Phân tích nội dung trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Liên hệ thực tiễn Việt Nam | Bài tập lớn môn Chủ nghĩa xã hội Neu

Phân tích nội dung trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Liên hệ thực tiễn Việt Nam | Tiểu luận môn Chủ nghĩa xã hội Neu được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

lOMoARcPSD| 45740153
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------
BÀI TẬP LỚN MÔN CHỦ NGHĨA HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: Phân tích nội dung trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
Liên hệ thực tiễn Việt Nam
Họ và tên SV: Đào Thuỳ Linh
Lớp tín chỉ: ESOM K63
GVHD: TS NGUYỄN VĂN HẬU
HÀ NỘI, NĂM 2022
lOMoARcPSD| 45740153
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………………………….3
PHẦN NỘI DUNG...........................................................................................................4
1. Khái niệm cơ bản về quá độ lên chủ nghĩa xã hội......................................................4
2. Nội dung trong thời kì quá độ lên CNXH...................................................................4
2.1: Trên lĩnh vực kinh tế:..................................................................................................5
2.2: Trên lĩnh vực chính trị.................................................................................................5
2.3: Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa.................................................................................5
2.4: Trên lĩnh vực xã hội....................................................................................................5
3. Liên hệ thực tế…………………………………………………………………5
3.1. Đặc điểm quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam………………………………….6
3.2. Thực trạng thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam thông qua 4 khía cạnh kinh tế,
chinh trị, tư tưởng-văn hoá, xã hội……………………………………………………….7
3.2.1, Trên lĩnh vực kinh tế ………………………………………………………………7
3.2.2 Trên lĩnh vực chính trị……………………………………………………………………..9
3.2.3. Trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá…………………………………………………………10
3. 2.4: Trên lĩnh vực xã hội………………………………………………………………………12
3.3. Giải pháp cho con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam………………….14
3.4. Liên hệ trách nhiệm của học sinh, sinh
viên………………………………………..16
PHẦN KẾT LUẬN……………………………………………………………………17
PHẦN MỞ ĐẦU
Con đường tiến lên chủ nghĩa hội đã, đang sẽ sự lựa chọn duy nhất của đất
nước ta từ khi khai sinh ra đến giờ. Tuy nhiên, để tiến đến được chủ nghĩa xã hội thì đất
lOMoARcPSD| 45740153
nước ta còn phải trải qua nhiều chặng đường đầy gian lao thử thách, Việt Nam còn bao
nhiêu công việc phải làm bao nhiệm vụ phải hoàn tất. Hiện nay, nhìn chung thời
quá độ từ chủ nghĩa bản trên phạm vi toàn thế giới nói đang tiếp diễn con đường
phát triển quá độ lên chủ nghĩa hội bỏ qua chế độ bản chủ nghĩa tại các ớc chủ
nghĩa xã hội nói riêng cũng có cơ sở lịch sử, thực tiễn sâu xa, vững chắc, mang tính quy
luật khách quan, tất yếu hoàn toàn khả thi. Việt Nam trong xu thế chung của thế giới
cũng đang tiến hành qđộ lên chủ nghĩa hội. Đây quá trình lâu dài ng
nhiều khó khăn. Con đường mà Việt Nam đang đi một con đường đầy chông gai, đòi
hỏi Đảng Nhà nước ta phải được phương hướng, đường lối lãnh đạo đúng đắn. Phải
nêu được nhiệm vụ bản chúng ta cần làm. Để thể làm được điều đó, Việt
Nam cần nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa hội ,con đường quá độ để tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
Chính vì thế em chọn đề tài: “Phân ch nội dung trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội và liên hệ thực tiễn Việt Nam”.
PHẦN NỘI DUNG
1. Khái niệm cơ bản về quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Theo luận Mac- Lênin đã khẳng định, muốn tiến từ một phương thức sản xuất thấp
lên một phương thức sản xuất cao hơn cần bắt buộc phải trải qua thời kì quá độ. Mác đã
khái quát về mặt luận chỉ rõ: “ Thời quá độ thời cải biến cách mạng không
ngừng, triệt để toàn diện từ phương thức sản xuất này sang phương thức sản xuất khác.
Trong thời quá độ xét cả về mặt kinh tế, chính trị, hội đó một thời nhiều
mâu thuẫn đặt ra đòi hỏi lý luận phải giải quyết triệt để”.
Từ khái niệm về thời quá độ trên ta sở để tìm hiểu về thời quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Cũng trong di sản lý luận kinh điển Macxit thì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
sự phát triển trực tiếp từ những luận chứng khoa học về nh tất yếu lịch sử của chủ
nghĩa hội về vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Theo luận này thì
“Quá độ lên chủ nghĩa hội là sự chuyển tiếp quá độ bằng cách mạng để phủ định một
trật tự hội sang một trật tự hội mới với phương thức sản xuất mới, quan hệ sản
xuất và chế độ sở hữu mới mang tính chất hội chủ nghĩa, với Nhà nước kiểu mới
chủ thể quyền lực là giai cấp công nhân và nhân dân lao động”.
lOMoARcPSD| 45740153
2. Nội dung trong thời kì quá độ lên CNXH
Những nội dung của thời kì quá độ lên CNXH được thể hiện qua các đặc điểm cơ bản, cụ
thể ở các lĩnh vực về kinh tế, chính trị, tư tưởng- văn hoá và xã hội.
2.1: Trên lĩnh vực kinh tế:
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, về phương diện kinh tế, tất
yếu tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có thành phần đối lập. Đề cập tới đặc
trưng này Lênin cho rằng: “Vậy thì danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế
có phải, nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận,
những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng thừa
nhận là có. Song không phải mỗi người thừa nhận điềm ấy đều suy nghĩ xem các thành
phần của kết cấu kinh tế- xã hội khác nhau hiện có ở Nga, chính là như thế nào? Mà tất
cả then chốt của vấn đề lại chính là ở đó”. Tương ứng với nước Nga, V.I.Lenin cho rằng
thời kì quá độ tồn tại 5 thành phần kinh tế: kinh tế gia trưởng, kinh tế hàng hoá nhỏ,
kinh tế tư bản, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế xã hội chủ nghĩa.
2.2: Trên lĩnh vực chính trị
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội về phương diện chính trị, là
việc thiết lập , tăng cường chuyên chính vô sản mà thực chất của nó là việc giai cấp công
nhân nắm và sử dụng quyền lực nhà nước trấn áp giai cấp tư sản, tiến hành xây dựng một
xã hội không giai cấp. Đây là sự thống trị về chính trị của giai cấp công nhân với chức
năng thực hiện dân chủ đối với nhân dân, tổ chức xây dựng và bảo vệ chế độ mới, chuyên
chính với những phần từ thù địch, chống lại nhân dân; là tiếp tục cuộc đấu tranh giai cấp
giữa giai cấp vô sản đã chiến thắng với giai cấp tư sản đã thất bại nhưng chưa phải thất
bại hoàn toàn. Cuộc đấu tranh diễn ra trong điều kiện mới- giai cấp công nhân đã trở
thành giai cấp cầm quyền với nội dung mới- xây dựng toàn diện xã hội mới, trọng tâm
xây dựng nhà nước có tính kinh tế, và hình thức mới- cơ bản là hoà bình tổ chức xây
dựng.
2.3: Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều tư tưởng
khác nhau, chủ yếu là tư tưởng vô sản và tư tưởng tư sản.Giai cấp công nhận thông qua
lOMoARcPSD| 45740153
đôi tiền phong của mình là Đảng Cộng sản từng bước xây dựng văn hóa vô sản, nền văn
hoá mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại,
bảo đảm đáp ứng nhu cầu văn hóa- tinh thần ngày càng tăng của nhân dân.
