Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Nhà văn Kim Lân | Ngữ văn lớp 11

Khi tạo nên một tác phẩm văn học, một nhà văn chân chính cho dù viết về đề tài nào thì điểm xuất phát và đích đến cuối cùng vẫn luôn hướng đến những sự trung thực và dung dị về còn người. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt điểm cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!

1. Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng - mẫu 1
Khi tạo nên một tác phẩm văn học, một nhà văn chân chính cho dù viết về đề tài nào thì
điểm xuất phát và đích đến cuối cùng vẫn luôn hướng đến những sự trung thực
dung dị về còn người. Bởi vậy nhà văn Nguyễn Minh Châu từng nói rằng: "Văn học
đời sống hai vòng tròn đồng m tâm điểm con người". Khi đắm chìm vào
mỗi tác phẩm, chúng ta lại bắt gặp những con người khác nhau với những nét tính
cách khác nhau, tất cả đã tổng hoà tạo nên một thế giới văn chương đa sắc màu. Đến
với truyện ngắn "Làng" của nhà văn Kim Lân, chúng ta được gặp một người nông dân
hiền lành, chất phác, chịu khó với một trái tim yêu làng tha thiết, một linh hồn yêu nước
đến nồng nàn - đó chính là nhân vật ông Hai.
Truyện ngắn "Làng" của nhà văn Kim Lân được ra đời vào năm 1948 với bối cảnh của
một cuộc tản trong thời kháng chiến chống thực dân Pháp. Truyện xoay quanh
nhân vật ông Hai - một người nông dân làng chợ Dầu phải đi tản bởi chiến tranh.
Thế nhưng trong ông vẫn luôn những sự trăn trở, nhớ thương về làng mình với biết
bao những lưu luyến khôn nguôi. Từ một con người yêu làng, yêu quê hương của mình
ông đã trở thành người của kháng chiến, của cách mạng chung.
Ông Hai trước tiên hiện lên với hình ảnh của một người cùng yêu làng, tình yêu ấy
thể hiện bằng cái sự hay khoe làng của ông. lẽ hình ảnh về ngôi làng thân thuộc ấy
luôn in u, hiện hữu trong m trí người nông dân ấy để khi nói đến làng quê của
mình thì "hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển, hoạt động". Hơn nữa, ông
Hai khoe làng xuất phát từ sự nhiệt tình trong trái tim. Ông chẳng cần những người
xung quanh chú ý, cũng chẳng biết họ đang nghe hay không, ông nói như thể để
thoả nỗi mong nhớ, để thể hiện sự tự hào của mình về làng. Thời gian trôi đi thì những
lời kể của ông về ngôi làng thân thuộc ấy cũng những sự biến chuyển. Thế nhưng
tình yêu làng trong ông thì vẫn vậy, vẫn vẹn nguyên mà chẳng hề đổi thay.
phải xa quê hương đến sống nơi đất khách quê người, thế nhưng tấm lòng của ông
thì luôn hướng về quê hương, về làng. Trong ông những mảng ức về ngày tháng
được cùng các anh em đào đường, lấp ụ, xẻ hào, khuân đá.... càng hồi tưởng, nỗi
nhớ ấy ở trong ông lại càng trào dâng mãnh liệt, nỗi nhớ ấy giống như những cơn sóng
dồn dập đánh vào trái tim ông để rồi ông Hai phải thốt lên: "Chao ôi, ông lão nhớ
làng. Nhớ cái làng quá!". Ẩn sau sự nhung nhớ ấy chính một niềm khao khát mãnh
liệt được trở về chốn cũ, một tình yêu làng bất diệt. Cũng nhớ, yêu làng đến da
diết nên ông Hai thường hay tới phòng thông tin để nghe tin tức về kháng chiến. Trên
đường đi, gặp ai ông ng níu lại, cười cười, ông vui với cả cái nắng chang chang bởi
Tây ngồi trong vị trí giờ bằng ngồi tù. Ông lại càng phấn khởi n khi nghe được
những tin thắng lợi của kháng chiến, những chiến công đáng khâm phục của làng
mình.
