-
Thông tin
-
Quiz
Phân tích nhân vật Vũ Nương - Ngữ Văn 9
Nền văn học trung đại Việt Nam của chúng ta từ thế kỷ X đến XIX đã ghi dấu thành tựu bởi các tác phẩm thơ xuất sắc, tiêu biểu như ‘’Truyện Kiều’’ của đại thi hào Nguyễn Du, ‘’Lục Vân Tiên’’ của Nguyễn Đình Chiểu, ... Nhưng nói như thế không có nghĩa rằng trong giai đoạn này nền văn học nước ta không có tác phẩm văn xuôi nào đáng chú ý, bởi Nguyễn Dữ với tập Truyền kỳ mạn lục đã mang tới một cái nhìn mới, và đem một thể loại mới mang tên ‘’truyền kì’’ vào nền văn học nước nhà. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !
Văn mẫu 9 360 tài liệu
Ngữ Văn 9 830 tài liệu
Phân tích nhân vật Vũ Nương - Ngữ Văn 9
Nền văn học trung đại Việt Nam của chúng ta từ thế kỷ X đến XIX đã ghi dấu thành tựu bởi các tác phẩm thơ xuất sắc, tiêu biểu như ‘’Truyện Kiều’’ của đại thi hào Nguyễn Du, ‘’Lục Vân Tiên’’ của Nguyễn Đình Chiểu, ... Nhưng nói như thế không có nghĩa rằng trong giai đoạn này nền văn học nước ta không có tác phẩm văn xuôi nào đáng chú ý, bởi Nguyễn Dữ với tập Truyền kỳ mạn lục đã mang tới một cái nhìn mới, và đem một thể loại mới mang tên ‘’truyền kì’’ vào nền văn học nước nhà. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !
Tài liệu khác của Ngữ Văn 9
Preview text:
Phân tích nhân vật Vũ Nương
Nền văn học trung đại Việt Nam của chúng ta từ thế kỷ X đến XIX đã ghi dấu
thành tựu bởi các tác phẩm thơ xuất sắc, tiêu biểu như ‘’Truyện Kiều’’ của đại thi hào
Nguyễn Du, ‘’Lục Vân Tiên’’ của Nguyễn Đình Chiểu, ... Nhưng nói như thế không có
nghĩa rằng trong giai đoạn này nền văn học nước ta không có tác phẩm văn xuôi nào
đáng chú ý, bởi Nguyễn Dữ với tập Truyền kỳ mạn lục đã mang tới một cái nhìn mới,
và đem một thể loại mới mang tên ‘’truyền kì’’ vào nền văn học nước nhà. Trong hai
mươi truyện của tác phẩm này ‘’Chuyện người con gái Nam Xương’’ là truyện thứ
mười sáu, kể về cuộc đời và số phận của Vũ Nương-một người phụ nữ đẹp người,
đẹp nết nhưng số phân lại hẩm hiu.
“Chuyện người con gái Nam Xương” kể về một thiếu phụ mang tên Vũ Thị Thiết.
Đó là người con gái thùy mị nết na mà còn có tư dung tốt đẹp. Lấy chồng là Trương
Sinh chưa được bao lâu thì chàng phải đi lính, nàng ở nhà phụng dưỡng mẹ già và
nuôi con nhỏ.Để dỗ con, lúc tối nàng thường chỉ bóng mình trên tường mà bảo đó là
cha nó.Khi Trương Sinh về, lúc đó mẹ già đã mất, đứa con bấy giờ đang tập nói, ngây
thơ kể với chàng về người đêm đêm vẫn đến nhà chàng. Tính vốn đã hay ghen, nay
thêm hiểu lầm, Trương Sinh mắng nhiếc đuổi vợ đi. Uất ức, Vũ Nương chạy ra bến
Hoàng Giang tự vẫn. Khi Trương Sinh hiểu ra nỗi oan của vợ thì đã muộn, chàng lập
đàn giải oan cho vợ. ‘’Chuyện người con gái Nam Xương ‘’ được lấy cảm hứng từ
truyện cổ tích ‘’Vợ chàng Trương’’, nhưng qua bàn tay tác giả ‘’Chuyện người con gái
Nam Xương’’ phức tạp hơn về tình tiết và sâu sắc hơn về cảm hứng nhân văn.
