










Preview text:
lOMoAR cPSD| 53331727
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Đề tài:
Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: "Nước độc lập mà người dân không được
hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì." Làm rõ ý nghĩa luận
điểm với Việt Nam hiện nay. Hà Nội - 2024
Downloaded by Bao Han (baohan3006@gmail.com) lOMoAR cPSD| 53331727 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................................3
NỘI DUNG...............................................................................................................4 I.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC...............4
1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả dân tộc4
2. Độc lập dân tộc gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân......................5
3. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để..............5
4. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.....................5 II.
PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH: “NƯỚC ĐỘC
LẬP MÀ NGƯỜI DÂN KHÔNG ĐƯỢC HƯỞNG HẠNH PHÚC TỰ DO, THÌ ĐỘC
LẬP CŨNG CHẲNG CÓ NGHĨA LÝ GÌ.”..........................................................6 III.
THỰC TIỄN VIỆT NAM HIỆN NAY........................................................8
KẾT LUẬN............................................................................................................11
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................12 1
Downloaded by Bao Han (baohan3006@gmail.com) lOMoAR cPSD| 53331727 MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện, khoa học, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn Việt Nam, phát triển các truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp
thu văn hoá nhân loại. Chính vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là kim chỉ nam cho đất nước ta trong
quá trình bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, từ việc xây dựng đường lối cách mạng đúng đắn, tổ chức lực
lượng và lãnh đạo dân tộc giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đến các
cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ dân tộc và xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh là sự định hướng cho sự phát triển của dân tộc. Dựa trên các quá trình
có tính quy luật của thời đại, Người đã xác định con đường cho dân tộc ta: “độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội”, là mục tiêu “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất độc lập, dân chủ và
giàu mạnh”; phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng
giai cấp và giải phóng con người. Cụ thể hơn, Hồ Chí Minh muốn khẳng định tư tưởng xây dựng đất
nước ta là độc lập dân tộc phải đi liền với hạnh phúc tự do, như Người từng nói: “Nếu nước độc lập mà
dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì.”
Độc lập là một khái niệm mang tính chính trị, nhưng hạnh phúc và tự do lại là những khái niệm mang
tính nhân văn sâu sắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết nối hai khái niệm này một cách khéo léo, tạo nên
một chân lý vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn. Chân lý này đã định hướng ta từ ngay những ngày
đầu giành được độc lập đến tận bây giờ, và mãi sau này. Vì lẽ đó, trong nhiều năm qua, Việt Nam đã đạt
được nhiều thành tựu góp phần nâng cao đời sống người dân, đảm bảo quyền độc lập dân tộc, quyền tự
do và mưu cầu hạnh phúc của nhân dân.
Hiểu được tầm quan trọng của độc lập – tự do – hạnh phúc, em đã chọn đề tài: “Phân tích luận điểm của
Hồ Chí Minh: "Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng
có nghĩa lý gì." Làm rõ ý nghĩa luận điểm với Việt Nam hiện nay.” để phân tích.
Vì vốn hiểu biết của em còn hạn hẹp nên bài tiểu luận còn nhiều thiếu sót. Em mong nhận được lời góp
ý, nhận xét từ thầy. Em xin chân thành cảm ơn. NỘI DUNG I.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả dân tộc
Độc lập dân tộc là nội dung cốt lõi, xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Tự do độc lập là quyền trời cho của mỗi dân tộc... Hễ một dân tộc đã kiên
quyết đứng lên đấu tranh cho tổ quốc họ thì không ai, không lực lượng gì chiến thắng được họ
…”. Quan điểm đó của người khẳng định rằng, quyền độc lập của mỗi dân tộc là quyền tự nhiên,
thiêng liêng và bất khả xâm phạm, là quy luật tất yếu, khách quan của xã hội loài người mà tất
cả dân tộc đều được hưởng.
