-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Phân tích nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương | Văn mẫu lớp 9
Vũ Nương là một trong những nhân vật tiêu biểu, đại diện cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa. Với 21 bài văn Phân tích nhân vật Vũ Nương hay nhất dưới đây sẽ giúp các em thấy rõ những oan khuất, bất công, cùng nỗi đau tột cùng mà nàng phải gánh chịu.
Preview text:
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
Sơ đồ tư duy Phân tích nhân vật Vũ Nương
Dàn ý phân tích nhân vật Vũ Nương Dàn ý 1 1. Mở bài
• Người phụ nữ bình dân có truyền thống tốt đẹp về đạo đức, phẩm chất
nhưng trong xã hội phong kiến nhưng chịu đau khổ.
• Đọc “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ ta thương nàng
Vũ Thị Thiết đã chịu đựng nỗi đau oan khuất. 2. Thân bài
- Vũ Nương, người phụ nữ đẹp người, đẹp nết
• Có tư tưởng tốt đẹp. 1
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
• Người vợ dịu hiền, khuôn phép: chồng đi xa vẫn một lòng chung thủy,
thương nhớ chồng khôn nguôi, mong chồng trở về bình yên vô sự, ngày
qua tháng lại một mình vò võ nuôi con.
• Người con dâu hiếu thảo: chăm nuôi mẹ chồng lúc đau yếu, lo việc ma
chay, tế lễ chu toàn khi mẹ chồng mất.
- Nỗi đau, oan khuất của nàng:
• Người chồng đa nghi vì nghe lời con trẻ ngây thơ nên nghi oan, cho rằng nàng đã thất tiết.
• Nàng đau khổ, khóc lóc bày tỏ nỗi oan với chồng nhưng chồng vẫn không
nghe còn mắng nhiếc, đánh và đuổi nàng đi.
• Không thể thanh minh được, nàng tìm đến cái chết để tỏ bày nỗi oan ức của mình.
• Khi chết rồi Vũ Nương vẫn thiết tha với gia đình, muốn trở về quê cũ.
• Ở thuỷ cung, nàng vẫn nhớ quê hương, có ngày tất phải tìm về.
• Tìm về là để giải bày nỗi oan với chồng, với mọi người.
• Nhưng nàng không thể trở về với nhân gian được nữa. 3. Kết bài
• Vũ Nương tiêu biểu cho số phận bi thảm của người phụ nữ trong xã hội cũ.
• Nhân vật Vũ Nương để lại trong lòng người đọc nỗi cảm thương sâu sắc. Dàn ý 2 1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Dữ, “Chuyện người con gái Nam Xương” và vẻ đẹp,
số phận bi kịch của Vũ Nương. 2
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương 2. Thân bài
a. Vẻ đẹp của Vũ Nương
• Vũ Nương là cô gái xinh đẹp: tư dung tốt đẹp.
• Là cô gái có đức tính tốt đẹp: thùy mị, nết na.
→ Khiến chàng Trương đem lòng yêu mến và cưới về làm vợ.
• Ngày chồng tòng quân: nàng đau lòng, dặn dò và mong chồng bình an trở về.
• Khi chồng ra trận: ở nhà một lòng một dạ chăm sóc con trai và chăm sóc
mẹ chồng những ngày cuối đời.
→ Là người vợ hiền lành, đảm đang, đầy đủ “công - dung - ngôn - hạnh” đáng ngưỡng mộ.
→ Là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ với những phẩm hạnh tốt đẹp.
b. Số phận bi kịch của Vũ Nương
• Nguyên nhân: khi chồng bế con ra thăm mộ mẹ, đứa nhỏ đã tiết lộ bố nó
đêm nào cũng đến thăm nó → Trương Sinh đem lòng nghi ngờ, ghen tuông.
• Khi Trương Sinh về nhà đã chửi mắng nàng và đuổi nàng đi mặc cho nàng van xin và thanh minh.
→ Người phụ nữ không được tự quyết định số phận của mình mà phải phụ
thuộc vào người đàn ông tỏng gia đình. Tuy mình bị oan nhưng không được thanh minh.
Để chứng minh tấm lòng chung thủy của mình Vũ Nương đã nhảy sông tự tử. 3
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
→ Đau khổ, xót thương trước số phận bất hạnh của nàng sau những điều tốt đẹp
nàn dã làm cho nhà chồng.
Sau này, khi Trương Sinh hiểu ra oan khuất của nàng đã vô cùng đau xót nhưng
nàng không thể trở về nhân gian được nữa mà mãi ở lại nơi thủy cung. → Đây
được coi là cái kết vừa có hậu vừa đoản hậu của Vũ Nương: có hậu vì cuối cùng
nàng cũng được minh oan và khiến cho người làm nàng đau khổ là Trương Sinh
nhận ra lỗi lầm, ân hận về lỗi lầm đó; đoản hậu vì nàng không được quay lại
nhân gian để sống tiếp kiếp người, để nhận lại phúc đức sau những nghĩa cử cao đẹp nàng đã làm. 3. Kết bài
Khẳng định lại vẻ đẹp, số phận của Vũ Nương và giá trị của tác phẩm. Dàn ý 3 I. Mở bài
● Giới thiệu nhà văn Nguyễn Dữ, tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”.
● Giới thiệu về nhân vật Vũ Nương - nhân vật chính của truyện. II. Thân bài
1. Hoàn cảnh sống của Vũ Nương
● Xã hội phong kiến Nam quyền với những bất công với người phụ nữ.
● Chiến tranh loạn lạc xảy ra chia cắt nhiều gia đình.
2. Vẻ đẹp của Vũ Nương 4
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
● Vũ Nương là người vợ hiền, khuôn phép: biết chồng đa nghi nên hết sức
giữ gìn khuôn phép, khi chồng phải đi lính thì không mong công danh mà
chỉ hy vọng chồng trở về bình an, hết lòng chung thủy chờ đợi chồng.
● Vũ Nương là người con dâu hiếu thảo, người vợ yêu thương con hết mực:
chăm sóc mẹ chồng lúc ốm đau, khi mẹ chồng chết lo tang như đối với
mẹ đẻ, thương con phải xa cha từ nhỏ…
3. Số phận của Vũ Nương
● Không được quyết định cuộc đời mà phải chịu sự sắp xếp của cha mẹ:
hôn nhân không môn đăng hộ đối.
● Lấy chồng nhưng phải chịu sự chia ly bởi chiến tranh.
● Bị chồng nghi là thất tiết, phải lấy cái chết để chứng minh sự trong sạch.
● Khi chết rồi, muốn trở về bên gia đình nhưng không được nữa. 4. Nghệ thuật
● Nghệ thuật kể chuyện độc đáo cho thấy chân dung người phụ nữ với vẻ đẹp toàn diện.
● Nghệ thuật xây dựng nhân vật: miêu tả tâm lí, nội tâm nhân vật Vũ
Nương thông qua đối thoại, độc thoại…
● Yếu tố kì ảo góp phần xây dựng cốt truyện. III. Kết bài
● Vũ Nương là nhân vật tiêu biểu cho người phụ nữ trong xã hội cũ.
● “Chuyện người con gái Nam Xương” nói riêng, “Truyền kì mạn lục” nói
chung gửi gắm nhiều ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Phân tích nhân vật Vũ Nương ngắn gọn 5
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
Nguyễn Dữ là một người học rộng tài cao sống ở thế kỉ XVI. “ Truyền kì mạn
lục” là truyện đặc sắc của ông, trong đó “ Chuyện người con gái Nam Xương”
trích trong tác phẩm là truyện vô cùng hay và đặc sắc. Truyện đã xây dựng nhân
vật Vũ Nương với vẻ đẹp và số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Trước tiên, vẻ đẹp của Vũ Nương được thể hiện qua lời giới thiệu ngay từ đầu
của Nguyễn Dữ. Vũ Nương là người con gái thùy mị nết na, tư dung tốt đẹp. Có
thể nói, Nguyễn Dữ đã giới thiệu Vũ Nương là người con gái có vẻ đẹp một
cách toàn diện, không chỉ vẻ đẹp bên ngoài mà cả phẩm chất bên trong. Về vẻ
đẹp phẩm chất của Vũ Nương thể hiện qua mỗi mốc thời gian cụ thể. Khi lấy
chồng, nàng là một người con gái khéo léo, tế nhị. Trương Sinh trưởng giả hay
ghen, VN lại xinh đẹp nhưng nàng biết tính chồng luôn nhẫn nhịn để cuộc sống
gia đình luôn hòa thuận.
Khi chồng đi lính, nàng là một người vợ chu đáo, giàu đức tính hy sinh, yêu
thương chồng, chung thủy. Trước khi chồng đi lính nàng ân cần, dặn dò kĩ
lưỡng, không mong vinh hiển, chỉ cầu chồng bình an, cảm thông nỗi vất vả,
gian lao của chồng, không hề nghĩ tới bản thân, thể hiện nỗi khắc khoải nhớ
mong. Khi chồng vắng nhà, buồn nhớ chồng: “ Mỗi khi bướm lượn đầy vườn,
mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được” Kể cả
khi bị chồng ruồng rẫy, nghi oan, chết vì bực tức vậy mà vẫn nghĩ đến chồng:
gửi Phan Lang thoa vàng làm tin.
Là người phụ nữ đảm đang, lo toan gia đình với gánh nặng mẹ già, con nhỏ. Khi
chồng vắng nhà, nàng đã một mình sinh con, chăm sóc con và yêu thương hết
mực. Hằng đêm, chỉ cái mình trên tường để dỗ dành con nói đấy là cha của nó.
Nàng còn là người con hiếu thảo. Khi chồng đi vắng, tận tình chăm sóc mẹ
chồng già yếu, ốm đau. Nàng lo chạy chữa thuốc thang cho mẹ qua khỏi, thành
tâm lễ bái thần phật. Khi mẹ mất thì ma tang, thương xót như bố mẹ đẻ. Cuối
cùng Vũ Nương là người phụ nữ nhẫn nhịn, biết vươn tới lẽ công bằng.Khi 6
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
chồng nghi oan, lời phân vua vẫn thấu tình đạt lý, thân phận vợ chồng tình
nghĩa, k/định sự chung thủy.Lời nguyền trước khi chết để chứng minh sự thủy
chung của mình. Lời nhắn gửi lập đàn giải oan.Có thể nói Vũ Nương là người
phụ nữ hoàn hảo, lý tưởng của mọi gia đình, là khuôn vàng thước ngọc của mọi người phụ nữ
Nhưng Vũ Nương trong tác phẩm lại mang một số phận bất hạnh. Ngay khi mở
đầu, nàng đã mang số phận cô đơn, buồn tủi khi chồng đi lính. Vừa mới lấy
nhau chưa được bao lâu thì Trương Sinh đi lính. Người phụ nữ ấy phải xa chồng
một quãng thời gian dài ba năm. Trong khoảng thời gian ấy, Vũ Nương đã chu
toàn hết mọi việc trong gia đình. Nhưng trong nàng vẫn mang sự cô đơn, thiếu
bóng hình chống. Chi tiết cái bóng trong truyện không chỉ để nói về sự quan
tâm của Vũ Nương với bé Đản để mong con có một người cha. Mà chi tiết này
nói đến nỗi nhớ chồng của nàng. Vũ Nương còn mang số phận bất hạnh khi
nàng bị chồng nghi oan có người khác. Khi Trương Sinh trở về, nghe lời con
thơ, chàng ta đã nghi ngờ vợ thất tiết. Vũ Nương mặc dù đã giải thích bằng tình
nghĩa vợ chồng nhưng Trương Sinh không nghe. Nàng đã chọn cái chết đã
chứng minh sự trong sạch của bản thân. Nhưng chính sự trong sạch của nàng,
mà nàng đã không chết mà ở dưới thủy cung. Và chi tiết cuối, nàng đã được trở
về gặp lại chồng con lần cuối và được minh oan cho chính bản thân mình.
Vũ Nương mang vẻ đẹp và phẩm chất đáng quý của người phụ nữ trong xã hội
phong kiến. Nhưng nàng lại chịu một số phận vô cùng bất hạnh. Số phận của
Nàng thật đáng thương. Qua nhân vật Vũ Nương, tác giả đã tố cáo xã hội phong
kiến nam quyền đầy bất công với người phụ nữ và bày tỏ niềm cảm thương với số phận của họ.
Phân tích Vũ Nương hay nhất 7
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
"Truyền kì mạn lục" là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của văn học
Việt Nam thời trung đại. Với thiên truyện thứ mười sáu mang tên "Chuyện
người con gái Nam Xương", Nguyễn Dữ đã khắc họa thành công hình ảnh của
Vũ Nương. Nàng đã hiện lên cùng bao phẩm chất đáng quý. Từ đó, thể hiện thái
độ hết sức trân trọng và yêu thương của tác giả dành cho những người phụ nữ trong xã hội xưa.
Vũ Nương được giới thiệu là một người phụ nữ "tính đã thùy mị nết na, lại thêm
tư dung tốt đẹp". Tuy nhiên, nàng lại là "con kẻ khó". Trương Sinh - chồng
nàng, xuất thân trong gia đình giàu có, nhưng lại là kẻ ít học. Có lẽ, chính sự
khác biệt đó là nguồn cơn gây ra bi kịch của người phụ nữ này.
Trước tiên, Vũ Nương hiện lên là một người vợ tần tảo, thủy chung, yêu thương
gia đình. Biết chồng có tính hay ghen, nàng hết mực giữ gìn khuôn phép,
"không từng để lúc nào vợ chồng phải đến bất hòa". Trước khi chồng đi tòng
quân, nàng rót chén rượu mà trải lòng: "chẳng dám mong đeo được ấn phong
hầu, mặc áo gấm", chỉ mong chồng mình có thể bình yên mà trở về. Hạnh phúc
mà nàng hướng đến chính là sự sum vầy, đoàn tụ của gia đình.
Tiếp đó, có thể thấy Vũ Nương là người con dâu hiếu thảo cũng như một người
mẹ hết mực thương yêu con. Chồng đi lính, một mình Vũ Nương phải gánh vác
tất cả việc lớn nhỏ trong nhà. Nàng hết lòng chăm sóc mẹ chồng, vừa thuốc
thang, vừa cúng bái thần phật khi bà đau ốm. Điều này được thể hiện qua lời bà
mẹ dành cho đứa con dâu hiếu thuận: "Sau này, trời xét lòng thành, ban cho
phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ
con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ". Bên cạnh đó, Vũ Nương đã lấy cái bóng
của mình để khỏa lấp chỗ trống của người cha trong lòng đứa con thơ. Nàng
luôn muốn dành những gì tốt đẹp nhất cho đứa con thơ. Chỉ một vài chi tiết đó
thôi cũng đủ thấy được Vũ Nương là người phụ nữ đức hạnh, hiếu thuận, giàu tình yêu thương. 8
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
Ngoài ra, Vũ Nương còn là một con người trọng danh dự, sống ơn nghĩa, có
trước có sau. Khi bị chồng nghi ngờ, nàng đã hết lời giải thích. Nàng đau khổ
khi bao công sức mình bỏ ra để vun vén cho gia đình giờ đây phải đổ vỡ.
Trương Sinh gán cho vợ cái danh thất tiết - một tội lỗi tày đình đối với người
phụ nữ trong xã hội phong kiến. Để chứng minh sự trong sạch, nàng không còn
cách nào khác ngoài lựa chọn quyên sinh. Đây là hành động vô cùng quyết liệt,
thể hiện quyết tâm lấy lại danh dự của Vũ Nương. Đến khi được giải oan, nàng
cũng không lựa chọn trở về đoàn tụ bên chồng con. Nàng đã chịu ơn cứu mạng
của Linh Phi, "thề sống chết không bỏ". Đó chính lối sống ơn nghĩa đáng quý
mà ta thấy được ở nhân vật.
Vậy nhưng số phận của người phụ nữ đức hạnh ấy lại gặp đầy bi kịch. Chỉ vì lời
nói ngây thơ của đứa con nhỏ, Trương Sinh đã vô cớ nghi oan cho vợ mình. Vũ
Nương bị chồng mắng nhiếc, đuổi đánh dù đã hết mực giải thích. Chính sự gia
trưởng, ghen tuông vô cớ của người đàn ông đã gây nên cái chết đầy thương
tâm của người phụ nữ. Ở đoạn cuối truyện, nàng được giải oan - một cái kết có
hậu. Nhưng dường như kết thúc đó vẫn ẩn chứa bi kịch đau đớn: Vũ Nương
không trở về đoàn tụ với chồng con mà lựa chọn ở lại dưới thủy cung. Đây
chính là cách tác giả lên án xã hội phong kiến đầy rẫy bất công.
Có thể nói, Vũ Nương chính là hình mẫu tiêu biểu cho người phụ nữ trong xã
hội phong kiến. Nàng xinh đẹp, đức hạnh, hết lòng với gia đình, lại thêm sự
trọng danh dự, sống thủy chung, ơn nghĩa. Qua nhân vật, tác giả đã thể hiện sự
trân trọng cũng như xói thương cho những con người nhỏ bé. Đồng thời, chê
trách chế độ nam quyền hà khắc, cổ hủ.
Phân tích nhân vật Vũ Nương - Mẫu 1
"Truyền kì mạn lục" là một tác phẩm văn xuôi có giá trị của văn học cổ nước ta
ở thế kỉ XVI, một tập truyện văn xuôi đầu tiên viết bằng chữ Hán ở Việt Nam. 9
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
"Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ, tác phẩm truyền kì mạn
lục là một tác phẩm hay trong tập truyện đó. Nhân vật chính là Vũ Nương, một
phụ nữ đẹp người, đẹp nết đã phải lấy cái chết để minh oan trước sự ghen tuông vô cớ của chồng mình.
Có thể nói Nguyễn Dữ là tác giả văn xuôi tiêu biểu của văn học cổ thế kỉ XVI.
Hình ảnh người con gái Nam Xương là nhân vật từng có ảnh hưởng sâu sắc đến
lòng người mọi thời. Lê Thánh Tông đã từng xúc động viết trong bài thơ "Miếu vợ chàng Trương":
"Nghi ngút đầu ghềnh toả khói hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương..."
Câu chuyện về Vũ Nương phản ánh cuộc đời đau khổ và bi thảm của Vũ Nương
- người phụ nữ dưới chế độ xã hội phong kiến. Người vợ phải tự vẫn để minh
oan cho sự thuỷ chung của mình. Tác phẩm nêu cao chủ nghĩa nhân đạo khiến
ta xúc động khi về nhân vật Vũ Nương trong truyện. Trước hết, đọc truyện,
người đọc càng thương cho thân phận Vũ Nương và dễ dàng nhận thấy được Vũ
Nương là một người phụ nữ nết na, đức hạnh, đối xử với mẹ chồng và chồng rất
phải đạo; là người vợ rất mực đảm đang, nhân hậu, giàu đức khiêm tốn.