Thế nhưng trong lúc tâm trạng đầy phấn khởi như vậy ông Hai như chết lặng đi khi hay
tin làng Chợ Dầu đã theo giặc. Lúc này "cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt rân
rân. Ông lão lặng đi, tưởng không thở được". Thế giới nội tâm đầy phức tạp của ông
Hai đã được nhà văn Kim Lân làm hiện lên thật tài tình qua miêu tả chân thực t mặt
cử chỉ của nhân vật. Ông lão bàng hoàng sững sờ, như thđang một bàn tay
hình bóp nghẹt lấy trái tim ông. Cái tin dữ ấy đến một cách đầy bất ngờ mà ông
chẳng thể tiếp nhận được. Ông hỏi đi hỏi lại nđang hi vọng rằng đó chỉ một lời
đồn căn cứ: "Liệu thật không hở bác. Hay chỉ lại...". rồi khi được nghe câu
trả lời đầy chắc nịch rằng làng Chợ Dầu "Việt gian từ thằng chủ tịch đi" thì tất cả
trong ông như sụp đổ. Biết bao sự tin yêu, tự hào về chốn quê hương mà ông luôn đem
đi khoe với mọi người như đã tan biến mất. Và rồi ông bâng quơ thốt lên: "Hà, nắng
gớm. về nào". Câu nói nghe tưởng chừng rất bình thường nhưng i cớ để ông vin
vào đó rời khỏi đây bởi ông chẳng thể nào có đủ can đảm đứng lại để nghe họ đàm tiếu
về làng mình, về nơi mà ông đã từng cùng tự hào. Nếu như trên đường ông đi tới
phòng thông tin vui vẻ, hiên ngang biết bao thì giờ đây, trên đường về ông lại "cúi gằm
mặt đi". Lúc này, m trạng của ông lão đầy những ngổn ngang, như thể ông vừa
mất đi thứ gì thiêng liêng lắm.
Ôi, ngôi làng ông luôn tự hào, luôn khoe khoang như một điển hình về đấu tranh
chống giặc ngoại xâm giờ đây ông lại nghe tin làng của mình theo giặc. Ông mang
theo những hỗn độn về tới nhà rồi "nằm vật ra giường", ông chẳng n tâm trí, sức lực
để làm điều cả. Nhìn đám con của mình, trong tâm trí ông hiện ra bao câu hỏi đầy
giằng xé, cay đắng: "Chúng cũng trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng cũng bị
người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu...". Nhà văn Kim Lân đã
cùng thành công khi dùng nghệ thuật độc thoại nội tâm để thể hiện cho người đọc thấy
nỗi lòng của ông Hai. Lão nông ấy vừa thương xót cho số phận chính mình, vừa
thương cho đám trẻ non nớt ấy bởi đè nặng lên gia đình ông - những người làng Chợ
Dầu giờ đây i tên "giống Việt gian bán nước". Chao ôi, sao giờ đây ông căm ghét
phản nước theo giặc đến vậy, Tất cả những nỗi phẫn uất, căm hận như được dồn
nén vào từng câu chữ của ông: "Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng vào mồm
đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nthế này". Ông điểm lại trong đầu từng
người anh em cùng nhau đồng cam cộng khổ, thế nhưng trong tâm trí ông những con
người ấy đều tràn đầy một lòng yêu nước đến nồng nàn. Thế nhưng "thằng chánh
Bệu thì đích thị người làng không sai rồi. Không lửa làm sao khói? Ai người ta
hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì?". Những suy nghĩ ấy cứ dồn dập kéo tới,
như ngàn vạn nhát dao đâm vào tim ông ông buộc phải tắt đi những đốm lửa niềm
tin cuối cùng còn le lói. Trước tin dữ ấy, ông bất lực, tâm hồn ông đã bị những đau
thương xâm chiếm không thể nào diễn tả bằng lời. Ông đau cho chính mình, đau cho
làng cả những người đồng hương chung cảnh hộ: "Lại còn bao nhiêu người làng,
tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã cái cớ sự này chưa?". Nỗi bứt
rứt trong lòng của ông bị dồn nén, ông không muốn nghe đến những điều tồi tệ đó bởi
chẳng khác nào việc xát muối vào vết thương. Nỗi lo ấy khiến ông trằn trọc không
ngủ được, hành hạ ông cả về thể xác lẫn tinh thần. Từ khi đón tin dữ làng theo giặc,
ông Hai chẳng khác nào người mất hồn. Ông cũng cảm thấy như thể mình người
tội, ông tuyệt giao với mọi người và chẳng bước chân ra đến ngoài. Với ông, một người
luôn yêu làng, tự hào về làng thì cái tin ấy chẳng khác nào một cú đánh trực diện, đánh
vào tự tôn, danh dự của ông.
rồi gia đình ông thực sự rơi vào bế tắc khi mụ chủ nđánh tiếng muốn đuổi gia
đình ông đi. Trong cái lúc tuyệt vọng tột cùng ấy, ông đã thoáng nghĩ hay quay trở về
làng. Thế nhưng ông đã dập tắt ngay cái ý nghĩ đó bởi yêu làng da diết đến đâu
thì ông vẫn biết giờ làng đã theo gót Tây, "về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ". Sự
yêu nước vẫn đang không ngừng chảy khắp từng tế bào trong thể của ông. rồi
ông đã đưa ra một quyết định dứt khoát nhưng đầy đau đớn: "Làng thì yêu thật, nhưng
làng theo Tây mất rồi thì phải thù". Đứng trước sự lựa chọn đầy khó khăn ấy, ông Hai
đã một lần nữa khẳng định rằng tình yêu nước, yêu n tộc của ông mạnh mẽ đến
nhường nào.