Năm 1919, tại Hội nghị Vecxai (Pháp), Hồ Chí Minh thay mặt những người Việt Nam yêu nước,
gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam. Bản Yêu sách gồm 8 điểm, yêu cầu Chính
phủ Pháp trao trả một số quyền tự do, dân chủ cơ bản tối thiểu cho nhân dân Việt Nam và xứ 2
Downloaded by Bao Han (baohan3006@gmail.com) lOMoAR cPSD| 53331727
Đông Dương. Sự ra đời của bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” là sự kiện mở đầu cho cuộc
đấu tranh đòi quyền dân tộc cơ bản, quyền tự quyết thiêng liêng của các dân tộc trong những
năm đầu thế kỷ 20. Đồng thời, sự kiện này đánh dấu cho tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền độc
lập, tự do của các dân tộc đã được hình thành.
Tiếp đó, căn cứ vào bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776: "Tất cả mọi người đều sinh ra
có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những
quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc" và bản Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về
quyền lợi và luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.”, Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng
định: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do… Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.” trong bản
Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945. Như vậy, Bản Tuyên ngôn độc lập tiếp tục khẳng định lý lẽ
đanh thép của Người về quyền độc lập, tự do dân tộc.
Tư tưởng về độc lập dân tộc còn tiếp tục được khẳng định qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp
và chống Mỹ. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, Người ra lời hiệu triệu, thể
hiện ý chí và quyết tâm cao độ bảo vệ nền độc lập dân tộc của nước nhà – quyền thiêng liêng
mà mỗi dân tộc đều được hưởng. Trong kháng chiến chống Mỹ, năm 1965, Mỹ tiến hành chiến
tranh cục bộ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại ở miền Bắc. Giữa tình cảnh khó khăn, ác liệt
đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên một chân lý thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự
do.” Nhờ vào tinh thần quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc đầy quý giá đó, nhân dân ta đã tạo lên
một lịch sử vẻ vang, lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
Như vậy ta có thể thấy rõ tư tưởng của Hồ Chí Minh trong vấn đề độc lập dân tộc: Độc lập, tự
do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của mọi dân tộc. Không một dân tộc nào phục tùng,
làm nô lệ cho dân tộc khác. Họ có quyền tự chủ, độc lập, tự do cho riêng mình.
2. Độc lập dân tộc gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân
Từ học thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn: dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh
phúc và bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791: “Người ta
sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền
lợi”, Hồ Chí Minh khẳng định dân tộc Việt Nam đương nhiên cũng phải được tự do và bình đẳng về quyền lợi.
Vì lẽ đó, Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công, Người tiếp tục khẳng định độc lập
phải gắn với tự do, hạnh phúc của nhân dân: “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự
do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì.”
Ngay sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu chúng ta khắc phục ngay tình trạng khó khăn về ăn
mặc, chỗ ở và học hành của người dân.
Như vậy có thể thấy, Hồ Chí Minh luôn gắn liền độc lập với tự do, hạnh phúc của nhân dân:
“Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc
lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. 3
Downloaded by Bao Han (baohan3006@gmail.com) lOMoAR cPSD| 53331727
3. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để trên tất cả các
lĩnh vực, từ ngoại giao, kinh tế đến an ninh, quốc phòng. Như Người đã nhấn mạnh: “Độc lập
mà người dân không có quyền tự quyết về ngoại giao, không có quân đội riêng, không có tiền
tài chính riêng,… thì độc lập đó chẳng có ý nghĩa gì.
Trên tinh thần đó, khi đất nước gặp nhiều khó khăn, chịu cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” sau Cách
mạng Tháng Tám, Người đã thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sử dụng nhiều
biện pháp, trên nhiều lĩnh vực, để đảm bảo nền độc lập của đất nước.
4. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Độc lập dân tộc gắn chặt với bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ của đất nước là tư tưởng chủ
đạo, chi phối toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tư tưởng lớn này đã được thể hiện rõ trong Tuyên ngôn Độc lập mà cách đây 73 năm, ngày 2
/9/1945, Người đã thông báo trước thế giới: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh
thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Bên cạnh đó, Người đã từng nói: “Trung, Nam, Bắc đều là đất nước Việt Nam. Chúng ta đều
chung một tổ tiên, dòng họ, đều là ruột thịt, anh em… Cũng như nước Pháp có Noóc-măng-đi,
Prô-văng-xơ, Bô-xơ. Không ai có thể chia rẽ con một nhà, không ai có thể chia rẽ nước Pháp thì
không ai có thể chia rẽ nước Việt Nam”. Với Người, đất nước, núi sông Việt Nam là một khối
thống nhất, Bắc – Trung – Nam không thể phân chia, kết đoàn ba miền như con một cha, nhà
một nóc, no đói, rách lành sẻ chia, đùm bọc, không ai có thể chia rẽ nước Việt Nam ta.