Có tư dung tốt đẹp, nhưng trong cuộc sống gia đình, nàng can tâm làm một
người vợ hiền, ngoan nết "chẳng lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà", và cho dù
Trương Sinh, chồng của nàng, tuy là con nhà hào phú, lại ít học, đa nghi quá sức.
Sự khiêm nhường, cam chịu của Vũ Nương là điều kiện tạo nên sự đầm ấm của
gia đình, mặc cho chế độ nam quyền độc đoán đè nặng trong đầu óc kẻ vị kỉ ít học như chồng mình.
Nếu lấy sự kiện ngày Trương Sinh đi lính thú thì hành động và lời lẽ đưa tiễn
chồng của người vợ hiền, lời thiết tha cầu mong của Vũ Nương: "Chẳng mong
chàng áo gấm trở về quê cũ, chỉ mong được hai chữ bình yên thế là đủ rồi"..., 10
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
"thư tín nghìn hàng, áo rét gửi người ải xa...", là chi tiết cho cái "công-dung-
ngôn-hạnh" mà Vũ Nương đã làm được một cách chân thành.
Thế rồi, nỗi nhớ nhung, sự cô đơn, giữ mình của người vợ trẻ càng khiến chúng
ta phải ca ngợi con người nhân hậu và đảm đang đó. Tính cách cao đẹp của Vũ
Nương còn là lòng hiếu thảo với mẹ chồng, lòng chung thuỷ son sắt với chồng của nàng.
Khi chồng vào lính, Vũ Nương một mình đảm đang, nuôi dạy con thơ, chăm sóc
thuốc thang cho mẹ chồng đau yếu, làm ma chay tống tang khi mẹ chồng qua
đời. Vũ Nương giữ tròn hiếu đạo với mẹ chồng, giữ tròn tình nghĩa với chồng.
Cái thói đời xưa nay thường không thể hoà hợp giữa mẹ chồng nàng dâu, nhất là
trong gia đình phong kiến. Thế nhưng, dù chỉ có hai mẹ con sống với nhau (Vũ
Nương với mẹ chồng) nhưng nàng xem mẹ chồng như mẹ đẻ, điều đó còn được
thể hiện qua lời trăng trối của mẹ chồng nàng trước khi bà qua đời: "Xanh kia sẽ
chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ ..."
Rồi sự chu đáo của Vũ Nương trong việc ma chay, cúng lễ đã thể hiện tấm lòng
thơm thảo của người con dâu đáng quý như Vũ Nương. Lòng chung thuỷ của
Vũ Nương còn được thể hiện ở hành động nuôi con, chờ chồng suốt những
tháng ngày Trương Sinh đi lính mà chưa rõ mặt con. Chỉ có hai mẹ con côi cút
đùm bọc, gắn bó. Cậu bé Đản thơ ngây, đêm đến được mẹ chỉ vào cái bóng của
mình trên tường gọi là cha (đó là một cách dỗ dành con ngủ thật hồn nhiên
nhưng sau đó lại là nguyên nhân gây ra cái tội thật vô tình).
Nỗi hàm oan không được quyền nói, suy xét cho ra là bởi con người độc đoán,
phàm phu lại kém văn hoá như Trương Sinh khi chàng ra lính trở về (nghe lời
đứa con non dại) đã gây nên nỗi oan tày trời cho Vũ Nương. Bị chồng ghen
tuông vô cớ, bao nhiêu lời giãi bày của Vũ Nương và lời khuyên ngăn của láng
giềng, bà con, cô bác, Trương Sinh vẫn không tin và đinh ninh là "vợ hư, mối 11
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
nghi ngờ càng ngày càng lún sâu không có cách gì gỡ ra được. Chàng mắng
nhiếc vợ thật thậm tệ rồi "đánh đuổi nàng đi". Vũ Nương không hề có lỗi lầm gì,
nàng thuỷ chung, trinh trắng, đức hạnh vẹn toàn nhưng sự đối xử của chồng làm
cho nàng hoàn toàn thất vọng, không hiểu nỗi oan khuất từ đâu mà ra. Không có
cách nào để giãi bày, thất vọng bởi hạnh phúc - niềm vui "nghi gia nghi thất"
không còn nữa, nàng phải tìm đến cái chết để minh oan. Hành động tự vẫn là
thái độ cuối cùng nàng được phép bởi không thể giải bày được với chồng, tiết
hạnh của nàng sẽ bị hoen ố, biết bao giờ phai mờ đi trong tâm trí của chồng.
Một người vợ hiền lành, đầy tiết nghĩa, thuỷ chung phải chết dẫu không có tội
tình gì. Mãi đến sau cái chết đó, người chồng mới hiểu nỗi oan ức của vợ mình.
Chính sự độc đoán của người đàn ông trong gia đình phong kiến mà Nho giáo
nuôi dưỡng dung túng là đề tài mà Nguyễn Dữ muốn phê phán.
Bởi không chỉ hình ảnh nhân vật Vũ Nương, mà còn biết bao thân phận phụ nữ
"Bảy nổi, ba chìm" đã phải sống trong cảnh đời như vậy:
"Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung"
Cái chết của Vũ Nương là số phận, nhưng cũng là lời tố cáo thói ghen tuông ích
kỉ, sự hồ đồ, vũ phu của đàn ông - người chồng vô học, đa nghi như Trương
Sinh - là lời tố cáo luật lệ phong kiến hà khắc dung túng cho sự độc ác, bất công
- "chế độ nam quyền" dưới thời phong kiến ngự trị.
Vũ Nương trong truyện là một nhân vật rất đẹp, theo đúng quan niệm đặc điểm
truyền thống, nhưng phải chịu nỗi oan tày trời và phải chứng thực sự vô tội của
mình bằng cái chết. Cái chết đau đớn bất công, chỉ vì sự hiểu nhầm, từ một câu
nói thơ ngây của con trẻ mà người chồng Trương Sinh đã nghi oan, đã làm mất
đi người vợ quý trên đời. Nguyên nhân sâu xa của bi kịch nát lòng này chính là 12
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
do chiến tranh loạn lạc và lễ giáo phong kiến trọng nam quyền trong xã hội ngày trước.
Phân tích nhân vật Vũ Nương - Mẫu 2
"Chuyện người con gái Nam Xương" rút trong tác phẩm “Truyền kì mạn lục",
áng văn xuôi viết bằng chữ Hán của Nguyễn Dữ trong thế kỉ 16. Một kiệt tác
văn chương cổ được ca ngợi là “thiên cổ kì bút". Truyện kể lại một câu chuyện
truyền kì có nhiều yếu tố hoang đường lưu truyền trong dân gian về bi kịch gia
đình ở Nam Xương có dòng sông Hoàng Giang vào cuối thế kỉ 14, đầu thế kỉ
15, một thời loạn lạc, đầy biến động. Nhân vật Vũ Nương là người con gái bạc
mệnh đáng thương đó có bao phẩm chất tốt đẹp tiêu biểu cho đức hạnh của
người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa.
Tên của nàng là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, thuộc phủ Lí Nhân, tỉnh Hà
Nam ngày nay. Xuất thân trong một gia đình "kẻ khó", nhưng Vũ Nương vừa có
nhan sắc vừa có đức hạnh: "tính đã thùy mị, nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp".
Nàng là một cô gái danh giá nên Trương Sinh, con nhà hào phú "mến vì dung
hạnh" đã xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Trong đạo vợ chồng, Vũ
Nương là một người phụ nữ thông minh, đôn hậu, biết chồng có tính "đa nghi",
nàng đã "giữ gìn khuôn phép" không để xảy ra cảnh vợ chồng phải "thất hòa",
sống giữa thời loạn lạc Trương Sinh phải tòng quân đi chinh chiến ở biên ải xa
xôi. Buổi tiễn chồng ra trận, Vũ Nương đã rót chén rượu đầy chúc chồng "được
hai chữ bình yên": nàng chẳng mong được đeo ấn phong hầu mặc áo gấm trở về
quê cũ... Ước mong của nàng thật bình dị, vì nàng đã coi trọng hạnh phúc gia
đình hơn mọi công danh phù phiếm ở đời. Những năm tháng xa cách, Vũ
Nương thương nhớ chồng khôn xiết kể: "... mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn,
mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được". Tâm
trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của
những người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay: 13
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
... "Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong..." (Chinh phụ ngâm)
Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ
Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung thương nhớ đợi chờ chồng của nàng.
Vũ Nương là một phụ nữ đảm đang, giàu tình thương. Chồng ra trận mới được
một tuần thì nàng sinh ra một đứa con trai đặt tên là Đản. Mẹ chồng già yếu, ốm
đau, nàng "hết sức thuốc thang", "ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn". Vừa phụng
dưỡng mẹ già, vừa chăm sóc nuôi dạy con thơ. Lúc mẹ chồng qua đời, nàng đã
"hết lời thương xót", việc ma chay tế lễ được lo liệu, tổ chức rất chu đáo "như
đối với cha mẹ đẻ mình". Qua đó, ta thấy trong Vũ Nương cùng xuất hiện 3 con
người tốt đẹp: nàng dâu hiếu thảo, người vợ đảm đang thủy chung, người mẹ
hiền đôn hậu. Đó là hình ảnh người phụ nữ lí tưởng trong xã hội phong kiến ngày xưa.
Qua năm sau, "việc quân kết thúc, Trương Sinh từ miền xa chinh chiến trở về.
Thế nhưng, Vũ Nương không được hưởng hạnh phúc trong cảnh vợ chồng sum
họp. Chỉ vì chuyện chiếc bóng qua miệng đứa con thơ mới tập nói, mà Trượng
Sinh đinh ninh là vợ hư, đã "mắng nhiếc" và "đánh đuổi đi". Vốn là một kẻ vô
học lại hồ đồ vũ phu. Trương Sinh đã bỏ ngoài tai mọi lời "bày tỏ" của vợ, mọi
sự "biện bạch" của họ hàng làng xóm. Vũ Nương đã bị chồng đẩy vào bi kịch,
bị vu oan là người vợ "mất nết hư ân”. Vũ Nương phải nhảy xuống sông Hoàng
Giang tự tử để tỏ rõ là người phụ nữ "đoan trang giữ tiết, minh bạch gìn lòng",
mãi mãi soi tỏ với dời "vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin là cỏ
Ngu Mĩ". Bi kịch Vũ Nương là bi kịch gia đình từ chuyện chồng con, nhưng
nguyên nhân sâu xa là do chiến tranh loạn lạc đã gây nên. Chỉ một thời gian 14
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
ngắn, sau khi Vũ Nương tự tử, một đêm khuya dưới ngọn đèn, chợt đứa con nói
rằng: "Cha Đản lại đến kia kìa!". Lúc bấy giờ Trương Sinh "mới tỉnh ngộ thấu
nỗi oan của vợ, nhưng việc trót đã rồi. Người đọc xưa nay cũng chỉ biết thở dài,
cùng Nguyễn Dữ xót thương cho người con gái Nam Xương và bao phụ nữ bạc
mệnh khác trong cõi đời. Vũ Nương tự tử, nàng cũng chẳng oán chồng con "rày
xin chén nước cho người thác oan" (Truyện Kiều).
Phần cuối truyện đậm đặc tính chất hoang đường. Nào là Phan Lang nằm mộng
thấy người con gái áo xanh đến kêu xin tha mạng. Phan Lang được biếu một
con rùa mai xanh nhưng không giết thịt mà đem thả con rùa xuống sông. Nào là
Phan Lang bị chết đuối, xác giạt vào động rùa ở hải đảo. Linh Phi vợ vua biển
Nam Hải lấy khăn dấu mà lau, thuốc thần mà đổ. Phan Lang sống lại. Linh Phi
mở tiệc ở gác Triêu Dương để thết đãi Phan Lang, ân nhân cứu sống mình ngày
xưa. Tình tiết Phan Lang gặp Vũ Nương tại bữa tiệc của Linh Phi. Vũ Nương
khóc khi nghe Phan Lang nhắc lại nhà cửa, phần mộ của tiền nhân. Tình tiết Vũ
Nương gửi Phan Lang chiếc hoa tai vàng và dặn chồng lập đàn tràng ở bến
Hoàng Giang. Hình ảnh Vũ Nương ngồi kiệu hoa, phía sau có năm mươi chiếc
xe cờ tán võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện... là những chi tiết hoang
đường, nhưng đã tô đậm nỗi đau của người phụ nữ bạc mệnh... yên phận hẩm
hiu, và có giá trị tố cáo lễ giáo phong kiến vô nhân đạo. Câu nói của ma Vũ
Nương giữa dòng sông vọng vào: "Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân
gian được nữa" đã làm cho giá trị nhân đạo của truyện thêm phần bi thiết. Nỗi
ân tình của Vũ Nương đã được minh oan và giải tỏa? nhưng âm - dương đã đôi
đường cách trở, nàng chẳng thể trở lại dương gian, chẳng bao giờ còn được làm
vợ, làm mẹ nữa. Bé Đản mãi mãi là đứa con mồ côi mẹ.
Tóm lại, Vũ Nương là một người con gái dung hạnh mà bạc mệnh. Nguyễn Dữ
đã kể lại cuộc đời oan khổ của nàng với bao tình xót thương sâu sắc. Tuy mang
yếu tố hoang đường, nhưng áng văn "Chuyện người con gái Nam Xương" giàu
giá trị nhân đạo. Nhân vật Vũ Nương là một điển hình cho bi kịch của người 15
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
phụ nữ trong gia đình và xã hội. Người đọc càng thêm xúc động khi nhớ lại vần
thơ của vua Lê Thánh Tông trong bài "Lại bài viếng Vũ Thị”:
... "Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng..."
Phân tích nhân vật Vũ Nương - Mẫu 3
“Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong những tác phẩm đặc sắc của
nhà văn Nguyễn Dữ. Qua truyện này, nhà văn đã xây dựng hình ảnh Vũ Nương
- nhân vật chính của truyện với cuộc đời đầy bất hạnh.
Chỉ với vài lời giới thiệu đơn giản, Nguyễn Dữ đã khắc họa cho người đọc thấy
được hình ảnh một người phụ nữ mang đậm nét đẹp truyền thống. Vũ Nương
khiến người đọc cảm thấy yêu mến không chỉ bởi vẻ ngoài xinh đẹp mà còn vì
nét đẹp trong tâm hồn. Nàng là một người vợ hiểu chuyện, biết lễ nghĩa. Khi
biết chồng có tính đa nghi, luôn phòng ngừa vợ quá mức nhưng vẫn không cảm
thấy tủi thân mà cố gắng sống giữ gìn để gia đình luôn hòa thuận. Đến khi
chồng phải đi lính, nàng cùng không nửa lời oán trách mà còn ân cần, dịu dàng
dặn dò: “Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu,
mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên,
thế là đủ rồi…”. Đối với Vũ Nương sự bình an của chồng mới là điều quan trọng nhất.
Trong suốt những năm chồng đi lính, Vũ Nương phải gánh vác trách nhiệm của
một trụ cột gia đình. Nàng vừa phải dạy dỗ con thơ, vừa phải chăm sóc mẹ
chồng. Khi mẹ chồng ốm đau vì nhớ Trương Sinh, nàng đã hết lời khuyên bảo.
Đến khi mẹ chồng mất, nàng “thương xót, phàm việc ma chay tế lễ; lo liệu như
đối với cha mẹ sinh ra”. Với đứa con thơ, vì thương con phải xa cha từ nhỏ, 16
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
mong muốn con có một gia đình đầy đủ. Hàng đêm khi đứa con nhỏ hỏi về cha,
Vũ Nương đã chỉ vào cái bóng của mình và bảo đó là cha Đản.
Những tưởng một người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp sẽ được đón nhận tình yêu
thương, hạnh phúc. Thì cuộc đời của nàng lại trở nên bất hạnh. Sau khi đi lính
trở Trương Sinh nghe tin mẹ già đã mất, hết sức đau lòng, liền bế con ra mộ
thăm mẹ. Chàng thấy đứa trẻ quấy khóc liền dỗ dành: “Con nín đi, đừng khóc!
Lòng cha đã buồn khổ lắm rồi!”. Đứa bé ngây thơ hỏi: “Ông cũng là cha tôi ư?
Ông lại biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín thin thít”. Điều đó khiến
Trương Sinh nghĩ rằng vợ mình ở nhà đã có người đàn ông khác. Vũ Nương trở
về bị chồng nghi ngờ mắng nhiếc. Dù tủi thân nhưng vẫn hết lời giải thích. Biết
là vô tác dụng, nàng liền tìm đến cái chết để chứng minh sự trong sạch của
mình. Cái chết của Vũ Nương là số phận nhưng cũng là lời tố cáo sự ghen tuông
mù quáng, vũ phu của đàn ông, mà đại diện là Trương Sinh.
Nhưng Vũ Nương không chết thật, nàng được đức Linh Phi cứu và sống ở thủy
cung. Khi gặp lại Phan Lang - một người sống cùng làng tình cờ cũng được
Linh Phi cứu thoát chết dưới thủy cung liền giãi bày nỗi oan khuất của mình.
Nàng gửi nhờ Phan Lang “một chiếc hoa vàng mà dặn”: “Nhờ nói hộ với chàng
Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa, nên lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt
cây thần đăng chiếu xuống nước, tôi sẽ hiện về”. Lúc bấy giờ, Trương Sinh đã
hiểu rõ mọi chuyện, bèn lập đàn giải oan cho nàng, Vũ Nương hiện về thăm lại
hai cha con. Nhưng nàng không thể trở về sống bên chồng và con được nữa. Đó
phải chăng là nỗi bất hạnh lớn nhất của Vũ Nương lúc này?
“Chuyện người con gái Nam Xương” được xây dựng dựa trên một cốt truyện
dân gian. Nhưng cái thành công của Nguyễn Dữ là đã xây dựng được hình ảnh
Vũ Nương bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật thật độc đáo. Nhà văn đã miêu tả
nội tâm nhân vật thông qua các lời đối thoại, tự bộc bạch khi đặt nhân vật vào
những hoàn cảnh khác nhau. Đặc biệt là việc sử dụng yếu tố kì ảo ở cuối truyện 17
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
đã tô đậm thêm nét đẹp vốn có của Vũ Nương: Nặng tình nghĩa, coi trọng nhân
phẩm, vị tha mặc dù ở thế giới khác vẫn quan tâm đến chồng con, vẫn luôn
muốn khôi phục danh dự.
Vũ Nương quả thật đã đại diện cho số phận của người phụ nữ trong xã hội
phong kiến xưa. Nguyễn Dữ đã vô cùng thành công khi khắc họa được nhân vật này.
Phân tích nhân vật Vũ Nương - Mẫu 4
“Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong hai mươi truyện của “Truyền
kì mạn lục”. Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ
Nương, truyện đã thể hiện niềm cảm thương sâu sắc đối với số phận của người
phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến xưa.
