Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật trong “Giăng sáng” – Nam Cao | Văn mẫu 11 Kết nối tri thức

Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật trong “Giăng sáng” – Nam Cao là tài liệu học tập bổ ích được biên soạn kĩ lưỡng nhằm giúp các bạn học sinh học tập tốt môn Ngữ Văn lớp 11. Mời các bạn tham khảo!

Thông tin:
9 trang 8 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật trong “Giăng sáng” – Nam Cao | Văn mẫu 11 Kết nối tri thức

Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật trong “Giăng sáng” – Nam Cao là tài liệu học tập bổ ích được biên soạn kĩ lưỡng nhằm giúp các bạn học sinh học tập tốt môn Ngữ Văn lớp 11. Mời các bạn tham khảo!

1.6 K 776 lượt tải Tải xuống
I. Dàn ý Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật trong “Giăng sáng”
1. Mở bài
Dẫn dắt giới thiệu về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong “Giăng sáng”.
2. Thân bài
- Đối tượng đxây dựng nhân vật: tầng lớp trí thức tiểu sản. Điền
một người học, đam văn chương nhưng không gặp thời, bị gánh
nặng cơm áo gạo tiền đeo đuổi.
- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật:
+ Chú ý đến những nét tâm nhỏ nhặt cùng các sự vật hoặc sự việc
tính chất đời thường để đưa ra những triết lí về thân phận con người, hoàn
cảnh xã hội.
VD: Từ chi tiết bốn cái ghế mây, Nam Cao đã lộ sự khổ tâm của nhân
vật. Bao nhiêu phân vân, tính toán xuất hiện trong đầu óc anh. Điền ngại
đèo bòng mấy chiếc ghế mây, sợ tốn thêm tiền tàu xe cũng không dám
từ chối ông hiệu trưởng.
+ Nhà văn tập trung khắc họa những bi kịch tinh thần, sự đấu tranh trong
nội tâm nhân vật Điền. Diễn biến tâmcủa nhân vật trong “Giăng sáng”
thực chất quá trình đấu tranh, schuyển hóa lẫn nhau của những đối
cực trong nội tâm con người.
VD: Điền phân vân giữa một bên ước cao cả với một bên hiện
thực nghèo túng. Điền cho rằng người vợ hay tính toán của mình thật nhỏ
nhen tầm thường. Thế nhưng, chính Điền cũng thức trở thành kẻ
tính toán lúc nào không hay.
+ Đưa ra những nguyên nhân, giải cho những tình cảm, tâm trạng của
con người. Sự ảnh hưởng của các quan hệ xã hội, hoàn cảnh sống luôn chi
phối quyết định con người.
VD: Điền mong muốn dùng văn chương để cải tạo cuộc đời nhưng thời
thế, hoàn cảnh đã bạc đãi Điền. Vậy nên, Điền phải gác ước lại để
kiếm tiền, mẹ lại bắt Điền lấy vợ. Anh ta kiệt sức, trở thành kẻ ăn bám
lại khao khát thoát li thực tại. Đây vòng luẩn quẩn của nhân vật.
+ Ngôi kể thứ ba tạo dựng được tính chân thật, khách quan cho câu
chuyện.
+ Ngôn ngngười kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật được lồng ghép vào
nhau, thể hiện trực tiếp cảm xúc của nhân vật và cho thấy thái độ của nhà
văn.
+ Điểm nhìn trần thuật linh hoạt, giúp cho việc khắc họa tâm nhân vật
thêm sâu sắc.
3. Kết bài
II. Văn mẫu Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật trong “Giăng
sáng”
1. Phân tích ngh thut xây dng nhân vật trong Giăng sáng mẫu 1
Nam Cao y bút hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam thời 1930
1945. Nghệ thuật xây dựng nhân vật chính điểm đặc sắc trong các
sáng tác của Nam Cao, giúp ông khắc họa sinh động hiện thực cuộc sống
của những con người cùng khổ. Điều này được thể hiện trong tác
phẩm “Giăng ng”.
Về cách lựa chọn đối tượng để xây dựng nhân vật, “Giăng sáng” viết về
tầng lớp trí thức tiểu sản. Trước khi trở thành đại diện tiêu biểu cho văn
học hiện thực phê phán, Nam Cao từng một thời thử sức mình với văn học
lãng mạn. Nhưng với tấm lòng nhân đạo sâu sắc, ông nhận ra trước mắt
mình là biết bao con người đang sống trong cảnh lầm than, đói khổ. Đoạn
tuyệt với thứ văn chương mơ mộng mà giả dối, Nam Cao hướng ngòi bút
của mình đến tầng lớp nông dân bần cùng và tầng lớp trí thức nghèo.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong “Giăng sáng” được thể hiện cụ thể
nhiều khía cạnh như nghệ thuật miêu tả tâm nhân vật, ngôi kể, điểm
nhìn trần thuật,…
Trước hết, nhà văn tập trung miêu tả những bi kịch tinh thần, quá trình
giằng trong nội m nhân vật Điền để m nổi bật nỗi thống khổ của
những kiếp người “muốn cất cánh bay cao nhưng bị áo cơm ghì t đất”.