Mở đầu Nguyễn Dữ đã kéo léo giới thiệu Vũ Nương là một cô gái tài đức vẹn
toàn, công dung ngôn hạnh, chẳng hề khiếm khuyết “tính đã thùy mị nết na lại thêm
tư dung tốt đẹp”. Chỉ với vài từ ngắn gọn hình ảnh Vũ Nương đã hiện lên là một cô
gái có dung nhan xinh đẹp, lại còn có phẩm chất tốt đẹp cao quý, đó là vẻ đẹp vẹn
toàn. Chính vì thế nên dẫu nghèo khó nhưng Vũ Nương vẫn được Trương Sinh con
trai một nhà hào phú trong làng “xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về”, điều đó thể
hiện giá trị con người Vũ Nương, đồng thời là lòng trân trọng của Trương Sinh khi hỏi cưới nàng.
Trong tác phẩm vẻ đẹp ngoại hình của Vũ Nương chỉ được Nguyễn Dữ giới thiệu
sơ lược, sau đó ông tập trung miêu tả vẻ đẹp phẩm chất. Ở vai trò người vợ,nàng hết
mực yêu thương và lo lắng cho chồng, biết ’’Trương có tính đa nghi, đối với vợ thì
phòng ngừa quá sức ’’ thế nên trong cuộc sống vợ chồng nàng luôn ‘’ giữ gìn khuôn
phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa’’. Cuộc sống hạnh phúc
chưa được bao lâu thì Trương Sinh phải tòng quân đi đánh giặc. Buổi tiễn chồng đi
lính, nàng rót chén rựu đầy dặn dò những lời tình nghĩa, đằm thắm, thiết tha:’’Chàng
đi chuyến này, thiếp chẳng mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm mà trở về quê cũ,
chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi’’.Ước mong của nàng
thật đơn giản, bình dị cho thấy nàng luôn coi trọng hạng phúc gia đình mà coi
thường những công danh phù phiếm. Nàng cũng bày tỏ sự cảm thông trước những
nỗi vất vả mà chồng sẽ chịu đựng:’’Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường.
Giặc cuồn còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có mà mùa dưa
chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi oan hoài, mẹ già triền miên lo lắng’’. Qua những lời
nói dịu dàng ấy nàng đã bộc lộ nỗi khắc khoải nhớ chồng của mình:’’Nhìn trăng soi
thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rũ bãi hoang, lại thổn thức
tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh
hồng bay bổng’’.Đó là những lời nói, cách nói của một người vợ hết mực thùy mị, dịu
dàng. Trái tim ấy giàu tình yêu, biết chịu đựng những thử thách, biết đợi chờ để yên
lòng người ải xa, thật đáng trân trọng. Lúc xa chồng, Vũ Nương ngày ngày đợi chờ,
ngóng trông ‘’Giữ trọn tấm lòng đầy thủy chung, son sắt’’,’’tô son điểm phấn từng đã
nguôi lòng,ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót’’.Nỗi nhớ thương theo năm tháng
‘’Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì buồn góc bể chân trời
không thể nào ngăn được’’.Nàng vừa thương chồng, nhớ chồng, vừa thương xót bản
thân mình khi ngày ngày phải đối diện với sự cô đơn. Tâm trạng của Vũ Nương cũng
là tâm trạng của những người phụ nữ trong thời loạn lạc xưa nay.
Suốt ba năm đợi chờ, nàng ‘’buồn nhớ khôn nguôi’’, đến lúc giặc cuồn đã chịu
trói, gia đình sum vầy lại xảy ra cơ sự nàng cũng không hề oán trách. Khi bị chồng
nghi oan Vũ Nương ra sức giải thích, hàn gắn. Khi người chồng trút cơn ghen lên đầu,
nàng đã thanh minh, phân trần. Nàng đã lấy cả thân phận và tấm lòng của mình để
thuyết phục chồng ‘’Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu … cách biệt ba
năm giữ gìn một tiết … ‘’Những lời nói nhún nhường tha thiết đó cho thấy thái độ
trân trọng chồng, gia đình nhà chồng, niềm tha thiết gìn giữ gia đình của Vũ Nương.