Câu chuyện về Vũ Nương phản ánh cuộc đời đau khổ và bi thảm của Vũ Nương
- người phụ nữ dưới chế độ xã hội phong kiến. Nàng phải tự vẫn để minh oan
cho sự thuỷ chung của mình. Trước hết, khi đọc truyện, người đọc sẽ cảm nhận
được vẻ đẹp của Vũ Nương - một người phụ nữ nết na, đức hạnh: một người
con dâu hiếu thảo, một người vợ rất mực đảm đang, nhân hậu, giàu đức khiêm tốn.
Sau khi kết hôn với Trương Sinh, trong cuộc sống gia đình, nàng luôn biết giữ
gìn khuôn phép “chẳng lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà" dù Trương Sinh -
chồng của nàng, tuy là con nhà hào phú, lại ít học, đa nghi quá sức. Sự khiêm
nhường, cam chịu của Vũ Nương là điều kiện tạo nên sự đầm ấm của gia đình,
mặc cho chế độ nam quyền độc đoán đè nặng trong đầu óc kẻ vị kỷ ít học như chồng mình.
Đến khi chồng phải đi lính, nàng cùng không nửa lời oán trách mà còn ân cần,
dịu dàng dặn dò: “Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo 18
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình
yên, thế là đủ rồi…”. Vũ Nương không mong muốn chồng trở về với vinh hoa
phú quý hay công danh sự nghiệp, mà nàng chỉ mong muốn bình yên”. Một ước
mong giản dị nhưng lại thể hiện được tình yêu thương sâu sắc dành cho chồng.
Bởi bước ra nơi chiến trường là đối đầu với hiểm nguy, chết chóc. Nên hy vọng
chồng có thể trở về bình yên chính là điều thiết thực nhất.
Khi chồng vào lính, Vũ Nương một mình đảm đang, nuôi dạy con thơ, chăm sóc
thuốc thang cho mẹ chồng đau yếu, làm ma chay tống tang khi mẹ chồng qua
đời. Vũ Nương giữ tròn hiếu đạo với mẹ chồng, giữ trọn tình nghĩa với chồng.
Cái thói đời xưa nay thường không thể hoà hợp giữa mẹ chồng nàng dâu, nhất là
trong gia đình phong kiến. Thế nhưng, dù chỉ có hai mẹ con sống với nhau
nhưng nàng xem mẹ chồng như mẹ đẻ, điều đó còn được thể hiện qua lời trăng
trối của mẹ chồng nàng trước khi bà qua đời: “Xanh kia sẽ chẳng phụ con cũng
như con đã chẳng phụ mẹ …”. Cả sự chu đáo của Vũ Nương trong việc ma
chay, cúng lễ đã thể hiện tấm lòng thơm thảo của người con dâu đáng quý như
Vũ Nương. Lòng chung thuỷ của Vũ Nương còn được thể hiện ở hành động
nuôi con, chờ chồng suốt những tháng ngày Trương Sinh đi lính mà chưa rõ mặt
con. Chỉ có hai mẹ con côi cút đùm bọc, gắn bó. Cậu bé Đản thơ ngây, đêm đến
được mẹ chỉ vào cái bóng của mình trên tường gọi là cha (đó là một cách dỗ
dành con ngủ thật hồn nhiên nhưng sau đó lại là nguyên nhân gây ra cái tội thật vô tình).
Nỗi hàm oan không được quyền nói, suy xét cho ra là bởi con người độc đoán,
lại có tính đa nghi, vũ phu như Trương Sinh. Khi Trương Sinh đi lính trở về, vì
nghe lời đứa con thơ dại mà đã gây nên nỗi oan tày trời cho Vũ Nương. Bị
chồng ghen tuông vô cớ, bao nhiêu lời giãi bày của Vũ Nương và lời khuyên
ngăn của láng giềng, bà con, cô bác, Trương Sinh vẫn không tin và đinh ninh là
“vợ hư”, mối nghi ngờ càng ngày càng lún sâu không có cách gì gỡ ra được.
Chàng mắng nhiếc vợ thật thậm tệ rồi “đánh đuổi nàng đi”. Nhưng không có 19
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
cách nào để giãi bày, thất vọng bởi hạnh phúc - niềm vui “nghi gia nghi thất”
không còn nữa, nàng phải tìm đến cái chết để minh oan. Hành động tự vẫn là
thái độ cuối cùng nàng được phép bởi không thể giải bày được với chồng, tiết
hạnh của nàng sẽ bị hoen ố, biết bao giờ phai mờ đi trong tâm trí của chồng.
Một người vợ hiền lành, đầy tiết nghĩa, thuỷ chung phải chết dẫu không có tội
tình gì. Mãi đến sau cái chết đó, người chồng mới hiểu nỗi oan ức của vợ mình
thì đã quá muộn. Chính sự độc đoán của người đàn ông trong gia đình phong
kiến mà Nho giáo nuôi dưỡng dung túng là đề tài mà Nguyễn Dữ muốn phê phán.
Thân phận của Vũ Nương cũng là thân phận của biết bao người phụ nữ trong xã hội xưa:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Cái chết của Vũ Nương là lời tố cáo thói ghen tuông ích kỷ, sự hồ đồ, vũ phu
của đàn ông - người chồng vô học, đa nghi như Trương Sinh. Đó cũng là lời tố
cáo luật lệ phong kiến hà khắc dung túng cho sự độc ác, bất công - “chế độ nam
quyền” dưới thời phong kiến ngự trị.
Như vậy, tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” đã giúp người đọc
hiểu rõ hơn về số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đồng thời
qua đó gửi gắm những giá trị hiện thực và nhân đạo cao cả.
Phân tích nhân vật Vũ Nương - Mẫu 5
“Truyền kì mạn lục” là một trong những tác phẩm nổi bật trong nền văn học
trung đại Việt Nam. Và “Chuyện người con gái Nam Xương” là tác phẩm tiêu 20
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
biểu nhất trong truyền kì mạn lục. Truyện đã thể hiện được những giá trị sâu sắc
mà nhà văn muốn gửi gắm qua nhân vật Vũ Nương.
“Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong hai mươi truyện của “Truyền
kì mạn lục”. Nội dung chính của tác phẩm kể về cuộc đời của Vũ Nương -
người con gái quê ở Nam Xương. Nàng không chỉ xinh đẹp mà còn có tư dung
tốt đẹp. Điều ấy khiến cho Trương Sinh - một chàng trai trong làng yêu mến,
xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Trong cuộc sống vợ chồng, biết chồng là
một người hay ghen, nàng luôn sống giữ gìn khuôn phép để gia đình hòa thuận.
Vậy mà chồng nàng, sau khi đi lính chỉ vì một lời ngây thơ của con trẻ, chưa
làm rõ đầu đuôi câu chuyện đã giở thói ghen tuông. Dù Vũ Nương hết lòng giải
thích nhưng vẫn vô dụng. Nàng quyết định tìm đến cái chết để chứng minh sự
trong sạch của mình. Sau này, khi đã hiểu rõ mọi chuyện, Trương Sinh cảm thấy
hối hận thì cũng đã muộn. Chàng cho người lập đàn giải oan cho vợ, Vũ Nương
hiện về lúc ẩn lúc hiện.
Truyện được bắt đầu bằng: “Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương …”
Tên tuổi, quê quán của nhân vật chính đã được giới thiệu rõ ràng như thế. Nhân
vật chính trong tác phẩm Vũ Nương - là người duy nhất trong truyện được nêu
đầy đủ họ tên, danh tính. Nhưng nàng lại chỉ là một người đàn bà bình thường,
thuộc giới nghèo hèn “vốn con kẻ khó”. Nhưng ở nàng lại hội tụ đầy đủ những
nét đẹp về công - dung - ngôn - hạnh của người phụ nữ trong xã hội xưa.
Chỉ với vài lời giới thiệu đơn giản, Nguyễn Dữ đã khắc họa cho người đọc thấy
được hình ảnh một người phụ nữ mang đậm nét đẹp truyền thống của người phụ
nữ Việt Nam. Nàng không chỉ xinh đẹp ở bên ngoài mà còn mang những nét
đẹp bên trong tâm hồn. Đó là một người vợ hết mực hiểu chuyện, lễ nghĩa. Biết
chồng có tính hay nghi, luôn phòng ngừa vợ quá mức nhưng nàng vẫn không tủi
thân mà cố gắng sống giữ gìn để gia đình luôn hòa thuận. Đến khi chồng phải đi
lính, nàng cùng không nửa lời oán trách mà còn ân cần, dịu dàng dặn dò: “Lang 21
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về
quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi…”.
Người vợ nào mà không mong muốn chồng mình được thành danh, nhưng đối
với Vũ Nương, nàng chỉ mong chồng bình yên trở về. Đó chính là một khát
khao hết sức bình dị, thiết thực của người phụ nữ luôn mong muốn có được hạnh phúc.
Trong suốt những năm chồng nàng đi lính, Vũ Nương là một người phụ nữ
nhưng lại gánh vác trách nhiệm của một trụ cột gia đình. Nàng vừa phải dạy dỗ
con thơ, vừa phải chăm sóc mẹ chồng. Khi mẹ chồng ốm đau vì nhớ con trai,
nàng đã hết lời khuyên bảo. Khi mẹ chồng mất, nàng “hết lời thương xót, phàm
việc ma chay tế lễ; lo liệu như đối với cha mẹ sinh ra”. Quả hiếm có người con
dâu nào được như Vũ Nương. Với đứa con thơ, vì thương con phải xa cha từ
nhỏ, mong muốn con có một gia đình đầy đủ. Người mẹ ấy đã nói dối đứa trẻ
cái bóng chính là cha của mình. Sau khi đi lính trở về, tưởng rằng giờ đây cuộc
sống sẽ được hạnh phúc, nhưng ai ngờ cuộc đời Vũ Nương lại trở nên bất hạnh.
Trương Sinh nghe tin mẹ già đã mất, hết sức đau lòng, liền bế con ra mộ thăm
mẹ. Khi thấy đứa trẻ quấy khóc bèn dỗ dành: “Con nín đi, đừng khóc! Lòng cha
đã buồn khổ lắm rồi!”. Đứa bé ngây thơ hỏi cha: “Ông cũng là cha tôi ư? Ông
lại biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín thin thít”. Điều đó khiến
Trương Sinh nghĩ rằng vợ mình ở nhà đã có người đàn ông khác. Vũ Nương trở
về bị chồng nghi ngờ mắng nhiếc. Dù tủi thân nhưng vẫn hết lời giải thích. Biết
là vô tác dụng, nàng liền tìm đến cái chết để chứng minh sự trong sạch của
mình. Thật xót xa cho số phận của một người phụ nữ xinh đẹp mà bạc mệnh.
Chỉ vì lời ngây thơ của con trẻ, sự đa nghi của chồng mà phải tìm đến cái chết.
Ông trời đã phụ lòng mong mỏi của một người phụ nữ tài đức vẹn toàn. Công
lao nuôi con dưỡng mẹ, làm tròn bổn phận con dâu đều đổ xuống sông xuống
biển, tới mức “không còn có thể lại lên núi Vọng Phu nữa”. Đáng buồn hơn cả
là mọi oan ức lại bắt nguồn từ hình ảnh cái bóng. Vì nhớ chồng, con lại xa cách 22
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
cha lâu ngày nên nàng chỉ còn biết nói cái bóng là Cha Đản. Và lòng nàng cũng
xem nó là chồng. Thế là bé Đản ngây thơ nên đã tin cái bóng đó là sự thật. Và
cứ lầm tưởng rằng cha mình đêm nào cũng đến mẹ Đản đi cũng đi Mẹ Đản ngồi
cũng ngồi. Trương Sinh nghe lời con thơ, cho rằng vợ mình thất tiết. Bi kịch từ
đó nối tiếp nhau kéo đến. Nàng đã gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn.
Cuộc đời của Vũ Nương, cũng là đại diện cho những người phụ nữ trong xã hội
xưa, vốn không được lựa chọn tình yêu, hôn nhân. Mà nàng phải chịu sự sắp đặt
của cha mẹ. Cuộc hôn nhân của nàng và Trương Sinh cũng gặp nhiều bất hạnh.
Chiến tranh đã chia cắt hai vợ chồng để rồi chính chiến tranh cũng góp phần cho
sự hiểu lầm của Trương Sinh. Sự ghen tuông, đa nghi của chồng cũng khiến
nàng phải tìm đến cái chết mới có thể rửa sạch nỗi oan khuất.
Góp phần làm nên thành công của tác phẩm không chỉ có nội dung sâu sắc. Mà
đó còn là nghệ thuật xây dựng nhân vật tài tình, cách xây dựng tình huống
truyện độc đáo, sáng tạo được chi tiết quan trọng thúc đẩy toàn bộ câu chuyện.
Có thể thấy, với tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” chính là tác
phẩm nổi bật nhất trong “Truyền kì mạn lục” của nhà văn Nguyễn Dữ với nhân
vật Vũ Nương - tiêu biểu cho người phụ nữ trong xã hội xưa.
Phân tích nhân vật Vũ Nương - Mẫu 6
Viết về người phụ nữ - một đề tài không còn mới lạ trong văn học. Nền văn học
trung đại Việt Nam phải kể đến các tác giả như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương,
Đoàn Thị Điểm… chính là những cây bút tiêu biểu cho mảng đề tài này. Bên
cạnh đó, Nguyễn Dữ cũng là một gương mặt tiêu biểu với những câu chữ viết về
người phụ nữ đầy giá trị nhân văn với tác phẩm “Chuyện người con gái Nam
Xương” qua hình ảnh nhân vật Vũ Nương. 23
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
Nhà văn Nguyễn Dữ là cây bút văn xuôi xuất sắc nhất của văn học thế kỷ XVI.
Ông sống ở thời kỳ chế độ phong kiến bắt đầu bước vào giai đoạn suy vong, các
cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến kéo dài liên miên gây đau khổ
cho nhân dân. Vốn không đồng tình với chế độ phong kiến bất công, thối nát,
ông đã thể hiện kín đáo tình cảm ấy của mình qua tác phẩm Truyền kì mạn lục
gồm hai mươi truyện ngắn. Chuyện người con gái Nam Xương là một trong hai mươi truyện trên.
Theo lời kể của tác giả ngay từ đầu tác phẩm thì Vũ Nương là một người con
gái thuỳ mị, nết na lại có tư dung tốt đẹp. Và những phẩm hạnh ấy đã được bộc
lộ trong những hoàn cảnh khác nhau. Trong cuộc sống gia đình, Vũ Nương là
người vợ hiền thục. Chồng nàng là Trương Sinh - con nhà hào phú nhưng ít học,
lại có tính đa nghi, phòng ngừa quá mức. Vì thế, nàng đã biết lựa tính chồng,
giữ cho khỏi bất hòa, gia đình luôn được trong ấm, ngoài êm. Ta thấy Vũ
Nương quả là một người vợ hiền, có ý thức giữ gìn hạnh phúc gia đình. Nhưng
rồi chiến tranh xảy ra, Trương Sinh phải đi lính, gia đình phải ly tán. Nhưng
nàng lại càng bộc lộ rõ hơn phẩm chất tốt đẹp của mình. Lời nói, lời dặn dò
trong cảnh tiễn chồng của nàng đã khiến mọi người cảm động: chỉ xin ngày về
mang theo hai chữ bình yên. Vũ Nương là người không ham danh vọng mà luôn
khao khát hạnh phúc gia đình, không những thế, nàng còn hiểu, thông cảm cho
nỗi vất vả gian lao của chồng: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường,
giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao…”. Thế rồi, nàng bày tỏ nỗi nhớ
nhung khôn xiết của người vợ yêu chồng thuỷ chung: nhìn trăng soi thành của,
lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa...
Khi xa chồng, Vũ Nương luôn làm tròn bổn phận của người vợ hiền, dâu thảo.
Nàng sinh con, quán xuyến công việc gia đình, chăm sóc mẹ già đau ốm. Đặc
biệt khi người mẹ mất, nàng dã lo ma chay chu đáo như với cha mẹ của mình.
Qua lời trăng trối của bà mẹ trước lúc lâm nguy tác giả đã gửi gắm tình hình của
mình đối với nhân vật Vũ Nương, khẳng định công lao, nhân cách của Vũ 24
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
Nương đối với gia đình: “Trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi
tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con không phụ
mẹ”. Như vậy, ở nhân vật Vũ Nương tập trung những phẩm chất cao quý truyền
thống của người phụ nữ Việt Nam.
Những tưởng vì thế mà nàng sẽ được hưởng cuộc sống hạnh phúc. Nhưng thực
tế oan nghiệt đã đẩy nàng vào cảnh ngộ bất hạnh, éo le, oan khuất. Nàng vốn dĩ
là một người phụ nữ rất mực thuỷ chung, vậy mà bây giờ đây lại bị nghi oan
thất tiết. Chỉ vì lời nói vô tình ngây thơ của con trẻ mà Vũ Nương bị chồng
ruồng rẫy, hắt hủi, đánh đập đuổi đi, bị gán cho tội nhục nhã nhất đối với đức
hạnh của người phụ nữ. Trương Sinh quả thực đã hồ đồ, cả ghen, không cho vợ
được thanh minh. Những lời bênh vực của bà con hàng xóm cùng những lời
phân trần giãi bày hết sức thê thảm không cứu được nàng thoát khỏi nỗi nhục
nhã, vì mất danh dự, Vũ Nương hết lòng hàn gắn hạnh phúc gia đình có nguy cơ
tan vỡ bằng những lời than thấu tận trời xanh: “Cách biệt ba năm giữ gìn một
tiết. Tô son điểm phấn từng đỡ nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”.
Mọi lời lẽ biện minh không làm lung lay được thói độc đoán, gia trưởng hồ đồ
của người chồng có máu ghen tuông mù quáng. Vũ Nương đã phải đau đớn, thất
vọng đến tột cùng vì bị đối xử bất công, vì bất lực không có khả năng bảo vệ
danh dự, niềm khát khao hạnh phúc gia đình bị tan vỡ. Nàng tìm đến bên bờ
sông Hoàng Giang mà than rằng: “Kể bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu… Nay
đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió... đâu
còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”.
Thế nhưng, lời nguyền thảm thương của Vũ Nương không giúp nàng thoát khỏi
án oan nghiệt ngã. Là một người phụ nữ có ý thức sâu sắc về phẩm giá, Vũ
Nương đã quyết liệt tìm đến cái chết để bảo toàn danh dự chứ không chịu sống
nhục. Nàng đã gieo mình xuống sông, kết thúc cuộc đời người phụ nữ bất hạnh. 25
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
Bằng cách xây dựng tình tiết truyện đặc sắc đầy kịch tính, tác giả cho ta thấy
những cố gắng hết sức nhưng không thành của một người phụ nữ, để rồi phải
chấp nhận số phận và nàng đã phải giải thoát kịch của cuộc đời mình bằng cái
chết oan khuất. Sự việc này đã đẩy câu chuyện đến đỉnh điểm của sự việc. Đến
khi Trương Sinh hiểu ra nỗi oan của vợ cũng bằng sự việc hết sức ngẫu nhiên
mà hợp lý. Đó là khi bé Đản chỉ Trương Sinh cái bóng trên tường chính là cha
của mình. Điều đó có ý nghĩa tố cáo vô cùng mạnh mẽ đối với chế độ phong
kiến, chỉ một cái bóng cũng có thể quyết định số phận một con người, đẩy
người phụ nữ nết na bất hạnh vào bi kịch không lối thoát.
