Phân tích mối quan hệ giữa vận chất và ý thức - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Tài chính - Kế toán

Phân tích mối quan hệ giữa vận chất và ý thức - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Tài chính - Kế toán được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Trường:

Đại học Tài chính - Kế toán 57 tài liệu

Thông tin:
4 trang 6 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phân tích mối quan hệ giữa vận chất và ý thức - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Tài chính - Kế toán

Phân tích mối quan hệ giữa vận chất và ý thức - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Tài chính - Kế toán được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

33 17 lượt tải Tải xuống
Câu 1:
* Phân tích mối quan hệ giữa vận chất và ý thức:
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng mà trong đó vật
chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức và quyết định ý thức
nhưng không thụ động mà có thể tác động trở lại vật chất qua hoạt động của con
người.
Theo Lê-nin thì vật chất là một phạm trù triết học để chỉ thực tại khách quan, đem
đến cho con người trong cảm giác, được cảm giác của con người chép lại, chụp lại,
phản ánh lại và không tồn tại lệ thuộc vào cảm giác.
Đặc điểm của vật chất:
– Vật chất tồn tại bằng vận động và thể hiện sự tồn tại thông qua vận động.
– Không có vận động ngoài vật chất và không có vật chất không có vận động;
– Vật chất vận động trong không gian và thời gian;
– Không gian và thời gian là thuộc tính chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể
và là hình thức tồn tại của vật chất.
Bên cạnh vật chất, ý thức là kết quả của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử xã
hội. Ý thức mang bản chất là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, chính là
sự phản ánh tích cực, tự giác, chủ động thế giới khách quan và bộ não con người
thông qua hoạt động thực tiễn.
Vật chất và ý thức có quan hệ 2 chiều và tác động qua lại lẫn nhau. Mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức được thể hiện qua nhận thức và thực tiễn như sau:
Thứ nhất: Vật chất có vai trò quyết định ý thức
Do tồn tại khách quan nên vật chất là cái có trước và mang tính thứ nhất. Ý thức là
sự phản ánh lại của vật chất nên là cái có sau và mang tính thứ hai. Nếu không có
vật chất trong tự nhiên và vật chất trong xã hội thì sẽ không có ý thức nên ý thức là
thuộc tính, là sản phẩm cuẩ vật chất, chịu sự chi phối, quyết định của vật chất. Bên
cạnh đó, ý thức có tính sáng tạo, năng động nhưng những điều này có cơ sở từ vật
chất và tuân theo những quy luật của vật chất.
Vật chất quy định nội dung và hình thức biểu hiệu của ý thức. Điều này có ý nghĩa
là ý thức mang những thông tin về đối tượng vật chất cụ thể. Những thông tin này
có thể đúng hoặc sai, đủ hoặc thiếu, sự biểu hiện khác nhau đều do mức độ tác
động của vật chất lên bộ óc con người.
Thứ hai: Ý thức tác động trở lại vật chất
Mặc dù vật chất sinh ra ý thức nhưng ý thức không thụ động mà sẽ tác động trở lại
cật chất thông qua các hoạt động thực tiễn của con người. Ý thức sau khi sinh ra sẽ
không bị vật chất gò bó mà có thể tác động làm thay đổi vật chất.
Vai trò của ý thức đối với vật chất thể hiện ở vai trò của con người đối với khách
quan. Qua hoạt động của con người, ý thức có thể thay đổi, cải tạo hiện thực khách
quan theo nhu cầu phát triển của con người. Và mức độ tác động phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như nhu cầu, ý chí, điều kiện, môi trường… và nếu được tổ chức tốt
thì ý thức có khả năng tác động lớn đến vật chất.
Ý thức không thể thoát ly hiện thực khách quan, sức mạnh của ý thức được chứng
tỏ qua việc nhận thức hiện thực khách quan và từ đó xây dựng kế hoạch, xác định
mục tiêu ý chí để hoạt động của con người có thể tác động trở lại vật chất. Việc tác
động tích cực lên vật chất thì xã hội sẽ ngày càng phát triển và ngược lại, nếu nhận
tức không dùng, ý thức sẽ kìm hãm lịch sử.
* Ý nghĩa của phương pháp luận
– Phải luôn xuất phát từ hiện thực khách quan trong mọi hoạt động
Tri thức mà con người thu nhận được sẽ thông qua chu trình học tập, nghiên cứu từ
