











Preview text:
  lOMoAR cPSD| 60692662
Chủ đề 21: Phân tích nội dung đổi mới quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về 
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa.  MỤC LỤC 
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................2 
NỘI DUNG ................................................................................................................ 2 
1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.............. 2 
1.1. Quan điểm của C. Mác về nhà nước trong thời kỳ quá độ ........................... 2 
1.2. Quan điểm của C. Mác về quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ............... 4 
1.3. Quan điểm của C. Mác về thời điểm bắt đầu thời kỳ quá độ ....................... 5 
1.4. Quan điểm của C. Mác về độ dài của thời kỳ quá độ .................................. 6 
2. Quan điểm trước đây của Đảng cộng sản về thời kì quá độ ............................... 7 
3. Đổi mới quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường đi lên chủ nghĩa 
xã hội bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa .................................................................. 8 
3.1. Những điều kiện khách quan của con đường lên chủ nghĩa xã hộỉ bỏ qua 
chế độ tư bản chủ nghĩa ....................................................................................... 8 
3.2. Thực chất của con đường lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ 
nghĩa .................................................................................................................... 9   
KẾT LUẬN.............................................................................................................12 
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................13  LỜI MỞ ĐẦU 
Vận dụng triệt để quan niệm duy vật về lịch sử vào nghiên cứu đời sống xã hội, chủ 
nghĩa Mác để lại một hệ thống lý luận cơ bản, lịch sử, cụ thể về thời kì quá độ lên 
chủ nghĩa xã hội, có giá trị định hướng con đường phát triển đi lên của các dân tộc 
theo quy luật phát triển chung của thời đại và đặc thù của các quốc gia - dân tộc 
trong đó có Việt Nam. Đảng ta đã có sự vận dụng linh hoạt chủ nghĩa Mác về thời 
kì quá độ trên cơ sở kế thừa có chọn lọc, sau đó tiếp tục bổ sung , hoàn thiện để phù 
hợp với tình hình thực tiễn của đất nước. Đảng ta khẳng định rằng nước ta quá độ    lOMoAR cPSD| 60692662
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự lựa chọn tất yếu. Và thành 
tựu trong hơn 30 năm xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa của nước ta đã khẳng định 
những quyết định của Đảng ta hoàn toàn đúng đắn. Nhận thức rõ tầm quan trọng của 
việc nghiên cứu về thời kì quá độ của đất nước, em xin phép lựa chọn đề tài: “Phân 
tích nội dung đổi mới quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về về con đường 
đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa.”  NỘI DUNG 
1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội   
1.1. Quan điểm của C. Mác về nhà nước trong thời kỳ quá độ 
Quan điểm của C. Mác về nhà nước trong thời kỳ quá độ được ông trình bày ngắn 
gọn trong tác phẩm “Phê phán Cương lĩnh Gotha”. Cụ thể ông viết: “Giữa xã hội tư 
bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã 
hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị và 
nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng 
của giai cấp vô sản”. Quan điểm này của C. Mác có thể được hiểu như sau. 
Lịch sử của loài người giống như lịch sử của tự nhiên. Theo đó, lịch sử của loài 
người phải trải qua các hình thái hay các giai đoạn từ thấp đến cao. Để phân biệt các 
giai đoạn này chúng ta có thể xem chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất là chế độ công 
hữu hay chế độ tư hữu (gọi tắt là chế độ sở hữu, chế độ công hữu, chế độ tư hữu). 