2.4: Trên lĩnh vực xã hội
Kết cấu của nền kinh tế nhiều thành phần qui định nên trong thời kỳ quá độ còn tồn tại
nhiều giai cấp, tầng lớp và sự khác biệt giữa các giai cấp tầng lớp, xã hội, các giai cấp,
tầng lớp vừa hợp tác sửa đấu tranh với nhau. Trong xã hội của thời kỳ quá độ còn tồn tại
sự khác biệt giữa nông thôn, thành thị, giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Bởi vậy,
thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, về phương diện xã hội là thời kỳ
đấu tranh giai cấp chống áp bức, bất công, xóa bỏ tệ nạn xã hội và những tàn dư của xã
hội cũ để lại, thiết lập công bằng xã hội trên cơ sở thực hiện nguyên tắc phân phối theo
lao động là chủ đạo.
3. Liên hệ thực tế
3.1, Đặc điểm quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Việt Nam tiến lên sau nghĩa xã hội trong điều kiện vừa thuận lợi vừa khó khăn đan xen,
có những đặc trưng cơ bản:
Xuất phát từ một xã hội vốn là thuộc địa. nửa phong kiến, lực lượng sản xuất thấp. Đất
nước trải qua chiến tranh ác liệt kéo dài nhiều thập kỷ, hậu quả để lại còn nặng nề. Những
tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá
hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của nhân dân ta.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, cuốn hút tất
cả các nước ở mức độ khác nhau. Nên sản xuất vật chất và đời sống xã hội đang trong
quá trình quốc tế hoá sâu sắc, ảnh hưởng lớn tới nhip độ phát triển lich sử và Cuộc sống
các dân tộc . Những xu thế đó vừa tạo thời cơ phát triển nhanh cho các nước, vừa đặt ra
những thách thức gay gắt
Quá độ lên chủ ngĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự lựa chọn duy nhất
đúng, khoa học, phản ánh đúng quy luật phát triển khách quan của cách mạng Việt Nam
trong thời đại ngày nay. Cương lĩnh năm 1930 của Đảng đã chỉ rõ: Sau khi hoàn thành
cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là sự lựa chọn
lOMoARcPSD| 45740153
dứt khoát và đúng đắn của Đảng, đáp ứng nguyện vọng thiết thực của dân tộc, nhân dân,
phản ánh xu thế phát triển của thời đại, phù hợp với quan điểm khoa học, cách mạng và
sáng tạo của chủ nghĩa Mác-Lenin.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, như Đại hội IX của Đảng
Cộng sản Việt Nam (2001) xác định: con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về
khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế
hiện đại.
3.2. Thực trạng thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam thông qua bốn khía cạnh kinh
tế, chính trị, tư tưởng-văn hoá, xã hội.
3.2.1, Tn lĩnh vực kinh tế
Tồn tại nhiều thành phần kinh tế, trong đó cả những thành phần kinh tế hội ch
nghĩa và những thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa.
Cụ thể, từ năm 1986 đến nay, Đảng ta thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước,
chủ trương phát triển một nền kinh tế hàng hnhiều thành phần, vận hành theo chế
thị trường sự quản của nhà nước theo định ớng xây nghĩa, gọi tắt kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, gồm thành phần kinh tế nhà nước, thành phần kinh
tế tập thể, thành phần kinh tế nhân, thành phần kinh tế vốn đầu nước ngoài. Ngoài
ra, tại Đại Hội XIII, Đảng và Nhà nước ta xác định phát triển nền kinh tế nhiều hình thức
sở hũu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế
nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân, kinh tế nhân trở thành một trong những động lực quan trọng của sự phát
triển, giải quyết được vấn đề công ăn việc làm . Đặc biệt, tất cả các thành phần kinh tế
phải hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật XHCN.
Trong 36 năm qua, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa hội Việt Nam đánh dấu bằng
chặng đường đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn
Giai đoạn 1986 - 1990: Đây giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Chủ trương phát
triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo chế thị trường định hướng
lOMoARcPSD| 45740153
hội chủ nghĩa, nền kinh tế dần dần khắc phục được những yếu kém những bước
phát triển. Kết thúc kế hoạch 5 năm (1986 - 1990), công cuộc đổi mới đã đạt được những
thành tựu bước đầu rất quan trọng: GDP tăng 4,4%/năm; tổng giá trị sản xuất nông nghiệp
tăng bình quân 3,8 - 4%/năm; công nghiệp ng bình quân 7,4%/năm, trong đó sản xuất
hàng tiêu dùng tăng 13 -14%/năm; giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng 28%/năm .
Giai đoạn 1991 - 1995: Đất nước dần dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái. GDP bình
quân tăng 8,2%/năm; giá trị sản xuất ng nghiệp tăng 13,3%/năm; nông nghiệp tăng
4,5%/năm; lĩnh vực dịch vụ tăng 12%/năm; tổng sản lượng lương thực 5 năm (1991 -
1995) đạt 125,4 triệu tấn, tăng 27% so với giai đoạn 1986 - 1990.
Giai đoạn 1996 - 2000: Đây là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan trọng của kinh
tế thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặc dù cùng chịu tác
động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực (giai đoạn 1997 - 1999) thiên tai
nghiêm trọng xảy ra liên tiếp, đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách khốc liệt,
tuy nhiên, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá. GDP bình quân của cả giai
đoạn 1996 - 2000 đạt 7%; trong đó, nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,1%; công nghiệp
xây dựng tăng 10,5%; các ngành dịch vụ tăng 5,2% .
Giai đoạn 2001 - 2005: Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này đi vào chiều sâu, việc triển
khai Chiến lược phát triển kinh tế - hội 2001 - 2010 Kế hoạch 5 năm 2001 - 2005
mà Đại hội IX của Đảng thông qua đã đạt được những kết quả nhất định. GDP tăng bình
quân 7,5%/năm. GDP bình quân đầu người khoảng 10 triệu đồng (tương đương 640
USD), vượt mức bình quân của các nước đang phát triển thu nhập thấp (500 USD) .
Từ một nước thiếu lương thực, mỗi năm phải nhập khẩu từ 50 vạn đến 1 triệu tấn lương
thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới
Giai đoạn 2006 2010, nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, nước ta đã ra
khỏi tình trạng kém phát triển, từ nhóm nước thu thập thấp đã trở thành nước có thu nhập
trung bình (thấp). GDP bình quân 5 năm đạt 7%.
Đặc biệt giai đoạn 2010-2019 là sự phát triển ổn định của kinh tế Việt Nam .Nhìn chung
GDP giai đoạn 2010-2019 khá đồng đều cho thấy mức tăng trưởng khá ổn định của nền
kinh tế Việt Nam trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa hội bỏ qua chế độ bản chủ
nghĩa. Đặc biệt hai năm 2018 2019 với mức tăng trưởng GDP trên 7%.GDP năm 2019
đạt kết quả ấn tượng với tốc độ tăng 7,08% và năm 2019 đạt 7,02%.
lOMoARcPSD| 45740153
3.2.2 Trên lĩnh vực chính trị
Trong thời quá độ lên CNXH Việt Nam hiện nay, do kết cấu kinh tế của nước ta
cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, dẫn đến trong xã hội tồn tại nhiều giai cấp khác nhau.
Đó là giai cấp công nhân, giai cấp nhân dân, có đội ngũ trí thức, tầng lớp doanh nhân.
Mặc dù tồn tại nhiều giai cấp như vậy nhưng Đảng ta luôn luôn khẳng định và điều này
đã được cụ thể hoá trong Hiến Pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), thể chế hóa
tại Điều 2: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” .
