế sẽ có những biến đổi đa dạng: từ một cơ cấu
kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và công nghiệp còn ở trình độ sơ khai chuyển sang cơ
cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông
nghiệp; chuyển từ cơ cấu vùng lãnh thổ còn chưa định hình sang hình thành các vùng,
các trung tâm kinh tế lớn; chuyển từ cơ cấu lực lượng sản xuất hiện đại nhưng không
cân đối, trình độ công nghệ nhìn chung còn lạc hậu hoặc trung bình chuyển sang phát
triển lực lượng sản xuất với trình độ công nghệ cao, tiên tiến theo xu hướng ứng dụng
những thành quả của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, của kinh tế tri thức,
kinh tế số, cách mạng công nghiệp lần thứ tư…, từ đó hình thành những cơ cấu kinh
tế mới hiện đại hơn, với trình độ xã hội hóa cao và đồng bộ hài hòa hơn giữa các
vùng, các khu vực, giữa nông thôn và thành thị, đô thị...Quá trình biến đổi trong cơ
cấu kinh tế đó tất yếu dẫn đến những biến đổi trong cơ cấu xã hội- giai cấp, cả trong
1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, tr.85. lOMoAR cPSD| 61184739
cơ cấu tổng thể cũng như những biến đổi trong nội bộ từng giai cấp, tầng lớp xã hội,
nhóm xã hội. Từ đó, vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp, các nhóm xã hội cũng
thay đổi theo. Mặt khác, nền kinh tế thị trường phát triển mạnh với tính cạnh tranh
cao, cộng với xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng khiến cho giai cấp, tầng lớp xã hội
cơ bản trong thời kỳ này trở nên năng động, có khả năng thích ứng nhanh, chủ động
sáng tạo trong lao động sản xuất để tạo ra những sản phẩm có giá trị, hiệu quả cao và
chất lượng tốt đáp ứng của nhu cầu thị trường trong bối cảnh mới.2
những sản phẩm có giá trị, hiệu quả cao và chất lượng tốt đáp ứng của nhu cầu thị
trường trong bối cảnh mới.3
1.2.2. Cơ cấu xã hội-giai cấp biến đổi phức tạp, đa dạng, làm xuất hiện các tầng lớp xã hội mới.
Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ ra rằng, hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa đã
được “thai nghén” từ trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩam do vậy ở giai đoạn đầu của
nó vẫn còn những “dấu vết của xã hội cũ” được phản ánh “về mọi phương diệnkinh
tế,đạo đức, tinh thần”4. Song bên cạnh đó, cũng xuất hiện những yếu tố mới do giai
cấp công nhân và các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội bắt tay vào tổ chức xây
dựng, làm xuất hiện sự đan xen giữa yếu tố cũ và yếu tố mới. Đây là vấn đề mang
tính quy luật thể hiện rõ nét nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Về mặt
kinh tế, còn tồn tại kết cấu kinh tế nhiều thành phần. Chính sự phát triển của nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần đưa đến sự biến đổi cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu
ngành nghề, cơ cấu hành chính, kinh tế, xã hội. Điều đó đưa tới cơ cấu xã hội- giai
cấp đa dạng phức tạp với những giai cấp tầng lớp khác nhau. Sự biến đổi đó đưa tới
một cơ cấu xã hội mới, tác động trực tiếp đến cơ cấu kinh tế tạo cho nó định hướng
xã hội chủ nghĩa. Biểu hiện của sự biến đổi đó là:
- Trong giai cấp nông dân đã hình thành những nông dân làm dịch vụ, mở xưởng cơ
khí, làm nghề phụ, buôn bán nhỏ...; có nông dân làm chủ trang trại, có nông dân làm
thuê, có nông dân sống và làm việc ở nông thôn nhưng cũng đã ly nông. Sự chuyển
dịch đó dẫn đến tính chất thuần nông trong giai cấp nông dân ngày một thuyên giảm.
Trong thời gian tới, thực hiện chủ trương chuyển mạnh cơ cấu lao động ở nông thôn
theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động
công nghiệp, dịch vụ, tạo điều kiện để nông dân có việc làm trong và ngoài khu vực
nông thôn, kể cả ở nước ngoài sẽ làm cho giai cấp nông dân có sự chuyển dịch mạnh
về kết cấu và tính chất giai cấp.
- Trong giai cấp công nhân nước ta hiện nay hình thành một nhóm xã hội có vị trí kinh
tế, xã hội và dễ nhận thấy vai trò của họ trong sản xuất, kinh doanh như: chủ trang
trại. Tên gọi chủ trang trại chỉ mới phản ánh vị trí, vị thế trong sản xuất của họ - với
tính cách là những ông chủ sở hữu (sử dụng một số đất đai, ao hồ, ruộng vườn, mở
mạng sản xuất, thuê khoán nhân công, sản xuất ra nông lâm, hải sản), chứ chưa phản
ánh vị trí, vị thế xã hội. Trên thực tế, họ chưa có sự “liên hệ bên trong” để hình thành
một tầng lớp xã hội, tuy nhiên cho thấy rõ hơn sự phân hóa, tính phức tạp trong kết
cấu của giai cấp nông dân.Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
mở cửa và hội nhập quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam đã có nhiều chuyển dịch
về ngành nghề, dẫn đến sự chuyển dịch về kết cấu trong nội bộ giai cấp. Tính phức
tạp trong giai cấp công nhân ngày càng tăng lên, công nhân làm thuê đan xen với
công nhân có cổ phần, thậm chí là chủ xưởng. Trong giai cấp công nhân đã xuất hiện
2 Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB Hà Nội, 2019, tr.90. lOMoAR cPSD| 61184739
công nhân “cổ trắng” bên cạnh những công nhân “cổ xanh” truyền thống. Điều này
rất cần chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu để có thể đưa ra những quyết sách thích hợp.
- Tầng lớp trí thức ngày càng đông đảo về mặt số lượng và cũng chứa đựng sự phức
tạp về kết cấu và sự biến động về tính chất của tầng lớp trong xã hội. Tầng lớp trí
thức Việt Nam là một tầng lớp hội đủ các thành phần xã hội: nông dân, công nhân,
tiểu thương, tiểu chủ với mọi lứa tuổi và dân tộc. Đây cũng là tầng lớp làm việc trong
tất cả các ngành nghề trong xã hội, họ gia nhập “không tự giác” vào các giai cấp và
tầng lớp xã hội khác. Có trí thức đã trở thành doanh nhân, có trí thức chỉ là những
người lao động bình thường trong các cơ sở sản xuất kinh doanh...3
1.2.3. Cơ cấu xã hội – giai cấp biến đổi trong mối quan hệ vừa đấu tranh, vừa liên
minh, từng bước xóa bỏ bất bình đẳng xã hội dần xích lại gần nhau
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn còn xuất hiện những mâu thuẫn, sự
đấu tranh giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, tàn dư của chế độ cũ liên tục
không ngừng chống phá đòi hỏi cần phải chú ý và có những biện pháp để giải quyết
mâu thuẫn đấu tranh đó trong thời kỳ nhảy cảm mà được ví như “những cơn đau đẻ kéo dài”.4
Bên cạnh nhưng mâu thuẫn đấu tranh thì các giai cấp trong xã hội còn có mối quan
hệ liên minh gắn kết giữa giai cấp công nhân, nông dân, và tầng lớp tri thức. Sự liên
minh gắn kết này xuất phát từ việc giai cấp công nhân và nông dân có những đặc
điểm giống nhau. Họ đều là giai cấp bị trị, bị bóc lột, có số lượng đông đảo trong xã
hội, đặc biệt giai cấp công nhân ở Việt Nam còn có nguồn gốc xuất thân từ nông dân,
còn đối với tầng lớp trí thức họ là người nắm giữ tri thức tiếp cận nhanh với luồng tư
tưởng mới, nhạy bén với thời cuộc, và họ cũng bị bóc lột một cách gián tiếp. Chính
điều đó đã tạo cơ sở để hình thành một liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân,
giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức … Mức độ liên minh, xích lại gần nhau giữa
các giai cấp, tầng lớp trong xã hội tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của đất
nước trong từng giai đoạn của thời kỳ quá độ. Ở giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ sự
phân chia giai cấp thống trị và bị trị rất rõ ràng khi giai cấp tư sản nắm giữ tư liệu sản
xuất và tiến hành bóc lột giai cấp bị trị cụ thể giai cấp công nhân và giai cấp nông
dân và tầng lớp tri thức, cho đến khi giai cấp công nhân nhận thức được vai trò và sứ
mệnh lịch sử của tiến hành cách mạng cùng với giai cấp khác giành chiến quyền và
tiến lên chủ nghĩa xã hội và từ lúc đó mối quan hệ giữa giai cấp công nhân giai cấp
nông dân và tầng lớp tri thức ngày càng gắn bó, liên kết với nhau.