Các xã hội đã có trong lịch sử theo thứ tự từ thấp đến cao là xã hội dựa trên chế độ 
công hữu (xã hội cộng sản nguyên thủy), xã hội dựa trên chế độ tư hữu (xã hội này 
có các giai đoạn khác nhau về mức độ tư hữu của chế độ sở hữu, cụ thể có các giai 
đoạn như: xã hội dựa trên phương thức sản xuất Châu Á, xã hội dựa trên phương 
thức sản xuất chiếm hữu nô lệ, xã hội dựa trên phương thức sản xuất phong kiến, xã 
hội dựa trên phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa). Xã hội trong tương lai sẽ là xã 
hội dựa trên chế độ công hữu (xã hội cộng sản chủ nghĩa).    lOMoAR cPSD| 60692662
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, giai cấp chưa xuất hiện. Trong xã hội dựa trên 
chế độ tư hữu có ba giai cấp, đó là giai cấp có nhiều tư liệu sản xuất, giai cấp không 
có tư liệu sản xuất, giai cấp có ít tư liệu sản xuất. Giai cấp có nhiều tư liệu sản xuất 
ví dụ là giai cấp chủ nô, giai cấp địa chủ, giai cấp tư sản. Giai cấp không có tư liệu 
sản xuất ví dụ là giai cấp nô lệ, giai cấp nông nô, giai cấp vô sản. Nhà nước bao giờ 
cũng là nhà nước của giai cấp thống trị để trấn áp giai cấp bị thống trị, là nền chuyên 
chính của giai cấp thống trị đối với giai cấp bị thống trị. Không có nhà nước nào là 
nhà nước của toàn dân. Giai cấp nào thống trị về kinh tế thì giai cấp đó thống trị về 
chính trị. Các nhà nước đã có trong lịch sử ví dụ là nhà nước của giai cấp chủ nô 
(tồn tại trong xã hội chiếm hữu nô, là công cụ để trấn áp giai cấp nô lệ), nhà nước 
của giai cấp địa chủ (tồn tại trong xã hội phong kiến, là công cụ để trấn áp giai cấp 
nông nô), nhà nước của giai cấp tư sản (tồn tại trong xã hội tư bản chủ nghĩa, là công 
cụ để trấn áp giai cấp vô sản). Trong xã hội cộng sản chủ nghĩa sẽ không còn giai 
cấp, và do đó, sẽ không còn nhà nước. 
Trong thời kỳ quá độ, giai cấp sẽ còn tồn tại. Cụ thể, giai cấp tư sản và giai cấp vô 
sản sẽ còn; tuy nhiên, giai cấp tư sản sẽ chuyển từ vị trí thống trị thành vị trí bị thống 
trị, giai cấp vô sản sẽ chuyển từ vị trí bị thống trị thành vị trí thống trị. Trong thời kỳ 
quá độ, giai cấp tiểu tư sản sẽ không còn, vì giai cấp tiêu tư sản là đại diện cho sản 
xuất nhỏ, sản xuất nhỏ sẽ chuyển thành sản xuất lớn, khi xã hội tư bản chủ nghĩa 
phát triển đến giai đoạn tột cùng của nó thì giai cấp tiểu tư sản sẽ phân hóa thành 
giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. 
Trong thời kỳ quá độ, nhà nước vẫn còn. Lúc này, nhà nước sẽ là nhà nước của giai 
cấp vô sản để trấn áp giai cấp tư sản. Bộ máy trấn áp của nhà nước sẽ đơn giản hơn, 
vì việc đa số trấn áp thiểu số sẽ đơn giản hơn việc thiểu số trấn áp đa số. Mục đích 
trấn áp của giai cấp tư sản đối với giai cấp vô sản là duy trì chế độ tư hữu. Mục đích    lOMoAR cPSD| 60692662
trấn áp của giai cấp vô sản đối với giai cấp tư sản là xóa bỏ chế độ tư hữu, xóa bỏ 
giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, xây dựng xã hội không có giai cấp. 
Khi thời kỳ quá độ kết thúc, tức là khi xã hội cộng sản chủ nghĩa hình thành, giai cấp 
sẽ mất đi, nhà nước sẽ tiêu vong, trấn áp và cưỡng bức sẽ không còn, tự do của mỗi 
người sẽ là điều kiện cho sự tự do của mọi người. 
Nhà nước trong xã hội tư bản chủ nghĩa và trong thời kỳ quá độ đều là nhà nước dân 
chủ.Tuy nhiên, nhà nước trong xã hội tư bản chủ nghĩa là nhà nước dân chủ tư sản; 
còn nhà nước trong thời kỳ quá độ sẽ là nhà nước dân chủ vô sản. Dân chủ tư sản là 
dân chủ cho thiểu số, không phải là dân chủ cho đa số; dân chủ vô sản sẽ là dân chủ 
cho đa số, sẽ không phải là dân chủ cho thiểu số. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai 
cấp tư sản là chủ, giai cấp vô sản là tớ. Trong thời kỳ quá độ, giai cấp vô sản sẽ là 
chủ, giai cấp tư sản sẽ là tớ. Khi thời kỳ quá độ kết thúc, chế độ dân chủ cũng sẽ tiêu 
vong (vì chế độ độ dân chủ là một hình thức của nhà nước).   