Như vậy, một dân tộc độc lập là một dân tộc thống nhất, không một phần nào bị chia cắt, hay bị
mất đi. Chủ quyền, lãnh thổ phải được toàn vẹn.
II. PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH: “NƯỚC
ĐỘC LẬP MÀ NGƯỜI DÂN KHÔNG ĐƯỢC HƯỞNG HẠNH PHÚC TỰ
DO, THÌ ĐỘC LẬP CŨNG CHẲNG CÓ NGHĨA LÝ GÌ.”
Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công đã mở ra một trang sử mới cho dân tộc ta, giúp nhân
dân có thêm hi vọng về quyền tự chủ, tự quyết, độc lập, không chịu sự áp bức bóc lột của bất kỳ
ai. Tuy nhiên, Chính phủ ta gặp nhiều khó khăn, thách thức khi phải đối mặt với thù trong giặc
ngoài. Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết “Thư gửi Uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh,
huyện và làng.” Bức thư được đăng trên Báo Cứu quốc ngày 17/10/1945.
Trong thư, Người viết: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì
độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì.” Đối với người, quyền dân tộc – quyền độc lập và quyền con
người – quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc luôn là thống nhất trong quan điểm, đường lối, chính
sách và pháp luật. Chính vì vậy, độc lập luôn phải gắn với tự do và hạnh phúc, độc lập dân tộc
và ấm no hạnh phúc là hai nội dung xuyên suốt, bao trùm và có mối quan hệ biện chứng. 4
Downloaded by Bao Han (baohan3006@gmail.com) lOMoAR cPSD| 53331727
Xuyên suốt chặng đường lịch sử của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn gắn độc lập với tự do,
hạnh phúc. Bởi một thứ là quyền dân tộc, quyền cộng đồng; thứ còn lại là quyền cá nhân; mà
quyền cộng đồng và quyền cá nhân luôn phải hài hoà, song hành, tác động lẫn nhau. Khi giành
được độc lập, Nhà nước và nhân dân ta mới yên tâm xây dựng con người, xã hội thật sự tự do,
hạnh phúc. Còn khi một xã hội thật sự được hưởng quyền tự do hạnh phúc, thì đất nước ấy mới thật sự độc lập.
Nói cách khác, độc lập là cơ sở, điều kiện đảm bảo mang lại tự do hạnh phúc cho nhân dân/ Hồ
Chí Minh xác định rằng đấu tranh giành độc lập dân tộc là cơ sở và điều kiện tiên quyết bảo đảm
tự do hạnh phúc của nhân dân. “Tổ quốc là tổ quốc chung. Tổ quốc độc lập, thì ai cũng được tự
do. Nếu mất nước, thì ai cũng phải làm nô lệ” Không có độc lập dân tộc thì không thể nào có tự
do hạnh phúc cho nhân dân. Điều đó có nghĩa, tự do hạnh phúc của mỗi cá nhân không tách rời
sự độc lập, tự do của dân tộc. Nhu cầu của cá nhân không thể vượt lên trên lợi ích của cộng đồng
dân tộc, tách khỏi cộng đồng thì cá nhân không thể có tự do chân chính, chỉ có trong cộng đồng
thì mỗi cá nhân mới có những phương tiện để phát triển toàn diện những năng khiếu của mình,
chỉ có trong cộng đồng mới có thể có cá nhân tự do.
Kế đó, tự do hạnh phúc của nhân dân là giá trị và nhân tố đảm bảo độc lập dân tộc được thực
hiện trọn vẹn. Không thể có tự do hạnh phúc cho nhân dân nếu dân tộc không được độc lập, và
cũng không thể có độc lập bền vững nếu con người không được hưởng tự do hạnh phúc. Tự do
hạnh phúc của nhân dân, đến lượt nó, là thước đo của một nền độc lập thực sự và là nhân tố đảm
bảo độc lập được thực hiện trọn vẹn. Chính điều đó làm cho nền tảng của sự độc lập tự chủ càng
thêm vững chắc, và khả năng bảo vệ độc lập dân tộc càng đảm bảo và mạnh mẽ. Tự do hạnh
phúc của nhân dân sẽ trở thành thước đo trình độ phát triển của xã hội, tác động trở lại việc củng
cố, bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Sau khi giành được độc lập, trong hoàn cảnh khốn cùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến nhiệm
vụ cấp bách hàng đầu là chăm lo cho đời sống của nhân dân. Cụ thể hơn, là làm cho nhân dân
được thực hiện nghĩa vụ và hưởng thụ quyền lợi trong một xã hội tiến bộ và công bằng, với hành
lang pháp lý đầy đủ và ngày càng hoàn thiện, để nhân dân thực sự là người chủ trong xã hội mới
và ngày càng được thụ hưởng đầy đủ về vật chất và tinh thần.