Sự gắn kết này phù hợp với quy luật phổ biến. Trong một chế độ xã hội nhất định,
chính cuộc đấu tranh giai cấp của các giai cấp có lợi ích đối lập nhau đều đặt ra nhu
cầu tất yếu khách quan mỗi giai cấp đứng ở vị trí trung tâm đều phải tìm cách liên
minh với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác có những lợi ích phù hợp với mình để tập
hợp lực lượng thực hiện những nhu cầu và lợi ích chung.
Tính đa dạng và tính độc lập tương đối của các giai cấp, tầng lớp sẽ diễn ra trong việc
hòa nhập, chuyển đổi bộ phận giữa các nhóm xã hội và có xu hướng tiến tới từng
bước xóa bỏ dần tình trạng bóc lột giai cấp trong xã hội, vươn tới những giá trị công
bằng bình đẳng. Số lượng giai cấp công nhân hiện nay có nhiều số lượng tương đối
3 Bàn luận về giai tầng xã hội, cơ cấu xã hội - giai tầng xã hội, Tạp chí Thông tin Khoa
học xã hội
, số 9/2007, tr.51-tr.53.
4 Theo C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.47. lOMoAR cPSD| 61184739
khác biệt do tiêu chí, quy mô và cách đánh giá của mỗi chủ thể nghiên cứu. Năm
2012, Ngân hàng Thế giới (WB) cho biết, thế giới đã có 1.000 triệu công nhân. Một
nghiên cứu của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) năm 2014 khẳng định, trên thế giới
hiện có 1.540 triệu “công nhân làm công ăn lương” (salaried workers) trong tổng số
gần 3.300 triệu người lao động của thế giới hiện nay. Cũng theo ILO, dự báo về số
lượng nhóm này, năm 2018 sẽ là 1.702 triệu người5. Cũng có một phân tích khác đưa
ra số liệu tương đương: “Khi C. Mác viết Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, năm 1848,
trên thế giới chỉ có khoảng 10 - 20 triệu công nhân, tương đương chiếm 2% - 3% số
dân toàn cầu và chỉ trong vài lĩnh vực có máy móc. Đến đầu thế kỷ XX, toàn thế giới
có 80 triệu công nhân. Năm 2013, lần đầu tiên trong lịch sử có đa số cư dân tham gia
vào lực lượng lao động và là người lao động ăn lương. Hiện nay có khoảng 1,6 tỷ
người lao động ăn lương, tăng thêm 600 triệu kể từ giữa những năm 1990, hơn 1 tỷ
trong số đó là công nhân”6. Số liệu về số lượng công nhân có thể khác nhau đôi chút,
nhưng nhận thức chung là sự tăng lên mạnh mẽ của lao động công nghiệp trên thế
giới trong vài thập niên gần đây. Tỷ lệ lao động bằng phương thức công nghiệp hiện
nay chiếm trên 60% số lao động toàn cầu. Quá trình công nghiệp hóa, nhu cầu phát
triển văn minh (toàn cầu hóa, đô thị hóa, hiện đại hóa cuộc sống...) là những nguyên
nhân của hiện tượng này.
Cơ cấu nghề nghiệp của công nhân hiện nay vô cùng đa dạng và chưa ngừng lại ở
những nghề hiện có. Năm 1893, Ph. Ăngghen quan niệm: “Khi tôi nói “công
nhân”, tôi có ý nói người lao động của tất cả mọi giai cấp. Người tiểu thương bị các
hãng buôn lớn lấn gạt, viên chức văn phòng, thợ thủ công, công nhân thành thị và
công nhân nông nghiệp bắt đầu cảm thấy ách áp bức của chế độ tư bản chủ nghĩa hiện
nay ở nước chúng tôi”.7
Như vậy, quan niệm “giai cấp công nhân” đã được lý luận mở rộng rất nhiều, không
chỉ có những người trực tiếp hoặc gián tiếp vận hành công cụ lao động có tính chất
công nghiệp nữa, mà còn là tất cả những người lao động trong chế độ tư bản. Cơ cấu
công nhân theo lĩnh vực hoạt động. Giai cấp công nhân hiện nay lao động trên ba lĩnh
vực cơ bản là nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Mặc dù đang có sự dịch chuyển
lao động giữa các lĩnh vực nhưng xu hướng chung là nhóm lao động ở lĩnh vực dịch
vụ tăng mạnh, số lượng lao động trong lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp giảm
nhẹ. Số liệu của ILO về so sánh tỷ trọng lao động trong các ngành sản xuất nông
nghiệp, công nghiệp và dịch vụ trong những năm cuối thế kỉ XX, đầu thế kỷ XXI cho thấy rõ điều đó.
Cơ cấu của giai cấp công nhân xét theo trình độ công nghệ hiện nay được nhìn nhận
là đa dạng và không đồng đều. Các nghiên cứu về trình độ công nghệ của công nhân
thường xét theo khả năng tiếp cận các cuộc cách mạng công nghiệp, cách tính toán
thường là công nghiệp 2.0; 3.0 hoặc tiệm cận 4.0. Cũng có những đánh giá trình độ
công nghệ của công nhân theo đặc tính của kỹ thuật của từng ngành công nghiệp mà
họ đang hoạt động. Nhìn chung, công nghệ mà công nhân trên thế giới hiện đang sử
dụng là một “dải khá rộng” được mô tả bằng “cây phả hệ công nghệ đa tầng”, hàm
5 Website ILO, Báo cáo Xu hướng việc làm toàn cầu 2014: Bộ dữ liệu hỗ trợ: Việc
làm theo ngành và giới tính của toàn cầu, khu vực và từng nước. Hiện nay chưa có
số liệu nào mới hơn và đáng tin cậy hơn.
6 Báo Công nhân xã hội chủ nghĩa (Socialist Worker) của Đảng Công nhân xã hội chủ
nghĩa Anh, số ra ngày 11-8-2015.
7 C. Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.22, tr. 809. lOMoAR cPSD| 61184739
ý là ở nhiều trình độ, phát triển vốn theo quy luật không đều và sự phát triển của giai
cấp công nhân hiện nay cũng vẫn tuân theo quy luật đó.
