




Preview text:
  lOMoAR cPSD| 46831624
Họ và tên : Bùi Thị Hồng 
Lớp học phần : 2255RLCP0221 
Mã sinh viên : 22D180086 
Trường : Đại học Thương mại 
I. PHÂN TÍCH NỘI DUNG LÝ THUYẾT CỦA HARROD DOMAR  
1. Nội dung lý thuyết của Harrod Domar Vào những năm 40 các nhà kinh tế R. 
Harrod và E. Dornar đã đề xuất quan điểm về mối tăng trưởng kinh tế và các nhu 
cầu về vốn tư bản. R. Harrod coi phạm trù kinh tế động là tình trạng của nền kinh tế 
khi tổng đầu tư của sản phẩm có thay đổi, tăng lên hoặc giảm đi. Ông cho rằng nghiên 
cứu một nền kinh tế đang mở rộng thì cần xem xét mối tương quan giữa 3 nhân tố: 
sức lao động, quy mô tư bản hiện có và sản lượng sản phẩm được sản xuất ra. Việc 
xác định khi lượng tư bản cần thiết đủđể làm cho 2 yếu tố kia phát sinh tác dụng là 
điều quan trọng nhất. Ông nêu ra các phương trình tăng trưởng kinh tế động như: 
 Phương trình tăng trưởng thực tế của sản xuất:   G x C = sản xuất 
C = (C1 – C2)/ giá trị  Trong  đó:  
 G là mức tăng tổng đầu ra trong thời kỳ xem xét 
 C là tư bản tăng lên trong thời kỳ đó so với mức tăng của sản  phẩm cùng kỳ 
 Sản xuất là tiết kiệm 
 C1 là tư bản lúc đầu kỳ nghiên cứu 
 C2 là tư bản vào cuối kỳ 
Nhưng tiết kiệm là đại lượng khó xác định chính xác trước được, như vậy vấn đề 
là làm sao xác định được tốc độ tăng trưởng giá trị, trong đó tiết kiệm thực sản xuất 
cần phải bằng đầu tư cần thiết. Ông ra khái niệm tăng trưởng có bảo đảm theo phương  trình sau: 
 GW x Cr = Sản xuất    Trong đó:     1        lOMoAR cPSD| 46831624
• GW là tốc độ tăng trưởng có bảo đảm, đáp ứng được lợi ích 
của người sản xuất, nghĩa là tốc độ tăng trưởng theo sản 
phẩm đầu ra tạo được điều kiện cho quá trình tiếp tục diễn ra 
• Cr là hệ số cơ bản cần thiết 
Trong Lý thuyết về tăng trưởng của mình Harrod - R. Harrod chủ yếu xem xét và đề 
xuất các quan điểm về mối quan hệ giữa tăng trưởng và yêu cầu về vốn. Ý tưởng cơ 
bản của lý thuyết là sự tăng trưởng của một thực thể hoặc toàn bộ nền kinh tế có liên 
quan chặt chẽ với lượng vốn đầu tư vào thực thể đó. Trong điều kiện kinh tế thị 
trường, doanh thu về cơ bản được chia thành hai phần. Một phần tiêu dùng trực tiếp 
và một phần tái đầu tư gián tiếp hoặc trực tiếp. Giả sử tất cả các khoản tiết kiệm được 
sử dụng cho đầu tư, tổng đầu tư bằng tổng tiết kiệm. Do đó, mối quan hệ giữa tăng 
trưởng và đầu tư được thể hiện dưới dạng mối quan hệ giữa tăng trưởng và tiết kiệm. 
Nói cách khác, tốc độ sản xuất tỷ lệ thuận với tỷ lệ tiết kiệm trên tổng sản phẩm quốc 
dân. Lý thuyết của R. Harrod-Dornar cho rằng vốn được tạo ra từ đầu tư dưới hình 
thức nhà máy và thiết bị là nguồn chính của tăng trưởng dân số và tiết kiệm, và rằng 
các tập đoàn là nguồn vốn. Chỉ số tăng trưởng vốn trên sản xuất 2:1 để đo lường 
năng lực bổ sung hoặc tăng trưởng. Chỉ số này thường được sử dụng để lựa chọn các 
quyết định đầu tư cho một loại sản phẩm hoặc ngành nhất định tại bất kỳ thời điểm 
nào và trong bất kỳ khoảng thời gian nào.  