Ngay từ khi Đảng vừa ra đời, trong Chương trình tóm tắt của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định không bao giờ Đảng lại hy sinh quyền lợi của giai cấp công nhân và nông dân cho một giai cấp nào khác.
Trong thời điểm năm 1945, Người đã thể hiện rõ tinh thần đó. Cụ thể, trong phiên họp đầu tiên
của Chính phủ lâm thời, Người dã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách cần giải quyết nhằm đáp ứng
những đòi hỏi trước mắt của nhân dân, đảm bảo quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc là chống
nạn đói, chống nạn dốt và các tệ nạn xã hội khác, xoá bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò,… Để thực
hiện nhiệm vụ trên, Người đã viết tâm thư kêu gọi toàn quốc ra sức cứu đói và những lời khẩn
thiết kêu gọi: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa!... Đó là cách
thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc lập.” hay “một miếng khi đói bằng một gói 5
Downloaded by Bao Han (baohan3006@gmail.com) lOMoAR cPSD| 53331727
khi no” mà Người đã nghiêm túc thực hiện. Bên cạnh đó, để diệt giặc dốt, Người cho mở các
lớp Bình dân học vụ, phát động phong trào xoá nạn mù chữ trên toàn quốc. Công tác văn hoá,
giáo dục cũng được quan tâm đẩy mạnh. Thêm vào đó, Người cũng thể hiện quan điểm nhất
quán là Chính phủ phải quan tâm đến đời sống của nhân dân. Trong cuộc họp đầu tiên của Uỷ
ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Người nhấn mạnh chúng ta phải thực hiện ngay: Làm cho
dân có ăn; làm cho dân có mặc; làm cho dân có chỗ ở; làm cho dân có học hành. Theo Người,
dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc ấm.
Tiếp đó, trong giai đoạn miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam kháng chiến chống Mỹ
cứu quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, chăm lo đời sống, hạnh phúc của nhân dân là một
trong những mục tiêu quan trọng của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Nhà nước
ta hướng tới. Mục tiêu là đảm bảo quyền tự do và hạnh phúc, cụ thể là làm sao cho nhân dân đủ
ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ.
Kiên định tư tưởng và mục tiêu đó, trong giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước sau kết thúc
chiến tranh, Người khẳng định để giành thắng lợi, nước ta phải động viên toàn dân, tổ chức, giáo
cụ toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân và tạo điều kiên cho nhân dân tự xây dựng
đời sống ấm no, hạnh phúc của mình.
Như vậy có thể thấy, trong tư tưởng cũng như văn bản, hành động của Đảng và Nhà nước ta nói
chung, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói riêng, độc lập dân tộc luôn đi kèm với tự do và hạnh phúc của
nhân dân. Nếu tách rời các yếu tố này, ta không thể có một nhà nước của dân, do dân, vì dân,
luôn đảm bảo lợi ích của người dân. III.
THỰC TIỄN VIỆT NAM HIỆN NAY
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc là tiêu ngữ của nước Việt Nam ta từ 1945 đến nay và càng ngày
càng được thể hiện đầy đủ bản chất và ý nghĩa lịch sử thiêng liêng, trọng đại. Về cơ sở lý luận,
Trước hết, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Độc lập – Tự do – Hạnh phúc được Đảng
và Nhà nước ta vận dụng, cụ thể hoá trong Hiếp pháp, trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội và các kế hoạch hằng năm, thể hiện trong từng chế độ, chính sách phát triển kinh tế, xây
dựng đời sống văn hóa, xã hội của đất nước, vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.