Như vậy, với việc xây dựng nhân vật Vũ Nương, nhà văn đã bộc lộ niềm
thương cảm sâu sắc dành cho những người phụ nữ trong xã hội xưa. Đồng thời
Nguyễn Dữ cũng muốn phê phán xã hội phong kiến đã đẩy cuộc đời họ rơi vào bi kịch.
Phân tích nhân vật Vũ Nương - Mẫu 7
“Truyền kì mạn lục” là một trong những tác phẩm nổi tiếng của nền văn học
trung đại Việt Nam, truyện bao gồm hai mươi truyện ngắn. Trong số đó,
“Chuyện người con gái Nam Xương” là quen thuộc nhất đối với bạn đọc. Qua
câu chuyện này, nhà văn đã khắc họa hình ảnh nhân vật Vũ Nương - tiêu biểu
cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến thời xưa.
Nhân vật được Nguyễn Dữ đặt vào một hoàn cảnh sống khắc nghiệt. Đó là xã
hội phong kiến Nam quyền với những quy định lễ giáo khắt khe dành cho người
phụ nữ. Cuộc đời họ phải phụ thuộc vào người đàn ông: “Tại gia tòng phụ, xuất
giá tòng phu, phu tử tòng tử” (Ở nhà thì theo cha, lấy chồng thì theo chồng,
chồng chết thì theo con trai). Không chỉ vậy, Vũ Nương còn sống trong một đất
nước loạn lạc, chiến tranh xảy ra liên miên. Chính chiến tranh đã chia cắt biết 26
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
bao nhiêu gia đình, trong đó có gia đình của nàng. Sống trong hoàn cảnh đó,
cuộc đời nàng đã bị đẩy liên tiếp vào những bi kịch.
Trong hoàn cảnh sống như vậy, nhân vật Vũ Nương vẫn hiện lên với nhiều vẻ
đẹp. Vũ Thị Thiết hay còn gọi là Vũ Nương, người con gái quê ở Nam Xương.
Người đã thùy mị nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp”. Nàng đại diện cho những
người phụ nữ trong xã hội xưa, vừa xinh đẹp lại vừa có đầy đủ những phẩm chất
như công, dung, ngôn, hạnh. Mà trước hết, Vũ Nương là một người vợ biết giữ
gìn khuôn phép, biết chồng có tính đa nghi nên cố gắng không không lúc nào để
cuộc sống gia đình mất hòa thuận. Đến khi chồng phải đi lính, nàng cùng không
nửa lời oán trách mà còn ân cần, dịu dàng dặn dò: “Lang quân đi chuyến này,
thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày
về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi…”. Nàng không mong muốn
chồng trở về với vinh hoa phú quý hay công danh sự nghiệp, mà nàng chỉ mong
muốn hai chữ “bình yên”. Đó là mong ước giản dị của một người phụ nữ luôn
khao khát yêu thương, hạnh phúc. Không chỉ vậy, Vũ Nương còn là một người
con dâu hiếu thảo, một người mẹ hết mực yêu thương con. Năm tháng không có
chồng ở nhà, dù phải một mình nuôi con, chăm sóc mẹ chồng nhưng Vũ Nương
chẳng mảy may oán thán lấy một lời. Khi mẹ chồng ốm đau vì nhớ con, nàng
vẫn hết lời khuyên bảo. Đến khi mẹ mất, nàng “thương xót, phàm việc ma chay
tế lễ; lo liệu như đối với cha mẹ sinh ra”. Với đứa con thơ còn nhỏ, nàng thương
con nên mong muốn con có một gia đình đầy đủ. Chính vì vậy mà nàng đã nói
dối con, chỉ vào chiếc bóng và bảo rằng đó là cha Đản.
Tuy mang những phẩm chất tốt đẹp là vậy, nhưng cuộc đời của Vũ Nương phải
chịu nhiều bất hạnh. Nàng không thể tự quyết định số phận của mình. Cuộc hôn
nhân với Trương Sinh không bắt nguồn từ tình yêu. Mà bởi Trương Sinh vì mến
dung hạnh nên đã xin mẹ đem trăm lạng vàng đến hỏi cưới. Đó là cuộc hôn
nhân do cha mẹ sắp xếp, lại xuất phát từ một phía. Sau đó gia đình của Vũ 27
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
Nương và Trương Sinh lại không môn đăng hộ đối. Chính cuộc hôn nhân không
tình yêu đã đẩy nàng Vũ Nương vào liên tiếp những bi kịch về sau.
Tuy hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh không bắt nguồn từ tình yêu.
Nhưng Vũ Nương vẫn luôn hết lòng vun vén hạnh phúc cho gia đình. Nàng
mong muốn có một cuộc sống hạnh phúc bên chồng con, vậy mà chiến tranh đã
cướp mất điều đó. Cuộc chiến tranh phi nghĩa diễn ra đã chia cắt đôi vợ chồng
trẻ. Trương Sinh là con nhà hào phú nhưng ít học nên phải đi lính. Thiếu vắng
người chồng, Vũ Nương phải gánh vác trách nhiệm của một người trụ cột trong
gia đình. Nàng vừa chăm sóc mẹ chồng, vừa nuôi dạy con cái. Những tưởng
công lao đó, đến khi chồng trở về sẽ được thấu hiểu. Ai ngờ, lại xảy ra bi kịch
đẩy Vũ Nương đến cái chết. Chiến tranh kết thúc, Trương Sinh đi lính trở về,
gia đình đoàn tụ. Nghe tin mẹ mất, chàng hết sức đau lòng, liền bế con ra mộ
thăm mẹ. Khi thấy đứa trẻ quấy khóc bèn dỗ dành: “Con nín đi, đừng khóc!
Lòng cha đã buồn khổ lắm rồi!”. Đứa bé ngây thơ hỏi cha: “Ông cũng là cha tôi
ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín thin thít”. Chính vì
điều đó mà Trương Sinh nghĩ rằng vợ chàng không chung thủy. Chi tiết “cái
bóng” trở thành người cha để an ủi con trẻ, nhưng lại trở thành lý do dẫn đến bi
kịch của Vũ Nương. Khi về nhà, Trương Sinh liền mắng vợ một bữa cho hả
giận. Dù Vũ Nương hết sức tủi thân nhưng nàng vẫn hết lời giải thích cho chồng
hiểu. Họ hàng, làng xóm bênh vực cũng không ăn thua. Biết là vô tác dụng,
nàng liền tìm đến cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình. Sau khi Vũ
Nương nhảy xuống sông, thì được chư tiên trong thủy cung thương mà cứu
thoát, sống tại nơi thủy cung và gặp gỡ với Phan Lang - một người vốn sống
cùng làng. Trước khi Phan Lang trở về, nàng gửi nhờ Phan Lang “một chiếc hoa
vàng mà dặn”: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa, nên
lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây thần đăng chiếu xuống nước, tôi sẽ
hiện về”. Trương Sinh nghe Phan Lang kể, hiểu rõ sự tình, vô cùng hối hận, liền
lập đàn giải oan cho vợ. Vũ Nương hiện về trong làn khói mờ ảo, gia đình ba 28
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
người được gặp nhau. Nhưng Vũ Nương lại không thể trở về sống cùng cha con
Trương Sinh. Đến cuối cùng, Vũ Nương vẫn không có được hạnh phúc.
Với nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn cũng như nghệ thuật xây dựng nhân vật. Vũ
Nương đã được khắc họa tâm lý, tính cách thông qua đối thoại, lời tự bạch trong
các hoàn cảnh khác nhau cũng như các yếu tố kì ảo.Từ đó Nguyễn Dữ đã vẽ nên
chân dung đẹp đẽ đức hạnh toàn tài của người phụ nữ phong kiến xưa mà đại
diện tiêu biểu là nàng Vũ Nương.
Quả thật, Vũ Nương đã trở thành một nhân vật đại diện cho số phận bất hạnh
của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Tác phẩm “Chuyện người con gái
Nam Xương” đã đề cao vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ cũng như bộc lộ
tiếng nói thương cảm dành cho họ.
Phân tích nhân vật Vũ Nương - Mẫu 8
“Truyền kì mạn lục” là tập truyện viết theo thể loại truyền kì, được đánh giá là
“thiên cổ tùy bút”, “áng văn hay của bậc đại gia”. Truyện đã đánh dấu một bước
phát triển vượt bậc của văn xuôi tự sự chữ Hán trong nền văn học trung đại Việt
Nam ở thế kỉ XVI. Trong đó, “Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong
các truyện độc đáo, tiêu biểu viết về số phận bất hạnh của người phụ nữ đương
thời. Điều này được thể hiện qua nhân vật Vũ Nương.
“Chuyện người con gái Nam Xương” có nguồn gốc từ chuyện kể dân gian là
“Vợ chàng Trương”, là thiên thứ mười sáu trong tổng số hai mươi thiên truyện
của “Truyền kì mạn lục”. Nhân vật chính trong tác phẩm là Vũ Nương, một
người phụ nữ trung trinh, tiết hạnh, đẹp người, đẹp nết nhưng lại bị chồng nghi
oan thất tiết. Do không có cơ hội để minh oan, giãi bày, Vũ Nương đành phải
nhảy sông tự vẫn để chứng minh sự trong sạch của mình. Kết thúc truyện là
hình ảnh Vũ Nương hiện về thấp thoáng lúc ẩn, lúc hiện giữa lòng sông nói lời
tạ từ rồi biến mất. Đó là bi kịch của rất nhiều những người phụ nữ bất hạnh khi 29
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
mà hạnh phúc gia đình chính là chỗ dựa vững chắc cho họ, giờ đây đã tan thành
mây khói, mất đi chỗ dựa cuộc sống, họ lâm vào bi kịch và cái chết là con
đường giải thoát duy nhất để họ kết thúc bi kịch của chính mình. Vì thế, truyện
không đơn thuần dừng lại ở sự phản ánh hiện thực mà còn tố cáo hiện thực,
đóng lên niềm khao khát hạnh phúc của người phụ nữ trong một xã hội công bằng, văn minh.
Trước hết, Vũ Nương là một người con gái đẹp người, đẹp nết, đại diện cho vẻ
đẹp của người phụ nữ thời kì phong kiến: “tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư
dung tốt đẹp”. Trương Sinh vì cảm mến cái dung hạnh ấy nên đã xin mẹ trăm
lạng vàng để cưới về làm vợ. Sau đó, nhà văn tập trung làm nổi bật vẻ đẹp đức
hạnh của nàng, bằng việc đặt Vũ Nương vào rất nhiều hoàn cảnh, tình huống và
các mối quan hệ xung quanh như với chồng, với mẹ chồng và với đứa con trai tên là Đản.
Đầu tiên là Vũ Nương trong mối quan hệ với chồng là Trương Sinh. Nàng hiện
lên là một người vợ nhất mực thủy chung, yêu thương chồng tha thiết. Trong
cuộc sống vợ chồng bình thường, khi mới lấy nhau, nàng hiểu tính chồng có
thói đa nghi, thường đề phòng vợ quá mức nên Vũ Nương đã cư xử khéo léo,
đúng mực, nhường nhịn và giữ đúng khuôn phép, không bao giờ để xảy ra nỗi
bất hòa trong gia đình. Vì thế, chúng ta có thể thấy, nàng là người phụ nữ hiểu
chồng, biết mình và rất đức hạnh. Khi người chồng chuẩn bị đi lính, Vũ Nương
rót chén rượu đầy và dặn dò Trương Sinh bằng những lời nói đầy nghĩa tình,
thắm thiết. Nàng không mong vinh hiển, chỉ cần chồng mang về hai chữ “bình
yên”. Ở nhà, Vũ Nương nhớ thương chồng da diết. Mỗi lần thấy “bướm lượn
đầy vườn, mây che kín núi” nàng lại cảm thấy “thổn thức tâm tình”, nhớ thương
chồng nơi biên ải xa xôi. Tiết hạnh của nàng còn được khẳng định khi nàng bị
chồng nghi oan: “cách biệt ba năm, giữ trọn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã
nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót…”. Khi Trương Sinh đi lính trở
về, một mực khăng khăng cho rằng nàng thất tiết, Vũ Nương đã ra sức phân trần 30
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
để cho chồng hiểu, nói lên thân phận của mình, nhắc tới tình nghĩa phu thê và
khẳng định một lòng nhất mực thủy chung, son sắt với chồng. Thậm chí, nàng
còn cầu xin chồng “đừng nghi oan cho thiếp”. Có nghĩa là Vũ Nương đang ra
sức giữ gìn, hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ. Điều đó cho
thấy nàng thực sự rất trân trọng hạnh phúc gia đình mà mình đang có và càng
làm nổi bật lên niềm khát khát hướng tới hạnh phúc gia đình ấm êm của người phụ nữ Vũ Nương.
Tiếp đến, Vũ Nương trong mối quan hệ với mẹ chồng và bé Đản. Nàng hiện lên
là một người con hiếu thảo, một người mẹ rất mực tâm lý, yêu thương con cái.
Chồng đi lính, ở nhà, nàng một mình sinh con, nuôi dạy con, vừa đóng vai trò là
một người mẹ, lại vừa đóng vai trò là một người cha. Nàng sợ con mình thiếu
thốn tình cảm của người cha nên đêm đêm thường mượn bóng mình, chỉ vào
tường mà bảo là cha Đản. Nàng thay chồng làm tròn bổn phận, trách nhiệm của
một người con hiền, dâu thảo: chăm sóc, thuốc thang, lễ bái, hết lòng khuyên
lơn mẹ chồng. Đến khi mẹ chồng mất, nàng tổ chức ma chay tế lễ chu đáo như
với cha mẹ đẻ của mình vậy. Vì thế, bà mẹ chồng đã viện cả trời xanh để chứng
minh cho lòng hiếu thảo của cô con dâu: “Xanh kia quyết chẳng phụ con cũng
như con đã chẳng phụ mẹ”. Điều đó đã cho thấy nhân cách và công lao to lớn
của Vũ Nương đối với gia đình nhà chồng này.
Như vậy, một người phụ nữ đẹp người, đẹp nết đảm đang, hiếu thảo, nhất mực
thủy chung và hết lòng vun vén, trân trọng hạnh phúc gia đình như thế, đáng lẽ
ra phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn nhưng thật éo le và nghịch lý thay nàng
lại phải chịu một cuộc sống gia đình bất hạnh và phải chết trong đau đớn, xót
xa, đầy nước mắt. Đó là khi Trương Sinh sau ba năm đi lính trở về, bé Đản
không chịu nhận cha, nghe lời nói của con: “Trước đây, thường có một người
đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng
chẳng bao giờ bế Đản cả”, Trương Sinh cho rằng “vợ hư”. Mặc dù Vũ Nương
đã tìm cách để giải thích lại thêm họ hàng, làng xóm bênh vực và biện bạch cho 31
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
nàng nhưng mối nghi ngờ vợ của Trương Sinh ngày càng sâu, không có gì gỡ ra
được. Cuối cùng “cái thú vui nghi gia nghi thất” đã không còn ” bình rơi trâm
gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió”, cả nỗi đau chờ
chồng đến hóa đá cũng không còn có thể được nữa “đâu còn có thể lại lên núi
Vọng Phu kia nữa”. Nàng đã trẫm mình xuống dòng nước Hoàng Giang lạnh
lẽo. Đó là hành động quyết liệt để bảo toàn danh dự, nhân phẩm trong một nỗi
đau tuyệt vọng cùng cực, đau đớn.
Vậy đâu là nguyên nhân dẫn tới cái chết oan nghiệt của Vũ Nương. Đó trước hết
là do chi tiết cái bóng và những lời nói ngây thơ của bé Đản. Nhưng nguyên
nhân sâu xa đằng sau đó là từ người chồng đa nghi, vũ phu. Ngay từ đầu truyện,
nhà văn đã giới thiệu Trương Sinh là “con nhà hào phú nhưng không có học”,
lại có tính đa nghi, đối với vợ thì hay phòng ngừa quá mức, thiếu cả lòng tin và
tình thương với người tay ấp má kề với mình. Đó chính là mầm mống của bi
kịch để rồi trong hoàn cảnh đi lính ba năm xa nhà, xa vợ, thới ghen tuông, ích
kỷ của bản thân chàng nổi lên và giết chết người vợ của mình. Đồng thời, chế
độ phong kiến hà khắc, nam quyền độc đoán đã dung túng cho thói gia trưởng
của người đàn ông, cho phép người đàn ông có thể đối xử tệ bạc với người phụ
nữ của mình. Và người phụ nữ không có quyền được lên tiếng, không có quyền
tự bảo vệ ngay cả khi có “họ hàng, làng xóm bênh vực và biện bạch cho”…Tất
cả đã đẩy Vũ Nương – người phụ nữ đương thời vào con đường bi kịch, phá tan
đi những hạnh phúc gia đình của người phụ nữ, dồn đẩy họ vào con đường cùng không lối thoát.
Cuối truyện, Vũ Nương hiện về thấp thoáng trên chiếc kiệu hoa giữa dòng, võng
lọng, cờ kiệu rực rỡ đầy sông, nàng nói lời đa tạ Linh Phi và tạ từ Trương Sinh
rồi biến mất. Đây là những chi tiết, hình ảnh thể hiện sự sáng tạo của Nguyễn
Dữ. Kết thúc truyện như thế, không chỉ giúp hoàn thiện thêm nét đẹp tính cách
của nhân vật mà còn chứng tỏ Vũ Nương vô tội. Ở thế giới bên kia, nàng được
đối xử xứng đáng với phẩm giá của mình. Vì thế, Nguyễn Dữ đã đáp ứng được 32
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
ước mơ của con người về sự bất tử, sự chiến thắng của cái thiện, cái đẹp, thể
hiện nỗi khát khao hạnh phúc trong một cuộc sống công bằng, hạnh phúc cho
những con người lương thiện, đặc biệt là người phụ nữ đương thời.
Với nghệ thuật kể truyện độc đáo, xen lẫn giữa hiện thực và kì ảo, giữa tình tiết
đời thường với sự sáng tạo của nhà văn, Nguyễn Dữ đã khắc họa thành công
hình tượng nhân vật Vũ Nương – người đại diện cho bi kịch bất hạnh của người
phụ nữ. Qua đó, chúng ta thấy được tấm lòng nhân đạo sâu sắc giàu tình yêu
thương con người của nhà văn Nguyễn Dữ.