1.2. Quan điểm của C. Mác về quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ 
Đặc điểm của quan hệ sản xuất phụ thuộc trước hết vào chế độ sở hữu. Chế độ sở 
hữu trong xã hội tư bản chủ nghĩa là chế độ tư hữu (cụ thể hơn là chế độ tư hữu tư 
bản chủ nghĩa). Chế độ sở hữu trong xã hội cộng sản chủ nghĩa là chế độ công hữu. 
Chế độ sở hữu trong thời kỳ quá độ là sự quá độ từ chế độ tư hữu sang chế độ công 
hữu, tức không còn hoàn toàn là chế độ tư hữu nhưng cũng chưa hoàn toàn là chế độ  công hữu. 
Trong xã hội dựa trên chế độ tư hữu, mức độ tư hữu ngày càng nhiều hơn. Mức độ 
tư hữu của xã hội tư bản chủ nghĩa cao hơn mức độ tư hữu của các xã hội tiền tư bản 
chủ nghĩa. Trong thời kỳ quá độ, giai cấp vô sản sẽ nắm được quyền thống trị về 
chính trị, tức là sẽ cướp được chính quyền nhà nước từ trong tay giai cấp tư sản, sau 
đó giai cấp vô sản sẽ tiến hành quốc hữu hóa tư liệu sản xuất của giai cấp tư sản.    lOMoAR cPSD| 60692662
Trong quá trình này, mức độ tư hữu sẽ ngày càng ít đi, mức độ công hữu sẽ ngày 
càng nhiều hơn, tỷ trọng của tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của giai cấp tư sản trong 
tổng số tư liệu sản xuất của xã hội sẽ ngày càng ít hơn, tỷ trọng tương ứng của tư 
liệu sản xuất thuộc sở hữu của toàn dân sẽ ngày càng nhiều hơn. Thời kỳ quá độ sẽ 
kết thúc khi chế độ tư hữu hoàn toàn mất đi, chế độ công hữu hoàn toàn hình thành. 
Trong thời kỳ quá độ, do vẫn còn chế độ tư hữu nên vẫn còn tình trạng giai cấp tư 
sản bóc lột giai cấp vô sản. Tuy nhiên, mức độ bóc lột của giai cấp tư sản đối với 
giai cấp vô sản ở thời kỳ này sẽ ít hơn so với thời kỳ tư bản chủ nghĩa. Sự bóc lột 
của giai cấp tư sản đối với giai cấp vô sản sẽ chấm dứt khi kết thúc thời kỳ quá độ, 
xã hội cộng sản chủ nghĩa hình thành. 
Trong thời kỳ quá độ, do vẫn còn chế độ tư hữu nên vẫn còn kinh tế thị trường. Tuy 
nhiên, tính chất thị trường của nền kinh tế sẽ dần dần ít đi. Khi kết thúc thời kỳ quá 
độ thì kinh tế thị trường sẽ tiêu vong. 
Trong thời kỳ quá độ, sự phân phối sẽ không hoàn toàn theo lao động. Trong xã hội 
tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản tuy không lao động nhưng vẫn được hưởng một 
phần giá trị sản phẩm do giai cấp vô sản làm ra.   
1.3. Quan điểm của C. Mác về thời điểm bắt đầu thời kỳ quá độ 
Thời điểm bắt đầu của thời kỳ quá độ là thời điểm mà cách mạng vô sản thành công, 
giai cấp vô sản trở thành giai cấp thống trị về chính trị, nhà nước tư sản bị thay thế 
bằng nhà nước vô sản. Nhưng vấn đề phức tạp là ở chỗ, bao lâu nữa tính từ lúc C. 