Cụ thể, Hiến pháp 2013 khẳng định quyền con người về các mặt được công nhân, tôn trọng, bảo
vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp ghi rõ tại Điều 3: “Nhà nước bảo đảm và
phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhân, tôn trọng, ḅ ảo vê và bảo đảm quyền coṇ
người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh,
mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Thêm vào
đó, Hiến pháp khẳng định “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo
hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”; “Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú trong 6
Downloaded by Bao Han (baohan3006@gmail.com) lOMoAR cPSD| 53331727
nước”; “có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”; “có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp
cận thông tin, hội họp”. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định. Hiến pháp nói đến
quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân, như “bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng
và quyền cao quý của công dân”. Mà được đảm bảo về quyền con người chính là điều kiện cho
việc được tự do và hạnh phúc.
Tiếp đó, các chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước luôn
hướng tới việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Người dân được chăm lo
về phát triển đời sống, văn hoá, bảo vệ sức khoẻ, xoá đói giảm nghèo,… Bên cạnh đó, những
chính sách về quyền bình đẳng, luật thực hiện dân chủ hay việc tham gia các công ước quốc tế
cơ bản về quyền con người đều nhằm khẳng định rõ ràng: Ở Việt Nam, “Độc lập - Tự do Hạnh
phúc” thực sự đã hiện hữu, cho nên luận điệu Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
không thực hiện đa đảng đối lập, đa nguyên chính trị thì người dân không có được “Độc lập -
Tự do - Hạnh phúc” đúng nghĩa và quyền dân chủ, tự do tôn giáo, tự do ngôn luận “chỉ có ở trên
giấy” chỉ là sự suy diễn, xuyên tạc của các phần tử bất mãn, cơ hội, phản động, thù địch luôn âm
mưu chống phá Đảng và chế độ.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục xác định “quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”,
thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; kiên trì thực hiện phương
châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung
tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách
phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền lợi và lợi ích chính đáng của nhân dân;
lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”. Để hướng tới bảo đảm hạnh phúc
cho nhân dân, Đại hội XIII xác định “Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc
lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân”
trên cơ sở tập trung khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, niềm tự hào, ý chí tự cường, lòng
nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội và khát vọng phát triển đất nước của toàn dân tộc;
xây dựng các cơ chế, chính sách, phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước của mọi người dân
Việt Nam; phát huy tối đa nhân tố con người - coi con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực
chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển.
Phát biểu tại phiên bế mạc Đại hội XIII của Đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú
Trọng tiếp tục nhấn mạnh, không phải Đại hội xong là coi như xong. Đây chỉ là mở đầu, làm
được hay không, có biến Nghị quyết Đại hội thành hiện thực sinh động hay không, có làm ra
của cải vật chất, mang lại “giàu có và hạnh phúc” cho nhân dân hay không mới là thành công
thực tế của Đại hội.
Như vậy có thể thấy, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đảm bảo quyền tự do và hạnh phúc
của nhân dân trên mọi phương diện, trong từng chính sách, từng văn bản, từng đại hội. Đây là
tư tưởng xuyên suốt trong chặng đường xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội – một nhà
nước của dân, do dân, vì dân, một xã hội đặt hạnh phúc của nhân dân lên hàng đầu. Về cơ sở thực tiễn, 7
Downloaded by Bao Han (baohan3006@gmail.com) lOMoAR cPSD| 53331727
Những con số “biết nói” trong từng lĩnh vực, từng giai đoạn là minh chứng rõ ràng nhất cho việc
nước ta luôn giữ vững tư tưởng đảm bảo quyền tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Trên lĩnh vực kinh tế - tài chính: “Không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi
mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội
để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần”. Nền kinh tế trong những năm qua tăng trưởng
nhanh, sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá đang được đẩy mạnh. Cụ thể, năm 2023, lạm
phát thế giới (tính chung) tăng cao, tỷ lệ thất nghiệp cũng gia tăng, tiêu dùng và sản xuất công
nghiệp thương mại giảm mạnh, Việt Nam vì thế khó có thể không chịu ảnh hưởng. Khi kinh tế
nhiều nước trong Liên minh châu Âu hay Nhật Bản giảm tốc thì Việt Nam có sự phục hồi kinh
tế. Thêm vào đó, ngày càng nhiều nguồn vốn đầu tư nước ngoài, những công nghệ, kĩ thuật tiên
tiến được nhập khẩu và trở nên hiện đại cùng với thị trường xuất nhập khẩu ổn định, kinh tế Việt
Nam ngày càng được đánh giá cao trên trường quốc tế. Ngoài ra, cơ cấu kinh tế cũng có sự
chuyển dịch rõ rệt: khu vực I giảm tỷ trọng còn khu vực II, III tăng tỷ trọng.