Phân tích nhân vật Vũ Nương - Mẫu 9
Đề tài về người phụ nữ chính là mảng đề tài quen thuộc trong thơ ca, đặc biệt là
các tác phẩm trung đại. Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm chính là
những cây bút tiêu biểu cho mảng đề tài này. Bên cạnh đó, Nguyễn Dữ cũng là
một gương mặt tiêu biểu với những câu chữ viết về người phụ nữ đầy giá trị nhân văn.
Nguyễn Dữ là cây bút văn xuôi xuất sắc nhất của văn học thế kỷ XVI. Ông sống
ở thời kỳ chế độ phong kiến bắt đầu bước vào giai đoạn suy vong, các cuộc
chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến kéo dài liên miên gây đau khổ cho
nhân dân. Vốn không đồng tình với chế độ phong kiến bất công, thối nát, ông đã
thể hiện kín đáo tình cảm ấy của mình qua tác phẩm Truyền kì mạn lục gồm hai
mươi truyện ngắn, trong đó tiêu biểu là Chuyện người con gái Nam Xương.
Theo lời kể của tác giả ngay từ đầu tác phẩm thì Vũ Nương là một người con
gái thuỳ mị, nết na lại có tư dung tốt đẹp. Và những phẩm hạnh ấy đã được bộc
lộ trong những hoàn cảnh khác nhau.
Trong cuộc sống gia đình, Vũ Nương là người vợ hiền thục. Nàng lấy chồng là
Trương Sinh, vốn là một người ít học, lại có tính đa nghi, phòng ngừa quá mức. 33
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
Vì thế, nàng đã biết lựa tính chồng, giữ cho khỏi bất hòa, gia đình luôn được
trong ấm, ngoài êm. Ta thấy Vũ Nương quả là một người vợ hiền, có ý thức giữ
gìn hạnh phúc gia đình. Thế rồi đất nước xảy ra nạn binh đao, Trương Sinh phải
đi lính, nàng lại càng bộc lộ rõ hơn phẩm chất tốt đẹp của mình. Lời nói, lời dặn
dò trong cảnh tiễn chồng của nàng đã khiến mọi người cảm động: chỉ xin ngày
về mang theo hai chữ bình yên. Vũ Nương là người không ham danh vọng mà
luôn khao khát hạnh phúc gia đình, không những thế, nàng còn hiểu, thông cảm
cho nỗi vất vả gian lao của chồng: chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường,
giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao...
Thế rồi, nàng bày tỏ nỗi nhớ nhung khôn xiết của người vợ yêu chồng thuỷ
chung: nhìn trăng soi thành của, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa...
Khi xa chồng, Vũ Nương luôn làm tròn bổn phận của người vợ hiền, dâu thảo.
Nàng sinh con, quán xuyến công việc gia đình, chăm sóc mẹ già đau ốm. Đặc
biệt khi người mẹ mất, nàng dã lo ma chay chu đáo như với cha mẹ của mình.
Qua lời trăng trối của bà mẹ trước lúc lâm nguy tác giả đã gửi gắm tình hình của
mình đối với nhân vật Vũ Nương, khẳng định công lao, nhân cách của Vũ
Nương đối với gia đình: Trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi
tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con không phụ mẹ.
Ta thấy ở Vũ Nương tập trung những phẩm chất cao quý truyền thống của
người phụ nữ Việt Nam. Nàng xứng đáng được hưởng cuộc sống hạnh phúc.
Thế nhưng thực tế oan nghiệt đã đẩy nàng vào cảnh ngộ bất hạnh, éo le, oan
khuất. Nàng vốn dĩ là một người phụ nữ rất mực thuỷ chung, vậy mà bây giờ
đây lại bị nghi oan thất tiết. Chỉ vì lời nói vô tình ngây thơ của con trẻ mà Vũ
Nương bị chồng ruồng rẫy, hắt hủi, đánh đập đuổi đi, bị gán cho tội nhục nhã
nhất đối với đức hạnh của người phụ nữ. Trương Sinh quả thực đã hồ đồ, cả
ghen, không cho vợ được thanh minh. Những lời bênh vực của bà con hàng xóm 34
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
cùng những lời phân trần giãi bày hết sức thê thảm không cứu được nàng thoát
khỏi nỗi nhục nhã, vì mất danh dự, Vũ Nương hết lòng hàn gắn hạnh phúc gia
đình có nguy cơ tan vỡ bằng những lời than thấu tận trời xanh: Cách biệt ba
năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đỡ nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót.
Thế nhưng, lời lẽ không làm lung lay được thói độc đoán, gia trưởng hồ đồ của
người chồng có máu ghen tuông mù quáng. Vũ Nương đã phải đau đớn, thất
vọng đến tột cùng vì bị đối xử bất công, vì bất lực không có khả năng bảo vệ
danh dự, niềm khát khao hạnh phúc gia đình bị tan vỡ: Nay đã bình rơi trâm
gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió... đâu còn có thể lại
lên núi Vọng Phu kia nữa.
Thế nhưng, lời nguyền thảm thương của Vũ Nương không giúp nàng thoát khỏi
án oan nghiệt ngã. Là một người phụ nữ có ý thức sâu sắc về phẩm giá, Vũ
Nương đã quyết liệt tìm đến cái chết để bảo toàn danh dự chứ không chịu sống
nhục. Nàng đã gieo mình xuống sông, kết thúc cuộc đời người phụ nữ bất hạnh.
Bằng cách xây dựng tình tiết truyện đặc sắc đầy kịch tính, tác giả cho ta thấy
những cố gắng hết sức nhưng không thành của một người phụ nữ, để rồi phải
chấp nhận số phận và nàng đã phải giải thoát kịch của cuộc đời mình bằng cái
chết oan khuất. Sự việc này đã đẩy câu chuyện đến đỉnh điểm của sự việc. Đến
khi Trương Sinh hiểu ra nỗi oan của vợ cũng bằng sự việc hết sức ngẫu nhiên
mà hợp lí. Đó là khi bé Đản chỉ Trương Sinh cái bóng trên tường chính là cha
của mình. Điều đó có ý nghĩa tố cáo vô cùng mạnh mẽ đối với chế độ phong
kiến, chỉ một cái bóng cũng có thể quyết định số phận một con người, đẩy
người phụ nữ nết na bất hạnh vào bi kịch không lối thoát.
Qua việc xây dựng bi kịch của Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã bày tỏ thái độ xót xa
thương cảm cùng niềm trân trọng đối với người phụ nữ. Thông qua bi kịch của
Vũ Nương, nhà văn phản ánh bi kịch chung về số phận người phụ nữ dưới chế 35
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
độ phong kiến. Những người phụ nữ ấy nết na, đức hạnh như bị đối xử bất công,
vô nhân đạo không có quyền sống hạnh phúc, không được che chở, bảo vệ số
phận vô cùng mỏng manh, yếu ớt. Có lẽ vì thế mà truyện đã in sâu đậm vào trái
tim người đọc, khiến ta mãi day dứt, xót xa, trào dâng niềm thương cảm nghẹn ngào.
Phân tích nhân vật Vũ Nương - Mẫu 10
Trong văn học dân gian và văn học viết của nước ta, người phụ nữ bình dân đã
nêu cao những giá trị cao đẹp về đạo đức, phẩm chất. Nhưng sống trong xã hội
phong kiến đầy rẫy những bất công, oan trái, họ phải chịu nhiều đau khổ và bất
hạnh. Đọc “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ ta thương Vũ
Thị Thiết phải chịu nỗi oan khuất và để giải nỗi oan, nàng đã tìm đến cái chết thật thương tâm.
Nguyễn Dữ giới thiệu với ta nhân vật Vũ Nương - một phụ nữ đẹp người, đẹp
nết. Nàng có tư dung đẹp, tính tình lại hiền dịu, nết na. Khi làm vợ Trương
Sinh, một người chồng có tính đa nghi, nàng vẫn giữ gìn khuôn phép để không
xảy ra cảnh bất hoà. Hạnh phúc chồng vợ sum vầy chưa được bao lâu, chiến
tranh xảy ra, chồng phải ra trận, nàng tiễn chồng lên đường với tâm trạng đau
khổ. Lời nói với chồng trong giờ phút chia tay thật chân tình, cảm động làm cho
“mọi người đều ứa hai hàng lệ”. “Nàng chẳng cầu mong chồng đeo ấn phong
hầu mà chỉ cầu xin chồng trở về bình yên vô sự”. Nguyện vọng của nàng thật giản dị mà sâu sắc.
Mấy năm chồng đi xa, ở nhà một tay nàng lo toan mọi công việc gia đình, nuôi
con từ trứng nước đến khi lớn khôn. Nàng còn là người con dâu hiếu thảo rất
mực, khi mẹ chồng đau ốm nàng “hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời
ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Khi bà cụ qua đời, nàng hết lòng thương xót,
lo ma chay tế lễ chu toàn. Sự ăn ở đối xử hết lòng với mẹ chồng chẳng khác nào 36
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
đối với cha mẹ mình vậy. Tóm lại, Vũ Nương là một phụ nữ vẹn toàn, thể hiện
được những phẩm chất đạo đức cao quý của người vợ, người mẹ, người con.
Con người như vậy đáng ra phải được hưởng hạnh phúc đầm ấm của gia đình.
Chiến tranh chấm dứt, chồng trở về, niềm vui chưa trọn vẹn thì bi kịch xảy ra.
Trương Sinh - một kẻ vô học, thô lỗ, đa nghi, hay ghen đã nghe lời đứa con
ngây thơ, không dò hỏi ngọn ngành, nghi ngờ vợ mình không chung thủy. Nàng
đau khổ, khóc lóc bày tỏ nỗi oan với chồng nhưng Trương Sinh một mực vẫn
buộc tội vợ, thậm chí còn mắng nhiếc, đánh, đuổi nàng đi. Họ hàng, làng xóm
đều biện minh cho nàng nhưng cũng không thay đổi được thái độ của Trường
Sinh. Không còn cách nào để minh oan được nữa, nàng chọn cái chết để giãi
bày tấm lòng chung thủy, trong trắng của mình. Thật tội nghiệp cho Vũ Nương,
ba năm trời cách biệt vẫn giữ gìn một tiết, ấy mà khi chồng trở về lại bị nghi
oan, một con người phẩm hạnh như thế, lại mang tiếng nhuốc nhơ. Bi kịch bị
dồn nén đến cao độ, trong cảnh ngộ đó, Vũ Nương chỉ có một con đường tìm
đến cái chết. Thương Vũ Nương, người đời càng trách giận Trương Sinh phũ phàng:
Khá trách chàng Trương Sinh khéo phũ phàng
("Lại bài Viếng Vũ Thị”của Lê Thánh Tông)
Và ngay cả khi chết rồi, ở dưới thủy cung, nàng vẫn ôm mối hận bị chồng ruồng
rẫy, nàng nghĩ: “Thà già ở chốn làng mây cung nước, chứ còn mặt mũi nào về
nhìn thấy người ta nữa”. Nhưng có lúc nàng lại băn khoăn: “Không thể gửi hình
ẩn bóng ở đây được mãi, để mang tiếng xấu xa”. Nàng mong muốn thiết tha trở
về quê hương đoàn tụ với chồng và để giải được nỗi oan. Nhưng âm dương cách
biệt nàng “chẳng thể trở về nhân gian được nữa”.
Trong xã hội phong kiến, những người phụ nữ đức hạnh, hiền thục như Vũ
Nương đều chịu chung số phận bi đát. Câu chuyện về cái chết thương tâm của 37
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
Vũ Nương càng làm cho ta thông cảm với những nỗi đau của người phụ nữ
trong xã hội cũ. Tác phẩm còn là tiếng nói tố cáo chiến tranh phong kiến đã làm
tan vỡ hạnh phúc của nhiều lứa đôi, gia đình. Trong một xã hội mà quyền sống
con người được tôn trọng như xã hội ta ngày nay, những người phụ nữ có nhan
sắc, phẩm hạnh như nàng Vũ Thị Thiết chắc chắn sẽ sống cuộc đời hạnh phúc.
Từ một câu chuyện lưu truyền trong dân gian, Nguyễn Dữ đã sáng tác nên một
tác phẩm đặc sắc. Mặc dù có ít nhiều yếu tố hoang đường nhưng “Chuyện người
con gái Nam Xương” đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng không phai mờ.
Phân tích nhân vật Vũ Nương - Mẫu 11
Truyện Người con gái Nam Xương là câu chuyện về số phận oan nghiệt của
một người phụ nữ có nhan sắc, có đức hạnh dưới chế độ phong kiến, chỉ vì một
lời nói ngây thơ của con trẻ mà bị nghi ngờ, bị sỉ nhục, bị đẩy đến bước đường
cùng, phải kết liễu cuộc đời mình để giãi tỏ tấm lòng trong sạch. Đó là số phận,
hình ảnh của Vũ Nương một nhân vật chịu nhiều oan nghiệt.
Nguyễn Dữ đã thật tài tình khi xây dựng hình ảnh người phụ nữ mà cụ thể ở đây
là Vũ Nương, ông đã đặt nhân vật vào tình huống khác nhau để thể hiện rõ được
phẩm chất của người phụ nữ thương chồng, yêu con, hiếu thảo với cha mẹ
chồng đồng thời cũng hết mực thủy chung son sắc. Trong cuộc sống vợ chồng
bình thường, nàng đã giữ gìn khuôn phép, không khi nào vợ chồng phải để đến
thất hòa mặc dù Trương Sinh là người chồng tính hay ghen tuông đối với vợ thì phòng ngừa quá mức.
Thật là một cảnh làm cho mọi người phải xúc động, khi Vũ Nương tiễn chồng
đi lính. Thông thường thì khi chồng đi lính nhiều người mong chồng có được
công danh gì mang về để vinh hiển trở về, còn đối với Vũ Nương thi lại không
trông mong vinh hiển mà chỉ cầu chồng được bình yên trở về; nàng còn cảm 38
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
thông với những vất vả, gian lao mà chồng mình sẽ phải chịu đựng; nàng nói
đến nỗi nhớ nhung khắc khoải của mình, bằng những lời rất ân cần; đằm thắm tình cảm.
Khi xa chồng. Vũ Nương lại là một người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết,
nỗi buồn nhớ cứ dài theo năm tháng “bướm lượn đầy vườn”, “mây che kín núi”
tác giả đã dùng hình ảnh ước lệ tượng trưng, mượn cảnh vật thiên nhiên để diễn
tả sự trôi chảy của thời gian. Nàng còn là người con dâu hiếu thảo, người mẹ
hiền, một mình vừa nuôi con nhỏ, vừa tận tụy chăm sóc mẹ chồng đau ốm, nàng
lo thuốc thang, cầu khấn phật trời, và lúc nào cũng ân cần, dịu dàng, lấy lời
ngon ý ngọt khéo léo khuyên mẹ gắng dưỡng sức để chờ Trương Sinh quay trở
về, vì thế cho nên trước khi mẹ chồng nhắm mắt bà đã nói với Vũ Nương rằng
Vũ Nương là người con dâu tốt khi Trương Sinh về sẽ không phụ lòng tốt của
nàng. Rồi nàng cũng hết sức thương xót mẹ và lo ma chay tế lễ như lo cho cha mẹ ruột của mình.
Tưởng rằng khi Trương sinh về thì Vũ nương được sống ngập tràn trong niềm
vui và hạnh phúc và nàng cũng chia sẻ bớt gánh nặng cuộc sống cho chồng ai
ngờ nàng bị một nỗi oan không tài nào thanh minh nổi, mặc dù nàng đã hết lời
phân trần tấm lòng son sắc thủy chung của mình cho chồng hiểu như: Nàng nói
đến thân phận mình nghèo được nương nhờ nơi giàu có.. , tình nghĩa vợ chồng
bao năm và khẳng định tấm lòng thủy chung trong trắng, cầu xin chồng đừng
nghi oan. Như vậy đã chứng tỏ nàng đã hết sức cứu vãn, mong hàn gắn cái hạnh
phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ. Sau nữa nàng nói lên nỗi đau đớn, thất
vọng khi không hiểu vì sao bị đối xử bất công, không có quyền được tự bảo vệ,
ngay cả khi có họ hàng, anh em đến nói giúp. Hạnh phúc gia đình niềm khát
khao của cả cuộc đời nàng đã tan vỡ như bong bong. Tất cả những nỗi đau khổ
chờ chồng trước đây không còn có thể làm lại được nữa. 39
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
Thất vọng đến tột cùng, cuộc hôn nhân đã đến độ không thể nào cứu vãn được,
Vũ Nương đành phải mượn dòng nước quê hương để giải nỗi oan cho mình.
Những lời than trước khi vĩnh viễn cuộc đời đầy đau khổ của mình nhưng cũng
đầy luyến tiếc, như một lời nguyền xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và
tiết sạch giá trong của nàng. Ở đoạn truyện này, tình tiết được sắp xếp đầy kịch
tính, Vũ Nương bị đẩy đến bước đường cùng, nàng đã mất tất cả, đành phải
chấp nhận số phận sau mọi cố gắng không thành. Hành động tự trầm mình của
nàng là một hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự, có nỗi tuyệt
vọng đắng cay, nhưng cũng có sự chỉ đạo của lí trí. Đây không phải là hành
động bột phát trong cơn nóng giận.
Vũ nương đúng là một người phụ nữ xinh đẹp nết na thùy mị, hiền thục, lại đảm
đang tháo vát, thờ kính mẹ chồng rất mực hiếu thảo, một lòng một dạ chung
thủy với chồng, hết lòng vun đắp cho hạnh phúc gia đình. Một con người như
thế đáng ra phải được hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà lại phải chết một cách oan
uổng, đau đớn. vậy nguyên nhân nào dẫn tới kết quả đáng buồn ấy. Có phải
chăng vì cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương không bình đẳng chính
sự cách bức về thân phận nghèo khó của Vũ Nương đã cộng thêm cái thế cho
Trương Sinh bên cạnh cái thế của một người chồng, người đàn ông gia trưởng
trong chế độ phong kiến. Hay đó là những lời nói ngây thơ của đứa trẻ, chứa
đầy những dữ kiện nghi ngờ làm cho Trương Sinh một người chồng hay có tính
đa nghi ghen tuông, hồ đồ và độc đoán kia trở thành kẻ thô bạo, vũ phu là kẻ
bức tử vợ mình trong sự mù quáng, kẻ giết người lại hoàn toàn vô can trong vụ án.