Nam Cao quan tâm đến những nét m nhỏ nhặt cùng các svật hoặc
sự việc tính chất đời thường. Từ những điều nhỏ ấy, ông đưa ra
những triết mang tính phổ quát về thân phận con người, hoàn cảnh
hội. Mở đầu tác phẩm hình ảnh Điền bốn cái ghế mây – thứ duy nhất
giá trị trong nhà Điền. Giọng văn lạnh lùng đến dửng dưng của Nam
Cao khiến người đọc mò: Ðiền bốn cái ghế mây. Tất cả đồ đạc
trong nhà, chỉ bốn cái ghế mây này giá. Không phải Ðiền mua.
Tính Ðiền rất ghét mua”. Chỉ xoay quanh bốn cái ghế ấy, Nam Cao đã hé
lộ biết bao nỗi niềm của nhân vật. một người học, Ðiền từng m
một ông giáo trường tư trong ngót ba năm. Với một người ôm mộng văn
chương, muốn sáng tạo những áng văn bất hủ để đời như Điền thì công
việc dạy học cũng có phần đáng chán. Vì hai chục bạc lương mà Điền cố
gắng. Ngày trường dẹp, ông hiệu trưởng còn nợ của Điền na tháng ơng.
Ông ta đành ngượng nghịu bảo Điền cầm bộ ghế mây về. Lúc này m
trạng Điền diễn ra những trạng thái đặc biệt. Điền dồn nén cảm xúc để cái
mặt không xị xuống. Bao nhiêu phân vân, tính toán dở khóc dở cười xuất
hiện trong đầu óc anh. “Chao ôi! ng mang tiếng ghế mây!... Cái thì
xộc xệch, cái thì bốn chân rúm lại, chẳng i nào nước sơn không
róc cả ra như da thằng hủi. Trông đủ thảm.”. Câu văn cho thấy m
trạng xót xa, khổ tâm hết sức của Điền. Điền ngại đèo bòng mấy chiếc ghế
y, sợ tốn thêm tiền tàu xe mà cũng không dám từ chối ông hiệu trưởng
bởi“Họ bị tủi người ngoài đã lắm. Chẳng nên để người nọ bị tủi
người kia. Điền suy đi, tính lại rồi ưng thuận. Không chỉ Điền nhân
vật ông hiệu trưởng cũng có những chi tiết phân vân ơng tự. Từ đó, nhà
văn cho thấy bi kịch của tầng lớp trí thức tiểu tư sản trong hội đương
thời khi bcơm áo gạo tiền bóp nghẹt đến mức phải sống tằn tiện, nghèo
khổ, thảm hại. Ðiền tự an ủi: tiền rồi sẽ viết. Nhưng Ðiền biết: chẳng
bao giờ Ðiền viết nữa, bởi chắc chắn suốt đời Ðiền cũng không
tiền...
Diễn biến tâm lý của nhân vật trong “Giăng sáng” thực chất quá trình
đấu tranh, sự chuyển hóa lẫn nhau của những đối cực trong nội tâm con
người. Xung đột chủ yếu trong những sáng tác của Nam Cao là xung đột
của thế giới nội m nhân vật. Kể ctrong “Chí Phèo”, căng thẳng nội
tâm cũng diễn ra trước và được nhà văn miêu tả kĩ hơn là phút hành động
cuối cùng. Nhân vật của Nam Cao luôn ở trong tâm thế chông chênh giữa
một bên ước cao cả với một bên hiện thực nghèo túng. hơn
hết, họ chẳng thể nào thanh thản để chọn lấy một con đường. Điền yêu
trăng, coi trăng biểu tượng cho vđẹp sang trọng của nghệ thuật. Những
tối trăng, Điền khuân mấy cái ghế ra sân ngồi cùng vợ con. Những phút
thảnh thơi hiếm hoi ấy xoa dịu ng Điền. Nhm hồn đẫm văn thơ
Điền thấy người vmới cằn cỗi làm sao! Lúc nào thị cũng tính toán,
luôn luôn tính toán. Điền cho rằng điều ấy nhỏ nhen tầm thường. Thế
nhưng, chính Điền cũng vô thức trở thành kẻ tính toán lúc nào không hay.