Mặc những lời giải thích của Vũ Nương, Trương Sinh vẫn mắng nhiếc và đánh đuổi
đi. Biết hạnh phúc gia đình không thể nào hàn gắn được nữa, nàng thất vọng bất đắc
dĩ nói:’’Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã
bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết
bông hoa rụng cuốn, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại
lên núi Vọng Phu kia nữa’’. Những câu nói thể hiện sự buồn bã, tiếc nuối của Vũ
Nương trước sự tan vỡ của một gia đình mà nàng luôn giữ gìn. Thất vọng đến tột
cùng, cuộc hôn nhân đã đến độ không thể nào cứu vãn được,Vũ Nương đành phải
mượn dòng sông để giải nỗi oan cho mình. Những lời than trước khi vĩnh biệt cuộc
đời đầy đau khổ của mình như lời cầu xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất của
mình ‘’Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc,
tiếng chịu nhuốc nhơ,… ‘’. Hành động tự trầm mình của nàng là một hành động
quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự, có nỗi tuyệt vọng đắng cay, nhưng cũng có
sự chỉ đạo của lí trí. Đây không phải là hành động bột phát trong cơn nóng giận.Rồi
những năm tháng sống ở chốn làng mây cung nước sung sướng nàng vẫn khôn nguôi
nỗi thương nhớ chồng con.Vừa gặp lại Phan Lang, nghe Phan kể về tình cảnh gia đình
mình nàng đã rơi những giọt nước mắt xót thương. Mặc dù đã đặt lời thề sống chết
với Linh Phi nhưng nàng vẫn tìm cách trở về trong giây lát để đa tạ tấm lòng chồng.
Rõ ràng trái tim người phụ nữ ấy, không có chút thù hận nào, chỉ có sự yêu thương và lòng vị tha.
Trong ba năm chồng đi lính, mọi việc trong nhà đều do một tay nàng làm, nàng
vừa làm cha vừa làm mẹ vừa làm con để phụng dưỡng mẹ chồng và chăm sóc con
nhỏ. Với mẹ chồng nàng là một cô con dâu hiếu thảo. Lúc mẹ lâm bệnh nàng đã hết
sức ‘’thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời khôn khéo khuyên lơn’’. Đến khi bà mất,
nàng đá ‘’hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ
của mình.’’Cảm nhận được cái tình của người con dâu cho nên trước lúc chết người
mẹ già ấy đã trăng trối những lời yêu thương, động viên, trân trọng con dâu ‘’Sau
này, trời xét lòng thành, ban cho phúc đức giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn,
xanh kia quyết chẳng phụ lòng con như con đã chẳng phụ mẹ’’.
Với con thơ, dù Nguyễn Dữ không nhắc đến nhiều nhưng chúng ta vẫn cảm nhận
được sự yêu thương, chăm chút của nàng dành cho con. Sau khi xa chồng đầy tuần,
nàng sinh bé Đản, một mình gánh vác cả giang sơn nhà chồng nhưng chưa khi nào
nàng chểnh mảng việc con cái. Chi tiết nàng chỉ bóng mình trên vách và bảo đó là cha
Đản cũng xuất phát từ tấm lòng của người mẹ để con trai mình bớt đi cảm giác thiếu
vắng tình cảm của người cha.
