-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Phân tích luận điểm của Ăngghen: “Chủ nghĩa xã hội muốn trở thành khoa học thì phải đặt nó trên mảnh đất hiện thực.” và liên hệ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam | Bài tập lớn môn Chủ nghĩa xã hội Neu
Phân tích luận điểm của Ăngghen: “Chủ nghĩa xã hội muốn trở thành khoa học thì phải đặt nó trên mảnh đất hiện thực.” và liên hệ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam | Tiểu luận môn Chủ nghĩa xã hội Neu được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học (LLNL1107)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45740153
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN BÀI TẬP LỚN
MÔN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Đề tài: Phân tích luận điểm của Ăngghen: “Chủ nghĩa xã hội
muốn trở thành khoa học thì phải đặt nó trên mảnh đất hiện
thực.” và liên hệ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam.
Giảng viên hướng dẫn
Sinh viên: Đoàn Diễm Quỳnh TS. Nguyễn Hồng Sơn Mã SV: 11206740
Lớp SV: Kinh doanh quốc tế 62B
Lớp học phần: CNXHKH (121)_13 Hà Nội, 11/2021
Downloaded by Mai Chi (Vj3@gmail.com) lOMoAR cPSD| 45740153 MỤC LỤC
MỤC LỤC................................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................3
A. Phân tích luận điểm của Ăngghen: ‘Chủ nghĩa xã hội muốn trở thành khoa
học phải đặt trên mảnh đất hiện thực’.........................................................4
I. Phân tích chủ nghĩa xã hội không tưởng.....................................................4
1. Các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa xã hội không tưởng.....................4
1.1.Giai đoạn 1: Những mầm mống và khuynh hướng tư tưởng xã hội chủ
nghĩa thời cổ đại............................................................................................4
1.2.Giai đoạn 2: Tư tưởng xã hội chủ nghĩa từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ
XVIII.............................................................................................................4
1. 3.Giai đoạn 3: Chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê phán đầu thế kỷ XIX......5
2. Giá trị lịch sử của chủ nghĩa xã hội không tưởng......................................7
3. Hạn chế của chủ nghĩa xã hội không tưởng................................................8
4. Nguyên nhân hạn chế của chủ nghĩa xã hội không tưởng.........................9
II. Sự hình thành của chủ nghĩa xã hội khoa học............................................9
1. Khái niệm chủ nghĩa xã hội khoa học.........................................................9
2. Những điều kiện và tiền đề khách quan dẫn đến sự ra đời chủ nghĩa xã
hội khoa học.......................................................................................................10
3. Vai trò của C. Mác, Ph. Ăngghen đối với sự ra đời của chủ nghĩa xã hội
khoa học..............................................................................................................11
3.1.Sự chuyển biến lập trường triết học và lập trường chính trị........................11
3.2.Ba phát kiến vĩ đại của Mác và Ăngghen....................................................12 3.3.
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản đánh dấu sự ra đời của Chủ nghĩa xã hội
khoa học......................................................................................................15
B. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam.......................................................16
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về gắn lý luận với thực tiễn................................16
2. Thực tiễn vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới............................................................19
KẾT LUẬN............................................................................................................21
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................22 2 | P a g e lOMoAR cPSD| 45740153 LỜI MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa xã hội khoa học, với tư cách là một trong ba bộ phận hợp thành chủ
nghĩa Mác – Lênin, là học thuyết xã hội – chính trị, trực tiếp nghiên cứu sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân, những điều kiện, những con đường để giai cấp công
nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên nền tảng lý luận chung và phương pháp
luận của triết học và kinh tế chính trị học mácxít để đưa ra những luận cứ xã hội –
chính trị rõ ràng, trực tiếp nhất để chứng minh, khẳng định sự diệt vong tất yếu của
chủ nghĩa tư bản và thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa xã hội, khẳng định sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân, chỉ ra những con đường, các hình thức và biện pháp
để tiến hành cải tạo xã hội theo hướng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Như
vậy chủ nghĩa xã hội khoa học là sự tiếp tục một cách lôgic triết học và kinh tế
chính trị học mácxít, là sự biểu hiện trực tiếp mục đích và hiệu lực chính trị của
chủ nghĩa Mác – Lênin trong thực tiễn.
Một trong những nguyên nhân khiến chủ nghĩa xã hội trở thành khoa học đó là
các nhà sáng lập luôn đề cao vai trò của thực tiễn trong xây dựng học thuyết của
mình. Với Mác và Ăngghen, tư tưởng triết học bấy giờ phải giải quyết được nhu
cầu của thực tiễn chứ không phải giải quyết thuần túy yếu tố tinh thần và những
khái niệm tuyệt đối, phạm trù, nguyên lý mang tính trừu tượng, ra rời cuộc sống.
Vì vậy Ăngghen đã đưa ra câu nói rất nổi tiếng: “Chủ nghĩa xã hội muốn trở
thành khoa học phải đặt trên mảnh đất hiện thực”. Trong phạm vi bài tập lớn
của mình, em sẽ làm rõ luận điểm trên của Ăngghen và phân tích ý nghĩa của luận
điểm đối với Việt Nam.
A. Phân tích luận điểm của Ăngghen: ‘Chủ nghĩa xã hội muốn trở thành khoa
học phải đặt trên mảnh đất hiện thực’.
I. Phân tích chủ nghĩa xã hội không tưởng.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng là một hệ thống những quan điểm, tư tưởng về giải
phóng xã hội, giải phóng con người; xây dựng một xã hội mới tốt đẹp không có áp
bức, bóc lột, đảm bảo cho mọi người thực sự có cuộc sống bình đẳng, hạnh phúc,
nhưng lại đưa ra con đường, biện pháp sai lầm, đó là bằng giáo dục, thuyết phục và
tuyên truyền hòa bình...cho lý tưởng của họ. Chính sự xuất hiện chế độ tư hữu, xuất
hiện giai cấp thống trị và bóc lột mà xuất hiện các phong trào và tư tưởng xã hội chủ nghĩa. 3 | P a g e lOMoAR cPSD| 45740153
1. Các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa xã hội không tưởng:
1.1. Giai đoạn thứ nhất: Những mầm mống và khuynh hướng tư tưởng xã hội
chủ nghĩa thời cổ đại.
Chế độ chiếm hữu nô lệ là bước phát triển tất yếu của lịch sử. Giai cấp quý tộc
chủ nô và giai cấp nô lệ là hai giai cấp cơ bản mang tính chất đối kháng quyết liệt.