Khi chứng kiến cảnh nheo nhóc của gia đình, bỗng nhiên Điền nảy sinh
nỗi đau quằn quại. Đấu tranh nội tâm gay gắt đang tra tấn Điền. “Còn
sống trong i gia đình này mãi, giữa những lo lắng nhỏ nhen này mãi,
lòng Ðiền sẽ cạn. Cạn luôn cả nguồn thơ quý báu, Ðiền vẫn ao ước
ngày lại khơi...”. Chnhững người đàn đẹp mới biết yêu văn
chương của Điền ý nghĩ này làm chính anh ta thấy xấu hổ. Nam Cao
đã đi sâu vào từng ngóc ngách của tâm trạng con người để vén bức màn
đang che giấu những khát khao thầm kín. Giữa lúc ý định muốn bỏ đi trở
nên rệt, cơn ốm cùng tiếng rên đau đớn của đứa con, sự tức giận đến
khổ sở của người vợ m Điền sực tỉnh. Tình thương con, tinh thần trách
nhiệm đã kéo Điền về với thực tại. Khi phản ánh mâu thuẫn giữa hiện thực
sự mộng, nvăn thẳng thắn chỉ ra khuyết điểm của tầng lớp trí
thức tiểu sản. Hrời xa tầng lớp lao động cần lao để sống với ảo tưởng.
Bi kịch của Điền đến từ sự ngộ nhận, chọn lựa sai lý tưởng sống. Miêu t
những mâu thuẫn âm thầm căng thẳng trong nội tâm nhân vật, Nam
Cao đã đưa ra tuyên ngôn đúng đắn về nghệ thuật. Nhà văn phải đứng
trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời”.
Điểm xuất sắc trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của Nam Cao còn
nằm việc nhà văn đưa ra nguyên nhân cho những nét m trạng ấy. Sự
ảnh hưởng của các quan hệ xã hội, hoàn cảnh sống luôn chi phối quyết
định con người. Nam Cao không chỉ phơi bày còn giải. Được học
hành, tài văn chương, mong muốn ng văn chương để cải tạo cuộc
đời nhưng thời thế, hoàn cảnh đã bạc đãi Điền. Ai trên đời cũng muốn tài
năng của mình trở nên hữu ích. Hoàn cảnh nghèo khó khiến Điền cảm
thấy mình ích kkhi những đứa em vơ, nheo nhóc. Khi tạm c văn
chương để kiếm tiền, mẹ lại bắt Điền lấy vợ. Gia đình to rồi đến gia đình
nhỏ, anh kiệt sức, trở thành kẻ ăn bám thừa mứa và lại khao khát thoát li
thực tại. Cái vòng quanh quẩn, m tối này cứ lặp đi lặp lại khiến nhân vật
sống trong vòng xoáy bất hạnh.
Bên cạnh nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ trần thuật cũng là
yếu tố góp phần làm nên thành công cho nghệ thuật xây dựng nhân vật
của Nam Cao. Ngôi kể thứ ba luôn tạo dựng được tính chân thật, khách
quan cho câu chuyện. Nhưng ng có khi, ngôn ngữ người kể chuyện và
ngôn ngữ nhân vật được lồng ghép vào nhau, thể hiện trực tiếp cảm xúc
của nhân vật cho thấy thái độ của nhà văn: Chao ôi! Trăng đẹp lắm!
Trăng dịu dàng trong trẻo bình tĩnh. Nhưng trong trong những căn
lều nát trăng làm cho cái bề ngoài trông cũng đẹp, biết bao người
quằn quại, nức nở, nhăn nhó với những đau thương của kiếp mình! Biết
bao tiếng nghiến răng chửi rủa! Biết bao cực kh lầm than?...
Không, không, Ðiền không thể nào mộng được”. Nam Cao thường sử
dụng nhiều câu hỏi tựa như lời tự vấn: “Ðiền muốn tránh sự thực, nhưng
trốn tránh làm sao được?”, “Tại sao Ðiền lại vụt nghĩ đến những hình
ảnh lả lơi ấy?”. Điểm nhìn trần thuật cũng thế trở nên linh hoạt,
giúp cho việc khắc họa tâm lí nhân vật thêm sâu sắc.
Với “Giăng ng”, Nam Cao không khắc họa nhân vật bằng ngoại hình.