Qua biết bao nhiêu những sự buồn vui lẫn lộn, những hi vọng rồi tuyệt vọng, từ hãnh
diện tự hào đến những đau đớn tủi nhục thì cái tin làng cải chính đã đến với ông Hai.
Ông nđược tái sinh, ncởi bỏ được hết những gánh nặng đè lên ông bấy lâu nay
và rồi "cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên". Và rồi ông vui sướng
đến tột độ, ông đi báo tin làng bị giặc phá với một niềm hạnh phúc "Tây đốt nhà tôi
rồi ông chủ ạ, đốt nhẵn...". Chao ôi, ngôi nhà một tài sản lớn lao thế nhưng lúc này
nhà bđốt ông lại thấy vui, ông vui bởi chứng tỏ một điều rằng làng ông không hề
theo giặc vẫn yêu nước, vẫn ủng hộ kháng chiến, ủng hộ cụ Hồ. từ lúc này đây
ông đã thoát được i tên "người làng Việt gian", ông lại tiếp tục được khoe khoang về
ngôi làng mà ông rất đỗi yêu thương, tự hào.
Nhà văn Kim Lân đã vô cùng thành công khi xây dựng một cốt truyện tâm lý, tình huống
truyện được tạo ra đầy căng thẳng để từ đó làm bộc lộ tâm trạng, tính cách của nhân
vật. Ông cũng rất thành công khi sử dụng ngôn ngữ rất giản dị, chân thật của người
nông dân Bắc Bộ để tạo nên sự gần gũi, thân thuộc với người đọc. Tất cả những yếu tố
như nhân vật, ngôn ngữ, tình huống truyện... đã được tổng hoà, biến tấu một cách đầy
khéo léo để cho người đọc cảm nhận được từng biến chuyển, bước ngoặt trong diễn
biến tâm lý của nhân vật ông Hai.
thể nói Làng một trong những truyện ngắn rất thành công về khả năng miêu tả
tâm nhân vật của nhà văn Kim Lân. Nhân vật ông Hai đại diện những người nông
dân cần cù, chất phác, thật thà, dám hi sinh tất cả mọi thứ chứ không khuất phục giặc.
Đó chính vẻ đẹp tình yêu quê hương, đất nước, sự giác ngộ cách mạng của
những người nông dân ấy - một vẻ đẹp thật đáng trân trọng.
2. Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng - mẫu 2
Nhà văn Kim Lân một người được sinh ra lớn lên vùng quê nên ông sự am
hiểu sâu rộng về nông thôn Việt Nam cảm thông cho những cảnh ngộ của người
nông dân. Bởi vậy, khi viết về mảng đề tài cuộc sống của con người nông thôn Việt
Nam thì ông ng thành công. Truyện ngắn "Làng" của ông một truyện ngắn đặc
sắc tiêu biểu cho chủ đề này. Truyện xoay quanh nhân vật ông Hai - một người nông
dân hiền lành, chất phác mang trong mình một tình yêu làng quê, yêu đất nước thật
to lớn.
Truyện ngắn Làng của ông được viết trong thời đầu của cuộc kháng chiến chống
Pháp, khi những người dân miền Bắc được lệnh tản cư. Ông Hai trong c phẩm
một người con của ngôi làng Chợ Dầu, ông ng gia đình phải tản để phục vụ cho
kháng chiến. Thế nhưng, rời xa i quê hương yêu dấu ấy, trong lòng ông vẫn luôn
trăn trở, khôn nguôi nỗi nhớ thương về ngôi làng của mình.
Đầu tiên, tình yêu của ông với làng được thể hiện qua sự tự hào của ông về ngôi làng
thân yêu ấy. Ông đi đến đâu cũng khoe về làng, thể hiện sự hãnh diện về ngôi làng của
ông. Mỗi lần kể, ông luôn vô cùng say mê, khuôn mặt biến chuyển theo từng câu từ, đôi
mắt hiện lên sự háo hức, ông thể nói với bất kỳ ai về đề tài y chẳng biết mệt
mỏi. Khi kể, ông cũng chẳng để ý người nghe nghe không, chú ý không, ông vẫn
say sưa kể bất chấp tất cả. Thế nhưng giờ đây ông đã rời xa ngôi làng thân yêu y để
đưa gia đình đi tản rồi bao nỗi nhớ nhung từ đáy lòng ấy khiến ông phải thốt lên:
"Chao ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá!" Càng yêu bao nhiêu, càng thương nhớ
bao nhiêu thì ông lại càng mong chờ tình hình từ làng mình. Ngày nào cũng vậy, ông
đều đến phòng thông tin mà nghe ngóng những thông tin về làng, về kháng chiến. Khi
nghe được những tin tốt được truyền tới, ruột gan ông như nhảy múa, ông vui sướng
đến tột cùng. Tâm đó chính những thường thấy những người ng dân với
làng quê, với đất nước, họ luôn mong ngóng từng ngày đất nước sạch bóng quân thù
để được trở về làng, về nơi quê hương máu thịt của mình.