Bi kịch của Vũ Nương là lời tố cáo cái xã hội phong kiến xem trọng quyền uy
của kẻ giàu và của đàn ông trong gia đình, đồng thời bày tỏ niềm thương cảm
của tác giả đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ. Người phụ nữ bất hạnh
ở đây không những không được bênh vực, che chở mà còn bị đối xử một cách 40
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
bất công, vô lí, chỉ vì lời nói ngây thơ của đứa trẻ miệng còn hơi sữa và vì sự hồ
đồ, vũ phu của anh chồng ghen tuông mà phải kết liễu đời mình.
Phân tích nhân vật Vũ Nương - Mẫu 12
Nền văn học trung đại Việt Nam của chúng ta từ thế kỷ X đến XIX chủ yếu kết
tinh và ghi dấu thành tựu bởi các tác phẩm thơ xuất sắc, mà Truyện Kiều của
đại thi hào dân tộc Nguyễn Du là một trong những minh chứng rõ rệt nhất.
Nhưng nói như thế không có nghĩa rằng trong giai đoạn này nền văn học nước
ta không có tác phẩm văn xuôi nào đáng chú ý, bởi Nguyễn Dữ với tập Truyền
kỳ mạn lục đã cho chúng ta một cái nhìn mới, thổi một làn gió lạ mang tên
“truyền kỳ” vào với nền văn học nước nhà. Trong 20 câu chuyện của tác phẩm
này, thì Chuyện chức phán sự đền Tản Viên là một trong số những truyện được
biết đến nhiều, song song với đó thì truyện Chuyện người con gái Nam Xương
cũng được nhắc đến nhiều với hình ảnh nàng Vũ Nương đại diện cho người phụ
nữ Việt Nam xưa, dẫu mang nhiều phẩm chất tốt đẹp nhưng vẫn phải chịu số phận bất hạnh.
Nguyễn Dữ sống vào khoảng thế kỷ XVI, lúc này đây triều đình nhà Lê đã có
dấu hiệu suy yếu, cuộc sống nhân dân có nhiều khó khăn. Ông là người học
rộng tài cao, nhưng lại không ham vinh hoa phú quý, ra làm qua được tầm một
năm thì ông cáo quan lui về ở ẩn, thanh dưỡng tâm hồn và cho ra áng thiên cổ
kỳ bút Truyền kỳ mạn lục. Chuyện người con gái Nam Xương là một trong
những truyện đặc sắc nhất trong tập Truyền kỳ mạn lục.
Cuộc đời của Vũ Nương không thật sự êm ả, cuộc sống vợ chồng của nàng dù
không được đề cập nhiều thế nhưng việc sống với một người chồng luôn ghen
tuông đề phòng thì nàng hẳn không lấy làm thoải mái, sau cùng cũng vì tính
ghen bóng gió ích kỷ của Trương Sinh mà Vũ Nương phải lấy cái chết để minh
oan. Và để tô đậm cái bất hạnh của cuộc đời người con gái này Nguyễn Dữ đã 41
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
khéo léo xây dựng Vũ Nương là một cô gái tài đức vẹn toàn, công dung ngôn
hạnh đầy đủ, chẳng hề khiếm khuyết “tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung
tốt đẹp”. Chỉ với vài từ ngắn gọn thế nhưng hình ảnh Vũ Nương đã hiện lên là
một cô gái có nhan sắc xinh đẹp, lại còn có phẩm chất tốt đẹp cao quý, đó là vẻ
đẹp vẹn toàn. Chính vì thế nên dẫu nghèo khó nhưng Vũ Nương vẫn được
Trương Sinh con trai một nhà hào phú trong làng “xin mẹ đem trăm lạng vàng
cưới về”, điều đó thể hiện giá trị con người Vũ Nương, đồng thời là lòng trân
trọng của Trương Sinh khi hỏi cưới nàng.
Trong tác phẩm Nguyễn Dữ chỉ lướt nhẹ qua nhan sắc của Vũ Nương, sau đó
ông tập trung tô đậm vẻ đẹp phẩm chất của nàng. Ở vai trò người vợ, Vũ Nương
hết mực thương yêu và lo nghĩ cho chồng, biết chồng có tính hay ghen lại nghi
kỵ thế nên trong cuộc sống vợ chồng nàng hết sức “giữ gìn khuôn phép, không
lúc nào để vợ chồng phải thất hòa”. Ngày chồng phải tòng quân đi đánh giặc,
nàng thương xót dặn dò, thề nguyền, nàng không ham chồng được phong ấn,
mũ quan, vinh hiển về làng mà chỉ cầu chồng được hai chữ bình an, cũng bày tỏ
nỗi mong nhớ, lo lắng của mình khi chồng đi vào nơi hiểm trở chẳng may có cớ
sự. Lời nàng thiết tha, sâu sắc bộc lộ rõ tình cảm vợ dành cho người chồng đi
chinh chiến xa xôi, khiến ai nấy đều cảm động khôn nguôi. Trương Sinh đi lính
chưa đầy mười ngày thì Vũ Nương lại sinh con, cuộc vượt cạn vất vả đau đớn
lại không có trượng phu, thế nhưng nàng vẫn một dạ một lòng chăm con khôn
lớn, đợi cho đến ngày giặc tan, Trương Sinh trở về đoàn tụ. Suốt ba năm đợi
chờ, nàng “buồn nhớ khôn nguôi”, lúc gặp cảnh chồng ghen tuông nàng cũng
không lớn tiếng cự cãi mà chỉ dùng lời lẽ mềm mỏng để mong giữ được cái “thú
vui nghi gia nghi thất”, vợ chồng hòa thuận, con có cha có mẹ.
Đối với mẹ chồng, nàng coi như cha mẹ ruột mà phụng bồi, chăm sóc, mẹ
chồng vì thương con chinh chiến không đến nửa năm thì ngã bệnh, Vũ Nương
một mặt thuốc thang, cơm nước ân cần, một mặt “lễ bái thần phật và lấy lời
ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Nhưng dầu cạn đèn tắt, sự tình không thể 42
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
cứu vãn mẹ chồng nhắm mắt xuôi tay, lúc này đây lại một tay nàng lo tang sự
“hết lời thương xót, ma chay tế lễ như đối với cha mẹ đẻ mình”, hiếu thuận chu
đáo vô cùng. Với đứa con nhỏ, tuy Nguyễn Dữ không nhắc đến nhiều, nhưng
đọc truyện cũng có thể cảm nhận được lòng thương con của nàng Vũ Nương,
một tay chăm nó từ khi lọt lòng, đến lúc biết nói, đêm nào cũng trỏ bóng mình
mà nói đấy là cha để dỗ cho con vui. Lòng mẹ bao la, thương con vô bờ bến,
dẫu nói dối, nói đùa cũng là thương con, có thể thấy việc nuôi con một mình
khiến Vũ Nương chịu nhiều đắng cay vất vả, thế nhưng nàng chưa từng than
vãn một lời, chỉ chăm chăm một dạ sắt son.
Ngoài là một người vợ đảm đang, nết na, thủy chung một lòng mà Vũ Nương
còn là một người có tấm lòng vị tha, bao dung vô cùng. Chồng tòng quân xa,
nàng ở nhà một mình chèo chống cả một gia đình, chăm mẹ già, nuôi con nhỏ,
thế nhưng khi trở về Trương Sinh không những không biết ơn, còn đâm ra nghi
ngờ vô cớ. Thế nhưng nàng không một câu trách móc, vẫn luôn giữ đúng phụ
đạo, nhỏ nhẹ giãi bày, một lòng mong muốn chồng thông hiểu, muốn tìm rõ
nguyên nhân nhưng khốn nỗi Trương Sinh lại giấu giếm. Điều ấy đã đẩy nàng
đến bi kịch phải lựa chọn cái chết vì nếu sống mà bị ruồng rẫy, nhục nhã thì còn nghĩa lý gì.
Khi sống dưới thủy cung, nàng vẫn sẵn lòng tha thứ cho chồng, điều ấy thể hiện
qua chi tiết nàng gửi chiếc thoa vàng cho Phan Lang mang về để nhờ Trương
Sinh lập đàn giải oan. Khi hiện về ở trên bến Hoàng Giang Vũ Nương vẫn
không trách móc Trương Sinh mà vẫn đưa lời cảm tạ “Đa tạ tình chàng, thiếp
chẳng thể trở về nhân gian được nữa”, cho thấy nàng đã hoàn toàn tha thứ cho
chồng, giải thoát chồng khỏi những ân hận, đau xót vì trách lầm vợ. Lòng Vũ
Nương vẫn không hề thay đổi, nàng vẫn dịu dàng, hiền thục như thế, dẫu chồng
mình đã gây cho nàng biết bao đau khổ, khiến nàng phải chịu đau đớn tan của
nát nhà, xa lìa đứa con mới tập nói. 43
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
Dẫu nàng có đầy đủ các phẩm chất tốt đẹp thế nhưng cuộc đời nàng lại là một
chuỗi những bất hạnh kéo dài. Mới vừa lấy chồng thì đã phải lìa xa chồng, một
thân một mình chèo chống vất vả, vừa mệt mỏi thể xác, lẫn mệt mỏi trong tâm
hồn. Đến lúc tưởng được đoàn viên thì lại gặp phải nỗi oan lạ lùng, xuất phát từ
lời nói vô thưởng vô phạt của đứa con nhỏ, bị chồng ruồng rẫy ghen tuông, phải
tự tử để chứng minh cho tấm lòng thanh bạch.
Yếu tố kỳ ảo đã giúp nàng được sống, Nguyễn Dữ đã cho nàng một cái kết có
hậu, thế nhưng cái kết ấy vẫn không được vẹn toàn. Bởi tuy được sống cuộc
sống an nhàn, giàu sang dưới thủy cung, thế nhưng nàng lại phải chịu nỗi cô
đơn, thương chồng, nhớ con mà không thể trở về, chỉ có thể nói lời cảm tạ rồi
biến mất. Như vậy nàng đã không phút nào có được hạnh phúc thực sự, bởi ở xã
hội phong kiến hạnh phúc không dành cho những người phụ nữ như Vũ Nương,
hạnh phúc là cái gì đó quá xa vời, dễ dàng vì một lời bâng quơ mà tan biến
thành hư vô. Đó là bất hạnh chung của thân phận người phụ nữ dưới chế độ
phong kiến hà khắc, bảo thủ.
Với những biểu hiện của nhan sắc, phẩm chất tốt đẹp như thế, nết đảm đang,
lòng hiếu thảo, đức hy sinh, thủy chung son sắt, lòng bao dung, vị tha to lớn, Vũ
Nương chính là hiện thân cho vẻ đẹp của người con gái Việt Nam. Vẻ đẹp của
nàng chính là những vẻ đẹp nhân sinh vô cùng quý giá, nàng hoàn toàn xứng
đáng được hưởng hạnh phúc điền viên, được chồng yêu thương, chăm sóc chứ
không phải chịu nỗi bất hạnh ghen tuông vô cớ, rồi táng thân nơi sông nước, sau
cùng lại sống bất tử với nỗi cô đơn vời vợi. Nguyễn Dữ viết về nhân vật Vũ
Nương một là bên ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt
Nam, một bên cũng phản ánh những bất công trong xã hội phong kiến xưa đối
với thân phận người phụ nữ. Đó là những giá trị nhân đạo, nhân văn thật sâu sắc
mà tác giả muốn truyền đạt qua câu chuyện cũng như nhân vật của mình.
Phân tích nhân vật Vũ Nương - Mẫu 13 44
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
Thân em như hạt mưa sa,
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.
Lời ca dao cứ da diết, ngân vang, ám ảnh. Ngược dòng thời gian trở về quá khứ,
hình tượng người phụ nữ Việt Nam trong văn học thật đẹp, thật sáng trong,
nhưng số phận của họ cũng thật nhiều éo le, ngang trái. Tôi thực sự bị ám ảnh
bởi hình ảnh Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn
Dữ. Có lẽ đây là một trong những hình tượng đầu tiên, phản ánh chân thực và rõ
nét số phận của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến hà khắc.
Mở đầu câu chuyện, tác giả đã giới thiệu một cách ngắn gọn về nhân vật Vũ
Nương. Đó là người phụ nữ đẹp người, đẹp nết: “Vũ Thị Thiết, người con gái
quê ở Nam Xương, tính đã thuỳ mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Mặc dù,
truyện được viết theo thể loại truyền kì, nhưng với cách giới thiệu họ tên, quê
quán cụ thể, tác giả tạo nên tính hiện thực sống động cho nhân vật. Người con
gái đó không chỉ đẹp về nhan sắc mà còn có những phẩm chất sáng ngời : hiền
hậu, đảm đang, chung thủy, giàu đức hi sinh. Tác giả đã đưa ra nhiều chi tiết thể
hiện phẩm chất đáng quý đó của Vũ Nương.
Tuy Trương Sinh – chồng của nàng – là một người đa nghi, “đối với vợ phòng
ngừa quá sức” nhưng “nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ
chồng phải đến thất hoà”. Người phụ nữ là người giữ lửa cho mỗi gia đình, Vũ
Nương đã khéo léo giữ được không khí đầm ấm, hạnh phúc cho mái nhà nhỏ
của mình. Đây thực sự là điều không hề dễ dàng. Cũng như bao người phụ nữ
Việt Nam khác, Vũ Thị Thiết đã hi sinh hết mình vì chồng. Nhưng hạnh phúc
mà nàng được hưởng thật ngắn ngủi, chẳng khác nào “bóng câu qua cửa sổ”.
Người đọc thật xót xa, thương cảm khi nghe những lời chia li của nàng trước
khi chồng ra trận: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn
phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ
bình yên, thế là đủ rồi. 45
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân
triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho
tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo
rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình thương người
đất thú ! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Nếu
như người ra đi phải đối diện với hiểm nguy vì hòn tên mũi đạn thì người ở nhà
cũng phải chịu bao khổ đau với nỗi cô đơn tột cùng, mỏi mòn và niềm mong
ngóng cháy bỏng. Bởi lẽ: “Non Kì quạnh quẽ trăng treo – Bến Phì gió thổi đìu
hiu mấy gò” (Chinh phụ ngâm – Đoàn Thị Điểm), người ra đi mấy ai may mắn
trớ về. Vũ Nương thương chồng hết mực và chính tình thương yêu đó đã biến
thành sức mạnh để nàng vượt qua bao khó khăn khi chồng ra đi.
Dù nhớ chồng “nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được” nhưng Vũ
Nương vẫn giấu kín nỗi buồn tủi để nuôi con và chăm sóc mẹ chồng đau yếu :
“Nàng hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo
khuyên lơn”. Tấm lòng hiếu thảo của nàng cũng được mẹ chồng cảm biết:
“Chồng con nơi xa xôi chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được.
Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu
đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.
Người đọc thật khâm phục, ngưỡng mộ tấm lòng của Vũ Thị Thiết đối với mẹ
chồng, nàng đã coi bà như mẹ đẻ và chăm sóc, phụng dưỡng, lo “ma chay tế lễ”
rất chu đáo. Nàng thực sự là một nàng dâu thảo hiền.
Là người phụ nữ đẹp người, đẹp nết tưởng rằng Vũ Nương sẽ được hưởng hạnh
phúc suốt đời nhưng nàng lại có một số phận thật bi thảm, bất hạnh. Tấm lòng
hi sinh, hiếu thảo của Vũ Nương tưởng như được đền đáp khi Trương Sinh từ
chiến trận trở về. Song, cuộc đời thật trớ trêu, ngày chồng trở về không phải
ngày Vũ Nương ngập tràn trong hạnh phúc sum vầy mà là ngày định mệnh, tột
cùng đau khổ, bi thương với nàng. Lời nói ngây thơ của bé Đản chẳng khác nào
những nhát dao oan nghiệt: “Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết 46
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít […] Trước đây, thường có
một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng
ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Người ta thường nói: “Đi hỏi già, về nhà
hỏi trẻ”, Trương Sinh lại là người hay ghen và đa nghi do đó lời nói của con
càng khiến chàng tin rằng Vũ Nương đã phụ bạc mình. Chàng đâu biết “người
đàn ông” mà cậu bé Đản nói chính là cái bóng của chính Vũ Nương. Vì thương
con, nhớ chồng nên nàng thường chỉ bóng mình ở trên vách và nói đó là cha
Đản. Có lẽ nàng cũng không thể ngờ chính tình yêu thương chồng con lại trở
thành mối dây oan nghiệt với cuộc đời mình. Nguyễn Dữ đã thật tài tình khi xây
dựng tình huống đầy éo le, kịch tính, tạo sự hồi hộp cho độc giả. Liệu Vũ
Nương sẽ giải thích sao đây? Liệu tự nàng có giải oan được cho mình hay không?
Cuộc đời của Vũ Nương chẳng khác nào cánh bèo đơn chiếc trôi nổi giữa dòng
đời. Nàng đã bị đẩy vào tình huống dù giải thích thế nào chồng cũng không tin,
nàng chỉ còn biết than khóc với trời xanh, sông rộng: “kẻ bạc mệnh này duyên
phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần
sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn
lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược
bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin
làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Lời thề của Vũ
Nương vừa thể hiện niềm đau đớn khôn nguôi vừa khẳng định tấm lòng trinh
bạch của nàng. Tác giả đã sử dụng kết hợp các điển tích, điển cố “ngọc Mị
Nương, cỏ Ngu mĩ” như lối so sánh ngầm. Tấm lòng của Vũ Thị Thiết cũng
sáng trong, trinh khiết như Mị Nương, Ngu Cơ – những trang “tiết hạnh khả
phong” của muôn đời. Lòng tự trọng bị xúc phạm nặng nề và để minh oan cho
sự trong sáng của mình, Vũ Nương đã “gieo mình xuống sông mà chết”. Cái
chết của nàng khiến người đọc hiểu thêm về số phận bi thảm của người phụ nữ
xưa. Hạnh phúc với họ thật mong manh. 47
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
Tuy vậy, dù ở hoàn cảnh nào người phụ nữ vẫn đau đáu một niềm yêu thương
chồng con tha thiết. Vũ Nương dù đã chết nhưng không nguôi nỗi nhớ mái ấm
gia đình. Với tài năng bậc thầy, Nguyễn Dữ đã xây dựng nên một thế giới huyền
ảo, một cây cầu nối hai bờ hư thực khi để nhân vật Phan Lang gặp lại và trò
chuyện với Vũ Nương chốn thủy cung. Những giọt nước mắt của nàng khi nghe
người hàng xóm nói về chồng con “Nhà cửa tiên nhân của nương tử, cây cối
thành rừng, phần mộ tiên nhân của nương tử, cỏ gai ngợp mắt. Nương tử dù
không nghĩ đến, nhưng tiên nhân còn mong đợi nương tử thì sao?” cho chúng ta
thấy, nàng vẫn một lòng yêu thương Trương Sinh tha thiết. Vì còn lòng yêu
thương nên nàng đã để cho Trương Sinh có cơ hội gặp lại mình: “Nhờ nói hộ
với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan
ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về”.