Những hành động bên ngoài của nhân vật cũng ít khi được nhà văn đề cập
đến. Nhân vật Điền hiện lên chủ yếu qua quá trình diễn biến m phức
tạp. Sự thay đổi trong nhận thức dẫn đến sự thay đổi trong cách nhìn, cách
cảm nhận thế giới xung quanh. Trong“Chí Phèo”, nhờ bát cháo hành
của Thị Nở Chí cảm thấy khung cảnh buổi sáng m sau đẹp lạ
thường. đây, cảm nhận của Điền về ánh trăng trước sau cũng rất
nhiều thay đổi.
Như vậy, với cách chọn lựa đối tượng nhân vật phù hợp, nghệ thuật miêu
tả m lí nhân vật sắc sảo, ngôn ngữ trần thuật cùng điểm nhìn linh hoạt,
Nam Cao đã xây dựng thành công nhân vật Điền hình ảnh đại diện cho
tầng lớp trí thức tiểu sản trước ch mạng. Tác phẩm truyện ngắn
mang đậm tinh thần hiện thực phê phán, tiêu biểu cho phong cách Nam
Cao và xứng đáng trở thành tuyên ngôn nghệ thuật cao cả của nhà văn.
2. Phân tích ngh thut xây dng nhân vật trong Giăng sáng mẫu 2
Nam Cao một nhà văn hiện thực lớn trước cách mạng tháng tám. “Giăng
sáng” (1943) một trong những kiệt tác suất sắc của nhà văn Nam Cao.
Tác phẩm vẽ lên số phận chung của các tiểu sản nghèo, mang trong
mình nhiều hoài bão lớn nhưng bị nỗi lo cơm áo gạo tiền vùi dập. Đặc sắc
nhất trong truyện ngắn phải kể đến những đặc sắc trong nghệ thuật tự sự.
“Giăng sáng” kể về Điền một nhà văn, khao khát được thực hiện ước
văn chương bởi với Điền văn chương phải giống như ánh trăng kia
“làm đẹp đến cả những cảnh thật ra chỉ tầm thường, xấu xa". Nhưng
cuộc sống vùi dập, khiến Điền mãi không ththoát ly khỏi cảnh nghèo
khổ. Nhà văn Nam Cao đã sử dụng nghệ thuật tự sự đkhắc họa hoàn
cảnh lúc bấy giờ. Ông đã lựa chọn đối tượng để đưa vào tác phẩm là tầng
lớp trí thức tiểu tư sản. Nhân vật Điền người học thức, có niềm đam mê
với văn chương nhưng bởi nỗi lo cuộc sống giấc y mãi không thấy
hiện thực. Nam Cao đã nhận ra được hiện thực đen tối vì thế ông đã đoạn
tuyệt với thứ văn chương mơ mộng, lãng mạn trước kia. Nam Cao hướng
ngồi bút của mình tới tầng lớp trí thức nghèo. Nhà văn đã khéo léo đưa
nghệ thuật miêu tả tâm nhân vật một cách xuất sắc, bộc lộ chân thực
nhân vật Điền qua nhiều chi tiết. Trước hết Nam cao chọn ngôi kể thba,
ông không trực tiếp kể ra những gì mình nghe thấy, nhìn thấy chỉ thông
qua các hành động cảm xúc của nhân vật đtruyền đạt ý kiến của mình
đến độc giả. Bằng việc sử dụng ngôi kể này nvăn đã tạo được tính chân
thực,khách quan. Chi tiết bốn chiếc ghế mây hình ảnh nổi bật lên tính
cách nhân vật Điền. Đó sự lo lắng từ những điều nhỏ nhặt, thể hiện hoàn
cảnh sống khó khăn của xã hội. Điền phải đấu tranh tâm lý, đây là bi kịch
tinh thần khi phân vân giữa một bên là ước mơ cao cả với mt bên là hiện
thực nghèo túng đói kém. Nhưng rồi vì hoàn cảnh, vì cuộc sống gia đình,
Điền phải gác lại mong muốn dùng văn chương để cải tạo cuộc đời. Chẳng
còn cách nào khác trong c này cuộc sống tăm tối cứ mãi đeo m lấy
nhân vật. Bên cạnh đó Nam Cao còn sử dụng ngôn ngữ trần thuật, ngôn
ngữ người kể chuyện ngôn ngữ nhân vật được lồng ghép vào nhau giúp
cho tác phẩm trở nên hấp dẫn, cảm c được truyền đạt một cách trực tiếp.
Nam Cao miêu tả nhân vật Điền qua hành động, suy nghĩ mà không phải
bắt đầu từ ngoại hình. Đây điểm nhìn linh hoạt, góp phần xây dựng
thành công nhân vật.
Nam Cao đã sử dụng thành công nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Giăng
sáng, p phần tạo nên giá trị tác phẩm. Ông xây dựng thành ng hình
ảnh nhân vật Điền- điển hình cho tầng lớp trí thức sản nghèo trước cách
mạng. Tác phẩm lên án hiện thực xã hội trước cách mạng, một xã hội tối
tăm, khiến họ mãi không thể thực hiện hoài bão cao đẹp của mình.