Mâu thuẫn giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp là miếng đất làm nảy sinh những
mầm mống tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời cổ đại thể hiện
trong dòng “văn học chưa thành văn”. Thông qua các câu chuyện dân gian như: các
chuyện thần thoại, chuyện cổ tích, chủ nghĩa xã hội không tưởng một mặt, phản ánh
những sự bất bình của đông đảo quần chúng lao động đối với các hành vi áp bức, bóc
lột của giai cấp thống trị; mặt khác, nêu lên ước mơ, khát vọng của công chúng bị bóc
lột, bị áp bức về một xã hội bình đẳng, công bằng, bác ái, nhưng rất mơ hồ, vụn vặt,
thậm chí muốn trở về với thời đại “hoàng kim nguyên thuỷ”.
1.2. Giai đoạn thứ hai: Tư tưởng xã hội chủ nghĩa từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII.
Chủ nghĩa tư bản ra đời và sau đó phát triển ở một số nước, trước hết là ở châu
Âu. Sự phân hóa giai cấp diễn ra mạnh mẽ và kèm theo đó là những xung đột giai cấp
cũng diễn ra quyết liệt. Giai cấp tư sản từng bước thiết lập địa vị thống trị của mình
và đã dùng nhiều thủ đoạn áp bức, bóc lột tàn bạo đối với người lao động. Trong bối
cảnh lịch sử đó, đã xuất hiện các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng. Thông qua các
tác phẩm “văn học nhân đạo” của mình, các nhà nhân đạo thời cận đại đã lên án, phê
phán chế độ xã hội dựa trên chế độ tư hữu, đòi hỏi phải thay thế chế độ xã hội đó bằng
một xã hội mới thực sự công bằng, bác ái. Giai đoạn này có rất nhiều đại biểu ưu tú,
điển hình là những đại biểu sau:
+ Tômát Morơ (1478 - 1535) là tác giả của tác phẩm văn học xã hội chủ nghĩa
không tưởng đầu tiên, tác phẩm “Không tưởng” (“Utôpi”).
+ Tômađô Campanenla (1568 - 1639) là tác giả của tác phẩm “Thành phố mặt trời”.
+ Grắccơ Babớp (1760 - 1797) và những người bạn chiến đấu cùng chí hướng
của ông, lần đầu tiên trong lịch sử, đã nói đến vấn đề đấu tranh cho chủ nghĩa
xã hội 9 với tính cách một phong trào thực tiễn, chứ không chỉ là tư tưởng.
“Tuyên ngôn của những người bình dân” của chủ nghĩa Babớp được coi là một 4 | P a g e lOMoAR cPSD| 45740153
cương lĩnh hành động chưa từng có trong lịch sử trước đây của tư tưởng xã hội
chủ nghĩa với những nhiệm vụ, những biện pháp cụ thể cần thực hiện ngay
trong quá trình hành động dẫn đến xã hội mới công bằng.
1.3. Giai đoạn thứ ba: Chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê phán đầu thế kỷ XIX
Từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp về cơ bản
hoàn thành ở nước Anh và sau đó tiếp diễn ở một số nước Tây Âu. Đây là giai đoạn
chủ nghĩa tư bản chiến thắng chế độ phong kiến, giai cấp tư sản đã bắt đầu bộc lộ bản
chất cố hữu của nó: phản động và bóc lột áp bức nhân dân lao động vì quyền lợi của
giai cấp mình. Đây cũng là giai đoạn giai cấp vô sản hiện đại hình thành và bắt đầu
thức tỉnh về chính trị.
Trong điều kiện lịch sử ấy, đã xuất hiện những đại biểu mới của chủ nghĩa xã hội
không tưởng. Đó là các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng - phê phán vĩ đại: C.H.
Xanh Ximông, Ph.S. Phuriê, R Oen. Trong thời kỳ này, các tư tưởng xã hội chủ nghĩa
được thể hiện như là một học thuyết. Chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê phán đã tố
cáo, phê phán sâu sắc xã hội tư bản chủ nghĩa, phủ định nó, đồng thời đề xuất con
đường, biện pháp và những dự đoán thiên tài về xã hội tương lai. C.H. Xanh Ximông:
- C.H. Xanh Ximông xuất thân từ một gia đình quý tộc Pháp. Ông là một nhà tư
tưởng vĩ đại, một nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng - phê phán nổi tiếng.
- Nội dung tư tưởng của C.H. Xanh Ximông:
Thứ nhất, xây dựng lý luận về giai cấp và xung đột giai cấp. Ông khẳng định
rằng giai cấp vô sản có đủ sức mạnh giành lại toàn bộ chính quyền và có năng
lực quản lý đất nước. Ông tuyên bố rằng: “Giải phóng giai cấp” là mục đích của tôi.
Thứ hai, ông đã chỉ ra tính chất nửa vời của Cách mạng tư sản Pháp. Đó là
cuộc cách mạng không triệt để vì chưa thiết lập được một chế độ xã hội phù
hợp với quyền lợi của người nghèo khổ. Vì vậy, cần phải có một cuộc tổng cách
mạng bằng con đường hòa bình.
Thứ ba, ông chủ trương xây dựng một chế độ xã hội mới được tự do về kinh
tế mà không cần xóa bỏ tư hữu. Chỉ cần xóa bỏ sự chênh lệch quá đáng về tài
sản giữa mọi người bằng cách phổ biến hóa chế độ tư hữu từ đó kéo gần khoảng cách giàu nghèo. 5 | P a g e lOMoAR cPSD| 45740153
- Những điểm hạn chế của Xanh Ximông:
Ông cho rằng có thể giải quyết mọi vấn đề bất công xã hội bằng con đường
cải cách hòa bình, không cần xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất. Ông quan tâm đến số phận của giai cấp vô sản nhưng không nhận thức
được vai trò và sứ mệnh lịch sử của họ, ông phủ nhận đấu tranh giai cấp. Vì vậy,
Ăngghen đã có nhận xét về ông như sau: “Xanh Ximông có một tầm mắt rộng
thiên tài nhưng chủ nghĩa Xanh Ximông chỉ có thể gọi là thơ ca xã hội mà thôi”. Sáclơ Phuriê:
- Ph.S. Phuriê là một nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng, một nhà phê phán và lên
án xã hội tư sản một cách xuất sắc, một nhà tư tưởng tiến gần đến chủ nghĩa Mác.