các hoạt động quan sát, phân tích để tác động vào đối tượng vật chất và buộc
những đối tượng đó phải thể hiện những thuộc tính, quy luật.
Để cải tạo thế giới khách quan đáp ứng nhu cầu của mình, con người phải căn cứ
vào hiện thực khách quan để có thể đánh giá, xác định phương hướng biện pháp,
kế hoạch mới có thể thành công.
Bên cạnh đó cần phải tránh xa những thói quen chỉ căn cứ vào nhu cầu, niềm tin
mà không nghiên cứu đánh giá tình hình đối tượng vất chất.
– Phát huy tính năng động, sáng tạo, sức mạnh to lớn của yếu tố con người.
Con người muốn ngày càng tài năng, xã hội ngày càng phát triển thì phải luôn chủ
động, phát huy khả năng của mình và luôn tìm tòi, sáng tạo cái mới. Bên cạnh đó,
con người phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng, nâng cao năng lực và không bỏ
cuộc giữa chừng.
Con người tuyệt đối không được thụ động, ỷ lại trong mọi trường hợp để tránh việc
sa vào lười suy nghĩ, lười lao động.
* Liên hệ với thực tế đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay:
_ Đối với nước ta trước đổi mới:
Kinh tế(vật chất):
Cơ sở vật chất yếu kém, cơ cấu kinh tế nhiều mặt mất cân đối, năng xuất lao động
thấp, sản xuất chưa đảm bảo nhu cầu đời sống, sản xuất nông nghiệp chưa cung
cấp đủ thực phẩm cho nhân dân, nguyên liệu công nghiệp hàng hóa cho xuất khẩu.
Chính trị (ý thức):
Chúng ta chưa tìm ra được đầy đủ những nguyên nhân đích thực của sự trì trên
trong nền kinh tế của nước ta và cũng chưa đề ra các chủ trương chính sách toàn
diện về đổi mới. Nhất là về kinh tế, chúng ta chưa kiên quyết khắc phục chủ quan,
trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý nền kinh tế và
những sai lầm trong lĩnh vực phân phối lưu thông.
_Sau đổi mới:
Kinh tế:
Nền kinh tế có những chuyển biến tích cực, bước đầu hình thành nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước,
nguồn lực sản xuất của xã hội được huy động tốt hơn, đời sống vật chất tinh thần
của một bộ phân nhân dân có phần được cải thiện. Sinh hoạt dân chủ trong xã hội
ngày càng được phát huy.
Chính trị:
Đảng và nhà nước đã đi sâu nghiên cứu phân tích tình hình, lấy ý kiến rộng rãi của
cơ sở, của nhân dân và đặc biệt là đổi mới tư duy về kinh tế.
Đại hội lần thứ VI của Đảng đã rút ra bài học kinh nghiệm lớn, trong đó: phải luôn
xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Đảng đã đề
ra đường lối đổi mới, mở ra bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Và đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, ta đã đánh giá tình
hình chính trị xã hội Việt Nam sau hơn bốn năm thực hiện đường lối đổi mới: công
cuộc đổi mới bước đầu đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, tình hình chính
trị của đất nước ổ định.
Đảng chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ, đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển
lực lượng sản xuất, phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội
lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát
triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát trển
kinh tế xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh.
Cùng với quá trinh vận dụng của Đảng trong công cuộc đổi mới kinh tế đất nước
thì phát triển giáo dục và đào tạo khoa học ông nghệ, xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân téc. Về giáo dục đào tạo tiếp tục nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện đổi mới nội dung phương pháp va hệ thống quản lý giáo dục…Về
khoa học công nghệ khoa học xã hội và nhân văn hướng vào giải đáp các vấn đề lý
luận và thực tiễn, dự báo các xu thế phát triển , cung cấp luận cứ khoa học cho việc
hoạch định đường lối chủ trương cuả Đảng …
Tăng cường quốc phòng và an ninh bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa la bảo vệ vững
chắc độc lập tự chủ, an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, kết hợp chặt chẽ kinh tế
quốc phòng và an ninh và kinh tế trong các chiến lược. Mở rộng quan hệ đối ngoại
và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó chủ động hội nhập kinh tê quốc tế
và khu vực. Phát huy sức manh đại đoàn kết toàn dân.
| 1/4