-----------------------------------------------------------
| 1/9

Preview text:

I. Dàn ý Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật trong “Giăng sáng” 1. Mở bài
Dẫn dắt và giới thiệu về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong “Giăng sáng”. 2. Thân bài
- Đối tượng để xây dựng nhân vật: tầng lớp trí thức tiểu tư sản. Điền là
một người có học, đam mê văn chương nhưng không gặp thời, bị gánh
nặng cơm áo gạo tiền đeo đuổi.
- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật:
+ Chú ý đến những nét tâm lí nhỏ nhặt cùng các sự vật hoặc sự việc có
tính chất đời thường để đưa ra những triết lí về thân phận con người, hoàn cảnh xã hội.
VD: Từ chi tiết bốn cái ghế mây, Nam Cao đã hé lộ sự khổ tâm của nhân
vật. Bao nhiêu phân vân, tính toán xuất hiện trong đầu óc anh. Điền ngại
đèo bòng mấy chiếc ghế mây, sợ tốn thêm tiền tàu xe mà cũng không dám
từ chối ông hiệu trưởng.
+ Nhà văn tập trung khắc họa những bi kịch tinh thần, sự đấu tranh trong
nội tâm nhân vật Điền. Diễn biến tâm lý của nhân vật trong “Giăng sáng”
thực chất là quá trình đấu tranh, sự chuyển hóa lẫn nhau của những đối
cực trong nội tâm con người.
VD: Điền phân vân giữa một bên là ước mơ cao cả với một bên là hiện
thực nghèo túng. Điền cho rằng người vợ hay tính toán của mình thật nhỏ
nhen và tầm thường. Thế nhưng, chính Điền cũng vô thức trở thành kẻ
tính toán lúc nào không hay.
+ Đưa ra những nguyên nhân, lí giải cho những tình cảm, tâm trạng của
con người. Sự ảnh hưởng của các quan hệ xã hội, hoàn cảnh sống luôn chi
phối quyết định con người.
VD: Điền mong muốn dùng văn chương để cải tạo cuộc đời nhưng thời
thế, hoàn cảnh đã bạc đãi Điền. Vậy nên, Điền phải gác ước mơ lại để
kiếm tiền, mẹ lại bắt Điền lấy vợ. Anh ta kiệt sức, trở thành kẻ ăn bám và
lại khao khát thoát li thực tại. Đây là vòng luẩn quẩn của nhân vật.
+ Ngôi kể thứ ba tạo dựng được tính chân thật, khách quan cho câu chuyện.
+ Ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật được lồng ghép vào
nhau, thể hiện trực tiếp cảm xúc của nhân vật và cho thấy thái độ của nhà văn.
+ Điểm nhìn trần thuật linh hoạt, giúp cho việc khắc họa tâm lí nhân vật thêm sâu sắc. 3. Kết bài
II. Văn mẫu Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật trong “Giăng sáng”
1. Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Giăng sáng mẫu 1
Nam Cao là cây bút hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam thời kì 1930
– 1945. Nghệ thuật xây dựng nhân vật chính là điểm đặc sắc trong các
sáng tác của Nam Cao, giúp ông khắc họa sinh động hiện thực cuộc sống
của những con người cùng khổ. Điều này được thể hiện rõ trong tác
phẩm “Giăng sáng”.
Về cách lựa chọn đối tượng để xây dựng nhân vật, “Giăng sáng” viết về
tầng lớp trí thức tiểu tư sản. Trước khi trở thành đại diện tiêu biểu cho văn
học hiện thực phê phán, Nam Cao từng một thời thử sức mình với văn học
lãng mạn. Nhưng với tấm lòng nhân đạo sâu sắc, ông nhận ra trước mắt
mình là biết bao con người đang sống trong cảnh lầm than, đói khổ. Đoạn
tuyệt với thứ văn chương mơ mộng mà giả dối, Nam Cao hướng ngòi bút
của mình đến tầng lớp nông dân bần cùng và tầng lớp trí thức nghèo.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong “Giăng sáng” được thể hiện cụ thể
ở nhiều khía cạnh như nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, ngôi kể, điểm nhìn trần thuật,…
Trước hết, nhà văn tập trung miêu tả những bi kịch tinh thần, quá trình
giằng xé trong nội tâm nhân vật Điền để làm nổi bật nỗi thống khổ của
những kiếp người “muốn cất cánh bay cao nhưng bị áo cơm ghì sát đất”.