Cơ cấu giai cấp công nhân dựa theo trình độ phát triển kinh tế thường được giới
nghiên cứu phân tích theo hai nhóm nước là nước phát triển và nước đang phát triển.
Trình độ phát triển kinh tế, trình độ công nghệ thường tỷ lệ thuận với năng suất lao
động đạt được. Công nhân của các nước phát triển có năng suất lao động cao hơn so
với các nước đang phát triển.
Cơ cấu giai cấp công nhân theo chế độ xã hội là cách tiếp cận theo chế độ chính trị.
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác, có mối quan hệ biện chứng giữa công nhân, công
nghiệp và chủ nghĩa xã hội (chế độ chính trị). Chế độ chính trị cũng có thể tác động
đến sự phát triển của công nhân và công nghiệp. Lịch sử cận đại, hiện đại xác định
điều đó. Thống kê về giai cấp công nhân các nước xã hội chủ nghĩa năm 2019 cho
thấy: Việt Nam có khoảng 15 triệu; Lào có khoảng gần 0,8 triệu; Cu-ba có gần 3 triệu,
Trung Quốc có khoảng 300 triệu công nhân và 270 triệu “nông dân - công” (nhóm xã
hội tham gia 2 phương thức và 2 lĩnh vực lao động, có 2 nơi cư trú; là trung giới của
quá trình chuyển biến từ nông dân sang công nhân, nhưng chưa hoàn toàn sống bằng
thu nhập từ lao động công nghiệp).
Trình độ của giai cấp công nhân còn được tính theo quan điểm của chủ nghĩa Mác
Lênin là trình độ giác ngộ chính trị, ý thức về sứ mệnh lịch sử của mình. Cách tiếp
cận này khá phổ biến trong nhiều nghiên cứu của các nước phát triển theo định hướng
xã hội chủ nghĩa hiện nay. Nhận thức chung là, giác ngộ chính trị của công nhân
không đồng đều, có biểu hiện bất cập so với yêu cầu của sứ mệnh lịch sử mà họ phải
đảm trách. Điều đáng quan tâm là hiện tượng suy giảm tính tích cực chính trị của một
bộ phận công nhân trong cơ chế kinh tế thị trường hiện đại đang diễn ra ở nhiều quốc
gia. Có thể thấy sự đa dạng của các giai cấp, tầng lớp đặc biệt là giai cấp công nhân
với sự tăng lên không ngừng cả số lượng và chất lượng trên các mặt kinh tế, chính
trị, xã hội. Họ nhận thức được vai trò của mình và biết mình cần phải làm gì, với sự
đa dạng đó các giai cấp tầng lớp có thể dễ dàng liên kết với nhau hơn và sự liên kết
đó diễn ra trong hòa hợp từng bước có thể loại bỏ mâu thuẫn để tiến lại gần nhau hơn.
C. Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin trong các tác phẩm kinh điển đã dành sự quan tâm
đặc biệt đến vấn đề dân tộc và độc lập dân tộc; chỉ rõ con đường đấu tranh để giải
phóng dân tộc. V.I.Lênin đã phát triển luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen "vô sản
toàn thế giới liên hiệp lại" thành "vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn
kết lại", trở thành khẩu hiệu của phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc của các
nước bị áp bức trên toàn thế giới. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là hai chặng
đường nối tiếp nhau của một tiến trình cách mạng. Trong đó, độc lập dân tộc là mục
tiêu của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thực hiện người cày có ruộng, hoàn
chỉnh chế độ dân chủ nhân dân. Đây là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng dân tộc,
dân chủ, làm tiền đề để thực hiện các mục tiêu khác, như quyền lực chính trị, dân
chủ, vấn đề ruộng đất, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần, nâng cao trình độ dân
trí. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ mối liên hệ biện chứng giữa đấu tranh giải phóng
dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng này là cơ sở quá độ từ cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chính cách mạng xã hội
chủ nghĩa đã kế thừa, khẳng định và bảo đảm vững chắc thành quả của cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Sự phát triển này là quy luật tất yếu của lịch sử. Sự
nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI của Đảng (1986) đã từng bước hồi sinh đất nước về mọi mặt. Trước
những bối cảnh mới của tình hình, Đảng ta luôn xác định phải giương cao ngọn cờ
“Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội
chủ nghĩa là một chủ trương chiến lược đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan lOMoAR cPSD| 61184739
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; tạo điều kiện, tiền đề cho chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta vẫn kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong mối liên hệ gắn kết biện chứng. Học thuyết C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội luôn đề cao các giá trị của độc lập dân
tộc, khẳng định chủ nghĩa xã hội là mục tiêu của độc lập dân tộc.
Từ những điều nêu trên có thể thấy đây là một quá trình lâu dài thông qua
những cải biến cách mạng toàn diện của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đó là xu hướng tất yếu và là biện chứng của sự vận động, phát triển cơ cấu xã
hội – giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. II.
Liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận bàn đến liên minh giai cấp. Từ những cuộc đấu
tranh thất bại vì giai cấp công nhân đơn độc đấu tranh, điển hình là Công xã
Paris, và đi đến kết luận rằng những cuộc cách mạng sắp tới chỉ có thể thu
được những thắng lợi nếu giai cấp công nhân có được sự ủng hộ, liên minh của
các giai cấp khác. Đó là những nguyên tắc mang tính sống còn, nếu không thì
cách mạng của giai cấp vô sản sẽ trở thành “bài đơn ca ai điếu”.10 Ở trong bài
tiểu luận này, nhóm tác giả sẽ phân tích liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội về hai khía cạnh là chính trị và kinh tế.
2.1. Góc độ chính trị
Trong một chế độ xã hội, các cuộc đấu tranh giai cấp giữa các giai cấp có lợi
ích đối lập nhau đặt ra nhu cầu tất yếu khách quan mỗi giai cấp đứng ở vị trí
trung tâm phải liên minh với các tầng lớp, giai cấp khác có lợi ích phù hợp với
mình để tập hợp lực lượng thực hiện những nhu cầu và lợi ích chung – đó là
quy luật mang tính phổ biến và là động lực to lớn cho sự phát triển của các xã
hội có giai cấp. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân trong
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa phải liên minh với giai cấp nông dân và các
tầng lớp nhân dân lao động khác để tạo sức mạnh tổng hợp đảm bảo cho thắng
lợi của cuộc cách mạng trong giai đoạn giành chính quyền và giai đoạn xây
dựng chế độ xã hội mới.
Sự cần thiết của liên minh công - nông không chỉ từ phía giai cấp công nhân,
mà còn từ phía giai cấp nông dân. Bên cạnh mâu thuẫn giai cấp phổ biến giữa
công nhân với tư sản, giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác cũng
10 C. Mác và Ph Ăngghen, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1993, tập 8, tr.762.
Không thể thoát khỏi ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản, không thể được giải
phóng một cách thực sự và triệt để nếu không liên minh với giai cấp công nhân, không
trở thành người bạn đồng minh của giai cấp công nhân. C.Mác khẳng định: “Đứng
trước giai cấp tư sản phản cách mạng đã liên minh lại thì dĩ nhiên là những phần tử
đã được cách mạng hóa của giai cấp tiểu tư sản và của nông dân, phải liên minh với
người đại biểu chủ yếu cho những lợi ích cách mạng, tức là giai cấp vô sản cách
mạng”. Vì “...người nông dân thấy rằng giai cấp vô sản thành thị, giai cấp có sứ mệnh
lật đổ chế độ tư sản là người bạn đồng minh, người lãnh đạo tự nhiên của mình”8.