Mác viết tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gotha” thời kỳ quá độ sẽ xuất hiện. Trong 
các tác phẩm của Mác không có câu nào dự đoán về thời điểm mà thời kỳ quá độ sẽ 
xuất hiện. Tuy nhiên, chúng ta có thể phán đoán rằng, theo Mác, thời kỳ quá độ sẽ 
xuất hiện trong tương lai gần (sau vài chục năm nữa, hoặc muộn nhất sau hai trăm 
năm nữa). Vì nếu cho rằng Mác dự đoán thời kỳ quá độ chỉ xuất hiện trong tương lai    lOMoAR cPSD| 60692662
xa (sau hơn hai trăm năm nữa), thì có nghĩa là cho rằng, mục tiêu của phong trào 
cộng sản thế giới là mục tiêu của tương lai quá xa, phong trào cộng sản thiếu tính 
thực tế. Lúc C. Mác viết tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gotha” năm 1875, đã có sự 
kiện Công xã Pari năm 1871. Công xã Pari có một số đặc điểm của thời kỳ quá độ. 
Với sự kiện đó chúng ta có thể cho rằng, Mác dự đoán thời kỳ quá độ sẽ xuất hiện 
trong tương lai gần, chứ không phải chỉ xuất hiện sau hơn hai trăm năm nữa.   
1.4. Quan điểm của C. Mác về độ dài của thời kỳ quá độ 
Độ dài của thời kỳ quá độ bắt đầu khi giai cấp vô sản trở thành giai cấp thống trị về 
chính trị cho đến khi nhà nước tiêu vong, tức là khi xã hội tư bản chủ nghĩa mất đi 
và xã hội cộng sản chủ nghĩa hình thành. Vậy, độ dài của thời kỳ quá độ theo dự 
đoán của Mác là bao nhiêu năm? Trong các tác phẩm của Mác không có câu nào dự 
đoán về độ dài của thời kỳ quá độ. Tuy nhiên, chúng ta có thể phán đoán rằng, theo 
Mác, thời kỳ quá độ không thể dài như một hình thái kinh tế - xã hội, chẳng hạn, độ 
dài đó không thể là hàng trăm năm. Vì sao? Vì thời kỳ quá độ không phải là một 
hình thái kinh tế - xã hội, vì thế, độ dài của thời kỳ quá độ thường ngắn hơn độ dài 
của một hình thái kinh tế - xã hội. Đó là lý do thứ nhất. Lý do thứ hai là ở chỗ, thời 
kỳ quá độ là thời kỳ chuyển hóa về chất, chứ không còn là thời kỳ chuyển hóa về 
lượng, chuyển hóa về chất là nhảy vọt chứ không phải dần dần. Lý do thứ ba là, khi 
đã nắm chính quyền, giai cấp vô sản sẽ tiến hành ngay quốc hữu hóa (bằng cách ban 
hành pháp luật tịch thu tư liệu sản xuất của giai cấp tư sản và biến thành tài sản của 
toàn dân, tiếp theo là trấn áp giai cấp tư sản chống đối pháp luật); để hoàn thành việc 
quốc hữu hóa thì chỉ cần vài chục năm hoặc vài năm, chứ không cần đến hàng trăm 
năm. Quốc hữu hóa là sự chuyển đổi về chủ sở hữu. Tính phức tạp của việc quốc 
hữu hóa là do sự chống đối của giai cấp tư sản bị tước đoạt tài sản. Nếu không có sự 
chống đối của giai cấp tư sản thì giai cấp vô sản cũng chỉ cần mất vài tháng để hoàn 
thành quốc hữu hóa. Do có sự chống đối của giai cấp tư sản nên thời gian quốc hữu    lOMoAR cPSD| 60692662
hóa sẽ kéo dài hơn, tuy nhiên thời gian đó cũng sẽ không kéo dài đến hàng trăm năm; 
nói cách khác, thời kỳ quá độ sẽ không kéo dài đến hàng trăm năm. 