- Nội dung tư tưởng của Ph.S. Phuriê:
Thứ nhất, ông phê phán và lên án kịch liệt xã hội tư bản, vạch trần những
mặt xấu của xã hội đó: Tình trạng sản xuất vô chính phủ, lối sống ăn bám, mâu
thuẫn giữa lợi ích tư nhân với lợi ích xã hội, sự thống trị của tính tham lam và
sự mua chuộc phổ biến vốn có của xã hội tư sản. Chủ nghĩa tư bản làm què quặt
con người, đàn áp tư tưởng, tình cảm và ước vọng nhân dân.
Thứ hai, ông kết luận: “Sự nghèo khổ được sinh ra từ chính sự dồi dào”, sự
thừa thãi của cải ở cực này là sự nghèo khổ ở cực kia.
Thứ ba, bằng phương pháp luận biện chứng, Phuriê cho rằng xã hội tư sản là
một chế độ không hợp lí phải được thay thế bằng một chế độ xã hội cao hơn:
“Xã hội bảo đảm” hay “Xã hội hài hòa” dựa trên cơ sở lao động tự nguyện và
hứng thú. Trong xã hội đó, lao động trở thành nhu cầu bức thiết của đời sống
con người. Xã hội đó được tổ chức theo công xã (Phalănggiơ) và coi đó là tế bào chính của xã hội.
Thứ tư, ông chủ trương hiện thực các mục tiêu của mình bằng cách tuyên
truyền một cách hòa bình các tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
- Điểm hạn chế trong tư tưởng của Ph.S. Phuriê:
Cũng như những nhà xã hội không tưởng khác, Phuriê phủ nhận đấu tranh giai
cấp và phong trào cách mạng, không nhận thức được vai trò lịch sử của giai cấp vô sản. 6 | P a g e lOMoAR cPSD| 45740153 Rôbớt Oen:
- R. Oen là một nhà tư tưởng nổi tiếng, một nhà nhân đạo chủ nghĩa, một nhà cộng sản thực nghiệm.
- Nội dung tư tưởng của Rôbớt Ôoen:
“R.Oen – nhà cải cách có khuynh hướng cộng sản, người có tư tưởng xóa
bỏ chế độ tư hữu”. Ông đề xướng Luật công xưởng nhân đạo và đấu tranh
không mệt mỏi để thực hiện nó suốt 5 năm.
Ông chủ động cải thiện điều kiện lao động của công nhân trong nhà máy
của mình bằng cách: Giảm giờ làm việc, trả lương cao cho công nhân và cho
họ được hưởng phúc lợi tập thể.
Ông lên án và phủ nhận chế độ tư hữu, cho nó là nguyên nhân của mọi tội
ác và tai họa mà con người phải chịu đựng, do đó phải được thay thế bằng một
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
Từ chính những hành động của ông, Ăngghen đã viết: “Mọi phong trào xã
hội, mọi thành tựu thực sự đã diễn ra ở Anh vì lợi ích của công nhân đều gắn
liền với tên tuổi của Oen”.
- Điểm hạn chế tư tưởng trong của Rôbớt Oen:
Mặc dù có tư tưởng nhân đạo sâu sắc song Oen cương quyết bác bỏ việc sử
dụng cách mạng và đấu tranh giai cấp làm phương tiện cải tạo những quan hệ
xã hội và không nhận thức được vai trò của giai cấp công nhân. Ông đặt hy
vọng vào giai cấp thống trị và những trí thức sẽ đóng góp vào việc sáng tạo ra
xã hội “hợp lý” tương lai.
2. Giá trị lịch sử của chủ nghĩa xã hội không tưởng:
Thứ nhất, giá trị phê phán: chủ nghĩa xã hội không tưởng đã thể hiện tinh thần lên
án, phê phán kịch liệt và ngày càng gay gắt các xã hội dựa trên chế độ tư hữu, chế
độ quân chủ chuyên chế và chế độ tư bản chủ nghĩa; góp phần nói lên tiếng nói của
những người lao động trước tình trạng bị áp bức, bóc lột ngày càng nặng nề.
Thứ hai, giá trị nhân đạo: chủ nghĩa xã hội không tưởng đã phản ánh được những
ước mơ, khát vọng của những giai cấp lao động về một xã hội công bằng, bình đẳng,
bác ái. Nó chứa đựng giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc thể hiện lòng yêu thương 7 | P a g e lOMoAR cPSD| 45740153
con người, thông cảm, bênh vực những người lao khổ, mong muốn giúp đỡ họ, giải
phóng họ khỏi nỗi bất hạnh.
Thứ ba, chủ nghĩa xã hội không tưởng bằng việc phác họa ra mô hình xã hội tương
lai tốt đẹp, đưa ra những chủ trương và nguyên tắc của xã hội mới mà sau này các
nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã kế thừa một cách có chọn lọc và chứng
minh chúng trên cơ sở khoa học.
3. Hạn chế của chủ nghĩa xã hội không tưởng:
Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội không tưởng không giải thích được bản chất của các
chế độ nô lệ làm thuê. Đặc biệt là nó không thấy được bản chất của chế độ tư bản
chủ nghĩa, chưa khám phá ra được quy luật ra đời, phát triển và diệt vong của các
chế độ đó, đặc biệt là chủ nghĩa tư bản nên cũng không chỉ ra được con đường, biện
pháp đúng đắn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Thứ hai, chủ nghĩa xã hội không tưởng đã không phát hiện ra lực lượng xã hội
tiên phong có thể thực hiện cuộc chuyển biến cách mạng từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản - lực lượng xã hội đã được sinh ra, lớn lên và
phát triển cùng với nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, đó là giai cấp công nhân.
Thứ ba, hạn chế trong việc khái quát mô hình xã hội tiến bộ. Mô hình xã hội tiến
bộ của các nhà không tưởng chủ yếu là sản phẩm của óc tưởng tượng chủ quan và
phương pháp siêu hình, thường đem đối lập của xã hội hiện tồn để xây dựng một xã
hội tiến bộ hơn. Tuy nhiên, con đường, cách thức nào để đi đến xã hội tiến bộ đó thì
họ không chỉ ra được một cách thực sự. Thậm chí họ đưa ra quan niệm về cách mạng
xã hội nhưng chủ yếu là cách mạng xã hội diễn ra bằng biện pháp cải lương, ôn hòa
chứ chưa đi đến cách mạng bằng bạo lực. Do vậy, Ăngghen đã nói: “Họ càng mô tả
xã hội đó tỉ mỉ bao nhiêu thì càng rơi vào ảo tưởng bấy nhiêu”. Về mặt quy luật,
muốn dự kiến được một xã hội tương lai thì phải hiểu được một cách đúng đắn về
xã hội hiện tồn vì xã hội tương lai là kết quả từ sự vận động xã hội hiện tồn. Tuy
nhiên, các nhà xã hội không tưởng không dựa trên căn cứ hiện thực mà chủ yếu là
những tiên đoán chủ quan.