Preview text:

Câu 1:
* Phân tích mối quan hệ giữa vận chất và ý thức:
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng mà trong đó vật
chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức và quyết định ý thức
nhưng không thụ động mà có thể tác động trở lại vật chất qua hoạt động của con người.
Theo Lê-nin thì vật chất là một phạm trù triết học để chỉ thực tại khách quan, đem
đến cho con người trong cảm giác, được cảm giác của con người chép lại, chụp lại,
phản ánh lại và không tồn tại lệ thuộc vào cảm giác.
Đặc điểm của vật chất:
– Vật chất tồn tại bằng vận động và thể hiện sự tồn tại thông qua vận động.
– Không có vận động ngoài vật chất và không có vật chất không có vận động;
– Vật chất vận động trong không gian và thời gian;
– Không gian và thời gian là thuộc tính chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể
và là hình thức tồn tại của vật chất.
Bên cạnh vật chất, ý thức là kết quả của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử xã
hội. Ý thức mang bản chất là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, chính là
sự phản ánh tích cực, tự giác, chủ động thế giới khách quan và bộ não con người
thông qua hoạt động thực tiễn.
Vật chất và ý thức có quan hệ 2 chiều và tác động qua lại lẫn nhau. Mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức được thể hiện qua nhận thức và thực tiễn như sau:
Thứ nhất: Vật chất có vai trò quyết định ý thức
Do tồn tại khách quan nên vật chất là cái có trước và mang tính thứ nhất. Ý thức là
sự phản ánh lại của vật chất nên là cái có sau và mang tính thứ hai. Nếu không có
vật chất trong tự nhiên và vật chất trong xã hội thì sẽ không có ý thức nên ý thức là
thuộc tính, là sản phẩm cuẩ vật chất, chịu sự chi phối, quyết định của vật chất. Bên
cạnh đó, ý thức có tính sáng tạo, năng động nhưng những điều này có cơ sở từ vật
chất và tuân theo những quy luật của vật chất.
Vật chất quy định nội dung và hình thức biểu hiệu của ý thức. Điều này có ý nghĩa
là ý thức mang những thông tin về đối tượng vật chất cụ thể. Những thông tin này
có thể đúng hoặc sai, đủ hoặc thiếu, sự biểu hiện khác nhau đều do mức độ tác
động của vật chất lên bộ óc con người.
Thứ hai: Ý thức tác động trở lại vật chất
Mặc dù vật chất sinh ra ý thức nhưng ý thức không thụ động mà sẽ tác động trở lại
cật chất thông qua các hoạt động thực tiễn của con người. Ý thức sau khi sinh ra sẽ
không bị vật chất gò bó mà có thể tác động làm thay đổi vật chất.
Vai trò của ý thức đối với vật chất thể hiện ở vai trò của con người đối với khách
quan. Qua hoạt động của con người, ý thức có thể thay đổi, cải tạo hiện thực khách
quan theo nhu cầu phát triển của con người. Và mức độ tác động phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như nhu cầu, ý chí, điều kiện, môi trường… và nếu được tổ chức tốt
thì ý thức có khả năng tác động lớn đến vật chất.
Ý thức không thể thoát ly hiện thực khách quan, sức mạnh của ý thức được chứng
tỏ qua việc nhận thức hiện thực khách quan và từ đó xây dựng kế hoạch, xác định
mục tiêu ý chí để hoạt động của con người có thể tác động trở lại vật chất. Việc tác
động tích cực lên vật chất thì xã hội sẽ ngày càng phát triển và ngược lại, nếu nhận
tức không dùng, ý thức sẽ kìm hãm lịch sử.
* Ý nghĩa của phương pháp luận
– Phải luôn xuất phát từ hiện thực khách quan trong mọi hoạt động
Tri thức mà con người thu nhận được sẽ thông qua chu trình học tập, nghiên cứu từ
các hoạt động quan sát, phân tích để tác động vào đối tượng vật chất và buộc
những đối tượng đó phải thể hiện những thuộc tính, quy luật.
Để cải tạo thế giới khách quan đáp ứng nhu cầu của mình, con người phải căn cứ
vào hiện thực khách quan để có thể đánh giá, xác định phương hướng biện pháp,
kế hoạch mới có thể thành công.