2. Quan điểm trước đây của Đảng cộng sản về thời kì quá độ 
Từ khi thành lập Đảng đến nay, Đảng ta luôn kiên định lựa chọn con đường tiến lên 
chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong Chính cương vắn tắt do 
Nguyễn Ái Quốc soạn thảo khi thành lập Đảng (1930) đã khẳng định: “Đảng chủ 
trương làm cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng 
sản”4. Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, tại Đại hội III (1960) của Đảng khẳng 
định đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Khi 
cả nước thống nhất, tại Đại hội IV (1976) Đảng ta khẳng định: “tiến thẳng lên chủ 
nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Tuy nhiên, trong nhận 
thức về sự bỏ qua chế độ tư bản trong giai đoạn trước đây là đối lập hoàn toàn giữa 
chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, coi những gì đã có trong chủ nghĩa tư bản đều 
phải loại bỏ không dung nạp được trong chủ nghĩa xã hội. Chính từ nhận thức sai 
lầm trên, dẫn đến việc phủ nhận sự cần thiết phải kế thừa có chọn lọc những thành 
quả của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy, trong nhiều thập 
kỷ vấn đề bỏ qua cái gì của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa đã không được  chúng ta nhận thức rõ. 
Ở giai đoạn này quan niệm về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam còn 
bộc lộ một số hạn chế; về cơ bản chưa đề ra được cách thức, biện pháp của con 
đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Hệ quả, kinh tế 
- xã hội rơi vào khủng hoảng ngày càng trầm trọng vào cuối những năm 70, đầu 
những năm 80 của thế kỷ XX.    lOMoAR cPSD| 60692662
3. Đổi mới quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường đi lên chủ 
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa. 
3.1. Những điều kiện khách quan của con đường lên chủ nghĩa xã hộỉ bỏ 
qua chế độ tư bản chủ nghĩa  Điều kiện quốc tế: 
Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ làm cho lực 
lượng sản xuất thế giới phát triển đã đạt đến trình độ cao, đã mở đầu giai đoạn mới 
của quá trình xã hội hóa sản xuất, tạo ra cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế, tạo 
điều kiện hiện thực để nước ta có thể tranh thủ vốn, cơ sở vật chất - kỹ thuật, kinh 
nghiệm quản lý của thế giới cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, 
nếu chúng ta thực hiện hiệu quả phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ 
họp tác kinh tế quốc tế. Trong điều kiện kinh tế thế giới có bước nhảy vọt về cơ sở 
vật chất - kỹ thuật, xã hội loài người đòi hỏi phát triển lên một xã hội mới của nền 
văn minh cao hơn - đó là nền văn minh của kinh tế tri thức. Do đó, quá độ lên chủ 
nghĩa xã hội là con đường phát triển họp quy luật khách quan. Sau chủ nghĩa tư bản 
nhất định phải là một chế độ xã hội chủ nghĩa tốt đẹp hơn. Bối cảnh, điều kiện quốc 
tế mới nêu trên đã tạo khả năng để Việt Nam chúng ta thực hiện quá độ lên chủ nghĩa 
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.  Điều kiện trong nước: 
Nước ta đã giành được độc lập dân tộc, có chính quyền của giai cấp công nhân và 
nhân dân lao động, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Với những thắng lợi đã 
giành được trong gần một thế kỷ qua, đặc biệt là những thành tựu to lớn và có ý 
nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi tĩnh trạng nước nghèo, 
kém phát triển, bước vào nhóm nưởc đang phát triển có thu nhập trung bình, đang    lOMoAR cPSD| 60692662
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế quốc 
tế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Đây là điều kiện tiên quyểt, 
quyết định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 
Quá trình cách mạng do Đảng ta lãnh đạo đã tạo những tiền đề cả yật chất và tinh 
thần để có thể "rút ngẳrì' tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên của xã hội. Vì thế, 
tròng sự lựa chọn con đường đi lên cho mình, dân tộc ta đã chọn con đường quá độ 
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đó là con đường phù họp cả 
về lý luận và thực tiễn, cả về đặc điểm lịch sử - cụ thể trong nước và hoàn cảnh quốc  tế. 