Trên phương diện văn hoá – xã hội: Đời sống của nhân dân được cải thiện đáng kể. Chất lượng
cuộc sống được nâng cao với sự phát triển của ngành y tế, giáo dục, khoa học, công nghệ. Cụ
thể, hầu hết các xã nông thôn hay vùng sâu vùng xa, miền núi, hải đảo có mạng điện lưới quốc
gia, có trường tiểu học và trung học cơ sở, có trạm y tế và trạm điện thoại công cộng, mạng điện
thoai từng bước phủ sóng ở các vùng. Thêm vào đó, vấn đề việc làm cũng được ưu tiên giải
quyết. Với các dự án về tín dụng việc làm hay mở các lớp đào tạo nghề, dạy nghề, nên trong giai
đoạn từ năm 2010 - 2015, nước ta đã giải quyết việc làm, tạo việc làm cho khoảng 7,8 triệu
người; và năm 2023, tỷ lệ thất nghiệp chỉ còn 2,3%. Trong xoá đói giảm nghèo, tỷ lệ giảm nghèo
đa chiều năm 2023 là 5,71% - giảm so với 2022 là 7.52%. Trong giáo dục, từ năm 2000, Việt
Nam đã hoàn thành chương trình mục tiêu chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Tỉ lệ
học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông năm học 2016- 2017 chiếm 97 ,94%; tỉ lệ dân số từ 15
tuổi trở lên biết chữ toàn quốc là 95,1%; 100% tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm
non. Trong y tế, nhiều dịch bệnh như phong, lao, sốt rét được đẩy lùi, tuổi thọ trung bình của
người Việt tăng mạnh: liên tục từ năm 2019 đến 2022, tuổi thọ trung bình của người Việt dao
động từ 73 ,6 - 73,7 tuổi – một con số khá cao so với khu vực và trên thế giới. Tiếp đó, đời sống
văn hoá được phát triển đa dạng, nhiều nét văn hoá truyền thống được bảo tồn và phát huy, hệ
thống tiếng nói, chữ viết của vùng đồng bào được ưu tiên phát triển (chương trình giảng dạy
song ngữ tiếng Việt – tiếng dân tộc tại một số trường học). Nhờ vậy, Việt Nam được Liên hợp
quốc công nhận là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu Thiên niên kỷ...
Về chính trị - quân sự: Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết được tăng cường. Chính trị - xã
hội ổn định, quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế Việt Nam trên trường quốc tế được
nâng cao: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày
nay” – Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Trong những năm qua, với quan điểm độc lập dân tộc đi liền với tự do hạnh phúc, hay nói cách
khác, quyền tự do và hạnh phúc của nhân dân luôn được ưu tiên hàng đầu, Đảng và Nhà nước
ta đã luôn nỗ lực, từng bước xây dựng Việt Nam ngày càng vững mạnh, người dân có cuộc sống 8
Downloaded by Bao Han (baohan3006@gmail.com) lOMoAR cPSD| 53331727
no đủ, đất nước ta phát triển về mọi mặt và đảm bảo cuộc sống của nhân dân. Vì vậy, trong thời
gian tới, để tiếp tục giữ vững vị thế, cũng như đảm bảo quyền mưu cầu hạnh phúc của nhân dân,
không chỉ riêng Đảng và Nhà nước, mà mỗi chúng ta cần có trách nhiệm duy trì nền độc lập, tự
do, hạnh phúc của dân tộc.