Thế nhưng một sự kiện bất ngờ đã xảy đến khiến ông Hai như sụp đổ: ông hay tin cả
làng chợ Dầu theo giặc. Nghe tin dữ ây ông Hai như chết lặng đi: "Cổ ông lão
nghẹn ắng hẳn lại, da mặt rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như không thở được". Từ
những sự vui tươi, tự hào thì ông Hai đã rơi vào sự xót xa, tuyệt vọng. Ông cố che giấu
tâm trạng của mình, kiếm cớ lảng tránh, "cúi gằm mặt đi". Bên tai ông vẫn văng
vẳng lên những tiếng chửi "giống Việt gian bán nước" sao đầy đau đớn, xót xa.
Về nhà, ông nằm vật ra giường, rồi lại đầy xót xa nhìn đàn con thơ mà nước mắt ông
cứ dàn ra. Những suy nghĩ trong đầu cứ dằn vặt ông đầy day dứt, đau đớn: "Chúng
trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng cũng bị người ta hắt hủi đấy ư?..." Càng
ngẫm, ông lại càng căm thù cái lũ phản bội làng nước, để rồi ông phải nắm chặt hai tay
rít lên: "Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng vào mồm mà đi làm cái giống Việt
gian bán nước để nhục nhã thế này". Nhưng sau đó, chút niềm tin trong ông lại khiến
ông ngờ ngợ, ông kiểm điểm lại từng người trong óc ông đều khẳng định họ đều
những người tinh thần kháng chiến, chẳng nhẽ nào họ lại đi làm i điều bán nước
cầu vinh đầy nhục nấy. Cái tin làng ông theo giặc đã thành một sự ám nh, day dứt
trong tâm trí khiến ông chẳng dám bước chân ra đến ngoài. Ông thu mình lại, cảm thấy
đầy tuyệt vọng như thể chính bản thân ông cũng là người gây nên tội.
Sự tuyệt vọng được đẩy lên tới đỉnh điểm khi bà chủ nhà đánh tiếng muốn đuổi gia
đình ông đi bởi "nghe nói bảo lệnh đuổi hết những người làng chợ Dầu ra khỏi vùng
này, không cho nữa". Lúc này ông Hai thật rối bời, ông chẳng biết đi đâu nữa. Cái
suy nghĩ trở về làng cũng thoáng xuất hiện trong đầu nhưng ông đã gạt ngay đi bởi "về
làng tức chịu quay lại làm lệ cho thằng Tây", bỏ kháng chiến, phản bội lại cụ
Hồ. Trong ông diễn ra một cuộc chiến đầy giằng nhưng cuối cùng ông vẫn phải đưa
ra một quyết định đầy đau đớn "Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải
thù". Tình yêu đất nước của ông đã bao trùm lên tinh yêu làng, thể hiện tấm lòng của
ông với cách mạng, với Tổ quốc.
Bước ngoặt của câu chuyện lại đến khi tin cải chính đến, làng của ông không đi
theo Tây. Lúc này ông hạnh phúc đến tột độ, cuộc đời ông như được hồi sinh lại lần
nữa: "Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên". Ông đi khắp làng trên
xóm dưới để khoe nhà của ông đã bị Tây đốt hết, đốt nhẵn. Đáng nhẽ ra tâm bình
thường của một người khi bị mất đi thứ tài sản lớn như ngôi nhà thì sẽ buồn bã, đau
lòng, thế nhưng ông Hai lại tràn ngập niềm vui khi nhận được tin này. Bởi thông tin này
đến khiến ông thoát khỏi cái tên"người làng Việt gian", nó khẳng định rằng làng ông vẫn
một lòng đứng về kháng chiến, ủng hcách mạng... giờ đây, ông lại tiếp tục được
khoe với mọi người về ngôi làng ông rất đỗi tự hào. Sbất hợp ấy lại trở nên
cùng hợp lý, thể hiện sự tài tình của nhà văn Kim Lân.