3.2. Thực chất của con đường lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản  chủ nghĩa 
Nói "nước ta quả độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa", thực chất 
là trong lịch sử nước ta bỏ qua một giai đoạn, trong đó giai cấp tư sản nắm chính 
quyền và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa giữ địa vị thống trị trong nền kinh tế 
quốc dân. "Con đường đi lên của nước ta là sự phát trien quá độ lên chủ nghĩa xã hội 
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị thế thong trị của quan 
hệ sản xuất và Mến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những 
thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa 
học và công nghệ, đế phát triển nhanh lực lưọng sản xuất, xây dựng nền kỉnh tế hiện  đại'' 
Tiến hành thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa thực 
chất là chúng ta tự đảm nhận nhiệm vụ lịch sử phát triển sức sản xuất của xã hội, tự 
tạo lập những điều kiện vật chất của sản xuất và những quan hệ xã hội tương ứng 
với điều kiện yật chất ấy, làm cơ sở hiện thực cho chủ nghĩa xã hội.    lOMoAR cPSD| 60692662
Điều này có nghĩa là, dù nước ta không qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản với 
tư cách là một hình thái kinh tế xã hội hoàn chỉnh, nhưng về phương diện kinh tế 
phải tôn trọng quá trình phát triển tự nhiên của nền kinh tế, không thể bỏ qua việc 
phát triển sức sản xuất xã hội, xã hội hóa sản xuất trong thực tế. Với những thành 
tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, sự hợp tác kinh tế quốc tế 
đa phương, đa dạng sẽ cho phép chúng ta tận dụng đại công nghiệp của cả thế giới 
để có thể "rut ngắn" quá trình phát triển kinh tế đất nước. 
Sự phát triển "rút ngẳrì' chỉ có nghĩa ià đẩy nhanh tương đối quá trình phát triển lịch 
sử tự nhiên, bằng những khâu trung gian, những hĩnh thức, bước đi quá độ - được 
coi là cực kỳ cần thiết và có tác dụng sắc bén đối với những nước mà sản xuất nhỏ 
là phổ biến lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, phải tôn trọng và vận dụng sáng tạo 
những quy luật của quá trình phát trien từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ  nghĩa. 
Như vậy, việc “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” được giải thích rõ về hai phương  diện: 
Một là, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là “bỏ qua việc xác lập vị trí thong trị của 
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa”. Trong xã hội tư bản, 
chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa giữ vai trò thống trị của quan hệ sản 
xuất; là cơ sở nảy sinh những bất bình đẳng về kinh tế và áp bức về xã hội. Bỏ qua 
việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa, từng bước 
xây dựng mối quan hệ sản xuất mới dựa trên cơ sở của chế độ công hữu về các tư 
liệu sản xuất chủ yếu thể hiện rõ tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân tá 
đang xây dựng so với chế độ tư bản chủ nghĩa. 
Hai là, trong khi bỏ qua những mặt đó, cần “tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà 
nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công    lOMoAR cPSD| 60692662
nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xãy dựng nền kinh tế hiện đại Đương 
nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải trên quan điểm phát triển, có chọn lọc. 
Nhận thức này đã góp phần khắc phục tư duy giáo điều, siêu hình về sự tương đồng 
và khác biệt của hai hình thái kinh tế - xã hội mà trước đây chúng ta đã mắc phải. 
Thực tế xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và ở các nước khác đã khẳng định 
luận điếm của V.I. Lênin: “chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh như thế nào từ tổng sổ 
những kiến thức của nhân loại”.      lOMoAR cPSD| 60692662 KẾT LUẬN 
Quá trình hình thành, phát triển nhận thức về quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ 
nghĩa xã hội là những phát kiến sáng tạo. Nhận thức lý luận và thực tiễn về quá độ 
đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong điều kiện đã có hệ 
thống xã hội chủ nghĩa là hai lần sáng tạo. Đối với Việt Nam hiện nay, chúng ta đi 
lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế xã hội 
trong nước còn lạc hậu, yếu kém, thế giới diễn biến phức tạp, nhất là sự tan rã của 
hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu đòi hỏi sự sáng tạo gấp 
nhiều lần. Vì vậy Đảng đã không ngừng đổi mới, dựa trên tình hình thực tiễn để đưa 
ra những quan điểm, chính sách phù hợp để đưa đất nước phát triển và cũng nhằm 
khẳng định với thế giới rằng dù chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đã tan rã nhưng với tinh 
thần quyết tâm cũng như sự sáng tạo không ngừng nghỉ vẫn có thể đưa chế độ chủ 
nghĩa xã hội ở nước ta phát triển mạnh mẽ. Và chúng ta có thể hi vọng rằng trong 
tương lai không xa nước ta sẽ trở thành nước xã hội chủ nghĩa lớn mạnh. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học- Trường Đại học Kinh doanh và  Côngnghệ Hà Nội. 
2. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H., T.4,  tr.472.