Tuy nhiên sự trở về của Vũ Nương thật ngắn ngủi : “Vũ Nương ngồi trên một
chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán,
võng lọng, rực rỡ đầy sông lúc ẩn lúc hiện”. Nàng chỉ nói một câu duy nhất :
“Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình
chàng thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Biết bao ý tình nhà văn
Nguyễn Dữ đã gửi gắm vào sự trở về chốc lát của Vũ Nương. Đó là sự trở về để
khẳng định lòng chung thủy, tình yêu thương, là món quà dành cho người biết
hối lỗi như Trương Sinh. Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi, chốc lát thể hiện con người đã
ra đi mãi mãi không thể trở về, cũng như hạnh phúc một khi đã để tuột mất thật
khó có thể lấy lại. Trương Sinh vì ghen tuông mù quáng nên đã để mất người
vợ. Bên cạnh đó, ẩn sâu trong sự trở về của Vũ Nương là nỗi ngậm ngùi, đau
đớn, xót xa cho số phận người phụ nữ:
Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
(Nguyễn Du – Truyện Kiều) 48
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
Hai chữ “bạc mệnh” cứ bám riết, đeo đẳng số phận người phụ nữ. Hình tượng
Vũ Nương là điển hình nghệ thuật cho “phận đàn bà” tư dung tốt đẹp, chung
thủy sắt son mà bất hạnh tột cùng. Câu chuyện vừa là niềm cảm thương sâu sắc
với số phận người phụ nữ, vừa là tiếng nói vạch trần, tố cáo đanh thép đối với
xã hội phong kiến đã chà đạp, bóp nghẹt quyền sống của con người. Chuyện
người con gái Nam Xương do đó thấm đượm giá trị nhân đạo và giá trị hiện
thực sâu sắc. Cho đến hôm nay câu chuyện vẫn như một hồi chuông nhắc nhở
mọi người phải bênh vực, bảo vệ người phụ nữ để họ được hưởng những niềm
hạnh phúc mà họ xứng đáng được hưởng. Gấp trang sách lại, lòng tôi vẫn băn
khoăn tự hỏi: Liệu cuộc đời này còn biết bao người phải khổ như Vũ Nương?
Phân tích nhân vật Vũ Nương - Mẫu 14
Những cuộc chiến tranh vô nghĩa giữa các phe phái phong kiến ở thế kỉ 16 đã
đẩy bao số phận, bao con người, bao gia đình vào hoàn cảnh éo le, đau thương,
tan nát. Thấu hiểu tận lòng nỗi khổ ấy, Nguyễn Dữ đã viết về họ, đặc biệt là
người phụ nữ với tấm lòng yêu thương và sự cảm thông sâu sắc. Đọc Chuyện
người con gái Nam Xương trích trong Truyền kì mạn lục ta bắt gặp những gửi
gắm đầy nhân văn của tác giả và hình ảnh thân phận bị chà đạp của người phụ nữ thời phong kiến.
Như chúng ta đã biết Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ đã làm
xúc động bao thế hệ bạn đọc bởi những phẩm chất cao quý nhưng cuộc đời lại
đầy oan trái của người con gái. Vũ Nương chính là nhân vật trung tâm của câu
chuyện, nàng nổi bật với những nét phẩm chất tiêu biểu của người phụ nữ Việt
Nam đảm đang, tháo vát, chung thuỷ và khát khao hạnh phúc gia đình. Những
cái xã hội nam quyền khắt khe đã đẩy cuộc đời nàng đến cảnh trái ngang, oan uất đầy bất hạnh. 49
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
Mặc dù sống trong xã hội phong kiến nhưng Vũ Nương luôn biết hi sinh cái của
riêng mình để đạt được cái lớn lao hơn đó chính là một gia đình êm ấm, hoà
thuận. Sau khi tiễn chồng đi bằng những lời mặn nồng, tha thiết, Vũ Nương ở
nhà sinh con và nuôi con một mình. Nàng cũng hết mình chăm sóc và phụng
dưỡng mẹ chồng, thuốc thang lễ bái và chôn cất mẹ chồng chu đáo khi mẹ
chồng qua đời như đứa con đẻ không so bì, phân tính thiệt hơn.
Trong mối quan hệ gia đình Vũ Nương luôn giữ gìn khuôn phép, ăn nói có
chừng mực, cho dù năm tháng xa cách, nàng vẫn luôn giữ mình, giá sạch tiết
trong. Bởi thế, khi bị Chương Sinh nghi ngờ Vũ Nương phụ bạc mình, Vũ
Nương chỉ biết một mực kêu oan, cuối cùng nàng đã đến bến Hoàng Giang tự
vẫn. Nhưng trước đó, Chương Sinh đâu biết “người đàn ông” mà cậu bé Đản
nói thật ra chính là cái bóng của chính Vũ Nương. Nguyễn Dữ đã thật tài tình
khi xây dựng tình huống đầy éo le, kịch tính, tạo sự hồi hộp cho độc giả. Liệu
Vũ Nương có được cứu thoát khỏi cuộc sống đau khổ như hiện tại hay không?
Liệu nàng có giải oan được cho mình hay không?
Chúng ta biết khi Vũ Nương tự vẫn thì đã được Linh Phi cứu và hứa sẽ giúp cho
nàng giải oan. Để giúp cho Vũ Nương giải oan, tác giả Nguyễn Dữ đã xây dựng
nên một thế giới huyền ảo, một cây cầu nối hai bờ hư thực để nhân vật Phan
Lang gặp lại và trò chuyện với Vũ Nương nơi chốn thuỷ cung. Vì còn lòng yêu
thương Chương Sinh nên nàng đã nhờ Phan Lang nói cho Chương Sinh biết nếu
muốn gặp lại nàng thì hãy lập đàn giải oan bên sông và kêu Phan Lang đưa kỉ
vật của nàng cho Chương Sinh. Khi trở về nhân gian, Phan Lang đã làm đúng
theo những gì Vũ Nương đã nói. Chương Sinh vốn đa nghi nên đã không tin
nhưng khi thấy kỉ vật là cây châm của Vũ Nương thì Chương Sinh đã làm theo
lời Phan Lang nói. Chương Sinh lập đàn giải oan bên bờ sông thì ngay lập tức
Vũ Nương hiện lên trên bờ sông ngồi trên chiếc kiệu hoa và theo sau có hơn 50
chiếc xe cơ tán, võng lọng và rực rỡ lúc ẩn lúc hiện. Vũ Nương chỉ nói một câu 50
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
duy nhất: “Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa
tạ tình chàng thiếp chẳng thể trở về trần gian được nữa”. Biết bao ý tình nhà văn
Nguyễn Dữ đã gửi gắm và sự trở về chốc lát của Vũ Nương. Đó là sự trở về để
khẳng định sự chung thuỷ, tình yêu thương, là món quà dành cho người biết hối
lỗi như Chương Sinh. Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi, chốc lát vì con người đã ra đi mãi
mãi không thể trở về, cũng như hạnh phúc một khi đã để tuột mất thật khó có
thể lấy lại. Chương Sinh vì ghen tuông mù quáng nên đã đánh mất người vợ của mình.
Từ những phân tích trên, chúng ta thấy cuộc đời của Vũ Nương chẳng khác nào
cánh bèo trôi nổi giữa dòng đời. Nàng đã bị đẩy vào tình huống dù giải thích thế
nào chàng cũng không tin, nàng chỉ còn biết than khóc với trời xanh, sông rộng:
“kẻ bạc này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng
chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài hãy chứng giám”.
Nói tóm lại, sự ra đi của Vũ Nương đáng thương biết bao để lại trong lòng
người đọc bao niềm cảm thương, ngậm ngùi. Nhưng có lẽ đây là cách tốt nhất
của tác giả để giải thoát cho số phận đau thương để cho Vũ Nương sống dưới
thuỷ cung mới có thể tìm được hạnh phúc chính đáng và chốn nương thân che
chở cho mình. Ngòi bút của Nguyễn Dữ đã mạnh dạn nêu ra và phê phán xã hội
và nêu lên những nét đẹp từ phẩm chất cho người đương thời và mãi mãi về sau
khâm phục, nâng niu và trân trọng.
Phân tích nhân vật Vũ Nương - Mẫu 15
Nguyễn Dữ là học trò xuất sắc của Tuyết giang phu tử Nguyễn Bỉnh Khiêm
sống giữa thế kỉ XVI lúc mà chế độ phong kiến nhà Lê đang bắt đầu suy yếu.
Nguyễn Dữ chỉ làm quan có một năm rồi về sống ẩn dật viết sách và sáng tác
văn học. Chuyện người con gái Nam Xương được rút ra trong tập Truyền kì
mạn lục, là một câu chuyện được nhà văn sáng tạo trở thành một tác phẩm văn 51
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
học đích thực. Qua câu chuyện ta thấy nổi lên là nhân vật Vũ Nương với số
phận và phẩm chất cao đẹp.
Số phận của Vũ Nương là một tấn bi kịch đầy thương tâm. Vũ Nương được giới
thiệu là người phụ nữ phong kiến mang vẻ đẹp truyền thống “công – dung –
ngôn – hạnh”. Bằng sự đồng cảm sâu sắc và tấm lòng trân trọng nâng niu,
Nguyễn Dữ đã dành hết tâm huyết của mình để ca ngợi Vũ Nương.
Nhưng thật oái oăm, Vũ Nương được kết tinh bao nhiêu thứ đẹp thì để rồi trở
nên trắng tay trong cuộc đời. Trong hoàn cảnh loạn lạc chiến tranh phong kiến,
Trương Sinh phải đầu quân đi lính, nàng vất vả một mình nuôi con nhỏ chăm
sóc mẹ chồng già yếu ốm đau. Cái bóng trên tường mà nàng vô tình dỗ con
chính là nguyên cớ của sự sụp đổ. Ngày sum họp cũng là ngày nàng vĩnh viễn
rời xa tổ ấm. Đau đớn hơn nữa kẻ đẩy nàng vào chỗ chết không ai khác chính là
chồng và con mình. Chỉ vì lời nói ngây thơ của con trẻ “Ô hay! Thế ra ông cũng
là cha tôi ư” mà Trương Sinh nghi vợ mình không thuỷ chồng. Tâm lý ghen
tuông khiến Trương Sinh đến mù quáng, sự ích kỷ của kẻ vô học khiến Trương
Sinh băm bổ phỉ bám và độc quyền không cho vợ thanh minh. Quả thực sự ghen
tuông dẫn tới đa nghi đó của người đàn ông khiến cho người vợ dù có tinh khôn
đến mấy thì cũng khó lòng mà lường hết được. Lẽ ra cuộc sống hạnh phúc là tin
tưởng là cảm thông nhưng một kẻ tầm thường như Trương Sinh thì chỉ cần một
cái cớ rất nhỏ ấy cũng có thể tưởng tượng ra sự việc vô cùng nghiêm trọng. Cứ
thế mà dẫn tới tan nát cửa nhà. Tuy nhiên xét về khách quan, trong hoàn cảnh
Trương Sinh trở về sau ba năm mẹ đã mất, chỗ dựa tinh thần lớn nhất là vợ và
con. Chàng cứ suy diễn để rồi tưởng tượng có người thứ ba xen vào trong gia
đình mình. Chàng không còn tỉnh táo để suy xét lời con nói ngay cả sự van xin
của vợ cũng chẳng thèm lọt tai. Nàng không tự minh oan cho mình được nữa
đành gieo mình xuống sông tự tử. 52
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
Nỗi oan của Vũ Nương sẽ còn đeo đẳng mãi nếu như không có một đêm tình cờ
“Cha Đản lại đến kia kìa” Người cha thứ hai vô tình ấy chính là nguyên nhân
sâu xa gây ra cái chết oan uổng của Vũ Nương. Thế là chỉ một trò đùa trong
thương nhớ dẫn tới cái chết oan khiên của người vợ dung hạnh. Nàng chết sự lẻ
loi cô đơn và nỗi ân hận sẽ là hình phạt dày vò Trương Sinh suốt quãng đời còn
lại. Cái chết của Vũ Nương cũng là đại diện cho số phận chung của người phụ
nữ phong kiến. Một con người đẹp nết đẹp người, thuỷ chung son sắt thì bị nghi
oan là thất tiết. Một con người hết lòng xây dựng cho hạnh phúc gia đình đến
cuối cùng phải bất hạnh lìa xa cuộc đời. Tác phẩm tố cáo đanh thép cái xã hội
nam quyền độc đoán, cảnh chiến tranh phong kiến dẫn tới sự chia lìa. Người
đọc cũng được cảnh tỉnh về sự nhẹ dạ vô ý dẫn tới những hậu quả thương tâm.
Dưới chế độ phong kiến người phụ nữ bị coi rẻ, mất hết quyền tự chủ nhưng
bằng tấm lòng nhân đạo cao cả Nguyễn Dữ đã dành những trang viết hết sức
xúc động để ca ngợi phẩm chất của Vũ Nương. Mặc dù cuộc hôn nhân với
Trương Sinh là hoàn toàn gượng ép nhưng nàng luôn sống yên phận hết lòng,
vun đắp cho hạnh phúc nhà chồng. Biết chồng đa nghi và hay ghen lúc nào nàng
cũng sống “khuôn phép” để vợ chồng khỏi “thất hoà”. Nàng thuỷ chung son sắt
đợi chờ chồng trong những năm tháng chồng phải đi trận mạc: “Mỗi khi bướm
lượn đầy vườn mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào
ngăn được”. Khi bị chồng nghi oan nàng cố gắng dãi bày và níu kéo khi hôn
nhân có nguy cơ đổ vỡ.
Chuyện mẹ chồng nàng dâu trong xã hội phong kiến thường là chuyện đố kị
nhất trong gia đình. Nhưng với Vũ Nương nàng là người con dâu hiếu thảo:
“Chăm sóc mẹ chồng như cha mẹ đẻ mình”, chạy chữa thuốc thang khi mẹ
chồng ốm khiến cho mẹ chồng phải nể trọng. Trước khi chết bà cụ còn cầu
nguyện “xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Khi
mẹ chồng mất một mình nàng lo ma chay rất chu đáo, được mọi người kính nể. 53
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
Vũ Nương còn là người mẹ tận tụy đảm đang hết lòng yêu thương con. Một
mình một bóng nuôi con Vũ Nương vừa là người mẹ dịu hiền vừa làm thay bổn
phận người cha để làm chỗ dựa tinh thần cho con trẻ.
Về với thuỷ cung, một thế giới lung linh huyền ảo, Vũ Nương được hồi sinh
đúng như lời nguyện trước khi chết. Nàng vẫn mong muốn trở về với quê hương
gia đình. Nhưng ước mơ vẫn chỉ là ước mơ. Tác giả thêu dệt bức tranh dưới
thuỷ cung nhằm hoàn thiện nhân cách Vũ Nương: con người ấy ngay cả khi chết
vẫn muốn được trở về với quê hương.
Bằng tài năng sáng tạo và tấm lòng nhân đạo cao cả. Nguyễn Dữ đã xây dựng
thành công nhân vật Vũ Nương điển hình cho người phụ nữ trong xã hội phong
kiến. Họ là những con người có phẩm chất truyền thống tốt đẹp nhưng lại gặp
nhiều nỗi oan trái cay nghiệt cái xã hội mà ta nói đến là:
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
(Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương)
Phân tích nhân vật Vũ Nương - Mẫu 16
Nói đến Nguyễn Dữ không thể không nói đến tác phẩm Truyền kì mạn lục vô
cùng nổi tiếng được ông viết bằng chữ Hán trong thế kỉ 16. Đây được xem là
một kiệt tác của văn chương cổ, một thiên cổ kì bút mà sau mỗi câu chuyện đề
để lại một sự ám ảnh. Chuyện người con gái Nam Xương với nhân vật Vũ
Nương cũng là một sự ám ảnh đối với người đọc.
Vũ Nương tên thật là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, Hà Nam. Nàng là con
người có nhan sắc, có đức hạnh nhưng cuộc sống lại bạc mệnh. Nàng được một
người con trai nhà hào phú mến vì cái dung hạnh của nàng, đó là Trương Sinh. 54
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
Trong cuộc sống vợ chồng, Vũ Nương luôn giữ trọn đạo làm vợ. Biết chồng
mình có tính đa nghi, nàng lúc nào cũng giữ gìn khuôn phép để cho đời sống vợ
chồng được thuận hòa. Ngay cả khi Trương Sinh đi tòng quân ngoài biên ải xa
xôi, Vũ Nương cũng ở nhà chăm sóc con trai nên người. Trước ngày Trước Sinh
ra chiến trận, Vũ Nương chỉ mong chồng bình yên trở về chứ chẳng mong gì áo
gấm phong hầu. Đó là cái mong ước bình dị của biết bao nhiêu người phụ nữ.
Họ lúc nào cũng lo nghĩ cho chồng, cho con. Những ngày vắng xa chồng, nàng
nhớ chồng khôn xiết. Nhìn bướm, nhìn mây cũng khiến nỗi nhớ trong nàng trở nên cồn cào.
Khi miêu tả nỗi nhớ của Vũ Nương dành cho chồng, Nguyễn Dữ không chỉ thể
hiện được sự cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương mà còn ngầm ý ngợi ca
sự thủy chung của nàng. Hình ảnh của Vũ Nương khiến người ta liên tưởng đến
hình ảnh của người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm cũng đợi chồng trong mòn
mỏi với một nỗi nhớ khắc sâu trong tim.
Không chỉ yêu chồng, Vũ Nương còn hết lòng lo cho nhà chồng. Một tuần sau
khi chồng ra chiến trận, Vũ Nương sinh ra một người con trai đặt tên là Đản.
Mẹ chồng thì già yếu, mình tay nàng vừa chăm thuốc thang cho mẹ chồng, vừa
chăm đứa con nhỏ còn thơ dại. Mẹ chồng qua đời, nàng cũng lo ma chay tế lễ
đâu ra đấy. Nàng xót thương bà không hết lời. Qua những chi tiết miêu tả về Vũ
Nương ta thấy nàng là một người con dâu ngoan hiền, hiếu thảo, một người vợ
thủy chung son sắt và một người mẹ đôn hậu. Trong xã hội, thật hiếm có được
người phụ nữ nào vẹn toàn đến như vậy.
Ngày Trương Sinh hết việc quân trở về đáng lý ra phải là ngày hạnh phúc viên
mãn đối với Vũ Nương thì đó lại là ngày đau khổ nhất của nàng. Với cái bản
tính hay ghen, Trương Sinh đã hiểu nhầm về sự thủy chung của Vũ Nương. Sự
hiểu nhầm ấy khiến nàng bị tổn thương. Để chứng minh cho sự thủy chung một
lòng một dạ của mình, Vũ Nương không còn cách nào khác là tự vẫn. Cái chết 55
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
đánh dấu cho sự kết thúc bi kịch của nàng. Chỉ có Trương Sinh ở lại, nhận ra sai
lầm của mình thì khi ấy đã quá muộn rồi. Vũ Nương đã nhảy xuống sông Hoàng
Giang để giữ tiết đoan trang. Cái bi kịch của cuộc đời Vũ Nương một phần cũng
là do chiến tranh gây ra. Nếu chiến tranh không làm chia cắt đôi vợ chồng trẻ thì
chắc chắn sẽ không có chuyện đau lòng như vậy xảy ra. Nhìn Trương Sinh đau
đớn, dằn vặt người đọc cũng chỉ biết buông một tiếng thở dài đầy chua xót. Xót
thương dành cho số phận người phụ nữ bạc mệnh, xót thương cho một kiếp người.