Đồng thời, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy rộng rãi quyền làm chủ của
Nhân dân. Đổi mới để Đảng thực hiện tốt vai trò lãnh đạo, Nhà nước thực hiện tốt vai
trò quản lý. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay còn tồn tại các giai cấp, tầng lớp khác
nhau, với những lợi ích khác nhau cho nên vừa có quan hệ hợp tác, vừa có quan hệ đấu
tranh. Và khi đã có nhà nước rồi, giai cấp công nhân, những người lao động phải luôn
luôn củng cố công cụ, chức năng của nhà nước pháp quyền, cải tạo, tổ chức, xây dựng
chế độ XHCN trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng xã hội và sử
dụng các bộ máy nhà nước đó để trấn áp những phần tử phản động, phần tử cơ hội và
thế lực phản động ở bên ngoài. Trong thời kì này, đấu tranh giai cấp vẫn diễn ra, nhưng
nó diễn ra trong điều kiện mới, nó diễn ra với nội dung mới, hình thức mới. Cụ thể ở
Việt Nam trong những năm vừa qua, các phần tử cơ hội ở trong nước vẫn cấu kết với
các thế lực phản động ở bên ngoài, đặc biệt là muốn sử dụng những thế lực đó, sử dụng
cái chiến lược “ Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ để đánh đổ chế độ chính trị ở Việt
Nam. Do đó, trong thời kì quá độ này, bản thân mỗi người dân, cán bộ, đảng viên phải
luôn luôn giữ vững lập trường, tư tưởng và phải luôn luôn nắm giữ cái “ sợi chỉ đỏ”
xuyên suốt của con đường Cách mạng Việt Nam mà khi từ khi Đảng ra đời, đó là độc
lập dân tộc phải gắn liền với CNXH. Nhờ có lý tưởng như vậy mà chúng ta mới giải
phóng được dân tộc, mới thực hiện được công cuộc đổi mới đất nước với những thành
tựu bước đầu như hiện nay
lOMoARcPSD| 45740153
3.2.3. Tn lĩnh vực tư tưởng, văn hoá
Về tư tưởng, tại Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) đã tổng kết 5 năm đổi mới
(1986-1990), khẳng định đường lối đổi mới là đúng đắn và bước đi phù hợp với thực
tiễn. Thành công lớn của Đại hội VII là đã đề ra: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội
10 năm (1990-2000). Đại hội khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Có thể nói, từ Đại
hội VI đến Đại hội VII, những quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta đã được hình thành trên những nét chủ yếu nhất. Cùng với thành
tựu cơ bản đó việc khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng, đánh dấu một bước tiến mới về
đổi mới nhận thức và tư duy lý luận của Đảng.
Về văn hoá, công cuộc đổi mới ở Việt Nam được đánh dấu từ Đại hội VI (năm 1986)
của Đảng Cộng sản Việt Nam đến nay đã được 36 năm và đã đạt được nhiều thành tựu
to lớn. Thời gian qua, có khá nhiều Hội nghị, công trình, bài viết đánh giá về thành tựu
đổi mới nói chung và thành tựu trong lĩnh vực văn hóa nói riêng. Có thể tổng hợp các
đánh giá, ghi nhận những thành tựu về văn hóa sau 36 năm đổi mới ở Việt Nam như
sau:
Thứ nhất, nhận thức của Đảng và Nhà nước cũng như của người dân về vai trò của văn
hóa trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong xã hội đã được nâng cao. Nhân tố văn hóa
trong phát triển kinh tế - xã hội đã được coi trọng với một số chính sách liên quan đến
công nghiệp văn hóa, gắn văn hóa với phát triển du lịch. Việt Nam đã bước đầu khai
thác văn hóa như nguồn lực nội sinh để phát triển kinh tế xã hội, giảm bớt những tiêu
cực và tệ nạn xã hội do mặt trái của cơ chế thị trường tạo nên. Vấn đề xây dựng và phát
triển con người đã đạt được một số thành tựu quan trọng. Chỉ số phát triển con người đã
tăng đáng kể. Báo cáo cho biết chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam liên tục
tăng trong 24 năm qua. Năm 2015, Việt Nam được xếp thứ 116/188 nước.
Thứ hai, giá trị di sản văn hóa dân tộc được coi trọng. Nhiều di sản văn hóa Việt Nam
đã được UNESCO tôn vinh là di sản văn hóa đại diện của nhân loại. Theo thống kê, đến
năm 2013, cả nước có trên 40.000 di tích được kiểm kê, trong đó có trên 36.000 di tích
lOMoARcPSD| 45740153
được xếp hạng di tích cấp tỉnh và trên 3.000 di tích được xếp hạng di tích cấp quốc gia,
có trên 20 di tích được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt, có 08 Di sản văn hóa phi
vật thể được UNESCO công nhận đưa vào Di sản văn hóa của nhân loại như: Nhã nhạc
cung đình Huế, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Dân ca Quan họ, ca trù,
Hát xoan, Đờn ca tài tử Nam bộ…
Thứ ba, tính tích cực, chủ động trong sáng tạo, bảo quản, truyền bá và thưởng thức
các giá trị văn hóa, nghệ thuật của nhân dân đã được nâng cao. Tiềm năng văn hóa dân
tộc được khẳng định, các lĩnh vực nghệ thuật phát triển, những giá trị văn hóa Việt Nam
tỏa sáng, được thế giới công nhận là một phần không thể thiếu trong kho tàng quý giá
của văn hóa nhân loại. Chính sách xã hội hóa các hoạt động văn hóa có tác động tích
cực trong việc huy động các nguồn lực đầu tư cho phát triển văn hóa, đã và đang từng
bước mang lại một luồng sinh khí mới trong toàn bộ các lĩnh vực hoạt động của ngành
văn hóa, thể thao và du lịch, phù hợp với xu thế phát triển, hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới.
Bên cạnh những thành tựu đạt được nêu trên, Việt Nam còn có những hạn chế trong
lĩnh vực văn hóa. Trong xã hội, vẫn tồn tại những hệ tư tưởng cũ, lỗi thời như một số
quan điểm của Nho giáo, các tư tưởng của các thế lực phản động vẫn còn tàn dư trong
đời sống tinh thần, đặc biệt là những phong tục cổ hủ, lạc hậu , ảnh hưởng lớn đến đời
sống tinh thần của người dân. Ngoài ra, sự phát triển của văn hoá chưa đồng bộ và
tương xứng với tăng trưởng kinh tế, thiếu gắn bó với nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn
Đảng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế và
nhiệm vụ xây dựng Đảng. Nhiệm vụ, xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá chưa tạo được chuyển biến rõ rệt. Môi trường văn hoá còn bị ô
nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, sự lan tràn của các sản phẩm và dịch vụ văn hoá mê tín, lai
căng... Việc xây dựng thể chế văn hoá còn chậm, thiếu đồng bộ, làm hạn chế tác dụng
của văn hoá đối với các lĩnh vực quan trọng của đời sống đất nước. Quá trình đổi mới
làm lộ rõ sự không thích ứng giữa thể chế văn hóa cũ trước những yêu cầu mới của nền
kinh tế thị trường. Rất nhiều lĩnh vực của văn hóa đến nay vẫn nằm trong mô hình thể
chế truyền thống. Đó là thói quen dùng các biện pháp của nền kinh tế kế hoạch để quản
lý văn hóa, xây dựng văn hóa nhưng ít chủ động sáng tạo, mà thường trông chờ vào sự
bao cấp của nhà nước và ỷ lại vào chính quyền các cấp. Tình trạng nghèo nàn, thiếu
lOMoARcPSD| 45740153
thốn, lạc hậu về đời sống văn hoá - tinh thần ở nhiều vùng nông thôn, miền núi, vùng
sâu... vẫn chưa được khắc phục có hiệu quả. Việc kế thừa, phát huy nền văn hóa của các
dân tộc thiểu số mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng vẫn chưa đạt được kết quả như
mong muốn.. Khoảng cách chênh lệch về hưởng thụ văn hoá giữa các vùng miền, khu
vực, tầng lớp xã hội tiếp tục mở rộng.