8 C.Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, Sđd, t.8, tr. 269. lOMoAR cPSD| 61184739
Tuy vậy, để có thể liên minh được với giai cấp nông dân, cần phải thấy rõ đặc điểm,
vai trò của giai cấp nông dân trong tiến trình cách mạng. Nông dân kinh tế gần như
tự túc, văn hóa tư tưởng còn rất hạn hẹp, không có lý tưởng chính trị, những đặc điểm
trên đã quy định vị trí, vai trò của giai cấp nông dân trong xã hội tư bản là tầng lớp
trung gian. Tính tự phát tiểu tư sản cũng được nảy sinh trên cơ sở tư hữu của người
nông dân, do tập quán và điều kiện sản xuất. Mặc dù đã xoá bỏ tư hữu ruộng đất,
nhưng do nông dân vẫn còn chút quyền tư hữu về công cụ sản xuất hay gia súc, vẫn
tự do buôn bán nên tính tự phát của họ vẫn tồn tại. Về thái độ đối với nông dân và tư
tưởng liên minh công - nông do giai cấp công nhân lãnh đạo, trong tác phẩm “Những
người bạn dân” là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra
sao?”, V.I.Lênin cho rằng, do quan niệm không đúng, nên Plêkhanốp đã đoạn tuyệt
với nông dân, V.I.Lênin đã luận chứng vai trò của nông dân, đưa ra tư tưởng liên minh
công - nông và yêu cầu cần phải ủng hộ yêu sách của họ. Người chỉ rõ: Phải có thái
độ đúng với nông dân, tuyên truyền giác ngộ họ, cần phải đoạn tuyệt với tư tưởng
nông dân, nhưng không đoạn tuyệt với nông dân, mà phải có sách lược với họ. Và
cho rằng, những người dân chủ - xã hội có nhiệm vụ thành lập một đảng công nhân
mácxít và đề ra tư tưởng liên minh cách mạng giữa giai cấp công nhân và nông dân,
coi đó là phương sách chủ yếu để lật đổ chế độ Nga hoàng, bọn địa chủ và giai cấp
tư sản Do đó nhiệm vụ chủ yếu của chính đảng vô sản là phải không ngừng giải thích
cho nông dân thấy rằng, chừng nào chủ nghĩa tư bản đang còn nắm chính quyền thì
tình cảnh của họ vẫn là tuyệt vọng mà thôi, tuyệt đối chắc chắn là nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa quy mô lớn sẽ đè bẹp sản xuất quy mô nhỏ, bất lực và lỗi thời của họ. Để
liên minh, cần phải cho giai cấp nông dân biết giai cấp công nhân mới là có lợi ích chung phù hợp với mình.
Xét ở mọi phương diện đều có sự phát triển của tính tự phát tiểu tư sản, là thời kỳ
chứa đựng mâu thuẫn không thể dung hoà giữa tính kỷ luật của giai cấp vô sản và
tính vô kỷ luật, vô chính phủ của tầng lớp tiểu tư sản. Lênin đã từng nói: “Và đằng
sau bọn tư bản bóc lột là quảng đại quần chúng tiểu tư sản, tầng lớp mà hàng chục
năm kinh nghiệm lịch sử ở tất cả các nước đã chứng tỏ rằng họ ngập ngừng và dao
động, hôm nay thì đi theo giải cấp vô sản và ngày mai, vì sợ những khó khăn của
cách mạng và khi thấy công nhân hơi thất bại hoặc thất bại một nửa, thì đã sinh ra
hoảng sợ, hoang mang, cuống cuồng, khóc lóc, chạy hết phe này sang phe khác”.9Vì
vậy nhiệm vụ kêu gọi tầng lớp tiểu tư sản, trí thức vào liên minh cũng rất quan trọng.
Họ có trình độ nhận thức cao nhưng do mang lợi ích trung gian giữa tư sản với vô
sản nên khó gắn bó với cách mạng. Cần phải cho tầng lớp tiểu tư sản thấy rằng nếu
để tư bản nắm quyền, thì tầng lớp tiểu tư sản với địa vị thấp sớm muộn gì cũng bị tư
sản chèn ép, cần cho họ thấy giai cấp công nhân và nông dân là những người đảm
bảo được lợi ích cho họ.
Vận dụng sáng tạo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen trong giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa, V.I.Lênin khẳng định “Nếu không liên minh với nông dân thì không thể có
được chính quyền của giai cấp vô sản, càng không thể nghĩ đến việc duy trì chính
quyền đó… Nguyên tắc cao nhất của chuyên chính là duy trì khối liên minh giữa giai
cấp vô sản và nông dân để giai cấp vô sản có thể giữ được và duy trì lãnh đạo chính
quyền nhà nước”.10 Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga là một điển hình về
sự chuẩn bị lực lượng: tập hợp sức mạnh từ quần chúng nhân dân, xây dựng lực lượng
vũ trang, xây dựng kế hoạch khởi nghĩa vũ trang với những nguyên tắc cơ bản như
9 V.I Lênin: Sđd, t.37, tr. 320-tr.321.
10 V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1978 tập 44, tr.57. lOMoAR cPSD| 61184739
phải dựa vào quần chúng nhân dân mà nòng cốt là liên minh giai cấp công nhân, nông
dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.VI.Lênin đã khẳng định: “Không có sự
đồng tình ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiền phong của mình
tức là đối với giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được”11. Một
nguyên tắc trong liên minh giai cấp, tầng lớp theo quan điểm của V.I.Lênin đó là vấn
đề thỏa hiệp cả với giai cấp tư sản. Trong tác phẩm “Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong
phong trào cộng sản”, V.I.Lênin đã phê phán: “Những người cộng sản Đức đã gạt bỏ
việc tham gia nghị viện phản động tư sản và việc tham gia các công đoàn phản động”.
V.I.Lênin còn khẳng định: Đấu tranh cách mạng có lúc phải thoả hiệp. Bởi vì, tiến
hành cách mạng không phải hoàn toàn thuận lợi và dễ dàng, mà còn có những lúc
cách mạng gặp khó khăn. Trong những hoàn cảnh khó khăn phức tạp đòi hỏi người
cách mạng phải biết lựa chiều, liên minh, thoả hiệp để tránh tổn thất cho cách mạng.
Cách mạng không phải chỉ biết có tiến công, khoa học tiến công phải được bổ sung
bằng khoa học rút lui khi cần thiết, rút lui là để chuẩn bị tiến công những thắng lợi
lớn hơn. Vì vậy, V.I.Lênin đòi hỏi những người cộng sản có nhiệm vụ phải tìm kiếm
và tìm ra một hình thức thoả hiệp thích đáng để có thể, một mặt làm dễ dàng và xúc
tiến việc thống nhất hoàn toàn và cần thiết với cách ấy, mặt khác, không làm trở ngại
gì đến cuộc đấu tranh tư tưởng và chính trị của những người cộng sản. Người nhấn
mạnh nguyên tắc: “Không bao giờ được thoả hiệp, không bao giờ được lựa chiều chỉ
làm hại cho sự mở rộng ảnh hưởng của giai cấp vô sản” Thực tiễn của Cách mạng
Tháng Mười Nga cho thấy sự cần thiết phải xây dựng được khối liên minh công nhân
– nông dân – trí thức vững mạnh nhằm thực hiện các mục tiêu chính trị chung, sự cần
thiết của việc thỏa hiệp với kẻ thù tư sản ở thời điểm phù hợp nhằm giúp cách mạng
tiến lên. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Trung Quốc dẫn đến sự ra đời của
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, hay Cách mạng Tháng Tám 1945 ở Việt Nam cũng
là những minh chứng lịch sử về việc liên minh giai cấp đoàn kết sẽ tạo sức mạnh và
cả sự thỏa hiệp cần thiết có thể mang đế thành công.