Vì vậy, trong một giai đoạn nhất định thì chủ nghĩa xã hội không tưởng có giá trị,
phù hợp với xã hội tại thời kì đó, khi chủ nghĩa xã hội tư bản chưa bộc lộ đầy đủ các
quy luật mâu thuẫn trong giai đoạn phát triển. Nhưng khi lịch sử hiện thực đã vượt
qua thì chủ nghĩa xã hội không tưởng đã bộc lộ những hạn chế, mọi tuyên truyền
cho chủ nghĩa xã hội không tưởng sau này đã trở thành vật cản đối với sự phát triển. 8 | P a g e lOMoAR cPSD| 45740153
4. Nguyên nhân hạn chế của chủ nghĩa xã hội không tưởng: - Nguyên nhân khách quan:
Chủ nghĩa tư bản đang trong thời kì hình thành và phát triển, do vậy chưa
bộc lộ đầy đủ quy luật đặc trưng, bản chất, những mâu thuẫn vốn có của nó. Như
vậy, khó có thể căn cứ vào hiện thực chưa đầy đủ đó để khái quát thành học
thuyết. Do vậy Ăngghen từng nói rằng: “Lý luận chưa thuần thục, chưa chín
muồi phản ánh tất yếu của một hiện thực chưa thuần thục, chưa chín muồi”. Các
nhà xã hội không tưởng không thể căn cứ vào mảnh đất hiện thực đó nên họ
buộc phải lấy cái phán đoán cá nhân, chủ quan để thay thế cái điều kiện khách quan.
Giai cấp công nhân trong thời kỳ này cũng chưa thể hiện đầy đủ vai trò lịch
sử và sứ mệnh của mình, thường lẫn vào đám quần chúng đông đảo nên việc
phát hiện ra vai trò lịch sử và sứ mệnh của giai cấp công nhân rất khó. - Nguyên nhân chủ quan:
Các nhà xã hội không tưởng đứng trên lâp trường của giai cấp tư sản nên
không thể thấy được vai trò của người lao động. Vì vậy họ không đủ cơ sở về
mặt thực tiễn để phát hiện ra vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Các nhà không tưởng thể hiện là đẳng cấp bên trên, họ chỉ có sự xót thương, 9 | P a g e lOMoAR cPSD| 45740153
cảm thông, chưa phải sự đồng cảm thật sự. Sau này, Mác và Ăngghen đã đứng
về phía người lao động, nhân danh những người lao động để bảo vệ họ và xây
dựng học thuyết cho giai cấp công nhân.
Các nhà xã hội không tưởng đứng trên thế giới quan, lập trường duy tâm
hoặc siêu hình. Vì vậy, các biện pháp của họ mang tính chất duy tâm, ví dụ như
cách mạng xã hội bằng cải lương và ôn hòa. Lúc bấy giờ, nhận thức con người
chưa vượt ra khỏi hạn chế của chủ nghĩa duy tâm cũng như phương pháp tư duy
siêu hình, do vậy các nhà xã hội không tưởng không thể tránh khỏi những hạn chế.
II. Sự hình thành của chủ nghĩa xã hội khoa học.
1. Khái niệm chủ nghĩa xã hội khoa học:
Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa xã hội khoa học (hay chủ nghĩa cộng sản khoa học)
là chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung với tính cách là sự luận chứng toàn diện (triết
học, kinh tế chính trị và xã hội - chính trị) về sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư
bản và thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa cộng sản, là sự biểu hiện khoa học những lợi
ích cơ bản và những nhiệm vụ đấu tranh của giai cấp công nhân. Điều ấy nói lên sự
thống nhất, tính hoàn chỉnh về mặt cấu trúc của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Theo nghĩa hẹp, chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận hợp thành
của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa xã hội khoa học là bộ phận thể hiện tập trung
nhất tính chính trị - thực tiễn sinh động của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Chủ nghĩa xã hội khoa học là khoa học về các quy luật xã hội - chính trị, là học
thuyết về những điều kiện, con đường giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, về cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân, về cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa, về các quy luật, biện pháp đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động dưới sự lãnh đạo của chính đảng mácxít nhằm thực hiện thắng lợi sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
2. Những điều kiện và tiền đề khách quan dẫn đến sự ra đời chủ nghĩa xã hộikhoa học:
Điều kiện kinh tế - xã hội:
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản ở châu Âu đã đạt được
những bước phát triển rất quan trọng trong kinh tế. Cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật lần thứ nhất đã thúc đẩy phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển 10 | P a g e
Downloaded by Mai Chi (Vj3@gmail.com) lOMoAR cPSD| 45740153
mạnh mẽ. Chính sự phát triển đó làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
bộc lộ mâu thuẫn giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa
ngày càng cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa. Chính vì vậy, mà chủ nghĩa tư bản tạo ra những khả năng hiện thực cho
những nhà dân chủ cách mạng tiến bộ nhận thức đúng đắn bản chất của chủ nghĩa
tư bản, để đề ra lý luận khoa học và cách mạng.
Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân hiện đại trưởng
thành bước lên vũ đài đấu tranh chống giai cấp tư sản với tư cách là một lực lượng
xã hội độc lập. Giai cấp công nhân là lực lượng xã hội có khả năng giải quyết những
mâu thuẫn mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ, đã bắt đầu có
tổ chức và trên quy mô rộng khắp. Nó đòi hỏi có một lý luận khoa học hướng dẫn.
Tiêu biểu cho các phong trào công nhân lúc đó là: cuộc khởi nghĩa của công nhân
thành phố Liông (Pháp) từ năm 1831 đến năm 1834; cuộc khởi nghĩa của công
nhân dệt Xêlidi (Đức) năm 1844; phong trào Hiến chương (Anh) từ 1838 đến 1848.