3.2.4: Tn lĩnh vực xã hội
Thông qua thời kì qđộ đi lên CNXH, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng tự
hào. Cụ thể:
Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được kết quả đầy ấn tượng. Theo chuẩn quốc gia, tỷ
lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống khoảng 9,5% năm 2010. Còn theo
chuẩn do Ngân hàng thế giới (WB) phối hợp với Tổng cục Thống tính toán, thì tỷ lệ
nghèo chung (bao gồm cả nghèo lương thực, thực phẩm nghèo phi lương thực, thực
phẩm) đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 29% năm 2002 còn khoảng 17% năm 2008.
Như vậy, Việt Nam đã “hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu
Trình độ dân chí được tăng lên, sự nghiệp giáo dục ngày càng được chú trọng. Giáo dục
Việt Nam trong những năm vừa qua luôn được coi quốc sách hàng đầu. Sự nghiệp giáo
dục bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại hình trường lớp từ mầm non,
tiểu học đến cao đẳng, đại học. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa chữ
phổ cập giáo dục tiểu học; dự tính đến cuối năm 2010, hầu hết các tỉnh, thành sẽ đạt
chuẩn phổ cập giáo dục trung học sở. Tỷ lệ người lớn (từ 15 tuổi trở n) biết chữ đã
tăng từ 84% cuối những năm 1980 lên 90,3% năm 2007. Năm 2009, trên 1,3 triệu sinh viên
nghèo được Ngân hàng chính sách xã hội cho vay với lãi suất ưu đãi để theo học.
Trong lĩnh vực lao động và việc làm: Từ năm 1991 đến năm 2000, trung bình mỗi năm
cả nước đã giải quyết cho khoảng 1 - 1,2 triệu người lao động có công ăn việc làm; những
năm 2001 - 2005, mức giải quyết việc làm trung bình hằng năm đạt khoảng 1,4 1,5 triệu
người; những năm 2006 - 2010, con số đó lại tăng lên đến 1,6 triệu người. Công tác dạy
nghề từng bước phát triển, góp phần đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo từ dưới 10% năm 1990
lên khoảng 40% năm 2010.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân tiến bộ. Bảo hiểm y tế được mở rộng đến
khoảng gần 60% dân số. Các chỉ số sức khỏe cộng đồng được nâng lên. Tỷ lệ tử vong ở trẻ
lOMoARcPSD| 45740153
em dưới 5 tuổi đã giảm từ 81% năm 1990 xuống còn khoảng 28% m 2010; tỷ lệ trẻ em
dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng đã giảm tương ứng từ 50% xuống còn khoảng 20%. Công tác
tiêm chủng mở rộng được thực hiện, nhiều dịch bệnh hiểm nghèo trước đây đã được thanh
toán hoặc khống chế. Tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 72
tuổi hiện nay.
Tóm lại, sau gần 30 năm thực hiện đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to
lớn, toàn diện. Cùng với tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế được duy trì, các
mặt: chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh được bảo đảm và ổn định. Trong đónhững
thành tựu rất đáng khích lệ về thực hiện tiến bộ công bằng hội gắn chặt chẽ với
tăng trưởng kinh tế, phát triển nguồn lao động chất lượng lao động, khoa học công
nghệ. Thành tựu đó ngày càng khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết
định thành công của đổi mới, khích lệ, động viên nhân dân tiếp tục ởng ứng, góp phần
quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới
toàn diện đất nước với những bước tiến cao hơn. Thành tựu này được các nước trong khu
vực cũng như các đối tác có quan hệ với Việt Nam thừa nhận và xem đây là một thuận lợi
trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
3.3: Giải pháp cho con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng
văn hoá hội tđến nay vẫn còn một số những hạn chế chưa được củng cố vững
chắc. Vì thế mà Đảng và Nhà nước ta cần thực hiện các giải pháp sau để đặt được nhiều
thành quả tốt:
Thứ nhất, đi lên chủ nghĩa hội bỏ qua chế độ bản chủ nghĩa, Việt Nam phải
trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều chặng đường phát triển. Cho
đến nay, Việt Nam đã hoàn thành chặng đường đầu tiên và đang trong chặng đường tiếp
theo đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để tạo nền tảng sớm đưa Việt Nam
bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, từ đây cho đến khi
kết thúc thời kỳ quá độ để trở thành một nước xã hội chủ nghĩa, Việt Nam còn phải trải
qua bao nhiêu chặng đường, nội dung kinh tế- hội của từng chặng đường gì? Chỉ
đẩy mạnh nghiên cứu luận- thực tiễn để giải đáp những câu hỏi đó một cách
căn cứ khoa học thì mới có chính sách cho từng chặng đường và cho cả thời kỳ quá độ,
lOMoARcPSD| 45740153
phòng ngừa khắc phục duiy giản đơn, chủ quan nóng vội trong lãnh đạo, quản
đem mục tiêu xa áp đặt cho mục tiêu gần.
Thứ hai, cần xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế và bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần được xây dựng theo yêu cầu
nền kinh tế thị trường hiện đại. Cần nghiên cứu làm sáng tỏ hơn việc tuân thủ các quy
luật của kinh tế thị trường với bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Giải quyết mối
quan hệ giữa Nhà nước và thị trường như thế nào để bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa ? Vai trò của thị trường đến đâu trong việc phân bổ tài nguyên, phân bổ các
nguồn lực trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Cần tiếp tục nghiên cứu vai tro của kinh tế Nhà nước, nhất các doanh nghiệp n
nước, những giải pháp để kinh tế nhà nước thực sự đóng góp vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế quốc dân; những giải pháp củng cố phát triển kinh tế tập thể. Nhà nước cần
đổi mới, bổ sung chế, chính sách nhất thể chế pháp luật để bảo đảm sự bình đăng
thực sự của kinh tế tư nhân với các thành phần kinh tế khác, phát huy mạnh mẽ hơn vai
trò động lực của kinh tế tư nhân.
Thứ ba, quá độ lên chủ nghĩa hội Nhà nước cần nghiên cứu làm hình
hội Việt Nam hướng đến là hình xã hội đoàn kết, đồng thuân, hài hòa, xây dựng một
cộng đồng hội văn minh, trong đó tầng lớp trung u sẽ ngày càng chiếm số động
trong hội. Chủ động quản phân tầng hội, quản trị sự biến đổi hội, chính
sách kinh tế, xã hội, n hóa đồng bộ để cải thiện điều kiệnsống của nhân dân, chủ động
xây dựng cơ cấu xã hội hợp lý trên cơ sở phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thứ tư, Đảng và Nước cần tích cực tuyên truyền về con đường quá độ lên chủ nghĩa
hội Việt Nam để qua đó giúp cho nhân nhân, các cấp chính quyền luôn giữ một tinh
thần vững tin vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và Đảng Cộng sản Việt Nam đã lựa
chọn. Bên cạnh đó cần tích cực phát triển lực lượng sản xuất, đẩy nhanh tiến độ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước
ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy
vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công
nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng
lOMoARcPSD| 45740153
ngày càng nhiều hơn. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải đảm bẩo xây dựng nền kinh
tế độc lập tự chủ.