Trên thực tế, V.I.Lênin luôn chủ trương mở rộng khối liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và các tầng lớp xã hội khác. Trong suốt thời kỳ quá độ, các giai
cấp bóc lột vẫn thường xuyên nuôi hy vọng phục hồi chính quyền tư sản. Từ hy vọng
chúng sẽ biến nó thành hành động. Và có nguy cơ tầng lớp tiểu tư sản-những người
hoang mang dao động sẽ tiếp tay cho chúng. V.I Lênin viết: "Sau khi bị thất bại nặng
nề lần đầu tiên, bọn bóc lột bị lật đổ vốn không ngờ mình sẽ bị quật xuống, không tin
tình hình sẽ như thế và không thừa nhận ý nghĩ về việc đó, thì nay lao mình vào cuộc
chiến với một nghị lực tăng gấp mười lần, với một sự cuồng nhiệt và lòng hận thù
gấp trăm lần, để chiếm lại cái "thiên đường" đã mất.12 V.I.Lênin chỉ rõ: “Chuyên chính
vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiên
phong của những người lao động, với đông đảo những tầng lớp lao động không phải
vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức, v.v…), hoặc với phần lớn những tầng
lớp đó, liên minh nhằm chống lại tư bản, liên minh nhằm lật đổ hoàn toàn tư bản, tiêu
diệt hoàn toàn sự chống cự của giai cấp tư sản và những mưu toan khôi phục của giai
cấp ấy, nhẳm thiết lập và củng cố vĩnh viễn chủ nghĩa xã hội”.13 Điều này có thể được
chứng minh qua cuộc chiến bảo vệ nước Nga Xô viết của nhân dân Nga chống lại
Bạch Vệ, Chiến tranh Vệ quốc, toàn thể tầng lớp, giai cấp, nhân dân Liên Xô dưới sự
lãnh đạo của Stalin đã đoàn kết bảo vệ Tổ quốc và tiêu diệt phát xít Đức, hay ở Việt
11 V.I.Lênin: Toàn tâp, t. 39, NXB Tiến bô, Mát-xcơ-va, 1977, tr. 251.̣
12 V.I Lênin: Sđd, t.37, tr.320-tr.321.
13 V.I.Lênin: Toàn tâp, t.38, NXB Tiến bô, Mát-xcơ-va, 1977, tr.452.̣ lOMoAR cPSD| 61184739
Nam là các cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân giai đoạn 1945- 1975. Nội
dung chính trị liên minh giai cấp không chỉ là tạo nên, mà còn là duy trì củng cố chính
quyền của giai cấp vô sản.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tính tất yếu của liên minh giai cấp tầng
lớp được phản ánh trong nhiệm vụ chính trị - xã hội mà giai cấp công nhân phải tiến
hành. Giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp lao động khác vừa là lực
lượng sản xuất cơ bản, vừa là lực lượng chính trị xã hội to lớn. Khi cơ cấu xã hội
-giai cấp diễn biến rất phức tạp trong thời kỳ quá độ, giai cấp công nhân, thông qua
đội tiên phong là Đảng Cộng sản, chỉ có thể xây dựng, kiểm soát và sử dụng chính
quyền Nhà nước của mình khi có đường lối, chính sách liên minh đúng đắn với giai
cấp, tầng lớp lao động khác, trong đó có đội ngũ trí thức. V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Trước
sự liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp vô sản và giới kỹ thuật, không một
thế lực đen tối nào đứng vững được”.14
2.2. Góc độ kinh tế
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bên cạnh tính tất yếu của chính trị xã hội,
nổi lên là tất yếu kinh tế của liên minh với tư cách là nhân tố quyết định nhất cho sự
thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa xã hội, liên minh về kinh tế là liên minh cơ bản,
thường xuyên và lâu dài, là cơ sở cho liên minh trên các lĩnh vực khác . Liên minh
này được hình thành xuất phát từ yêu cầu khách quan của quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một nền sản xuất nhỏ nông nghiệp là
chính sang sản xuất hàng hóa lớn, phát triển công nghiệp, dịch vụ và khoa học – công
nghệ....xây dựng nền tảng vật chất – kỹ thuật cần thiết cho chủ nghĩa xã hội. Mỗi lĩnh
vực của nền kinh tế chỉ phát triển được khi gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ cho nhau để cùng
hướng tới phục vụ phát triển sản xuất và tạo thành nền cơ cấu kinh tế quốc dân thống
nhất. Sau khi thực hiện Chính sách kinh tế mới, Lênin thừa nhận có 5 thành phần kinh
tế tồn tại trong thời kỳ quá độ. Lênin đã xếp thứ tự 5 thành phần kinh tế như sau:
Kinh tế tư gia trưởng, kinh tế hàng hoá nhỏ, kinh tế tư bản; kinh tế nhà nước tư bản
chủ nghĩa, kinh tế xã hội chủ nghĩa. Hiện tại ở các nước xã hội chủ nghĩa cũng phát
triển kinh tế nhiều thành phần như Lênin đã nói. Ở thời kỳ kinh tế hội nhập, liên minh
công nhân, nông dân, tri thức ngày càng được tăng cường khi mà nông nghiệp, công
nghiệp, khoa học-công nghệ ngày càng liên hệ chặt chẽ với nhau. Chính những biến
đổi trong cơ cấu kinh tế này đã và đang từng bước tăng cường khối liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và các tầng lớp trong xã hội khác.
Trong giai cấp nông dân, có một bộ phận cốt lõi là tiểu nông. Về kinh tế, mỗi gia đình
nông dân là một đơn vị kinh tế gần như tự túc hoàn toàn, cho thấy tính liên kết giữa
họ rất ít. C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ sự liên minh về kinh tế giữa giai cấp công nhân
và giai cấp nông dân. Trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì liên minh về
kinh tế là liên minh cơ bản, thường xuyên, lâu dài, là cơ sở cho liên minh trên các
lĩnh vực khác.Theo Ph.Ăngghen, nhiệm vụ chủ yếu của chính đảng vô sản là phải
không ngừng giải thích cho nông dân thấy rằng, chừng nào chủ nghĩa tư bản đang
còn nắm chính quyền thì tình cảnh của họ vẫn là tuyệt vọng mà thôi, tuyệt đối chắc
chắn là nền sản xuất tư bản chủ nghĩa quy mô lớn sẽ đè bẹp sản xuất quy mô nhỏ, bất
lực và lỗi thời của họ. Chỉ cần cho nông dân thấy lợi ích chân chính của họ là phải
chuyển ruộng đất của họ thành tài sản của hợp tác xã, tức là đưa nông dân đi vào sản
xuất hợp tác: “Dù sao thì điều chủ yếu cũng là phải làm cho nông dân hiểu rằng chúng
14 V.I.Lênin: Toàn tâp, t.39, NXB Tiến bô, Mát-xcơ-va, 1977, tr. 251.̣ lOMoAR cPSD| 61184739
ta chỉ có thể cứu vãn và bảo tồn được tài sản của họ bằng cách biến tài sản đó thành
tài sản hợp tác xã và thành những doanh nghiệp hợp tác xã” 15. Ph.Ăngghen cũng cho
rằng, đó là khâu trung gian trong việc chuyển nền sản xuất cá thể của nông dân quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, không qua phát triển tư bản chủ nghĩa. C.Mác và Ph.Ăngghen
cũng chỉ rõ nguyên tắc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp và nông dân.