Những phong trào đó có tính quần chúng và mang hình thức chính trị. Sự lớn mạnh
của phong trào công nhân đặt ra yêu cầu bức thiết phải xây dựng một hệ thống lý
luận khoa học và cách mạng.
Đó là những điều kiện kinh tế - xã hội khách quan cho chủ nghĩa xã hội khoa
học ra đời để thay thế các trào lưu xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa đã tỏ ra
lỗi thời, không còn có khả năng đáp ứng phong trào công nhân trong cuộc đấu tranh
chống giai cấp tư sản, đồng thời chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời phản ánh bằng
lý luận phong trào công nhân.
Tiền đề khoa học tự nhiên và tư tưởng lý luận:
- Tiền đề khoa học tự nhiên: Cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, nhân loại
đã đạt nhiều thành tựu to lớn trên lĩnh vực khoa học tự nhiên và xã hội tạo nền
tảng cho phát triển tư duy lý luận. Trong khoa học tự nhiên, những phát minh
vạch thời đại trong vật lý học và sinh học đã tạo ra bước phát triển đột phá có
tính cách mạng: Học thuyết tiến hóa, Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng
lượng, Học thuyết tế bào. Những phát minh này là tiền đề khoa học cho sự ra
đời cho chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, cơ sở
phương pháp luận cho các nhà sáng lập Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên
cứu những vấn đề lý luận chính trị - xã hội đương thời. 11 | P a g e Downloaded by Mai Chi (Vj3@gmail.com) lOMoAR cPSD| 45740153
- Tiền đề tư tưởng lý luận: Cùng với sự phát triển của khoa học tự nhiên,
khoa học xã hội cũng có những thành tựu đáng ghi nhận, trong đó có Triết học
cổ điển Đức với tên tuổi của các nhà triết học vĩ đại: Ph. Hêghen và L.
Phoiơbắc; kinh tế chính trị học cổ điển Anh với A.Smith và D. Ricardo, chủ
nghĩa xã hội không tưởng phê phán mà đại biểu là Xanh Ximông, S. Phuriê và R.Oen.
3. Vai trò của C. Mác, Ph. Ăngghen đối với sự ra đời của chủ nghĩa xã hộikhoa học:
3.1. Sự chuyển biến lập trường triết học và lập trường chính trị
Từ thế giới quan duy tâm sang thế giới quan duy vật biện chứng
Cơ sở giúp Mác và Ăngghen có sự chuyển biến về thế giới quan:
Thứ nhất là tính thiên tài về trí tuệ đã giúp Mác và Ăngghen hòa nhập vào xu
hướng phát triển tiến bộ của thời đại.
Thứ hai là Mác và Ăngghen đã nhận thức đúng vai trò của quần chúng, của giai
cấp công nhân trong đấu tranh cách mạng.
Thứ ba, Mác và Ăngghen khác với các nhà xã hội không tưởng. Các nhà xã hội
không tưởng lấy cái chủ quan, cái tiên nghiệm để thay thế điều kiện khách quan
nhưng Mác và Ăngghen đã gắn việc xây dựng tư tưởng, học thuyết của mình với
thực tiễn cho nên Mác và Ăngghen đã đưa ra câu nói rất nổi tiếng: “Muốn cho chủ
nghĩa xã hội trở thành khoa học thì phải đặt nó trên mảnh đất của hiện thực.
Lúc đầu, Mác và Ăngghen đều đứng trên lập trường duy tâm vì đều tham gia
vào trường phái Hêghen trẻ, đi theo triết học duy tâm khách quan của Hêghen. Tuy
nhiên, Mác và Ăngghen đã từng bước thấy được những điều không đúng đắn trong
triết học của Hêghen, đó là duy tâm, trừu tượng, thần bí, không giải quyết được vấn
đề của thực tiễn, của đấu tranh cách mạng. Với Mác và Ăngghen, tư tưởng triết học
bấy giờ phải giải quyết được nhu cầu của thực tiễn chứ không phải giải quyết thuần
túy yếu tố tinh thần, của những khái niệm tuyệt đối, phạm trù, nguyên lý mang tính
trừu tượng, ra rời cuộc sống, thậm chí Mác và Ăngghen dùng từ là “vô bổ”. Vì vậy,
khi Mác và Ăngghen gặp nhau thì hai ông đồng quan điểm triết học phải giải quyết
câu chuyện của thực tiễn và đó là cơ sở để Mác và Ăngghen chuyển từ thế giới
quan duy tâm sang duy vật biện chứng.
• Từ lập trường dân chủ tư sản sang lập trường cộng sản chủ nghĩa 12 | P a g e
Downloaded by Mai Chi (Vj3@gmail.com) lOMoAR cPSD| 45740153
Cả Mác và Ăngghen lúc đầu đứng trên lập trường dân chủ tư sản. Mác sinh ra
trong một gia đình tri thức nghèo nhưng được học tập đầy đủ, năm 1841 ông đã
bảo vệ luận án Tiến sĩ Triết học. Sau đó 1841-1842 Mác làm giảng viên của trường
Đại học và cuối năm 1842 Mác đã từ bỏ vị trí giảng viên. Ông tham gia viết báo
Rheinische Zeitung, nguyện thâm nhập vào thực tiễn để xây dựng học thuyết của
mình phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh của giai cấp công nhân. Đó là quá trình
chuyển từ lập trường dân chủ tư sản sang lập trường xã hội chủ nghĩa. Lập trường
dân chủ tư sản bàn những vấn đề lý luận, nhân đạo, đấu tranh giai cấp nhưng chỉ
mang tính trừu tượng nên Mác và Ăngghen đã đứng trên lập trường xã hội chủ
nghĩa để chỉ ra cái thực tiễn, nhân danh những người lao động. Có như vậy mới
xây dựng được học thuyết chiến đấu có tính cách mạng khoa học để bảo vệ người lao động.
Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn (1843-1848) vừa hoạt động thực tiễn,
vừa nghiên cứu khoa học, Mác và Ăngghen đã thể hiện quá trình chuyển biến lập
trường triết học và lập trường chính trị và từng bước củng cố, dứt khoát, kiên định,
nhất quán và vững chắc lập trường đó, mà nếu không có sự chuyển biến này thì
chắc chắn sẽ không có Chủ nghĩa xã hội khoa học.