Truyện ngắn "Làng" được n văn Kim n vận dụng đầy ng tạo với những tình
huống kịch tính, ngôn ngữ bình dị, khả năng miêu tả tâm nhân vật để đẩy ông Hai
vào sự bế tắc rồi làm nổi bật lên được tâm hồn tình yêu làng quê, đất nước của
nhân vật y. Qua hình tượng ông Hai, người ta đã thấy một hình ảnh tiêu biểu cho
những người nông dân Việt Nam trong cuộc chiến giành độc lập của dân tộc.
| 1/6

Preview text:

1. Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng - mẫu 1
Khi tạo nên một tác phẩm văn học, một nhà văn chân chính cho dù viết về đề tài nào thì
điểm xuất phát và đích đến cuối cùng vẫn luôn hướng đến những sự trung thực và
dung dị về còn người. Bởi vậy mà nhà văn Nguyễn Minh Châu từng nói rằng: "Văn học
và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người". Khi đắm chìm vào
mỗi tác phẩm, chúng ta lại bắt gặp những con người khác nhau với những nét tính
cách khác nhau, tất cả đã tổng hoà tạo nên một thế giới văn chương đa sắc màu. Đến
với truyện ngắn "Làng" của nhà văn Kim Lân, chúng ta được gặp một người nông dân
hiền lành, chất phác, chịu khó với một trái tim yêu làng tha thiết, một linh hồn yêu nước
đến nồng nàn - đó chính là nhân vật ông Hai.
Truyện ngắn "Làng" của nhà văn Kim Lân được ra đời vào năm 1948 với bối cảnh của
một cuộc tản cư trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp. Truyện xoay quanh
nhân vật ông Hai - một người nông dân làng chợ Dầu phải đi tản cư bởi chiến tranh.
Thế nhưng trong ông vẫn luôn là những sự trăn trở, nhớ thương về làng mình với biết
bao những lưu luyến khôn nguôi. Từ một con người yêu làng, yêu quê hương của mình
ông đã trở thành người của kháng chiến, của cách mạng chung.
Ông Hai trước tiên hiện lên với hình ảnh của một người vô cùng yêu làng, tình yêu ấy
thể hiện bằng cái sự hay khoe làng của ông. Có lẽ hình ảnh về ngôi làng thân thuộc ấy
luôn in sâu, hiện hữu ở trong tâm trí người nông dân ấy để khi nói đến làng quê của
mình thì "hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển, hoạt động". Hơn nữa, ông
Hai khoe làng xuất phát từ sự nhiệt tình ở trong trái tim. Ông chẳng cần những người
xung quanh chú ý, cũng chẳng biết họ có đang nghe hay không, ông nói như thể để
thoả nỗi mong nhớ, để thể hiện sự tự hào của mình về làng. Thời gian trôi đi thì những
lời kể của ông về ngôi làng thân thuộc ấy cũng có những sự biến chuyển. Thế nhưng
tình yêu làng trong ông thì vẫn vậy, vẫn vẹn nguyên mà chẳng hề đổi thay.
Dù phải xa quê hương đến sống nơi đất khách quê người, thế nhưng tấm lòng của ông
thì luôn hướng về quê hương, về làng. Trong ông là những mảng kí ức về ngày tháng
được cùng các anh em đào đường, lấp ụ, xẻ hào, khuân đá.... Và càng hồi tưởng, nỗi
nhớ ấy ở trong ông lại càng trào dâng mãnh liệt, nỗi nhớ ấy giống như những cơn sóng
dồn dập đánh vào trái tim ông và để rồi ông Hai phải thốt lên: "Chao ôi, ông lão nhớ
làng. Nhớ cái làng quá!". Ẩn sau sự nhung nhớ ấy chính là một niềm khao khát mãnh
liệt được trở về chốn cũ, là một tình yêu làng bất diệt. Cũng vì nhớ, vì yêu làng đến da
diết nên ông Hai thường hay tới phòng thông tin để nghe tin tức về kháng chiến. Trên
đường đi, gặp ai ông cũng níu lại, cười cười, ông vui với cả cái nắng chang chang bởi
Tây nó ngồi trong vị trí giờ bằng ngồi tù. Ông lại càng phấn khởi hơn khi nghe được
những tin thắng lợi của kháng chiến, những chiến công đáng khâm phục của làng mình.