Nguyên tắc thứ nhất là, không được dùng bạo lực đối với nông dân, “... mà là bằng
những tấm gương và bằng sự giúp đỡ của xã hội”. Nguyên tắc thứ hai là, tự nguyện,
không được gò ép, bắt buộc đối với nông dân: “Chúng ta kiên quyết đứng về phía
người tiểu nông... để cho họ có thời gian suy nghĩ với tư cách là người sở hữu mảnh
đất của họ nếu họ chưa có thể quyết định như thế”16. Nguyên tắc thứ ba là, tiến dần
từ thấp đến cao: phải phát triển các hợp tác xã từ bậc thấp đến bậc cao, từ quy mô
từng xã đến quy mô liên xã. Các ông cho rằng, để nông dân đi lên chủ nghĩa xã hội
một cách thuận lợi, nhà nước phải có nhiệm vụ giúp đỡ nông dân trong cuộc cải tạo
xã hội chủ nghĩa. Trong sách lược đối với nông dân, theo Ph.Ăngghen, trong điều
kiện của chủ nghĩa tư bản không thể coi nông dân là một khối thống nhất, vì họ không
ngừng phân hóa, do đó, sách lược của các đảng xã hội chủ nghĩa cần phải khác nhau
đối với các thành phần nông dân khác nhau.
V.I.Lênin đặc biệt nhấn mạnh khi chuyển từ giai đoạn giành quyền sang giai đoạn
“chuyên chính vô sản”, chính trị đã chuyển sang chính trị trong lĩnh vực kinh tế, liên
minh muốn được phát huy và củng cố hơn phải lấy kinh tế làm cơ sở. Phải xuất phát
từ yêu cầu khách quan về kinh tế - kỹ thuật của một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên
chủ nghĩa xã hội. Do đó, phải gắn công nghiệp với nông nghiệp và khoa học công
nghệ hiện đại. Về tất yếu kinh tế - kỹ thuật, Lênin chỉ rõ: “Nếu không có kinh tế nông
nghiệp làm cơ sở, thì một nước nông nghiệp không thể xây dựng được nền công nghiệp”.17
Khi nước Nga Xô viết ra đời, bắt đầu thực thi “Sắc lệnh ruộng đất”. Nông dân đã
nhận được miễn phí hơn 150 triệu ha ruộng đất từ giai cấp địa chủ, được xóa tiền nợ.
Một vấn đề quan trọng nhằm cải thiện đời sống nhân dân lao động là cần phải nâng
cao năng suất lao động. Như V.I.Lenin nhận định: “Công nhân tự nguyện tự giác, liên
hợp với nhau, sử dụng kỹ thuật hiện đại thì mới có thể tạo ra năng suất lao động cao
hơn”. Joseph Stalin, người kế tục sự nghiệp của V.I.Lenin từng chỉ rõ: “Biến nước
Nga từ một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp có thể tự lực sản xuất
thiết bị cần thiết, đưa nước ta từ một nước nhập khẩu thiết bị thành một nước chế tạo
được các thiết bị ấy. Đó là điều bảo đảm sự độc lập kinh tế của nước ta và không phụ
thuộc vào các nước tư bản chủ nghĩa”. Từ tinh thần đó, Liên Xô quyết tâm trở thành
một quốc gia tự cường. Sau chiến tranh Vệ quốc, dưới sự chỉ đạo của quyết định “Về
những biện pháp cấp bách khôi phục kinh tế ở các vùng được giải phóng khỏi sự
chiếm đóng của phát-xít” của Joseph Stalin, đến cuối năm 1945, Liên Xô đã khôi
phục được 7.500 nhà máy và xí nghiệp, hàng nghìn nông trường quốc doanh và hợp
tác xã. Thời kỳ 1945 - 1953 là giai đoạn mà niềm phấn khởi, tự hào của người dân
Liên Xô dâng cao khi nền kinh tế đã được hồi phục và phát triển nhanh chóng. Thu
nhập quốc dân từ năm 1940 đến năm 1950 tăng 64%. Năm 1954, Liên Xô là quốc gia
đầu tiên có nhà máy điện nguyên tử. Hai sự kiện này đặt dấu chấm hết cho sự độc
quyền về vũ khí hạt nhân của Mỹ. Thủ tướng Anh Winston Churchill cũng phải đành
thừa nhận: “Stalin đã tiếp nhận một nước Nga đi giày cỏ và để lại một nước Nga với
15 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Sđd, t.22, tr.737 – tr.738.
16 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Sđd, t.22, tr.738.
17 V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.38, tr.452. lOMoAR cPSD| 61184739
vũ khí hạt nhân”. Hay từ sau công cuộc Đổi mới 1986 Việt Nam lọt top các quốc gia
có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất,Từ đó thấy được ý nghĩa của liên minh giai
cấp trên lĩnh vực kinh tế.
Như vậy, theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là do sự gắn bó thống nhất giữa sản xuất
công nghiệp, nông nghiệp với khoa học kỹ thuật. Nếu không có sự liên minh chặt chẽ
của cả 3 lực lượng này thì các ngành kinh tế sẽ khó phát triển. Và như vậy, liên minh
giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự liên kết, hợp tác, hỗ
trợ nhau... giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội nhằm thực hiện nhau cầu và lợi ích của
các chủ thể trong khối liên minh, đồng thời tạo động lực thực hiện thắng lợi mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, việc thực hiện liên minh giai cấp cũng đem lại những thuận lợi và khó khăn riêng: Thuận lợi:
Giai cấp công nhân phần lớn xuất phát từ giai cấp nông dân nên giữa họ có nhiều sự
tương đồng,có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Họ cũng đều là những người
bị bóc lột việc họ đoàn kết đấu tranh là điều tất yếu.
Nhu cầu lợi ích của giai cấp công nhân là hài hòa với lợi ích của dân tộc, với lợi ích
của đa số nhân dân. Quan hệ hợp tác chặt chẽ trong cả đấu tranh giai cấp và xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Đó là điều kiện thuận lợi để giai cấp công nhân liên minh chặt chẽ
hơn với giai cấp công nhân và các tầng lớp lao động khác.
Về cơ bản thì giai cấp công nhân, nông dân, tri thức đều có chung lập trường chính
trị là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế thị trường, quá trình toàn cầu hóa, tầng lớp tri thức
có điều kiện để gắn bó nhiều hơn đối với hoạt động sản xuất công nghiệp của công
nhân và hoạt động sản xuất nông nghiệp của nông dân. Từ đó quan hệ liên minh
giữa các giai cấp tầng lớp được tăng cường. Khó khăn
Giai cấp nông dân vẫn còn thiếu điều kiện để phát triển, nhất là ở các vùng nông thôn
khó khăn. Đời sống của nhiều nông dân còn khó khăn, trình độ, học vấn,nhận thức
chính trị của họ còn thấp. Điều đó không chỉ ảnh hưởng đến khả nằn phát triển của
nông dân, mà còn ảnh hưởng đến khả năng liên minh giữa nông dân với công nhân và tri thức.
Vấn đề thất nghiệp trong giai cấp công nhân và tri thức cũng là khó khăn lớn trong
thực hiện liên minh giai cấp, nhất là trong thời điểm dân số ngày càng gia tăng. Trong
xu thế toàn cầu hóa, gia tăng khả năng bị bóc lột của các doanh nghiệp trong và ngoài
nước đối với công nhân. Thu nhập không đồng đều giữa các công nhân trong doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước, rồi cả xu hướng “trung
lưu hóa”. Điều này gây ra sự mất đoàn kết trong nội bộ giai cấp công nhân và cả liên minh giai cấp.