3.2. Ba phát kiến vĩ đại của Mác và Ăngghen
Khi nghiên cứu mảnh đất hiện thực tư bản chủ nghĩa, trên quan điểm duy vật biện
chứng với phương pháp luận khoa học, C. Mác và Ăngghen đã nêu ra ba phát kiến
vĩ đại đó là: chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết giá trị thặng dư và học thuyết về
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Nhờ ba phát kiến ấy, chủ nghĩa xã hội đã trở thành khoa học.
• Chủ nghĩa duy vật lịch sử:
Để đi tới phát minh vĩ đại này, C.Mác đã tiến hành phê phán và cải tạo căn bản
phép biện chứng duy tâm của Hê-ghen, chủ nghĩa duy vật siêu hình của Phoi-ơ-
bắc; đồng thời kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư tưởng của nhân loại trước
đó, xây dựng nên một triết học mới - triết học duy vật biện chứng, trong đó chủ
nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ, đồng
thời khẳng định triết học phải lấy sinh khí của mình từ thực tiễn, không chỉ giải
thích thế giới mà còn phải cải tạo thế giới.
Sản xuất vật chất là yếu tố quyết định sự sinh tồn và phát triển của con người,
của xã hội; là hành vi lịch sử đầu tiên, là điều kiện cơ bản của mọi lịch sử. Do đó 13 | P a g e Downloaded by Mai Chi (Vj3@gmail.com) lOMoAR cPSD| 45740153
để hiểu được con người, C.Mác đã đi sâu nghiên cứu quá trình sản xuất vật chất
của con người trong xã hội, nghiên cứu biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, từ đó đi tới nhận thức về mặt xã hội của bản chất con người,
trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã
hội". C.Mác khẳng định, lịch sử chính là lịch sử hoạt động của những con người
hiện thực, nó không phải là thần bí, tự phát mà hoàn toàn có thể nhận thức được.
Lịch sử vận động một cách có quy luật, dựa trên những tiền đề hiện thực, đó là
một quá trình lịch sử - tự nhiên. Bằng cách đó, C.Mác đã thực hiện một cuộc cách
mạng triệt để trong triết học, sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, vạch ra quy
luật phát triển của xã hội loài người.
Với việc sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, vạch ra quy luật phát triển của
lịch sử loài người, C.Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan
niệm về lịch sử loài người. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, những quy luật
cơ bản chi phối sự vận động và phát triển của xã hội đã được C.Mác tìm ra là: quy
luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất, trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất; cơ sở kinh tế xã hội quyết định kiến trúc thượng tầng của xã hội;
tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội chứ không phải ngược lại ý thức xã hội
quyết định tồn tại xã hội; sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội
như là một quá trình lịch sử - tự nhiên… Học thuyết giá trị thặng dư:
Quan niệm sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử
tự nhiên nên khi nghiên cứu về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác
cho rằng "quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng là một hình thái lịch sử nhất
định của quá trình sản xuất xã hội". Thực chất, đó là quá trình "sản xuất ra giá trị
thặng dư đó - là mục đích trực tiếp và là động cơ quyết định của nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa"; nó phản ánh quan hệ kinh tế bản chất nhất của chủ nghĩa tư bản
– quan hệ tư bản bóc lột lao động làm thuê và nó cũng là cơ sở của sự tồn tại, phát
triển của chủ nghĩa tư bản. Chính điều này, theo C.Mác đã dẫn đến sự tha hóa của
lao động, tha hóa con người.
Với việc phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư trong nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa, C.Mác đã làm nên cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế chính trị học.
Ông không chỉ phát hiện ra quy luật kinh tế cơ bản của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa - quy luật quyết định các mặt chủ yếu, các quá trình kinh tế chủ
yếu của chủ nghĩa tư bản, mà qua đó còn vạch trần bản chất bóc lột của chủ nghĩa
tư bản, bác bỏ những luận điệu về "tự nguyện", "công bằng" trong quan hệ giữa 14 | P a g e
Downloaded by Mai Chi (Vj3@gmail.com) lOMoAR cPSD| 45740153
nhà tư bản và người công nhân; chỉ rõ những mâu thuẫn không thể giải quyết
được của xã hội tư bản - mâu thuẫn giữa tính xã hội ngày càng phát triển của lực
lượng sản xuất với tính tư nhân trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, giữa giai
cấp công nhân với những nhà tư bản, giữa những nhà tư bản với nhau trong quá
trình cạnh tranh để đạt giá trị thăng dư tối đa...
Ngày nay, mặc dù chủ nghĩa tư bản có những hình thức biểu hiện mới khác
với hồi cuối thế kỷ XIX, song quy luật giá trị thặng dư do C.Mác tìm ra vẫn là cơ
sở lý luận khoa học để chúng ta nhận thức sâu sắc, toàn diện về những phương
thức mà các nhà tư bản đã và đang sử dụng để bóc lột công nhân trong nền kinh
tế tri thức với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật, công nghệ và quá
trình toàn cầu hóa hiện nay
Học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Trước C.Mác, nhiều nhà tư tưởng đã đề cập đến giai cấp vô sản, song, do điều
kiện về lịch sử "những người đó lại không nhận thấy, ở phía giai cấp vô sản, một
tính chủ động lịch sử nào, một cuộc vận động chính trị nào của bản thân giai cấp
vô sản cả", "họ càng không thấy những điều kiện vật chất cần cho sự giải phóng
của giai cấp vô sản". "Ðối với họ, giai cấp vô sản chỉ tồn tại với tư cách là giai cấp đau khổ nhất".
Trên cơ sở phân tích khách quan, khoa học những điều kiện kinh tế của nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng như những điều kiện chính trị, xã hội đã tạo nên
các quan hệ giai cấp trong xã hội tư bản, C.Mác đã làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử
của giai cấp vô sản - giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến; giai cấp có
đủ điều kiện khách quan quy định sứ mệnh của mình, có đủ năng lực, phẩm chất
để thực hiện sứ mệnh giải phóng chính bản thân mình tiến tới giải phóng toàn thể
nhân loại. Khẩu hiệu "Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!" là kết quả của cả một
quá trình nghiên cứu và hình thành luận thuyết của C.Mác, nó phản ánh một cách
đầy đủ nhất nguyên lý về vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản mà ông phát hiện ra.