Yếu tố ly kì được Nguyễn Dữ đưa vào trong truyện làm tăng thêm sức hấp dẫn
cho câu chuyện này. Trong truyện có nhân vật Phan Lang, vì đã tha mạng cho
một con rùa mai xanh nên khi bị chết đuối, Phan Lang đã được Linh Phi là vợ
của vua biển Nam Hải cứu sống. Trong bữa tiệc thiết đãi Phan Lang ở gác Triêu
Dương, Phan Lang đã gặp lại Vũ Nương. Về phần Vũ Nương sau khi tự vẫn,
nàng không chết mà về sống ở dưới thủy cung. Những tình tiết như Vũ Nương
gửi Phan Lang chiếc hoa tai vàng, nhờ Phan Lang nói với chồng lập đàn trang ở
bến Hoàng Giang,… đề là những tình tiết hoang đường. Nhưng cái hoang
đường ấy tạo nên một giá trị nhân đạo sâu sắc cho tác phẩm.
Sự ra đi của Vũ Nương là điều khiến tất cả mọi người đau xót. Bi kịch của Vũ
Nương cũng là bi kịch chung của những người phụ nữ xưa. Thông qua tác phẩm,
Nguyễn Dữ đã tố cáo sự tàn khốc của chiến tranh đồng thời thức tỉnh con người
đừng vì ghen tuông mù quáng mà có những hành động sai lầm.
Phân tích nhân vật Vũ Nương - Mẫu 17
Chuyện người con gái Nam Xương đã làm cảm động bao lòng người bởi số
phận cay đắng và oan nghiệt của người thiếu phụ trẻ mang tên Vũ Nương. Nàng
trong trắng, thùy mị nết na nhưng vì tính đa nghi, và vì chế độ trọng nam khinh
nữ của xã hội phong kiến cũ mà nàng đã phải tự kết liễu cuộc đời để chứng 56
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
minh cho tấm lòng trong sạch của mình. Qua đó, nhà văn Nguyễn Dữ muốn bày
tỏ sự thương cảm, xót xa với Vũ Nương, với những người phụ nữ có số phận
hẩm hiu giống nàng. Ông đã dùng cách dẫn dắt câu chuyện rất tài tình kết hợp
với những yếu tố ly kỳ hấp dẫn khiến người đọc bị cuốn hút và đồng cảm với
cuộc đời đầy bi kịch của người con gái Nam Xương trong chuyện.
Nguyễn Dữ đã xây dựng nên hình ảnh một người con gái, một người phụ nữ,
một người vợ có đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp: Công – dung – ngôn hạnh.
Vũ Nương tên thật là Vũ Thị Thiết, vốn tính thùy mị, nết na, lại thêm tư dung
tốt đẹp. Chính vì vậy nàng được Trương Sinh mến và xin với mẹ đem trăm lạng
vàng cưới về. Như vậy, dù đẹp cả người lẫn nết, nàng vẫn không có quyền được
tự mình quyết định hạnh phúc riêng. Và dù Trương Sinh – chồng nàng là kẻ rất
đa nghi, đối với vợ cũng phòng ngừa quá mức, Vũ Nương vẫn luôn giữ gìn đức
hạnh, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa. Từ một người con gái
ngoan ngoãn, nay Vũ Nương đã trở thành một người vợ hiền chu đáo và toàn
diện. Thật hiếm có người nào được như nàng. Bởi thế, theo quan niệm của
nhiều người, vợ chồng có thuận hòa hay không là do ở người vợ. Dù Trương
Sinh có tính đa nghi nhưng với tấm lòng khiết tịnh và đức tính dịu dàng, ngoan
hiền, Vũ Nương đã luôn gìn giữ được mái ấm gia đình.
Nhưng rồi, cuộc sum họp chưa được bao lâu, Trương Sinh phải lên đường ra
mặt trận đánh giặc. Giây phút từ biệt mẹ già và vợ trẻ, chàng cũng buồn lắm
nhưng vì việc nước không thể chối từ. Vũ Nương cũng lưu luyến không nỡ rời
xa. Nàng thủ thỉ cùng chồng: Thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu,
mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên,
thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn
lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mua dưa chín quá kì,
khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Như vậy, Vũ Nương chẳng hề
nghĩ đến những thứ gấm vóc lụa là, tiền tải của cải như nhiều cô gái khác. 57
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
Ngược lại, lòng nàng chỉ cần sự bình yên trong ngày chồng trở về. Vũ Nương
thật khiêm tốn với tấm lòng trong sáng và thanh khiết. Khi tiệc tiễn vừa tàn,
“ngước mắt cảnh vật vẫn còn như cũ, mà lòng người đã nhuộm mối tình muôn
dặm quan sam”. Lòng người thiếu phụ giờ trống vắng, bâng khuâng.
Khoảng thời gian ở nhà cùng mẹ chồng, Vũ Nương cũng đã sống hết lòng với
mẹ, không khác gì ruột thịt của mình. Lúc bà ốm, “nàng hết sức thuốc thang lễ
bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Một mình Vũ Nương
vừa chăm con nhỏ vừa đỡ đần mẹ già yếu bệnh tật. Nhưng chưa bao giờ nàng
kêu than nửa lời. Một mình Vũ Nương cùng lúc đảm nhiệm cả bốn trọng trách
cao cả: một người mẹ sớm nắng chiều hôm chăm sóc cho đứa con thơ, một
người cha vỗ về lúc con quấy khóc, một người con dâu hiếu thảo hết lòng với
mẹ chồng, đồng thời nàng cũng thay chồng làm một người con trai đỡ đần mẹ
già yếu những lúc buồn lòng tủi phận. Dù vất vả, Vũ Nương đã làm rất tốt. Đến
cả mẹ chồng cũng động lòng trước con dâu: “Sau này, trời xét lòng lành, ban
cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng
phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. “Bà cụ nói xong thì mất. Nàng hết lời
thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”. Có
được một người phụ nữ như Vũ Nương trong nhà quả là phúc đức lớn.
Nhưng sau tất cả, nào hiếu thảo, nào đức hạnh… những tưởng nàng sẽ được
hưởng hạnh phúc trọn vẹn khi Trương Sinh trở về bình yên. Tai họa đã ập
xuống người thiếu phụ hiền lành phúc đức và đáng thương. Trương Sinh khi
nghe lời con trai ngây ngô nói trước đây đêm nào cũng có một người đàn ông
đến với mẹ. Vốn tính đa nghi lại hay ghen tuông, dĩ nhiên Trương Sinh sẽ làm
ầm lên với vợ, một mực không cho nàng được giải thích. Mọi niềm tin về một
người vợ hiền thảo, thủy chung giờ đã tan biến trong giây phút. Khổ một nỗi là
Trương Sinh nhất quyết không chịu nói ra là ai là người đã nói với chàng rằng
Vũ Nương ở nhà hư hỏng. Về phía Vũ Nương, nàng giải thích nhưng không 58
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
được nghe, không được thấu hiểu. Đến bước đường cùng, nàng phải tìm đến cái
chết để mong chứng minh được sự trong sạch của mình. “Đoạn rồi, nàng tắm
gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng: Kẻ bạc
mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu
nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ
tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm
cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi
cho cá tôm, trê xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.
Nói xong nàng gieo mình xuống sông mà chết”. Như vậy, người thiếu phụ trẻ
măng đã phải tìm đến cái chết một cách oan ức và đau thương. Cái chết của
nàng do chính người chồng mà nàng đã hết lòng thương nhớ gây nên. Hơn hết,
là do sự bất công của chế độ phong kiến cũ đã đẩy thân phận người phụ nữ
xuống dưới cùng của xã hội. Họ dù có tốt đẹp đến mấy cũng không được công
nhận, không được ai bênh vực, chở che. Thế nên, Vũ Nương chỉ còn một cách
duy nhất để chứng minh được tấm lòng trong sạch của mình là cái chết.
Vũ Nương đã chết trong sự oan ức với nỗi tủi nhục và tổn thương vô cùng lớn
lao, Nhưng vì phẩm giá cao quý và đức hạnh mà nàng có, Vũ Nương đã được
các nàng tiên cứu giúp và cho hưởng một cuộc sống mới ở một nơi hoàn toàn
mới, nơi không còn khổ đau và nước mắt, không còn những đa nghi hay lời cay
đắng của thế gian trần tục. Nơi ấy chính là nơi mà người đức hạnh như nàng thuộc về.
Qua nhân vật Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã vừa lên án chế độ xã hội phong kiến
xưa đã đẩy người phụ nữ vào hoàn cảnh bất hạnh, đau thương, không cho họ có
quyền được sống, được tự do. Ngược lại, người đàn ông luôn cậy quyền mà đàn
áp phụ nữ. Mặt khác ông cũng ca ngợi những phẩm chất đạo đức cao quý của
người phụ nữ truyền thống Việt Nam. Đó chính là tấm gương cho những người
phụ nữ thế hệ sau noi theo. Sống hiền lành, tử tế, hết lòng thương yêu mọi 59
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
người. Kết thúc có hậu của câu chuyện đã một lần nữa khẳng định quy luật bất
di bất dịch của tự nhiên: ở hiền gặp lành. Vì vậy, em mong sao tất cả mọi người
cùng nhau sống lành mạnh, giàu tình thương để cuộc sống này luôn được ấm êm, hạnh phúc.
Phân tích vẻ đẹp nhân vật Vũ Nương
Chuyện người con gái Nam Xương là một trong hai mươi câu chuyện trong
"Truyền kì mạn lục" của nhà văn Nguyễn Dữ. Câu chuyện kể về cuộc đời và số
phận người Vũ Nương, người con gái đẹp người đẹp nết nhưng lại có số phận
trớ trêu, ngang trái. Truyện đã tái hiện thành công vẻ đẹp của Vũ Nương hay
cũng chính là vẻ đẹp của những người phụ nữ trong xã hội xưa.
Vũ Nương, nàng tên thật là Vũ Thị Thiết, là người con gái "quê ở Nam Xương".
Đó là lời giới thiệu ngắn gọn mà tác giả dành cho người con gái đó. Nguyễn Dữ
không tập trung miêu tả vẻ đẹp của Vũ Nương, thế nhưng chỉ qua vài dòng ngắn
ngủi của tác giả, ta cũng thấy được vẻ đẹp đó của nàng: "tính đã thuỳ mị nết na,
lại thêm tư dung tốt đẹp". Chính vì điều đó mà chồng nàng - Trương Sinh đã
đem lòng yêu mến người con gái tài sắc vẹn toàn ấy mà "xin với mẹ đem trăm
lạng vàng cưới về". Biết chồng mình "có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa
quá sức" nên trong thời gian chung sống, Vũ Nương luôn giữ trọn đạo làm vợ
của mình. Nàng luôn "giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải
đến thất hoà". Chữ "dung" chữ "hạnh" trong đạo nghĩa đánh giá người phụ nữ xưa, nàng đã vẹn tròn.
Không chỉ là một người con gái thuỳ mị, nết na, xinh đẹp, Vũ Nương còn là một
người vợ thuỷ chung vô cùng. Nàng lấy chồng chưa được bao lâu thì chồng
nàng đã bị "bắt lính đi đánh giặc Chiêm". Khi tiễn chồng ra trận, nàng đã "rót
chén rượu đầy tiễn chồng" mà thốt lên những lời vàng ngọc rằng "Chàng đi
chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về 60
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên". Là một người vợ, ai
chẳng mong chồng mình được làm quan, được "đeo ấn phong hầu", "được mặc
áo gấm", vậy mà Vũ Nương lại khác, ước mong của nàng chỉ là sự bình yên trở
về của người chồng. Ba năm Trương Sinh đi lính là ba năm Vũ Nương chăm
sóc mẹ già, chăm lo cho con nhỏ, một lòng đợi chồng.
Vũ Nương còn là một người con dâu hết lòng hiếu thảo với mẹ chồng. Ba năm
Trương Sinh xa nhà cũng là thời gian mà Vũ Nương phải gánh vác mọi chuyện
lớn nhỏ trong gia đình. Trong ba năm đó, nàng vừa sinh con, nuôi dạy con vừa
hết lòng chăm sóc, hiếu kính với mẹ chồng. Khi mẹ chồng đổ bệnh, nàng đã hết
mực chăm sóc, không chỉ "thuốc thang lễ bái thần phật" mà còn luôn "lấy lời
ngọt ngào khôn khéo mà khuyên lơn" mẹ chồng. Tấm lòng của Vũ Nương cũng
được mẹ chồng ghi nhận: "Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống
dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ".
Không chỉ thuỷ chung, son sắt, hiếu thảo, Vũ Nương còn là một người mẹ yêu
thương con mình hết mực. Lúc Trương Sinh đi lính cũng là khi Vũ Nương
"đương mang thai", "đầy tuần" sau thì nàng sinh ra một bé trai, đặt tên là Đản.
Nàng yêu thương con trai vô cùng, lo sợ con trai thiếu vắng tình thương của cha,
mỗi tối Vũ Nương thường "trỏ bóng mình" trên vách nhà mà "bảo là cha Đản"
để con trai luôn cảm nhận được có cha ở bên chăm sóc, yêu thương. Thế nhưng,
trớ trêu thay, hành động thể hiện tình yêu thương của Vũ Nương qua nhận thức
non nớt của con trẻ và sự đa nghi của người chồng đã gây ra bi kịch cho cuộc đời nàng.
Vũ Nương là một phụ nữ vô cùng coi trọng danh dự, nhân phẩm của mình và là
một người phụ nữ sống vô cùng tình nghĩa. Ba năm Trương Sinh vắng nhà là ba
năm Vũ Nương một mình coi sóc gia đình, lo lắng hết thảy mọi việc. Vậy mà
chồng của nàng, khi đi lính trở về, chỉ vì một lời nói con trẻ không rõ ràng 61
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
đương tâm nghi oan cho nàng là "thất tiết", mắng nhiếc, "đánh đuổi nàng đi".
Với một người phụ nữ trong xã hội xưa, "thất tiết" là một tội trạng tày trời, bởi
nó đã vi phạm vào đạo nghĩa "công dung ngôn hạnh, tam tòng tứ đức" của một
người phụ nữ. Vậy mà Vũ Nương lại bị chính chồng mình nghi oan cho tội danh
"thất tiết", còn gì đau đớn bằng, tủi nhục bằng? Nàng đã dùng những lời lẽ khôn
khéo hết mực để minh oan cho bản thân "Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa
nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc binh đao.
Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn đã từng nguội lòng, ngõ
liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói".
Thế nhưng những lễ giáo trong một xã hội "trọng nam khinh nữ", khi mà lời nói
của người phụ nữ không có chút trọng lượng thì những lời của nàng nói ra cũng
chỉ là giọt nước nhỏ bé rơi vào đại dương đang dậy sóng. Trương Sinh không
những không tin lời nàng mà còn đánh đập, buông lời mắng nhiếc nghiệt ngã.
Để chứng minh tấm lòng trong sạch của mình, Vũ Nương đã gieo mình xuống
sông Hoàng Giang mà tự vẫn.
Khi nàng trầm mình xuống Hoàng Giang, Đức Linh Phi đã thương tình mà cứu
sống và để nàng sống ở chốn "cung mây cõi nước". Chính vì thế, nàng "cảm tạ"
chân thành ơn cứu mạng ấy và "thề sống chết không bỏ" nơi chốn này. Sau khi
được lập đàn giải oan, Vũ Nương trở về nhưng chỉ "ngồi trên kiệu hoa đứng
giữa dòng" mà cảm tạ Trương Sinh rồi biến mất, trở về chốn Thủy cung.
Có thể nói, Vũ Nương là hiện thân đại diện cho những người phụ nữ trong xã
hội cũ. Họ mang trong mình những phẩm chất, những vẻ đẹp cao quý như hiếu
thảo, thuỷ chung, yêu thương chồng con, ... thế nhưng cuộc sống của họ lại là
tấn bi kịch đau đớn. Tấn bi kịch đó xảy ra là do tư tưởng "trọng nam khinh nữ"
và những định kiến nghiệt ngã của xã hội phong kiến. Thông qua Chuyện người
con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ muốn gửi gắm đến chúng ta niềm thương cảm 62
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật Vũ Nương
sâu sắc dành cho số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến cũng là sự trân
trọng, ngợi ca những vẻ đẹp cao quý của họ.
Viết đoạn văn phân tích nhân vật Vũ Nương
Vũ Nương là một trong những nhân vật tiêu biểu, đại diện cho vẻ đẹp của người
phụ nữ Việt Nam thời trung đại. Nàng tên thật là Vũ Thị Thiết, có tiếng với
tướng mạo đoan trang, "tư dung tốt đẹp". Ở nàng quy tụ vô số những đức tính
đáng quý. Đầu tiên phải kể đến lòng thủy chung, son sắt với tư cách một người
vợ. Ý thức được chồng mình có tính hay ghen, nàng luôn hết mực giữ gìn phẩm
giá, không để xảy ra mâu thuẫn trong nhà. Khi tiễn chồng ra trận, nàng đã bày
tỏ nỗi lòng mình, không cầu vinh hoa phú quý, chỉ cần chồng bình an trở về.
Trong ba năm Trương Sinh đi lính, không lúc nào Vũ Nương ngưng đợi chờ,
nhớ mong. Không chỉ vậy, nàng còn hết mực chăm sóc đứa con nhỏ cùng người
mẹ chồng đau ốm. Vũ Nương vun vén, tần tảo gánh vác cả gia đình. Ấy vậy mà
nàng phải chịu cái danh thất tiết. Bị người chồng đầu ấp tay gối vu cho tội thất
tiết,Vũ Nương đã không ngừng giải thích, cố gắng minh oan cho bản thân.
Thậm chí, nàng đã chọn cái chết để chứng minh sự trong sạch. Đến lúc được
giải oan, vì chịu ơn Linh Phi, Vũ Nương nguyện ở lại dưới thủy cung để báo
đáp ân tình. Nàng sáng lên với vẻ đẹp của sự vị tha, bao dung cùng tình yêu
thương lớn lao dành cho gia đình. Qua đó, Nguyễn Dữ cũng đã thể hiện sự trân
trọng cũng như thương xót dành cho người phụ nữ trong xã hội nam quyền đầy bất công. 63