Thế nhưng trong lúc tâm trạng đầy phấn khởi như vậy ông Hai như chết lặng đi khi hay
tin làng Chợ Dầu đã theo giặc. Lúc này "cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân
rân. Ông lão lặng đi, tưởng không thở được". Thế giới nội tâm đầy phức tạp của ông
Hai đã được nhà văn Kim Lân làm hiện lên thật tài tình qua miêu tả chân thực nét mặt
và cử chỉ của nhân vật. Ông lão bàng hoàng và sững sờ, như thể đang có một bàn tay
vô hình bóp nghẹt lấy trái tim ông. Cái tin dữ ấy đến một cách đầy bất ngờ mà ông
chẳng thể tiếp nhận được. Ông hỏi đi hỏi lại như đang hi vọng rằng đó chỉ là một lời
đồn vô căn cứ: "Liệu có thật không hở bác. Hay là chỉ lại...". Và rồi khi được nghe câu
trả lời đầy chắc nịch rằng làng Chợ Dầu "Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi" thì tất cả
trong ông như sụp đổ. Biết bao sự tin yêu, tự hào về chốn quê hương mà ông luôn đem
đi khoe với mọi người như đã tan biến mất. Và rồi ông bâng quơ thốt lên: "Hà, nắng
gớm. về nào". Câu nói nghe tưởng chừng rất bình thường nhưng là cái cớ để ông vin
vào đó rời khỏi đây bởi ông chẳng thể nào có đủ can đảm đứng lại để nghe họ đàm tiếu
về làng mình, về nơi mà ông đã từng vô cùng tự hào. Nếu như trên đường ông đi tới
phòng thông tin vui vẻ, hiên ngang biết bao thì giờ đây, trên đường về ông lại "cúi gằm
mặt mà đi". Lúc này, tâm trạng của ông lão đầy những ngổn ngang, như thể ông vừa
mất đi thứ gì thiêng liêng lắm.
Ôi, ngôi làng mà ông luôn tự hào, luôn khoe khoang như một điển hình về đấu tranh
chống giặc ngoại xâm mà giờ đây ông lại nghe tin làng của mình theo giặc. Ông mang
theo những hỗn độn về tới nhà rồi "nằm vật ra giường", ông chẳng còn tâm trí, sức lực
để làm điều gì cả. Nhìn đám con của mình, trong tâm trí ông hiện ra bao câu hỏi đầy
giằng xé, cay đắng: "Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị
người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu...". Nhà văn Kim Lân đã vô
cùng thành công khi dùng nghệ thuật độc thoại nội tâm để thể hiện cho người đọc thấy
nỗi lòng của ông Hai. Lão nông ấy vừa thương xót cho số phận chính mình, vừa
thương cho đám trẻ non nớt ấy bởi đè nặng lên gia đình ông - những người làng Chợ
Dầu giờ đây là cái tên "giống Việt gian bán nước". Chao ôi, sao giờ đây ông căm ghét
lũ phản nước theo giặc đến vậy, Tất cả những nỗi phẫn uất, căm hận như được dồn
nén vào từng câu chữ của ông: "Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà
đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này". Ông điểm lại trong đầu từng
người anh em cùng nhau đồng cam cộng khổ, thế nhưng trong tâm trí ông những con
người ấy đều tràn đầy một lòng yêu nước đến nồng nàn. Thế nhưng "Mà thằng chánh
Bệu thì đích thị là người làng không sai rồi. Không có lửa làm sao có khói? Ai người ta
hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì?". Những suy nghĩ ấy cứ dồn dập kéo tới,
như ngàn vạn nhát dao đâm vào tim ông và ông buộc phải tắt đi những đốm lửa niềm
tin cuối cùng còn le lói. Trước tin dữ ấy, ông bất lực, tâm hồn ông đã bị những đau
thương xâm chiếm không thể nào diễn tả bằng lời. Ông đau cho chính mình, đau cho
làng và cả những người đồng hương chung cảnh hộ: "Lại còn bao nhiêu người làng,
tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cái cớ sự này chưa?". Nỗi bứt
rứt trong lòng của ông bị dồn nén, ông không muốn nghe đến những điều tồi tệ đó bởi
nó chẳng khác nào việc xát muối vào vết thương. Nỗi lo ấy khiến ông trằn trọc không
ngủ được, nó hành hạ ông cả về thể xác lẫn tinh thần. Từ khi đón tin dữ làng theo giặc,
ông Hai chẳng khác nào người mất hồn. Ông cũng cảm thấy như thể mình là người có
tội, ông tuyệt giao với mọi người và chẳng bước chân ra đến ngoài. Với ông, một người
luôn yêu làng, tự hào về làng thì cái tin ấy chẳng khác nào một cú đánh trực diện, đánh
vào tự tôn, danh dự của ông.
Và rồi gia đình ông thực sự rơi vào bế tắc khi mụ chủ nhà đánh tiếng muốn đuổi gia
đình ông đi. Trong cái lúc tuyệt vọng tột cùng ấy, ông đã thoáng nghĩ hay quay trở về
làng. Thế nhưng ông đã dập tắt ngay cái ý nghĩ đó bởi dù có yêu làng da diết đến đâu
thì ông vẫn biết giờ làng đã theo gót Tây, "về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ". Sự
yêu nước vẫn đang không ngừng chảy khắp từng tế bào trong cơ thể của ông. Và rồi
ông đã đưa ra một quyết định dứt khoát nhưng đầy đau đớn: "Làng thì yêu thật, nhưng
làng theo Tây mất rồi thì phải thù". Đứng trước sự lựa chọn đầy khó khăn ấy, ông Hai
đã một lần nữa khẳng định rằng tình yêu nước, yêu dân tộc của ông mạnh mẽ đến nhường nào.