Bên cạnh đó cần phải tránh xa những thói quen chỉ căn cứ vào nhu cầu, niềm tin
mà không nghiên cứu đánh giá tình hình đối tượng vất chất.
– Phát huy tính năng động, sáng tạo, sức mạnh to lớn của yếu tố con người.
Con người muốn ngày càng tài năng, xã hội ngày càng phát triển thì phải luôn chủ
động, phát huy khả năng của mình và luôn tìm tòi, sáng tạo cái mới. Bên cạnh đó,
con người phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng, nâng cao năng lực và không bỏ cuộc giữa chừng.
Con người tuyệt đối không được thụ động, ỷ lại trong mọi trường hợp để tránh việc
sa vào lười suy nghĩ, lười lao động.
* Liên hệ với thực tế đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay:
_ Đối với nước ta trước đổi mới: Kinh tế(vật chất):
Cơ sở vật chất yếu kém, cơ cấu kinh tế nhiều mặt mất cân đối, năng xuất lao động
thấp, sản xuất chưa đảm bảo nhu cầu đời sống, sản xuất nông nghiệp chưa cung
cấp đủ thực phẩm cho nhân dân, nguyên liệu công nghiệp hàng hóa cho xuất khẩu. Chính trị (ý thức):
Chúng ta chưa tìm ra được đầy đủ những nguyên nhân đích thực của sự trì trên
trong nền kinh tế của nước ta và cũng chưa đề ra các chủ trương chính sách toàn
diện về đổi mới. Nhất là về kinh tế, chúng ta chưa kiên quyết khắc phục chủ quan,
trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý nền kinh tế và
những sai lầm trong lĩnh vực phân phối lưu thông. _Sau đổi mới: Kinh tế:
Nền kinh tế có những chuyển biến tích cực, bước đầu hình thành nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước,
nguồn lực sản xuất của xã hội được huy động tốt hơn, đời sống vật chất tinh thần
của một bộ phân nhân dân có phần được cải thiện. Sinh hoạt dân chủ trong xã hội
ngày càng được phát huy. Chính trị:
Đảng và nhà nước đã đi sâu nghiên cứu phân tích tình hình, lấy ý kiến rộng rãi của
cơ sở, của nhân dân và đặc biệt là đổi mới tư duy về kinh tế.
Đại hội lần thứ VI của Đảng đã rút ra bài học kinh nghiệm lớn, trong đó: phải luôn
xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Đảng đã đề
ra đường lối đổi mới, mở ra bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Và đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, ta đã đánh giá tình
hình chính trị xã hội Việt Nam sau hơn bốn năm thực hiện đường lối đổi mới: công
cuộc đổi mới bước đầu đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, tình hình chính
trị của đất nước ổ định.
Đảng chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ, đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển
lực lượng sản xuất, phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội
lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát
triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát trển
kinh tế xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh.
Cùng với quá trinh vận dụng của Đảng trong công cuộc đổi mới kinh tế đất nước
thì phát triển giáo dục và đào tạo khoa học ông nghệ, xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân téc. Về giáo dục đào tạo tiếp tục nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện đổi mới nội dung phương pháp va hệ thống quản lý giáo dục…Về
khoa học công nghệ khoa học xã hội và nhân văn hướng vào giải đáp các vấn đề lý
luận và thực tiễn, dự báo các xu thế phát triển , cung cấp luận cứ khoa học cho việc
hoạch định đường lối chủ trương cuả Đảng …
Tăng cường quốc phòng và an ninh bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa la bảo vệ vững
chắc độc lập tự chủ, an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, kết hợp chặt chẽ kinh tế
quốc phòng và an ninh và kinh tế trong các chiến lược. Mở rộng quan hệ đối ngoại
và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó chủ động hội nhập kinh tê quốc tế
và khu vực. Phát huy sức manh đại đoàn kết toàn dân.