Trải qua thử thách của thời gian và kiểm nghiệm của thực tiễn, cho đến nay,
phát minh vĩ đại của C.Mác về sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản gắn liền với
vai trò của Ðảng Cộng sản còn nguyên giá trị khoa học và ý nghĩa thực tiễn sâu
sắc, là vũ khí tinh thần của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh cách mạng
với chủ nghĩa tư bản, với những điều kiện xã hội hạ thấp, làm hư hỏng con 15 | P a g e Downloaded by Mai Chi (Vj3@gmail.com) lOMoAR cPSD| 45740153
người, là phương tiện mạnh mẽ để con người cải biến hiện thực vì lợi ích của con người.
3.3. Tuyên ngôn của Đảng cộng sản đánh dấu sự ra đời của Chủ nghĩa xã hội khoa học.
Được sự ủy nhiệm của những người cộng sản và công nhân quốc tế, tháng 2
năm 1848, tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” do C.Mác và Ph.Ăngghen
soạn thảo được công bố trước toàn thế giới.
Tuyên ngôn Đảng cộng sản là Cương lĩnh chính trị, là kim chỉ nam hành
động của toàn bộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản là ngọn cờ dẫn dắt giai cấp công nhân và
nhân dân lao động toàn thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, giải
phóng loài người vĩnh viễn thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột giai cấp, bảo đảm cho
loài người được thực sự sống trong hòa bình, tự do và hạnh phúc.
Chính tuyên ngôn của Đảng cộng sản đã nêu và phân tích một cách có hệ
thống lịch sử và lôgic hoàn chỉnh về những vấn đề cơ bản nhất, đầy đủ, xúc tích
và chặt chẽ thâu tóm hầu như toàn bộ những luận điểm của chủ nghĩa xã hội khoa
học, tiêu biểu là những luận điểm: -
Cuộc đấu tranh của giai cấp trong lịch sử loài người đã phát triển đến một
giai đoạn mà giai cấp công nhân không thể tự giải phóng mình nếu không đồng
thời giải phóng vĩnh viễn xã hội ra khỏi tình trạng phân chia giai cấp, áp bức, bóc
lột và đấu tranh giai cấp. Song, giai cấp vô sản không thể hoàn thành sứ mệnh
lịch sử nếu không tổ chức ra chính đảng của giai cấp, Đảng được hình thành và
phát triển xuất phát từ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. -
Lôgic phát triển tất yếu của xã hội tư sản và cũng là của thời đại tư bản chủ
nghĩa đó là sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản và sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội là tất yếu như nhau. -
Giai cấp công nhân, do đó có địa vị kinh tế - xã hội đại diện cho lực lượng
sản xuất tiên tiến, có sứ mệnh lịch sử thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, đồng thời là lực
lượng tiên phong trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
- Những người cộng sản trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, cần thiết
phải thiết lập liên minh với các lực lượng dân chủ để đánh đổ chế độ phong kiến
chuyên chế, đồng thời không quên đấu tranh cho mục tiêu cuối cùng là chủ nghĩa 16 | P a g e
Downloaded by Mai Chi (Vj3@gmail.com) lOMoAR cPSD| 45740153
cộng sản. Những người cộng sản phải tiến hành cách mạng không ngừng nhưng
phải có chiến lược, sách lược khôn khéo và kiên quyết.
B. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về gắn lý luận với thực tiễn.
Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng lỗi lạc, có nhiều cống hiến kiệt xuất vào kho
tàng tư tưởng – lý luận của dân tộc và nhân loại. Qua các giai đoạn lịch sử khác nhau,
thế giới đều thừa nhận có tư tưởng Hồ Chí Minh và bản thân Người thực sự là một
nhà tư tưởng, nhà lý luận vĩ đại của thời đại chúng ta.
Kế thừa, tiếp thu những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về lý luận, thực
tiễn, sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển sáng
tạo, làm rõ hai khái niệm lý luận và thực tiễn. Đặc biệt, Người đã gắn khái niệm thực
tiễn với nhiệm vụ cụ thể của cách mạng Việt Nam và người luôn khẳng định lý luận
phải gắn với thực tiễn.
Từ quan niệm về “Lý luận” và “Thực tế” cũng như mối quan hệ của chúng, Hồ
Chí Minh đi tới nguyên tắc “lý luận liên hệ với thực tế” trong nghiên cứu học tập lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nguyên tắc đó là: “Khi học tập lý luận thì nhằm
mục đích học để vận dụng chứ không phải học lý luận vì lý luận, hoặc vì tạo ra cho
mình một cái vốn lý luận để sau này đưa ra mặc cả với Đảng. Tất cả những động cơ
học tập không đúng đắn đều phải tẩy trừ cho sạch”. Nhiều lần Người nhấn mạnh:
“Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận
mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX (2001), lần thứ XI đều viết: “Tư
tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề
cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta”. Hồ Chí Minh đã tiếp nhận
những bài học sâu sắc từ Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga nhưng Người không
rập khuôn, sao chép theo nền tảng đó mà tiếp thu cái tinh thần của Chủ nghĩa Mác –
Lênin. Qua luận cương của Lênin, Hồ Chí Minh đã thấy được cái cần thiết cho dân
tộc Việt Nam – con đường giải phóng dân tộc. Từ nhu cầu thực tiễn của cách mạng
Việt Nam, từ những hiểu biết sâu sắc văn hóa phương Đông, văn hóa Pháp, Hồ Chí
Minh đã vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác – Lênin, Người cho rằng độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa 17 | P a g e Downloaded by Mai Chi (Vj3@gmail.com) lOMoAR cPSD| 45740153
không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mạng ở chính quốc”, nhân dân thuộc địa có thể
đứng lên tự giải phóng chính mình, cuộc cách mạng có thể thắng lợi trước ở một
nước thuộc địa. Hồ Chí Minh xem chủ nghĩa Mác – Lênin như một kim chỉ nam cho
sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc và luôn nhấn mạnh rằng cần phải vận dụng
sáng tạo “cẩm nang thần kỳ” đó.
Các luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh:
Thứ nhất là luận điểm về chủ nghĩa thực dân và vấn đề giải phóng dân tộc. Bằng
những tác phẩm “Bản chất chế độ thực dân Pháp” (1925) và “Đây công lý của thực
dân Pháp ở Đông Dương”, Hồ Chí Minh đã vạch trần bản chất, quy luật vận động,
địa vị lịch sử, những thủ đoạn bóc lột, đàn áp, tàn sát dã man của chủ nghĩa thực dân
Pháp đối với các dân tộc thuộc địa; nêu rõ những nguyện vọng khát khao được giải
phóng và những cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa. Sự phân tích về chủ nghĩa
thực dân của Hồ Chí Minh đã vượt hẳn những gì mà những nhà lý luận mát – xít đề
cập đến. Người đã nêu lên những luận điểm sáng tạo: Cách mạng giải phóng dân tộc
ở các nước thuộc địa quan hệ chặt chẽ với cách mạng chính quốc, nhưng không hoàn
toàn phụ thuộc vào cách mạng chính quốc. Nhân dân các dân tộc thuộc địa và phụ
thuộc “có thể chủ động đứng lên, đem sức ta mà giải phóng cho ta”, giành thắng lợi
trước cách mạng chính quốc và qua đó, thúc đẩy cách mạng chính quốc.