Dẫu nàng có đầy đủ các phẩm chất tốt đẹp thế nhưng cuộc đời nàng lại là một chuỗi
những bất hạnh kéo dài. Cái thua thiệt đầu tiên làm nên chuỗi bất hạnh của Vũ Nương
là thua thiệt về vị thế. Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh vốn không bình
đẳng. Vũ Nương ‘’vốn con kẻ khó’’ còn Trương Sinh lại là ‘’nhà giàu’’ đến độ khi muốn
Trương Sinh có thể xin mẹ trăm lạng vàng để cưới Vũ Nương về. Sự cách biệt giàu
nghèo ấy khiến Vũ Nương sinh mặc cảm và cũng là cái thế khiến Trương Sinh có thể
đối xử thô bạo, gia trưởng với nàng. Vũ Nương không chỉ là nạn nhân của chế độ
phong kiến phụ quyền mà còn là nạn nhân của chiến tranh phong kiến, của cuộc nội
chiến huynh đệ tương tàn. Nàng lấy Trương Sinh, cuộc sống hạnh phúc, vợ chồng
kéo dài chưa được bao lâu thì chàng phải đi lính để lại mình Vũ Nương với mẹ già và
đứa con còn chưa chào đời. Suốt ba năm, nàng phải gánh vác trọng trách gia đình,
thay chồng phụng dưỡng mẹ già, chăm sóc con thơ, phải sống trong nỗi nhớ chồng
triền miên theo năm tháng. Chiến tranh đã làm xa cách, tạo điều kiện cho sự hiểu
lầm trở thành nguyên nhân gây bất hạnh. Đó cũng là ngòi nổ cho thói hay ghen, đa
nghi của Trương Sinh nảy nở, phát triển, dẫn đến cái chết oan uổng của Vũ Nương.
Đỉnh điểm là khi gia đình tan vỡ, Vũ Nương phải tự vẫn. Dẫu là người vợ thủy chung
nhưng lại gặp phải nỗi oan lạ lùng, xuất phát từ lời nói vô thưởng vô phạt của đứa
con nhỏ, bị chồng ruồng rẫy ghen tuông, phải tự tử để chứng minh cho tấm lòng thanh bạch.
Yếu tố kỳ ảo đã giúp nàng được sống, tăng sự li kì cho tác phẩm; giúp cho nét đẹp
của Vũ Nương trở nên hoàn thiện hơn, một người ở thế giới khác nhưng vẫn quan
tâm đến chồng con, nhà cửa, phần mộ tổ tiên, khao khát được phục hồi danh dự, và
đồng thời thể hiện niềm cảm thương của tác giả đối với sự bi thảm của người phụ nữ
trong xã hội phong kiến. Ta cũng phải kể đến chi tiết cái bóng là nút thắt của toàn bộ
câu truyện. Cái bóng là đầu mối, điểm nút của câu chuyện; nhấn mạnh tính cách của
từng nhân vật; bé Đản hồn nhiên,ngây thơ; Trương Sinh hồ đồ, đa nghi; Vũ Nương
dịu dàng yêu thương chồng con, và góp phần tố cáo xã hội phong kiến tàn bạo, khiến
hạnh phúc của người phụ nữ hết sức mong manh
Nguyễn Dữ đã cho nàng một cái kết có hậu, thế nhưng sâu xa cái kết ấy vẫn
không làm giảm tính chất bi kịch của tác phẩm. Bởi tuy được sống cuộc sống an
nhàn, giàu sang dưới thủy cung, thế nhưng Vũ Nương lại phải chịu nỗi cô đơn,
thương chồng, nhớ con mà không thể trở về, chỉ có thể nói lời cảm tạ rồi biến mất.
Như vậy nàng đã không phút nào có được hạnh phúc thực sự, bởi ở xã hội phong
kiến hạnh phúc không dành cho những người phụ nữ như Vũ Nương, hạnh phúc là
cái gì đó quá xa vời, dễ dàng vì một lời bâng quơ mà tan biến thành hư vô. Đó là bất
hạnh chung của thân phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến hà khắc, bảo thủ.
Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, “Chuyện
người con gái Nam Xương” thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt
của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ đẹp
truyền thống của họ. Tác phẩm là một áng văn hay, thành công khi xây dựng một câu
truyện đầy cảm xúc, miêu tả nàng Vũ Nương xinh đẹp thùy mị, kết hợp nghệ thuật
kể chuyện cuốn hút và yếu tố trữ tình cảm động.