Đầu tiên, chúng ta phải nhận thức rõ cơ hội và thách thức đối với sự nghiệp xây dựng Tổ quốc
ngày nay. Cơ hội mà chúng ta phải nắm bắt: cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với những thành
tựu khoa học vĩ đại như AI, công nghệ in 3D, Internet vạn vật,… đáp ứng nhu cầu và nâng cao
chất lượng cuộc sống của người dân. Tiếp đó, xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế cũng
có ảnh hưởng vô cùng lớn đối với ta. Các hiệp định tự do thương mại giúp con người mở rộng
thị trường, tăng cơ hội giao lưu, và làm tăng điều kiện vật chất và tinh thần của người dân. Nhưng
bên cạnh đó, ta cũng phải nhận rõ thách thức, khó khăn: những vấn đề toàn cầu (ô nhiễm, thiên
tai, dịch bệnh…) ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống của người dân. Với việc nhận thức rõ ràng
cơ hội và thách thức ấy, ta có thể chủ động nắm bắt cơ hội và đối mặt với thách thức, từ đó tạo
điều kiện cho một cuộc sống hạnh phúc hơn, ít lo sợ hơn.
Tiếp theo, chúng ta cần tu dưỡng đạo đức, nâng cao phẩm chất, giữ vững lập trường tư tưởng,
phát triển kĩ năng, rèn luyện bản thân để góp phần vào sự nghiệp xây dựng một xã hội độc lập
– tự do – hạnh phúc. Tiếp nối truyền thống cha anh để lại, không ngại khó ngại khổ, hăng hái
bảo vệ nền độc lập dân tộc; không nản chí, cùng chung tay phát triển xã hội ngày càng hạnh phúc hơn. 9
Downloaded by Bao Han (baohan3006@gmail.com) lOMoAR cPSD| 53331727 KẾT LUẬN
Qua phân tích trên đây, ta thấy rằng luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa
độc lập, hạnh phúc và tự do vẫn giữ nguyên giá trị trong mọi thời đại. Độc lập không chỉ là mục
tiêu cuối cùng mà còn là phương tiện để xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, nơi
mọi người được sống trong hạnh phúc và tự do.
Thực tế tại Việt Nam cho thấy, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo điều kiện để mọi người được phát huy năng lực và đóng
góp cho sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết để hiện
thực hóa mục tiêu xây dựng một xã hội mà ở đó mọi người đều được hưởng hạnh phúc và tự do.
Để thực hiện lời dạy của Người, chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, xây dựng
một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo công bằng xã hội, xóa đói
giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Bên cạnh đó, cần tăng cường giáo
dục ý thức công dân, xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ, nơi mọi người tôn trọng pháp luật
và các quyền tự do dân chủ.
Luận điểm của Hồ Chí Minh không chỉ có ý nghĩa lịch sử mà còn là kim chỉ nam cho sự phát
triển bền vững của đất nước. Việc quán triệt và thực hiện lời dạy của Bác là trách nhiệm của mỗi công dân Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và đào tạo. (2022). Tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật.
2. Nguyễn Hữu Quý. (2023). Độc lập dân tộc phải luôn gắn liền với tự do và hạnh phúc của nhân
dân. Truy cập ngày 25/10/2024, từ https://baochinhphu.vn/doc-lap-dan-toc-phai-duoc-gan-
lienvoi-tu-do-va-hanh-phuc-cua-nhan-dan-10223082217261956.htm
3. Nguyễn Văn Dương. (2020). Chăm lo đời sống nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai
đoạn hiện nay. Truy cập ngày 26/10/2024, từ
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/819653/cham-
lodoi-song-nhan-dan-theo-tu-tuong-ho-chi-minh-trong-giai-doan-hien-nay.aspx
4. Nhị Lê. (2022). Tất cả vì và cho tự do, hạnh phúc của Nhân dân!. Truy cập ngày 27/10/2024,
từ https://daibieunhandan.vn/bai-cuoi-tat-ca-vi-va-cho-tu-do-hanh-phuc-cua-nhan- danpost295920.html
5. Vương Việt Á. (2024). Kinh tế Việt Nam: Triển vọng tăng trưởng tích cực. Truy cập ngày
28/10/2024, từ https://vneconomy.vn/kinh-te-viet-nam-trien-vong-tang-truong-tich-cuc.htm
6. Trần Công Việt. (2024). Phát triển văn hoá, xã hội hài hoà và ngang tầm với kinh tế. Truy cập
ngày 28/10/2024, từ https://nhandan.vn/phat-trien-van-hoa-xa-hoi-hai-hoa-va-ngang-tam- voikinh-te-post797998.html 10
Downloaded by Bao Han (baohan3006@gmail.com)