Hai là, khi phân tích xã hội của các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh tiếp thu, vận
dụng quan điểm giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác – Lê nin một cách
sáng tạo, Người tìm thấy con đường duy nhất đúng đắn cho dân tộc, đó là: “Làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Theo Hồ
Chí Minh, ở Việt Nam cũng như các nước phương Đông, do trình độ sản xuất phát
triển nên sự phân hóa giai cấp và đấu tranh giai cấp không giống như ở các nước
phương Tây. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn
của sự phát triển đất nước”; gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng Thế giới, đặt
cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo cách mạng vô sản thế giới, nghĩa là Người đã quốc
tế hóa những vấn đề của cách mạng nước ta.
Thứ ba là vấn đề chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, Hồ Chí Minh khẳng định: Sau khi cơ bản hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ, chúng ta nhất định phải quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ có xây dựng chủ nghĩa
xã hội, chúng ta mới thực sự giải phóng được dân tộc, xã hội và con người. Đặc điểm
lớn nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là “từ một nước nông 18 | P a g e
Downloaded by Mai Chi (Vj3@gmail.com) lOMoAR cPSD| 45740153
nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa”.
Thứ tư là về Đảng và xây dựng Đảng được Hồ Chí Minh nêu lên đầy mới mẻ và
sáng tạo. Với một đất nước thuộc địa nửa phong kiến, nông dân chiếm đa số dân cư
như Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xác định quy luật hình thành của Đảng là “kết hợp
chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, bản chất
của Đảng trong điều kiện một nước nông nghiệp lạc hậu – Đảng là của giai cấp, đồng
thời của dân tộc và của nhân dân lý luận, chính trị, tổ chức mà cả về văn hóa.
Thứ năm, Hồ Chí Minh đã có những cống hiến sáng tạo về tư tưởng quân sự, đặt
nền móng cho sự hình thành học thuyết quân sự cách mạng Việt Nam hiện đại. Xuất
phát từ nhiệm vụ cơ bản, hàng đầu của cách mạng Việt Nam là đánh đổ đế quốc,
phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, ngay từ đầu, Người đã xác định: Phải
giành chính quyền bằng bạo lực, bằng khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng
nếu kẻ thù ngoan cố, không chịu hạ vũ khí.
Thứ sáu là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin, sau khi cách mạng vô sản thắng lợi, giai cấp vô sản sẽ thiết lập nên nền
chuyên chính vô sản. Ở Hồ Chí Minh đã hình thành và phát triển một hệ thống các
quan điểm sáng tạo về Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Người đã vận dụng sáng tạo
quan điểm đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, một cuộc cách mạng từ giải phóng
dân tộc mà phát triển lên. Trong chánh cương vắn tắt (1930), Hồ Chí Minh đã nêu:
Thiết lập chính phủ công nông binh, tổ chức ra quân đội công nông. Tại Hội nghị
TW8 (5/1941), Người đề ra chủ trương thành lập “một nước Việt Nam dân chủ mới
ấy không phải thuộc quyền riêng một giai cấp nào, mà của chung toàn thể dân tộc”.
Thứ bảy là trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Hồ Chí Minh đã có các
quan điểm sáng tạo về chiến lược đại đoàn kết dân tộc theo phương châm: “Đoàn kết,
đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”. Đường lối của cách
mạng Việt Nam là đi từ giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, từng
bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Động
lực cơ bản của toàn bộ sự nghiệp cách mạng đó là đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng
liên minh công nhân, nông dân, trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Những luận điểm sáng tạo nêu trên là những sáng tạo nổi bật trong hệ thống quan
điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết 19 | P a g e Downloaded by Mai Chi (Vj3@gmail.com) lOMoAR cPSD| 45740153
quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo của Chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện
cụ thể của Việt Nam, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
2. Thực tiễn vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới.
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó có quan điểm của
Ph.Ăngghen về chủ nghĩa xã hội và kế tục sự lựa chọn của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
trong suốt hơn 90 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn luôn kiên định con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội. “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự
lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp
với xu thế phát triển của lịch sử”.
Đảng ta cũng đã chỉ rõ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là “bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa”. Nội hàm của việc “bỏ qua” này được Đảng ta chỉ rõ như
sau: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ
sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa nhưng tiếp thu, kế thừa những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa
học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng kinh tế hiện đại”.
Quan điểm trên đã cho thấy Đảng ta đã kế thừa và phát triển tư duy biện chứng
của Ph.Ăngghen về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Quan điểm “phát triển rút
ngắn” của Ph.Ăngghen đã được Đảng ta kế thừa thành “bỏ qua giai đoạn tư bản chủ
nghĩa”. Theo đó, tư duy biện chứng của Ph.Ăngghen cũng được Đảng ta vận dụng
trong việc xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trên phương diện
thực tiễn, xét theo dòng chảy của lịch sử nhân loại, hình thái kinh tế - xã hội xã hội
chủ nghĩa là nấc thang phát triển cao hơn của xã hội loài người, được ra đời trên nền
tảng hay những điều kiện, tiền đề của chủ nghĩa tư bản nên để xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội, nhất thiết phải kế thừa, tiếp thu những thành tựu mà nhân loại đã
đạt được dưới chế độ tư bản. Đây là sự phủ định biện chứng của xã hội xã hội chủ
nghĩa so với xã hội tư bản chủ nghĩa. Điều này đã khắc phục quan điểm siêu hình,
chủ quan, duy ý chí trong việc xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trước đó.
Thực tiễn hơn 35 năm đổi mới đất nước đã cho thấy, việc lựa chọn con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn, không chỉ phù hợp với xu
thế phát triển tất yếu của xã hội loài người mà còn phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh 20 | P a g e
Downloaded by Mai Chi (Vj3@gmail.com)