Thứ năm, cần xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Con đường đi n chủ nghĩa hội Việt Nam phải con đường ra đời của phương
thức sản xuất xã hội chủ nghĩa. Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại, tất yếu phải có quá trình phát triển ơng ứng c quan
hệ sản xuất mới. Về mặt kinh tế, nước ta xuất phát từ một trình độ kinh tế lạc hậu, để
phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất mới theo định hướng xhcn một nhiệm vụ
vô cùng khó khăn, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải đề ra chủ trương đúng đắn.
Thứ sáu, cần mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ
quốc tế. Việt nam sẵn sàng là bạn ,là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc
tế ,phấn đấu hoà bình ,độc lập phát triển. Tiếp tục giữ vững i trường hoà nh
và tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội
Thứ bảy, cần hoàn thiện bộ máy Nhà nước và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước
của Đảng . Đồng thời phải thực hiện cải cách bộ máy hành chính, phải tăng cường khả
năng kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước, phải đổi mới pháp chế và phải hoàn thiện
chính sách về thuế, tiền lương, tiền tệ, tín dụng và ngân hàng.
3.4: Liên hệ trách nhiệm của học sinh, sinh viên
Việc nghiên cứu đề tài “Phân tích nội dung trong thời kquá độ lên chủ nghĩa
hội” đã cho thấy được những vấn đề bản vnội dung trong thời kquá độ lên chủ
nghĩa xã hội tại Việt Nam. Đồng thời thấy được những thành tựu của đất nước đạt được
qua 36 năm đổi mới những thành quả trên con đường tiến lên chủ nghĩa hội của
đất nước những hạn chế còn tồn tại. Bản thân một sinh viên công n của
đất nước ,chính thế chúng ta luôn phải cố gắng nỗ lực góp phần vào sự phát
triển của Việt Nam. Để làm được điều đó mỗi sinh viên phải xác định mục đích
nhiệm vụ của bản thân, cụ thể :
Thứ nhất, việc làm trước tiên của sinh viên phải học tập, trang bị thật tốt cho mình
vốn kiến thức, hiểu biết về thế giới, khoa học con người.. Đồng thời cần nâng cao
lOMoARcPSD| 45740153
trình độ luận chính trị, bồi đắp tưởng cách mạng trong sáng. Tích cực học tập các
môn có ý nghĩa lý luận sâu sắc và trau dồi kiến thức lý luận cho bản thân.
Thứ hai, không chỉ chú trọng học kiến thức chuyên ngành mà bên cạnh đó sinh viên
cần phải tích cực tham gia vào các hoạt động hội để nâng cao kỹ năng mềm tăng
thêm khả năng sáng tạo, đặc biệt là khả ng về tiếng anh để sẵn sàng cho việc hội nhập
và phát triển của đất nước. Bên cạnh đó cần tiếp thu nhữn thông tin hữu ích, tránh tiếp
thu những tư tưởng lệch lạc, bịa đặt nhằm chống phá Đảng và Nhà nước.
Thứ ba, sinh viên cần luôn luôn hoàn thiện bản thân, tu dưỡng về đạo đức. Có lòng
thương người đối xvới người theo lẽ phải, đó nhân nghĩa, truyền thống cao
đẹp của người Việt Nam mà chúng ta cần duy trì và phát
PHẦN KẾT LUẬN
Con đường tiến n chủ nghĩa hội đã đang sẽ sự lựa chọn duy nhất của đất
nước ta. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa hội Việt Nam đánh dấu bằng chặng đường
đổi mới trong nhiều m qua, vượt qua rất nhiều khó khăn thách thức, dưới sự lãnh đạo
sáng suốt của Đảng đã đạt được những thành tựu to lớn về cả kinh tế, hội, ởng
văn hoá và chính trị. Thành quả này có được do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên
nhân quyết định chính việc Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào thực tiễn Việt Nam cũng chính điều kiện để Việt
Nam nhanh chóng đi tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, ng bằng, văn minh”.
nhờ vào sự đổi mới quan điểm cùa Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường lên chủ
nghĩa hội bỏ qua chế độ bản chủ nghĩa. Bên cạnh những kết quả đạt được thì Việt
Nam còn gặp nhiều hạn chế, thách thức trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chính thế mà Đảng Nhà nước ta cần có những giải pháp cụ thể, tích cực để đưa Việt
Nam gặt hái được nhiều thành công.
TƯ LIỆU THAM KHẢO
1, GIÁO TRÌNH. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC - Hà Nội – 2019
lOMoARcPSD| 45740153
2 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng 2018
[ CITATION h \l 1033 ]
3, Đại hội VII: "Chủ nghĩa Mác - Lênin tưởng Hồ Chí Minh nền tảng tưởng, kim
chỉ nam cho hành động của Đảng"
[ CITATION htt2 \l 1033 ]
4,[ CITATION htt3 \l 1033 ]
| 1/16

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45740153
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***-------
BÀI TẬP LỚN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: Phân tích nội dung trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
Liên hệ thực tiễn Việt Nam
Họ và tên SV: Đào Thuỳ Linh Lớp tín chỉ: ESOM K63 Mã SV: 11219388 GVHD: TS NGUYỄN VĂN HẬU HÀ NỘI, NĂM 2022 lOMoAR cPSD| 45740153 MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………………………….3
PHẦN NỘI DUNG...........................................................................................................4
1. Khái niệm cơ bản về quá độ lên chủ nghĩa xã hội......................................................4
2. Nội dung trong thời kì quá độ lên CNXH...................................................................4
2.1: Trên lĩnh vực kinh tế:..................................................................................................5
2.2: Trên lĩnh vực chính trị.................................................................................................5
2.3: Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa.................................................................................5
2.4: Trên lĩnh vực xã hội....................................................................................................5
3. Liên hệ thực tế…………………………………………………………………5
3.1. Đặc điểm quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam………………………………….6
3.2. Thực trạng thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam thông qua 4 khía cạnh kinh tế,
chinh trị, tư tưởng-văn hoá, xã hội……………………………………………………….7
3.2.1, Trên lĩnh vực kinh tế ………………………………………………………………7
3.2.2 Trên lĩnh vực chính trị……………………………………………………………………..9
3.2.3. Trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá…………………………………………………………10
3. 2.4: Trên lĩnh vực xã hội………………………………………………………………………12
3.3. Giải pháp cho con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam………………….14 3.4. Liên hệ trách nhiệm của học sinh, sinh
viên………………………………………..16
PHẦN KẾT LUẬN……………………………………………………………………17 PHẦN MỞ ĐẦU
Con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội đã, đang và sẽ là sự lựa chọn duy nhất của đất
nước ta từ khi khai sinh ra đến giờ. Tuy nhiên, để tiến đến được chủ nghĩa xã hội thì đất lOMoAR cPSD| 45740153
nước ta còn phải trải qua nhiều chặng đường đầy gian lao và thử thách, Việt Nam còn bao
nhiêu công việc phải làm và bao nhiệm vụ phải hoàn tất. Hiện nay, nhìn chung thời kì
quá độ từ chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới nói đang tiếp diễn và con đường
phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tại các nước chủ
nghĩa xã hội nói riêng cũng có cơ sở lịch sử, thực tiễn sâu xa, vững chắc, mang tính quy
luật khách quan, tất yếu và hoàn toàn khả thi. Việt Nam trong xu thế chung của thế giới
cũng đang tiến hành quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là quá trình lâu dài và cũng có
nhiều khó khăn. Con đường mà Việt Nam đang đi là một con đường đầy chông gai, đòi
hỏi Đảng và Nhà nước ta phải có được phương hướng, đường lối lãnh đạo đúng đắn. Phải
nêu được rõ nhiệm vụ cơ bản mà chúng ta cần làm. Để có thể làm được điều đó, Việt
Nam cần có nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội ,con đường quá độ để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Chính vì thế em chọn đề tài: “Phân tích nội dung trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội và liên hệ thực tiễn Việt Nam”. PHẦN NỘI DUNG
1. Khái niệm cơ bản về quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Theo lý luận Mac- Lênin đã khẳng định, muốn tiến từ một phương thức sản xuất thấp
lên một phương thức sản xuất cao hơn cần bắt buộc phải trải qua thời kì quá độ. Mác đã
khái quát về mặt lý luận và chỉ rõ: “ Thời kì quá độ là thời kì cải biến cách mạng không
ngừng, triệt để và toàn diện từ phương thức sản xuất này sang phương thức sản xuất khác.