Qua biết bao nhiêu những sự buồn vui lẫn lộn, những hi vọng rồi tuyệt vọng, từ hãnh
diện tự hào đến những đau đớn tủi nhục thì cái tin làng cải chính đã đến với ông Hai.
Ông như được tái sinh, như cởi bỏ được hết những gánh nặng đè lên ông bấy lâu nay
và rồi "cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên". Và rồi ông vui sướng
đến tột độ, ông đi báo tin làng bị giặc phá với một niềm hạnh phúc "Tây nó đốt nhà tôi
rồi ông chủ ạ, đốt nhẵn...". Chao ôi, ngôi nhà là một tài sản lớn lao thế nhưng lúc này
nhà bị đốt ông lại thấy vui, ông vui bởi nó chứng tỏ một điều rằng làng ông không hề
theo giặc và vẫn yêu nước, vẫn ủng hộ kháng chiến, ủng hộ cụ Hồ. Và từ lúc này đây
ông đã thoát được cái tên "người làng Việt gian", ông lại tiếp tục được khoe khoang về
ngôi làng mà ông rất đỗi yêu thương, tự hào.
Nhà văn Kim Lân đã vô cùng thành công khi xây dựng một cốt truyện tâm lý, tình huống
truyện được tạo ra đầy căng thẳng để từ đó làm bộc lộ tâm trạng, tính cách của nhân
vật. Ông cũng rất thành công khi sử dụng ngôn ngữ rất giản dị, chân thật của người
nông dân Bắc Bộ để tạo nên sự gần gũi, thân thuộc với người đọc. Tất cả những yếu tố
như nhân vật, ngôn ngữ, tình huống truyện... đã được tổng hoà, biến tấu một cách đầy
khéo léo để cho người đọc cảm nhận được từng biến chuyển, bước ngoặt trong diễn
biến tâm lý của nhân vật ông Hai.
Có thể nói Làng là một trong những truyện ngắn rất thành công về khả năng miêu tả
tâm lý nhân vật của nhà văn Kim Lân. Nhân vật ông Hai là đại diện những người nông
dân cần cù, chất phác, thật thà, dám hi sinh tất cả mọi thứ chứ không khuất phục giặc.
Đó chính là vẻ đẹp tình yêu quê hương, đất nước, là sự giác ngộ cách mạng của
những người nông dân ấy - một vẻ đẹp thật đáng trân trọng.
2. Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng - mẫu 2
Nhà văn Kim Lân là một người được sinh ra và lớn lên ở vùng quê nên ông có sự am
hiểu sâu rộng về nông thôn Việt Nam và cảm thông cho những cảnh ngộ của người
nông dân. Bởi vậy, khi viết về mảng đề tài cuộc sống của con người ở nông thôn Việt
Nam thì ông vô cùng thành công. Truyện ngắn "Làng" của ông là một truyện ngắn đặc
sắc tiêu biểu cho chủ đề này. Truyện xoay quanh nhân vật ông Hai - một người nông
dân hiền lành, chất phác và mang trong mình một tình yêu làng quê, yêu đất nước thật to lớn.
Truyện ngắn Làng của ông được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống
Pháp, khi mà những người dân miền Bắc được lệnh tản cư. Ông Hai trong tác phẩm là
một người con của ngôi làng Chợ Dầu, ông cùng gia đình phải tản cư để phục vụ cho
kháng chiến. Thế nhưng, rời xa nơi quê hương yêu dấu ấy, trong lòng ông vẫn luôn
trăn trở, khôn nguôi nỗi nhớ thương về ngôi làng của mình.
Đầu tiên, tình yêu của ông với làng được thể hiện qua sự tự hào của ông về ngôi làng
thân yêu ấy. Ông đi đến đâu cũng khoe về làng, thể hiện sự hãnh diện về ngôi làng của
ông. Mỗi lần kể, ông luôn vô cùng say mê, khuôn mặt biến chuyển theo từng câu từ, đôi
mắt hiện lên sự háo hức, ông có thể nói với bất kỳ ai về đề tài ấy mà chẳng biết mệt
mỏi. Khi kể, ông cũng chẳng để ý người nghe có nghe không, có chú ý không, ông vẫn
say sưa kể bất chấp tất cả. Thế nhưng giờ đây ông đã rời xa ngôi làng thân yêu ấy để
đưa gia đình đi tản cư và rồi bao nỗi nhớ nhung từ đáy lòng ấy khiến ông phải thốt lên:
"Chao ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá!" Càng yêu bao nhiêu, càng thương nhớ
bao nhiêu thì ông lại càng mong chờ tình hình từ làng mình. Ngày nào cũng vậy, ông
đều đến phòng thông tin mà nghe ngóng những thông tin về làng, về kháng chiến. Khi
nghe được những tin tốt được truyền tới, ruột gan ông như nhảy múa, ông vui sướng
đến tột cùng. Tâm lý đó chính là những gì thường thấy ở những người nông dân với
làng quê, với đất nước, họ luôn mong ngóng từng ngày đất nước sạch bóng quân thù
để được trở về làng, về nơi quê hương máu thịt của mình.