Nam Cao quan tâm đến những nét tâm lí nhỏ nhặt cùng các sự vật hoặc
sự việc có tính chất đời thường. Từ những điều nhỏ bé ấy, ông đưa ra
những triết lí mang tính phổ quát về thân phận con người, hoàn cảnh xã
hội. Mở đầu tác phẩm là hình ảnh Điền và bốn cái ghế mây – thứ duy nhất
có giá trị trong nhà Điền. Giọng văn lạnh lùng đến dửng dưng của Nam
Cao khiến người đọc tò mò: “Ðiền có bốn cái ghế mây. Tất cả đồ đạc
trong nhà, chỉ có bốn cái ghế mây này là có giá. Không phải Ðiền mua.
Tính Ðiền rất ghét mua”. Chỉ xoay quanh bốn cái ghế ấy, Nam Cao đã hé
lộ biết bao nỗi niềm của nhân vật. Là một người có học, Ðiền từng làm
một ông giáo trường tư trong ngót ba năm. Với một người ôm mộng văn
chương, muốn sáng tạo những áng văn bất hủ để đời như Điền thì công
việc dạy học cũng có phần đáng chán. Vì hai chục bạc lương mà Điền cố
gắng. Ngày trường dẹp, ông hiệu trưởng còn nợ của Điền nửa tháng lương.
Ông ta đành ngượng nghịu bảo Điền cầm bộ ghế mây về. Lúc này tâm
trạng Điền diễn ra những trạng thái đặc biệt. Điền dồn nén cảm xúc để cái
mặt không xị xuống. Bao nhiêu phân vân, tính toán dở khóc dở cười xuất
hiện trong đầu óc anh. “Chao ôi! Cũng mang tiếng là ghế mây!... Cái thì
xộc xệch, cái thì bốn chân rúm lại, và chẳng cái nào là nước sơn không
róc cả ra như là da thằng hủi. Trông đủ thảm.”. Câu văn cho thấy tâm
trạng xót xa, khổ tâm hết sức của Điền. Điền ngại đèo bòng mấy chiếc ghế
mây, sợ tốn thêm tiền tàu xe mà cũng không dám từ chối ông hiệu trưởng
bởi“Họ bị tủi vì người ngoài đã lắm. Chẳng nên để người nọ bị tủi vì
người kia”. Điền suy đi, tính lại rồi ưng thuận. Không chỉ Điền mà nhân
vật ông hiệu trưởng cũng có những chi tiết phân vân tương tự. Từ đó, nhà
văn cho thấy bi kịch của tầng lớp trí thức tiểu tư sản trong xã hội đương
thời khi bị cơm áo gạo tiền bóp nghẹt đến mức phải sống tằn tiện, nghèo
khổ, thảm hại. “Ðiền tự an ủi: Có tiền rồi sẽ viết. Nhưng Ðiền biết: chẳng
bao giờ Ðiền viết nữa, bởi chắc chắn là suốt đời Ðiền cũng không có tiền...”
Diễn biến tâm lý của nhân vật trong “Giăng sáng” thực chất là quá trình
đấu tranh, sự chuyển hóa lẫn nhau của những đối cực trong nội tâm con
người. Xung đột chủ yếu trong những sáng tác của Nam Cao là xung đột
của thế giới nội tâm nhân vật. Kể cả trong “Chí Phèo”, căng thẳng nội
tâm cũng diễn ra trước và được nhà văn miêu tả kĩ hơn là phút hành động
cuối cùng. Nhân vật của Nam Cao luôn ở trong tâm thế chông chênh giữa
một bên là ước mơ cao cả với một bên là hiện thực nghèo túng. Và hơn
hết, họ chẳng thể nào thanh thản để chọn lấy một con đường. Điền yêu
trăng, coi trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp sang trọng của nghệ thuật. Những
tối có trăng, Điền khuân mấy cái ghế ra sân ngồi cùng vợ con. Những phút
thảnh thơi hiếm hoi ấy xoa dịu lòng Điền. Nhờ có tâm hồn đẫm văn thơ
mà Điền thấy người vợ mới cằn cỗi làm sao! Lúc nào thị cũng tính toán,
luôn luôn tính toán. Điền cho rằng điều ấy nhỏ nhen và tầm thường. Thế
nhưng, chính Điền cũng vô thức trở thành kẻ tính toán lúc nào không hay.