Trong thời kì quá độ xét cả về mặt kinh tế, chính trị, xã hội đó là một thời kì có nhiều
mâu thuẫn đặt ra đòi hỏi lý luận phải giải quyết triệt để”.
Từ khái niệm về thời kì quá độ ở trên ta có cơ sở để tìm hiểu về thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Cũng trong di sản lý luận kinh điển Macxit thì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
là sự phát triển trực tiếp từ những luận chứng khoa học về tính tất yếu lịch sử của chủ
nghĩa xã hội về vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Theo lý luận này thì
“Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự chuyển tiếp quá độ bằng cách mạng để phủ định một
trật tự xã hội cũ sang một trật tự xã hội mới với phương thức sản xuất mới, quan hệ sản
xuất và chế độ sở hữu mới mang tính chất xã hội chủ nghĩa, với Nhà nước kiểu mới mà
chủ thể quyền lực là giai cấp công nhân và nhân dân lao động”. lOMoAR cPSD| 45740153
2. Nội dung trong thời kì quá độ lên CNXH
Những nội dung của thời kì quá độ lên CNXH được thể hiện qua các đặc điểm cơ bản, cụ
thể ở các lĩnh vực về kinh tế, chính trị, tư tưởng- văn hoá và xã hội.
2.1: Trên lĩnh vực kinh tế:
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, về phương diện kinh tế, tất
yếu tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có thành phần đối lập. Đề cập tới đặc
trưng này Lênin cho rằng: “Vậy thì danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế
có phải, nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận,
những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng thừa
nhận là có. Song không phải mỗi người thừa nhận điềm ấy đều suy nghĩ xem các thành
phần của kết cấu kinh tế- xã hội khác nhau hiện có ở Nga, chính là như thế nào? Mà tất
cả then chốt của vấn đề lại chính là ở đó”. Tương ứng với nước Nga, V.I.Lenin cho rằng
thời kì quá độ tồn tại 5 thành phần kinh tế: kinh tế gia trưởng, kinh tế hàng hoá nhỏ,
kinh tế tư bản, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế xã hội chủ nghĩa.
2.2: Trên lĩnh vực chính trị
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội về phương diện chính trị, là
việc thiết lập , tăng cường chuyên chính vô sản mà thực chất của nó là việc giai cấp công
nhân nắm và sử dụng quyền lực nhà nước trấn áp giai cấp tư sản, tiến hành xây dựng một
xã hội không giai cấp. Đây là sự thống trị về chính trị của giai cấp công nhân với chức
năng thực hiện dân chủ đối với nhân dân, tổ chức xây dựng và bảo vệ chế độ mới, chuyên
chính với những phần từ thù địch, chống lại nhân dân; là tiếp tục cuộc đấu tranh giai cấp
giữa giai cấp vô sản đã chiến thắng với giai cấp tư sản đã thất bại nhưng chưa phải thất
bại hoàn toàn. Cuộc đấu tranh diễn ra trong điều kiện mới- giai cấp công nhân đã trở
thành giai cấp cầm quyền với nội dung mới- xây dựng toàn diện xã hội mới, trọng tâm là
xây dựng nhà nước có tính kinh tế, và hình thức mới- cơ bản là hoà bình tổ chức xây dựng.
2.3: Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều tư tưởng
khác nhau, chủ yếu là tư tưởng vô sản và tư tưởng tư sản.Giai cấp công nhận thông qua lOMoAR cPSD| 45740153
đôi tiền phong của mình là Đảng Cộng sản từng bước xây dựng văn hóa vô sản, nền văn
hoá mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại,
bảo đảm đáp ứng nhu cầu văn hóa- tinh thần ngày càng tăng của nhân dân.
2.4: Trên lĩnh vực xã hội
Kết cấu của nền kinh tế nhiều thành phần qui định nên trong thời kỳ quá độ còn tồn tại
nhiều giai cấp, tầng lớp và sự khác biệt giữa các giai cấp tầng lớp, xã hội, các giai cấp,
tầng lớp vừa hợp tác sửa đấu tranh với nhau. Trong xã hội của thời kỳ quá độ còn tồn tại
sự khác biệt giữa nông thôn, thành thị, giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Bởi vậy,
thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, về phương diện xã hội là thời kỳ
đấu tranh giai cấp chống áp bức, bất công, xóa bỏ tệ nạn xã hội và những tàn dư của xã
hội cũ để lại, thiết lập công bằng xã hội trên cơ sở thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động là chủ đạo.
3. Liên hệ thực tế
3.1, Đặc điểm quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Việt Nam tiến lên sau nghĩa xã hội trong điều kiện vừa thuận lợi vừa khó khăn đan xen,
có những đặc trưng cơ bản:
Xuất phát từ một xã hội vốn là thuộc địa. nửa phong kiến, lực lượng sản xuất thấp. Đất
nước trải qua chiến tranh ác liệt kéo dài nhiều thập kỷ, hậu quả để lại còn nặng nề. Những
tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá
hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của nhân dân ta.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, cuốn hút tất
cả các nước ở mức độ khác nhau. Nên sản xuất vật chất và đời sống xã hội đang trong
quá trình quốc tế hoá sâu sắc, ảnh hưởng lớn tới nhip độ phát triển lich sử và Cuộc sống
các dân tộc . Những xu thế đó vừa tạo thời cơ phát triển nhanh cho các nước, vừa đặt ra
những thách thức gay gắt
Quá độ lên chủ ngĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự lựa chọn duy nhất
đúng, khoa học, phản ánh đúng quy luật phát triển khách quan của cách mạng Việt Nam
trong thời đại ngày nay. Cương lĩnh năm 1930 của Đảng đã chỉ rõ: Sau khi hoàn thành
cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là sự lựa chọn lOMoAR cPSD| 45740153
dứt khoát và đúng đắn của Đảng, đáp ứng nguyện vọng thiết thực của dân tộc, nhân dân,
phản ánh xu thế phát triển của thời đại, phù hợp với quan điểm khoa học, cách mạng và
sáng tạo của chủ nghĩa Mác-Lenin.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, như Đại hội IX của Đảng
Cộng sản Việt Nam (2001) xác định: con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về
khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
3.2. Thực trạng thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam thông qua bốn khía cạnh kinh
tế, chính trị, tư tưởng-văn hoá, xã hội.
3.2.1, Trên lĩnh vực kinh tế
Tồn tại nhiều thành phần kinh tế, trong đó có cả những thành phần kinh tế xã hội chủ
nghĩa và những thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa.
Cụ thể, từ năm 1986 đến nay, Đảng ta thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước,
chủ trương phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xây nghĩa, gọi tắt là kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, gồm thành phần kinh tế nhà nước, thành phần kinh
tế tập thể, thành phần kinh tế tư nhân, thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài
ra, tại Đại Hội XIII, Đảng và Nhà nước ta xác định phát triển nền kinh tế nhiều hình thức
sở hũu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế
nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân, kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực quan trọng của sự phát
triển, giải quyết được vấn đề công ăn việc làm . Đặc biệt, tất cả các thành phần kinh tế
phải hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật XHCN.