2. Nhận xét lý thuyết 
Lý thuyết Harrod – Dornar về thực chất chỉ gói gọn trong khái niệm tăng trưởng 
kinh tế. Dù vậy, lý thuyết này vẫn còn ảnh hưởng lớn đến các nước đang phát triển 
muốn nhanh tốc độ tăng trưởng của mình, bởi nó đã nhắm trúng vấn đề thiết yếu nhất 
và cũng nan giải nhất ởđây là vốn thất nghiệp. Đi theo hướng này là một loạt các 
chính sách ở nhiều quốc gia nhằm vào việc nâng cao mức độ tích lũy trong tổng sản 
phẩm quốc dân đang tập trung tăng nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế.  Ưu điểm:  
o Chỉ số gia tăng tư bản – đầu ra: vận dụng đã đề ra kế hoạch cho sự ưu tiên 
phát triển của một ngành hay một khu vực nào đó của nền kinh tế quốc dân, 
dựa vào đó cũng có thể đưa ra những chính sách điều chỉnh cơ cấu kinh tế 
khi xét tới mối tương quan giữa nguồn tài chính và nguồn nhân lực hiện có.   Hạn chế:       lOMoAR cPSD| 46831624
o Nếu chúng ta nghĩ về các nước đang phát triển, bởi vì ở các nước này có một 
vòng luẩn quẩn (thu nhập thấp, tiết kiệm thấp, đầu tư thấp, tích lũy thấp, 
năng suất lao động thấp...). Mặt khác, thị trường tài chính và hàng hóa ở các 
nước đang phát triển còn yếu. Rõ ràng là không phải tất cả các khoản tiết 
kiệm được sử dụng để đầu tư đầy đủ. Lý thuyết Harrod-Dornar không giải 
thích rõ ràng một số khác biệt cơ bản trong tăng trưởng kinh tế giữa các quốc 
gia, nhưng mọi người muốn biết tại sao lại có sự khác biệt lớn như vậy về tỷ 
lệ giữa các quốc gia và khu vực.     
3. Mô hình Harrod-Domar:  
o Ban đầu không phải là mô hình tăng trưởng, nhưng được áp dụng bởi những 
người tiên phong trong lĩnh vực kinh tế học phát triển và các cơ quan viện 
trợ quốc tế (như World Bank) 
o Chủ yếu nói về tích lũy vốn; không có vai trò của việc làm, thay đổi công 
nghệ hoặc sự thay thế yếu tố sản xuất (ví dụ những giả định cổ điển thuần 
túy) o Giả định nền kinh tế đóng      3        lOMoAR cPSD| 46831624
II. Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU LÝ THUYẾT HARROD DOMAR ĐỐI VỚI 
NỀN KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY 
Tăng trưởng kinh tế là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự thịnh vượng kinh tế 
của mọi quốc gia. Hiểu được điều gì tạo nên tăng trưởng là một trong những câu 
hỏi trọng tâm của kinh tế học. Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế truyền thống 
(chẳng hạn như của Smith, Ricardo và những người khác) đã nhấn mạnh tầm quan 
trọng của vốn, xem nó như một yếu tố chính trong việc tạo ra tăng trưởng. 
Tuy nhiên, phải đến mô hình Keynes Harrod Domar, mối quan hệ giữa tiết kiệm, 
tích lũy vốn và tăng trưởng kinh tế mới được định lượng và mặc dù mô hình này 
quá đơn giản nhưng nó đã trở thành cơ sở cho các mô hình tiếp theo. Chiến lược 
tích lũy vốn là một cách để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia sau Thế  chiến II. 
Kể từ khi bắt đầu công cuộc Đổi mới, Việt Nam đã chứng kiến sự tăng trưởng kinh 
tế đáng kể và mức sống trung bình tăng lên đáng kể. Gần đây có một số xu hướng 
đáng lo ngại đang ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế nước ta như lạm phát cao, chỉ 
số bất ổn kinh tế ngày càng gia tăng. 
Khủng hoảng kinh tế có cả tác động tích cực và tiêu cực. Một mặt, nó có thể chỉ ra 
những điểm yếu của hệ thống kinh tế hiện tại, nhưng mặt khác, nó tạo cơ hội để tạo 
ra những thay đổi cho nền kinh tế. Điều này phù hợp hơn. Để duy trì và tăng trưởng 
kinh tế, Việt Nam cần biết tăng trưởng kinh tế đến từ đâu trong quá khứ, từ đó xác 
định các yếu tố đang thúc đẩy tăng trưởng ở Việt Nam hiện nay, từ đó xây dựng 
chiến lược duy trì và mở rộng nền kinh tế. Có nhiều tiềm năng tăng trưởng kinh tế  trong những năm tới. 
Số liệu phân tích cho thấy, từ năm 1996 đến nay, vốn đóng góp vào tăng trưởng 
kinh tế nước ta cao hơn so với đóng góp từ các yếu tố khác. Ngược lại, đóng góp từ 
tổng năng suất ngày càng giảm. 
Một câu hỏi lớn đặt ra là liệu nền kinh tế Việt Nam có thể bước ngay vào quá trình 
tăng trưởng kinh tế không chủ yếu dựa vào tích lũy vốn hay không? Hay chúng ta 
có thể kết hợp mô hình phát triển “lai” giữa mô hình dựa vào vốn và nâng cao năng 
suất để sớm thoát khỏi “bẫy” tăng trưởng dựa vào vốn? Cho dù mô hình của chúng 
ta dựa trên các nguồn tăng trưởng chính xác đến mức nào, các nhà kinh tế đều nhất 
trí rằng năng suất nhân tố tổng hợp là một trong những động lực chính của tăng 
trưởng. Thu nhập thực tế quan trọng hơn sự đóng góp của đầu vào trong việc xác      lOMoAR cPSD| 46831624
định lợi nhuận của công ty. Ngay cả khi tiết kiệm của một quốc gia thấp, quốc gia 
đó vẫn có thể đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nếu quốc gia đó có thể nhập 
khẩu công nghệ từ các quốc gia khác. Đầu tư vào giáo dục, nghiên cứu và phát 
triển (R&D) sẽ giúp cải thiện tốc độ tăng trưởng kinh tế. Anh ấy đang cố gắng tăng 
vốn chủ sở hữu trong công ty.      5      