Thế nhưng một sự kiện bất ngờ đã xảy đến khiến ông Hai như sụp đổ: ông hay tin cả
làng chợ Dầu theo giặc. Nghe tin dữ ây mà ông Hai như chết lặng đi: "Cổ ông lão
nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như không thở được". Từ
những sự vui tươi, tự hào thì ông Hai đã rơi vào sự xót xa, tuyệt vọng. Ông cố che giấu
tâm trạng của mình, kiếm cớ lảng tránh, "cúi gằm mặt mà đi". Bên tai ông vẫn văng
vẳng lên những tiếng chửi "giống Việt gian bán nước" sao đầy đau đớn, xót xa.
Về nhà, ông nằm vật ra giường, rồi lại đầy xót xa nhìn đàn con thơ mà nước mắt ông
cứ dàn ra. Những suy nghĩ trong đầu cứ dằn vặt ông đầy day dứt, đau đớn: "Chúng nó
là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta hắt hủi đấy ư?..." Càng
ngẫm, ông lại càng căm thù cái lũ phản bội làng nước, để rồi ông phải nắm chặt hai tay
mà rít lên: "Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt
gian bán nước để nhục nhã thế này". Nhưng sau đó, chút niềm tin trong ông lại khiến
ông ngờ ngợ, ông kiểm điểm lại từng người trong óc và ông đều khẳng định họ đều là
những người có tinh thần kháng chiến, chẳng nhẽ nào họ lại đi làm cái điều bán nước
cầu vinh đầy nhục nhã ấy. Cái tin làng ông theo giặc đã thành một sự ám ảnh, day dứt
trong tâm trí khiến ông chẳng dám bước chân ra đến ngoài. Ông thu mình lại, cảm thấy
đầy tuyệt vọng như thể chính bản thân ông cũng là người gây nên tội.
Sự tuyệt vọng được đẩy lên tới đỉnh điểm khi mà bà chủ nhà đánh tiếng muốn đuổi gia
đình ông đi bởi "nghe nói bảo có lệnh đuổi hết những người làng chợ Dầu ra khỏi vùng
này, không cho ở nữa". Lúc này ông Hai thật rối bời, ông chẳng biết đi đâu nữa. Cái
suy nghĩ trở về làng cũng thoáng xuất hiện trong đầu nhưng ông đã gạt ngay đi bởi "về
làng tức là chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây", là bỏ kháng chiến, phản bội lại cụ
Hồ. Trong ông diễn ra một cuộc chiến đầy giằng xé nhưng cuối cùng ông vẫn phải đưa
ra một quyết định đầy đau đớn "Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải
thù". Tình yêu đất nước của ông đã bao trùm lên tinh yêu làng, thể hiện tấm lòng của
ông với cách mạng, với Tổ quốc.
Bước ngoặt của câu chuyện lại đến khi mà tin cải chính đến, làng của ông không đi
theo Tây. Lúc này ông hạnh phúc đến tột độ, cuộc đời ông như được hồi sinh lại lần
nữa: "Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên". Ông đi khắp làng trên
xóm dưới để khoe nhà của ông đã bị Tây đốt hết, đốt nhẵn. Đáng nhẽ ra tâm lý bình
thường của một người khi bị mất đi thứ tài sản lớn như ngôi nhà thì sẽ buồn bã, đau
lòng, thế nhưng ông Hai lại tràn ngập niềm vui khi nhận được tin này. Bởi thông tin này
đến khiến ông thoát khỏi cái tên"người làng Việt gian", nó khẳng định rằng làng ông vẫn
một lòng đứng về kháng chiến, ủng hộ cách mạng... Và giờ đây, ông lại tiếp tục được
khoe với mọi người về ngôi làng mà ông rất đỗi tự hào. Sự bất hợp lý ấy lại trở nên vô
cùng hợp lý, thể hiện sự tài tình của nhà văn Kim Lân.
Truyện ngắn "Làng" được nhà văn Kim Lân vận dụng đầy sáng tạo với những tình
huống kịch tính, ngôn ngữ bình dị, khả năng miêu tả tâm lý nhân vật để đẩy ông Hai
vào sự bế tắc và rồi làm nổi bật lên được tâm hồn và tình yêu làng quê, đất nước của
nhân vật này. Qua hình tượng ông Hai, người ta đã thấy một hình ảnh tiêu biểu cho
những người nông dân Việt Nam trong cuộc chiến giành độc lập của dân tộc.