Khi chứng kiến cảnh nheo nhóc của gia đình, bỗng nhiên Điền nảy sinh
nỗi đau quằn quại. Đấu tranh nội tâm gay gắt đang tra tấn Điền. “Còn
sống trong cái gia đình này mãi, giữa những lo lắng nhỏ nhen này mãi,
lòng Ðiền sẽ cạn. Cạn luôn cả nguồn thơ quý báu, mà Ðiền vẫn ao ước
có ngày lại khơi...”. Chỉ có những người đàn bà đẹp mới biết yêu văn
chương của Điền và ý nghĩ này làm chính anh ta thấy xấu hổ. Nam Cao
đã đi sâu vào từng ngóc ngách của tâm trạng con người để vén bức màn
đang che giấu những khát khao thầm kín. Giữa lúc ý định muốn bỏ đi trở
nên rõ rệt, cơn ốm cùng tiếng rên đau đớn của đứa con, sự tức giận đến
khổ sở của người vợ làm Điền sực tỉnh. Tình thương con, tinh thần trách
nhiệm đã kéo Điền về với thực tại. Khi phản ánh mâu thuẫn giữa hiện thực
và sự mơ mộng, nhà văn thẳng thắn chỉ ra khuyết điểm của tầng lớp trí
thức tiểu tư sản. Họ rời xa tầng lớp lao động cần lao để sống với ảo tưởng.
Bi kịch của Điền đến từ sự ngộ nhận, chọn lựa sai lý tưởng sống. Miêu tả
những mâu thuẫn âm thầm mà căng thẳng trong nội tâm nhân vật, Nam
Cao đã đưa ra tuyên ngôn đúng đắn về nghệ thuật. Nhà văn phải “đứng
trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời”.
Điểm xuất sắc trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của Nam Cao còn
nằm ở việc nhà văn đưa ra nguyên nhân cho những nét tâm trạng ấy. Sự
ảnh hưởng của các quan hệ xã hội, hoàn cảnh sống luôn chi phối quyết
định con người. Nam Cao không chỉ phơi bày mà còn lí giải. Được học
hành, có tài văn chương, mong muốn dùng văn chương để cải tạo cuộc
đời nhưng thời thế, hoàn cảnh đã bạc đãi Điền. Ai trên đời cũng muốn tài
năng của mình trở nên hữu ích. Hoàn cảnh nghèo khó khiến Điền cảm
thấy mình ích kỉ khi những đứa em bơ vơ, nheo nhóc. Khi tạm gác văn
chương để kiếm tiền, mẹ lại bắt Điền lấy vợ. Gia đình to rồi đến gia đình
nhỏ, anh kiệt sức, trở thành kẻ ăn bám thừa mứa và lại khao khát thoát li
thực tại. Cái vòng quanh quẩn, tăm tối này cứ lặp đi lặp lại khiến nhân vật
sống trong vòng xoáy bất hạnh.
Bên cạnh nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ trần thuật cũng là
yếu tố góp phần làm nên thành công cho nghệ thuật xây dựng nhân vật
của Nam Cao. Ngôi kể thứ ba luôn tạo dựng được tính chân thật, khách
quan cho câu chuyện. Nhưng cũng có khi, ngôn ngữ người kể chuyện và
ngôn ngữ nhân vật được lồng ghép vào nhau, thể hiện trực tiếp cảm xúc
của nhân vật và cho thấy thái độ của nhà văn: “Chao ôi! Trăng đẹp lắm!
Trăng dịu dàng và trong trẻo và bình tĩnh. Nhưng trong trong những căn
lều nát mà trăng làm cho cái bề ngoài trông cũng đẹp, biết bao người
quằn quại, nức nở, nhăn nhó với những đau thương của kiếp mình! Biết
bao tiếng nghiến răng và chửi rủa! Biết bao cực khổ và lầm than?...
Không, không, Ðiền không thể nào mơ mộng được”. Nam Cao thường sử
dụng nhiều câu hỏi tựa như lời tự vấn: “Ðiền muốn tránh sự thực, nhưng
trốn tránh làm sao được?”, “Tại sao Ðiền lại vụt nghĩ đến những hình
ảnh lả lơi ấy?”. Điểm nhìn trần thuật cũng vì thế mà trở nên linh hoạt,
giúp cho việc khắc họa tâm lí nhân vật thêm sâu sắc.
Với “Giăng sáng”, Nam Cao không khắc họa nhân vật bằng ngoại hình.
Những hành động bên ngoài của nhân vật cũng ít khi được nhà văn đề cập
đến. Nhân vật Điền hiện lên chủ yếu qua quá trình diễn biến tâm lí phức
tạp. Sự thay đổi trong nhận thức dẫn đến sự thay đổi trong cách nhìn, cách
cảm nhận thế giới xung quanh. Trong“Chí Phèo”, nhờ có bát cháo hành
của Thị Nở mà Chí cảm thấy khung cảnh buổi sáng hôm sau đẹp lạ
thường. Ở đây, cảm nhận của Điền về ánh trăng trước và sau cũng có rất nhiều thay đổi.