Trong 36 năm qua, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đánh dấu bằng
chặng đường đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn
Giai đoạn 1986 - 1990: Đây là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Chủ trương phát
triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã lOMoAR cPSD| 45740153
hội chủ nghĩa, nền kinh tế dần dần khắc phục được những yếu kém và có những bước
phát triển. Kết thúc kế hoạch 5 năm (1986 - 1990), công cuộc đổi mới đã đạt được những
thành tựu bước đầu rất quan trọng: GDP tăng 4,4%/năm; tổng giá trị sản xuất nông nghiệp
tăng bình quân 3,8 - 4%/năm; công nghiệp tăng bình quân 7,4%/năm, trong đó sản xuất
hàng tiêu dùng tăng 13 -14%/năm; giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng 28%/năm .
Giai đoạn 1991 - 1995: Đất nước dần dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái. GDP bình
quân tăng 8,2%/năm; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,3%/năm; nông nghiệp tăng
4,5%/năm; lĩnh vực dịch vụ tăng 12%/năm; tổng sản lượng lương thực 5 năm (1991 -
1995) đạt 125,4 triệu tấn, tăng 27% so với giai đoạn 1986 - 1990.
Giai đoạn 1996 - 2000: Đây là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan trọng của kinh
tế thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặc dù cùng chịu tác
động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực (giai đoạn 1997 - 1999) và thiên tai
nghiêm trọng xảy ra liên tiếp, đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách khốc liệt,
tuy nhiên, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá. GDP bình quân của cả giai
đoạn 1996 - 2000 đạt 7%; trong đó, nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,1%; công nghiệp và
xây dựng tăng 10,5%; các ngành dịch vụ tăng 5,2% .
Giai đoạn 2001 - 2005: Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này đi vào chiều sâu, việc triển
khai Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Kế hoạch 5 năm 2001 - 2005
mà Đại hội IX của Đảng thông qua đã đạt được những kết quả nhất định. GDP tăng bình
quân 7,5%/năm. GDP bình quân đầu người khoảng 10 triệu đồng (tương đương 640
USD), vượt mức bình quân của các nước đang phát triển có thu nhập thấp (500 USD) .
Từ một nước thiếu lương thực, mỗi năm phải nhập khẩu từ 50 vạn đến 1 triệu tấn lương
thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới
Giai đoạn 2006 – 2010, nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, nước ta đã ra
khỏi tình trạng kém phát triển, từ nhóm nước thu thập thấp đã trở thành nước có thu nhập
trung bình (thấp). GDP bình quân 5 năm đạt 7%.
Đặc biệt giai đoạn 2010-2019 là sự phát triển ổn định của kinh tế Việt Nam .Nhìn chung
GDP giai đoạn 2010-2019 khá đồng đều cho thấy mức tăng trưởng khá ổn định của nền
kinh tế Việt Nam trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa. Đặc biệt hai năm 2018 và 2019 với mức tăng trưởng GDP trên 7%.GDP năm 2019
đạt kết quả ấn tượng với tốc độ tăng 7,08% và năm 2019 đạt 7,02%. lOMoAR cPSD| 45740153
3.2.2 Trên lĩnh vực chính trị
Trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam hiện nay, do kết cấu kinh tế của nước ta là
cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, dẫn đến trong xã hội tồn tại nhiều giai cấp khác nhau.
Đó là giai cấp công nhân, giai cấp nhân dân, có đội ngũ trí thức, tầng lớp doanh nhân.
Mặc dù tồn tại nhiều giai cấp như vậy nhưng Đảng ta luôn luôn khẳng định và điều này
đã được cụ thể hoá trong Hiến Pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), thể chế hóa
tại Điều 2: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” .
Đồng thời, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy rộng rãi quyền làm chủ của
Nhân dân. Đổi mới để Đảng thực hiện tốt vai trò lãnh đạo, Nhà nước thực hiện tốt vai
trò quản lý. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay còn tồn tại các giai cấp, tầng lớp khác
nhau, với những lợi ích khác nhau cho nên vừa có quan hệ hợp tác, vừa có quan hệ đấu
tranh. Và khi đã có nhà nước rồi, giai cấp công nhân, những người lao động phải luôn
luôn củng cố công cụ, chức năng của nhà nước pháp quyền, cải tạo, tổ chức, xây dựng
chế độ XHCN trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng xã hội và sử
dụng các bộ máy nhà nước đó để trấn áp những phần tử phản động, phần tử cơ hội và
thế lực phản động ở bên ngoài. Trong thời kì này, đấu tranh giai cấp vẫn diễn ra, nhưng
nó diễn ra trong điều kiện mới, nó diễn ra với nội dung mới, hình thức mới. Cụ thể ở
Việt Nam trong những năm vừa qua, các phần tử cơ hội ở trong nước vẫn cấu kết với
các thế lực phản động ở bên ngoài, đặc biệt là muốn sử dụng những thế lực đó, sử dụng
cái chiến lược “ Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ để đánh đổ chế độ chính trị ở Việt
Nam. Do đó, trong thời kì quá độ này, bản thân mỗi người dân, cán bộ, đảng viên phải
luôn luôn giữ vững lập trường, tư tưởng và phải luôn luôn nắm giữ cái “ sợi chỉ đỏ”
xuyên suốt của con đường Cách mạng Việt Nam mà khi từ khi Đảng ra đời, đó là độc
lập dân tộc phải gắn liền với CNXH. Nhờ có lý tưởng như vậy mà chúng ta mới giải
phóng được dân tộc, mới thực hiện được công cuộc đổi mới đất nước với những thành
tựu bước đầu như hiện nay lOMoAR cPSD| 45740153
3.2.3. Trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá
Về tư tưởng, tại Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) đã tổng kết 5 năm đổi mới
(1986-1990), khẳng định đường lối đổi mới là đúng đắn và bước đi phù hợp với thực
tiễn. Thành công lớn của Đại hội VII là đã đề ra: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội
10 năm (1990-2000). Đại hội khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Có thể nói, từ Đại
hội VI đến Đại hội VII, những quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta đã được hình thành trên những nét chủ yếu nhất. Cùng với thành
tựu cơ bản đó việc khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng, đánh dấu một bước tiến mới về
đổi mới nhận thức và tư duy lý luận của Đảng.
Về văn hoá, công cuộc đổi mới ở Việt Nam được đánh dấu từ Đại hội VI (năm 1986)
của Đảng Cộng sản Việt Nam đến nay đã được 36 năm và đã đạt được nhiều thành tựu
to lớn. Thời gian qua, có khá nhiều Hội nghị, công trình, bài viết đánh giá về thành tựu
đổi mới nói chung và thành tựu trong lĩnh vực văn hóa nói riêng. Có thể tổng hợp các
đánh giá, ghi nhận những thành tựu về văn hóa sau 36 năm đổi mới ở Việt Nam như sau:
Thứ nhất, nhận thức của Đảng và Nhà nước cũng như của người dân về vai trò của văn
hóa trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong xã hội đã được nâng cao. Nhân tố văn hóa
trong phát triển kinh tế - xã hội đã được coi trọng với một số chính sách liên quan đến
công nghiệp văn hóa, gắn văn hóa với phát triển du lịch. Việt Nam đã bước đầu khai
thác văn hóa như nguồn lực nội sinh để phát triển kinh tế xã hội, giảm bớt những tiêu
cực và tệ nạn xã hội do mặt trái của cơ chế thị trường tạo nên. Vấn đề xây dựng và phát
triển con người đã đạt được một số thành tựu quan trọng. Chỉ số phát triển con người đã
tăng đáng kể. Báo cáo cho biết chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam liên tục
tăng trong 24 năm qua. Năm 2015, Việt Nam được xếp thứ 116/188 nước.