Vẫn còn tồn tại một số điểm khác biệt về lập trường chính trị giữa công nhân, nông
dân, tri thức, tạo nên một số mâu thuẫn giữa các giai cấp, tầng lớp này với nhau, thêm
vào đó là sự chống phá của các thế lực thù địch khiến mâu thuẫn nặng nề hơn.
Cách giải quyết khó khăn
Nhà nước, công nhân, tri thức cần quan tâm đến nông dân, giúp đỡ phát triển nông
thôn, xóa đói giảm nghèo và cải thiện đời sống nông dân. Hướng dẫn giai cấp nông lOMoAR cPSD| 61184739
dân chủ động phát triển và liên minh với công nhân và nông dân. Nhằm phát huy tiềm
năng của nông dân và tăng cường khối liên minh giai cấp.
Cần phải giải quyết vấn đề việc làm cho công nhân và tri thức. Không chỉ giúp cải
thiện đời sống của họ, phát triển kinh tế đất nước, mà còn tăng cường sự gắn bó trong liên minh giai cấp.
Nhà nước phải có biện pháp để hạn chế sự bóc lột của các doanh nghiệp đối với công
nhân. Bên cạnh đó cũng cần giải quyết vấn đề mâu thuẫn về vấn đề chênh lệch thu
nhập và khác biệt lập trường chính trị trong liên minh giai cấp. Có biện pháp chống
hoạt động chia rẽ của các thế lực thù địch. III.
Tầng lớp, giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
3.1. Cơ cấu xã hội- giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
3.1.1. Sự biến đổi cơ cấu xã hội- giai cấp vừa đảm bảo tính qui luật phổ biến, vừa mang
tính đặc thù của xã hội Việt Nam
- Sự vận động, biến đổi cơ cấu xã hội- giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta biến đổi theo đúng quy luật.
Sự vận động, biến đổi cơ cấu xã hội- giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta biến đổi theo đúng quy luật đó là sự biến đổi của cơ cấu xã hội - giai
cấp bị chi phối bởi những biến đổi trong cơ cấu kinh tế. Sự biến đổi của cơ cấu xã
hội-giai cấp gắn liền và được quy định bởi biến động cơ cấu kinh tế, thành phần kinh
tế, cơ cấu hành chính kinh tế-xã hội. Kể từ Ðại hội IX của Ðảng tháng 4-2001, Ðảng
ta đã khẳng định: Kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa là mô hình kinh tế
tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và kể từ đó đến
nay vấn đề hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa được
đặt ra cấp bách trong các Ðại hội X, XI, XII, XIII của Ðảng. Ðại hội XIII khẳng định:
Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của
nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 18
Khác với những nước tư bản phát triển, khi tiến lên chủ nghĩa xã hội, họ trực tiếp
thực hiện bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản, Việt Nam khi bước vào thời kỳ quá độ
chưa trải qua sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Sự chuyển đổi trong cơ cấu kinh tế
đã dẫn đến những biến đổi trong cơ cấu xã hội - giai cấp với việc hình thành một cơ
cấu xã hội - giai cấp đa dạng. Sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế19 tất yếu dẫn
đến cơ cấu xã hội- giai cấp đa dạng và phức tạp với việc hình thành một cơ cấu giai
cấp- xã hội đa dạng thay thế cho xã hội- giai cấp đơn giản bao gồm giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức của thời kì trước được đổi mới một cách
rõ rệt. Tính đa dạng thể hiện ở sự tồn tại nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp xã hội: giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, bộ phần tư sản và các tầng lớp
18 Báo Nhân dân điện tử, Hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
19 Văn kiện XII của Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh: “Phát triển nền kinh tế
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân; kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực
quan trọng của sự phát triển”. lOMoAR cPSD| 61184739
nhân dân lao động khác. Tính đa dạng còn thể hiện trong cơ cấu nội bộ của mỗi giai
tầng, thậm chí có sự chuyển hóa qua lại lẫn nhau giữa các giai cấp tầng lớp xã hội và
cũng đồng thời xuất hiện những tầng lớp xã hội mới. Chính những biến đổi mới này
cũng là một trong những yếu tố có tác động trở lại làm cho nền kinh tế đất nước phát
triển trở nên năng động, đa dạng hơn và trở thành động lực to lớn, quan trọng của sự
nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh, định
hướng xã hội chủ nghĩa.23 Cơ cấu giai cấp biến đổi nhanh chóng và có yếu tố mang
tính tự phát trong khuôn khổ của xã hội mới. Nhiều mối quan hệ giai cấp được hình
thành hoặc đã tồn tại từ trước đó song sự thay đổi của cơ cấu kinh tế – xã hội các
quan hệ lại biến đổi nhanh chóng. Cơ cấu giai cấp ở nước ta hiện nay bao gồm: công
nhân, nông dân, tầng lớp trí thức, tư sản, tiểu tư sản, tiểu chủ, thợ thủ công, tiểu thương...
Sự vận động, biến đổi cơ cấu xã hội- giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta mang những đặc trưng của mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam
vừa mang tính chất định hướng lâu dài, vừa mang tính chất những nhiệm vụ cụ thể
cần đạt tới trong từng bước đi, từng giai đoạn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
3.1.2. Trong sự biến đổi của cơ cấu xã hội- giai cấp, vị trí, vai trò của các giai cấp,
tầng lớp xã hội ngày càng được khẳng định
- Giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân là lực lượng đi đầu của quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã
hội làm biến đổi nhanh cả về số lượng, chất lượng và có sự thay đổi đa dạng
về cơ cấu. Trước đổi mới, trong điều kiện nền kinh tế khép kín, vận hành theo
cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, giai cấp công nhân nước ta ít về số lượng,
tương đối thuần nhất. Trong quá trình đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế,
chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần đã tạo bước chuyển quan trọng
đối với cơ cấu nền kinh tế. Bên cạnh thành phần kinh tế nhà nước và thành
phần kinh tế tập thể, đã hình thành và phát triển nhanh thành phần kinh tế tư
nhân và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Điều đó đã tạo ra sự
chuyển biến trong cơ cấu lực lượng lao động xã hội, làm cho lực lượng công
nhân- lao động công nghiệp và dịch vụ phát triển nhanh về số lượng, đa dạng
về cơ cấu: “công nhân nước ta đang tiếp tục tăng nhanh về số lượng, đa dạng
về cơ cấu theo ngành nghề và thành phần kinh tế. Trong đó, số công nhân
trong khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
tăng mạnh và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn”20. Sự đa dạng của giai cấp công
nhân không chỉ phát triển theo thành phần kinh tế mà còn phát triển theo ngành
nghề. Bộ phận “công nhân hiện đại”, “công nhân tri thức” sẽ ngày càng lớn
mạnh. Quá trình hội nhập quốc tế đã tiếp nhận những thành tựu khoa học, kỹ
thuật và công nghệ hiện đại vào sản xuất, làm cho nền kinh tế nước ta đang
chuyển biến nhanh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Điều đó tạo
động lực để giai cấp công nhân nước ta ngày càng phát triển cao về trình độ
chuyên môn nghề nghiệp. Trình độ công nhân ngày càng được nâng cao, góp
phần nâng cao chất lượng, bảo đảm sứ mệnh của giai cấp công nhân Việt Nam
trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trình độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ
năng nghề nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp của
20 Tạp chí của Ban Tuyên giáo trung ương, Sự biến đổi giai cấp công nhân Việt Nam
dưới tác động của hội nhập quốc tế lOMoAR cPSD| 61184739
công nhân cũng ngày càng được được nâng lên nhằm đáp ứng yêu cầu của quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức và cách mạng công
nghiệp lần thứ tư (4.0) đang có xu hướng phát triển mạnh. Bên cạnh đó, sự
phân hoá giàu nghèo trong giai cấp công nhân ngày càng rõ rệt. Trong quá
trình hội nhập kinh tế, dưới sự tác động của kinh tế thị trường, dẫn đến sự
chênh lệch mức thu nhập giữa các công nhân. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học kỹ thuật, việc áp dụng khoa học kỹ thuật với sản xuất ngày càng
đẩy mạnh, dẫn đến sự phân tầng giai cấp về mức thu nhập giữa công nhân lao
động phức tạp và công nhân lao động đơn giản, ảnh hưởng sâu sắc đến sự
thống nhất, đoàn kết của giai cấp công nhân. Một số bộ phân công nhân thu
nhập thấp, giác ngộ lập trường giai cấp, ý thức chính trị giai cấp chưa cao.