Như vậy, với cách chọn lựa đối tượng nhân vật phù hợp, nghệ thuật miêu
tả tâm lí nhân vật sắc sảo, ngôn ngữ trần thuật cùng điểm nhìn linh hoạt,
Nam Cao đã xây dựng thành công nhân vật Điền – hình ảnh đại diện cho
tầng lớp trí thức tiểu tư sản trước Cách mạng. Tác phẩm là truyện ngắn
mang đậm tinh thần hiện thực phê phán, tiêu biểu cho phong cách Nam
Cao và xứng đáng trở thành tuyên ngôn nghệ thuật cao cả của nhà văn.
2. Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Giăng sáng mẫu 2
Nam Cao là một nhà văn hiện thực lớn trước cách mạng tháng tám. “Giăng
sáng” (1943) là một trong những kiệt tác suất sắc của nhà văn Nam Cao.
Tác phẩm vẽ lên số phận chung của các tiểu tư sản nghèo, mang trong
mình nhiều hoài bão lớn nhưng bị nỗi lo cơm áo gạo tiền vùi dập. Đặc sắc
nhất trong truyện ngắn phải kể đến những đặc sắc trong nghệ thuật tự sự.
“Giăng sáng” kể về Điền là một nhà văn, khao khát được thực hiện ước
mơ văn chương bởi với Điền văn chương phải giống như ánh trăng kia
“làm đẹp đến cả những cảnh thật ra chỉ tầm thường, xấu xa". Nhưng vì
cuộc sống vùi dập, khiến Điền mãi không thể thoát ly khỏi cảnh nghèo
khổ. Nhà văn Nam Cao đã sử dụng nghệ thuật tự sự để khắc họa hoàn
cảnh lúc bấy giờ. Ông đã lựa chọn đối tượng để đưa vào tác phẩm là tầng
lớp trí thức tiểu tư sản. Nhân vật Điền là người học thức, có niềm đam mê
với văn chương nhưng bởi nỗi lo cuộc sống giấc mơ ấy mãi không thấy
hiện thực. Nam Cao đã nhận ra được hiện thực đen tối vì thế ông đã đoạn
tuyệt với thứ văn chương mơ mộng, lãng mạn trước kia. Nam Cao hướng
ngồi bút của mình tới tầng lớp trí thức nghèo. Nhà văn đã khéo léo đưa
nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật một cách xuất sắc, bộc lộ chân thực
nhân vật Điền qua nhiều chi tiết. Trước hết Nam cao chọn ngôi kể thứ ba,
ông không trực tiếp kể ra những gì mình nghe thấy, nhìn thấy mà chỉ thông
qua các hành động cảm xúc của nhân vật để truyền đạt ý kiến của mình
đến độc giả. Bằng việc sử dụng ngôi kể này nhà văn đã tạo được tính chân
thực,khách quan. Chi tiết bốn chiếc ghế mây là hình ảnh nổi bật lên tính
cách nhân vật Điền. Đó là sự lo lắng từ những điều nhỏ nhặt, thể hiện hoàn
cảnh sống khó khăn của xã hội. Điền phải đấu tranh tâm lý, đây là bi kịch
tinh thần khi phân vân giữa một bên là ước mơ cao cả với một bên là hiện
thực nghèo túng đói kém. Nhưng rồi vì hoàn cảnh, vì cuộc sống gia đình,
Điền phải gác lại mong muốn dùng văn chương để cải tạo cuộc đời. Chẳng
còn cách nào khác trong lúc này cuộc sống tăm tối cứ mãi đeo bám lấy
nhân vật. Bên cạnh đó Nam Cao còn sử dụng ngôn ngữ trần thuật, ngôn
ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật được lồng ghép vào nhau giúp
cho tác phẩm trở nên hấp dẫn, cảm xúc được truyền đạt một cách trực tiếp.
Nam Cao miêu tả nhân vật Điền qua hành động, suy nghĩ mà không phải
bắt đầu từ ngoại hình. Đây là điểm nhìn linh hoạt, góp phần xây dựng thành công nhân vật.
Nam Cao đã sử dụng thành công nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Giăng
sáng, góp phần tạo nên giá trị tác phẩm. Ông xây dựng thành công hình
ảnh nhân vật Điền- điển hình cho tầng lớp trí thức tư sản nghèo trước cách
mạng. Tác phẩm lên án hiện thực xã hội trước cách mạng, một xã hội tối
tăm, khiến họ mãi không thể thực hiện hoài bão cao đẹp của mình.
-----------------------------------------------------------