Hiện nay, mặt trái của hội nhập quốc tế đang làm cho công nhân nước ta không
đồng đều về nhận thức xã hội, giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, ý thức tổ
chức và kỷ luật lao động. Không ít công nhân còn chưa nhận thức đầy đủ về
sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình; ý chí phấn đấu, ý thức tổ chức kỷ luật, tính
tiên phong gương mẫu của một bộ phận công nhân giảm sút. Chủ nghĩa cá
nhân, thực dụng, cơ hội có điều kiện phát triển nhanh chóng. Một bộ phận
công nhân trẻ còn bị ảnh hưởng bởi các tệ nạn xã hội, sống buông thả, phai
nhạt lý tưởng, suy thoái về đạo đức, lối sống, xa rời bản chất tốt đẹp của giai
cấp công nhân. Gây ảnh hưởng đến doanh nghiệp và hình ảnh người công nhân
Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế
Giai cấp công nhân Việt Nam có vai trò quan trọng đặc biệt, là giai cấp lãnh đạo cách
mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho phương
thức sản xuất tiên tiến; giữ vai trò tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội, là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và là lực lượng nòng
cốt trong liên minh giai câos công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức.21
- Giai cấp nông dân
Giai cấp nông dân là giai cấp của những người lao động sản xuất trong nông nghiệp
(bao gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp), trực tiếp sử dụng một tư liệu sản xuất cơ bản
và đặc thù gắn với thiên nhiên là đất, rừng, biển để sản xuất ra sản phẩm nông nghiệp.
Giai cấp nông dân cùng với nông nghiệp, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông
thôn mới, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giai cấp nông dân là cơ sở và lực
lượng quan trọng để phát triển kinh tế- xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị,
đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ
môi trường sinh thái; là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn
với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo hướng quy
hoạch; phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp...22
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, giai cấp nông dân cũng có sự biến đổi đa
dạng về cơ cấu giai cấp; có xu hướng giảm dần về số lượng và tỉ lệ trong cơ cấu xã
hội- giai cấp. Một bộ phận nông dân chuyển sang lao động trong các khu công nghiệp,
hoặc dịch vụ có tính chất công nghiệp và trở thành công nhân. Trong giai cấp nông
21 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương
khóa X
, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2008, tr.43-tr.44.
22 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương
khóa X,
Nxb.Chính trị quốc gia, H. 2008. lOMoAR cPSD| 61184739
dân xuất hiện những chủ trang trại lớn, đồng thời vẫn còn những nông dân mất ruộng
đất, nông dân đi làm thuê... và sự phân hóa giàu nghèo trong nội bộ nông dân cũng ngày càng rõ.
Những đặc điểm trên đã cho thấy rằng trong cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân
và giai cấp tư sản, nông dân là tầng lớp trung gian đông đảo, không có khả năng tự
giải phóng mình khỏi các chế độ tư hữu, áp bức bóc lột, càng không thể là giai cấp
lãnh đạo xã hội trong các cuộc giải phóng đó. Giai cấp nông dân chỉ có thể là liên
minh với giai cấp công nhân, chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua ĐCS,
cả trong giành chính quyền cũng như trong quá trình cải tạo và xây dựng Chủ nghĩa
xã hội, thì mới phát huy được vai trò của mình và được giải phóng. - Đội ngũ trí thức
Trí thức là những người lao động trí óc, có hiểu biết sâu rộng về một hoặc một số lĩnh
vực khoa học – công nghệ, văn hóa – nghệ thuật, quản lý kinh tế -xã hội, thường
xuyên vận dụng những hiểu biết đó để phát hiện và giải quyết những vấn đề lý luận
và thực tiễn nảy sinh trong lĩnh vực hoạt động của mình vì lợi ích chung của cộng
đồng và nhu cầu nhận thức của bản thân.
Đội ngũ trí thức là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình
đẩy mạnh công nghiệp, hóa hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng kinh
tế tri thức, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; là lực
lượng trong khối liên minh.23
Trí thức Việt Nam xuất thân từ nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội, nhất là từ công nhân
và nông dân; phần lớn trưởng thành trong xã hội mới, được hình thành từ nhiều nguồn
đào tạo cả trong và ngoài nước. Đội ngũ trí thức nước ta có tinh thần yêu nước, có
lòng tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc, luôn gắn bó với sự nghiệp cách mạng do Đảng
lãnh đạo. Bằng hoạt động sáng tạo, trí thức nước ta đã có đóng góp to lớn trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trí thức không có phương thức sản xuất riêng và địa vị kinh tế, xã hội độc lập nên trí
thức cũng không có hệ tư tưởng độc lập. Mặc dù vậy, trí thức luôn giúp giai cấp thống
trị khái quát về lý luận để hình thành hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội. Tri
thức tuy có tinh thần đấu tranh chống áp bức, bóc lột nhưng lại thiếu kiên quyết, triệt
để. Vì vậy, trí thức muốn được giải phóng phải chịu sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân và tham gia vào khối liên minh.
Trí thức phục vụ cho giai cấp nào thì mang ý thức của hệ giai cấp đó. Trí thức chủ
nghĩa xã hội mang ý thức hệ của giai cấp công nhân. Ngày nay, cách mạng khoa học
kỹ thuật và công nghệ hiện đại đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì
trí thức ngày càng có vai trong quan trọng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
và hội nhập khu vực, quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhiều lần khẳng định
rằng: “Kiến thiết cần có nhân tài”, “cách mạng cần có lực lượng của trí thức”; “trong
xây dựng xã hội chủ nghĩa, lao động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang
”.
Vai trò quan trọng và vẻ vang của trí thức nghĩa là vừa có lập trường chính trị vững
vàng, vừa giỏi về chuyên môn, tinh thông nghiệp vụ ở các lĩnh vực được giao, đồng
thời coi phẩm chất hàng đầu của người trí thức là phải “chính tâm” và trách nhiệm
người trí thức của nhân dân là phải “vì nhân dân”, phải “đoàn kết chặt chẽ, để phụng
sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”
. Trí thức đóng vai trò quan trọng trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lenin đã từng
khẳng định: “Không có trí thức không thể có chủ nghĩa xã hội” vì trí thức là những
người có công lao chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, phát triển dân trí, đào tạo nguồn
nhân lực cho đất nước; tham gia xây dựng đường lối của Đảng, chính sách của nhà
23 Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019), Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nhà xuất bản Hà Nội, tr.95.