Thứ hai, giá trị di sản văn hóa dân tộc được coi trọng. Nhiều di sản văn hóa Việt Nam
đã được UNESCO tôn vinh là di sản văn hóa đại diện của nhân loại. Theo thống kê, đến
năm 2013, cả nước có trên 40.000 di tích được kiểm kê, trong đó có trên 36.000 di tích lOMoAR cPSD| 45740153
được xếp hạng di tích cấp tỉnh và trên 3.000 di tích được xếp hạng di tích cấp quốc gia,
có trên 20 di tích được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt, có 08 Di sản văn hóa phi
vật thể được UNESCO công nhận đưa vào Di sản văn hóa của nhân loại như: Nhã nhạc
cung đình Huế, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Dân ca Quan họ, ca trù,
Hát xoan, Đờn ca tài tử Nam bộ…
Thứ ba, tính tích cực, chủ động trong sáng tạo, bảo quản, truyền bá và thưởng thức
các giá trị văn hóa, nghệ thuật của nhân dân đã được nâng cao. Tiềm năng văn hóa dân
tộc được khẳng định, các lĩnh vực nghệ thuật phát triển, những giá trị văn hóa Việt Nam
tỏa sáng, được thế giới công nhận là một phần không thể thiếu trong kho tàng quý giá
của văn hóa nhân loại. Chính sách xã hội hóa các hoạt động văn hóa có tác động tích
cực trong việc huy động các nguồn lực đầu tư cho phát triển văn hóa, đã và đang từng
bước mang lại một luồng sinh khí mới trong toàn bộ các lĩnh vực hoạt động của ngành
văn hóa, thể thao và du lịch, phù hợp với xu thế phát triển, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Bên cạnh những thành tựu đạt được nêu trên, Việt Nam còn có những hạn chế trong
lĩnh vực văn hóa. Trong xã hội, vẫn tồn tại những hệ tư tưởng cũ, lỗi thời như một số
quan điểm của Nho giáo, các tư tưởng của các thế lực phản động vẫn còn tàn dư trong
đời sống tinh thần, đặc biệt là những phong tục cổ hủ, lạc hậu , ảnh hưởng lớn đến đời
sống tinh thần của người dân. Ngoài ra, sự phát triển của văn hoá chưa đồng bộ và
tương xứng với tăng trưởng kinh tế, thiếu gắn bó với nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn
Đảng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế và
nhiệm vụ xây dựng Đảng. Nhiệm vụ, xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá chưa tạo được chuyển biến rõ rệt. Môi trường văn hoá còn bị ô
nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, sự lan tràn của các sản phẩm và dịch vụ văn hoá mê tín, lai
căng... Việc xây dựng thể chế văn hoá còn chậm, thiếu đồng bộ, làm hạn chế tác dụng
của văn hoá đối với các lĩnh vực quan trọng của đời sống đất nước. Quá trình đổi mới
làm lộ rõ sự không thích ứng giữa thể chế văn hóa cũ trước những yêu cầu mới của nền
kinh tế thị trường. Rất nhiều lĩnh vực của văn hóa đến nay vẫn nằm trong mô hình thể
chế truyền thống. Đó là thói quen dùng các biện pháp của nền kinh tế kế hoạch để quản
lý văn hóa, xây dựng văn hóa nhưng ít chủ động sáng tạo, mà thường trông chờ vào sự
bao cấp của nhà nước và ỷ lại vào chính quyền các cấp. Tình trạng nghèo nàn, thiếu lOMoAR cPSD| 45740153
thốn, lạc hậu về đời sống văn hoá - tinh thần ở nhiều vùng nông thôn, miền núi, vùng
sâu... vẫn chưa được khắc phục có hiệu quả. Việc kế thừa, phát huy nền văn hóa của các
dân tộc thiểu số mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng vẫn chưa đạt được kết quả như
mong muốn.. Khoảng cách chênh lệch về hưởng thụ văn hoá giữa các vùng miền, khu
vực, tầng lớp xã hội tiếp tục mở rộng.
3.2.4: Trên lĩnh vực xã hội
Thông qua thời kì quá độ đi lên CNXH, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng tự hào. Cụ thể:
Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được kết quả đầy ấn tượng. Theo chuẩn quốc gia, tỷ
lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống khoảng 9,5% năm 2010. Còn theo
chuẩn do Ngân hàng thế giới (WB) phối hợp với Tổng cục Thống kê tính toán, thì tỷ lệ
nghèo chung (bao gồm cả nghèo lương thực, thực phẩm và nghèo phi lương thực, thực
phẩm) đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 29% năm 2002 và còn khoảng 17% năm 2008.
Như vậy, Việt Nam đã “hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu
Trình độ dân chí được tăng lên, sự nghiệp giáo dục ngày càng được chú trọng. Giáo dục
ở Việt Nam trong những năm vừa qua luôn được coi là quốc sách hàng đầu. Sự nghiệp giáo
dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại hình trường lớp từ mầm non,
tiểu học đến cao đẳng, đại học. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ
và phổ cập giáo dục tiểu học; dự tính đến cuối năm 2010, hầu hết các tỉnh, thành sẽ đạt
chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ người lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ đã
tăng từ 84% cuối những năm 1980 lên 90,3% năm 2007. Năm 2009, trên 1,3 triệu sinh viên
nghèo được Ngân hàng chính sách xã hội cho vay với lãi suất ưu đãi để theo học.
Trong lĩnh vực lao động và việc làm: Từ năm 1991 đến năm 2000, trung bình mỗi năm
cả nước đã giải quyết cho khoảng 1 - 1,2 triệu người lao động có công ăn việc làm; những
năm 2001 - 2005, mức giải quyết việc làm trung bình hằng năm đạt khoảng 1,4 1,5 triệu
người; những năm 2006 - 2010, con số đó lại tăng lên đến 1,6 triệu người. Công tác dạy
nghề từng bước phát triển, góp phần đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo từ dưới 10% năm 1990 lên khoảng 40% năm 2010.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Bảo hiểm y tế được mở rộng đến
khoảng gần 60% dân số. Các chỉ số sức khỏe cộng đồng được nâng lên. Tỷ lệ tử vong ở trẻ lOMoAR cPSD| 45740153
em dưới 5 tuổi đã giảm từ 81% năm 1990 xuống còn khoảng 28% năm 2010; tỷ lệ trẻ em
dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng đã giảm tương ứng từ 50% xuống còn khoảng 20%. Công tác
tiêm chủng mở rộng được thực hiện, nhiều dịch bệnh hiểm nghèo trước đây đã được thanh
toán hoặc khống chế. Tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 72 tuổi hiện nay.
Tóm lại, sau gần 30 năm thực hiện đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to
lớn, toàn diện. Cùng với tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, các
mặt: chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh được bảo đảm và ổn định. Trong đó có những
thành tựu rất đáng khích lệ về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội gắn bó chặt chẽ với
tăng trưởng kinh tế, phát triển nguồn lao động và chất lượng lao động, khoa học và công
nghệ. Thành tựu đó ngày càng khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết
định thành công của đổi mới, khích lệ, động viên nhân dân tiếp tục hưởng ứng, góp phần
quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới
toàn diện đất nước với những bước tiến cao hơn. Thành tựu này được các nước trong khu
vực cũng như các đối tác có quan hệ với Việt Nam thừa nhận và xem đây là một thuận lợi
trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
3.3: Giải pháp cho con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng
văn hoá và xã hội thì đến nay vẫn còn một số những hạn chế chưa được củng cố vững
chắc. Vì thế mà Đảng và Nhà nước ta cần thực hiện các giải pháp sau để đặt được nhiều thành quả tốt:
Thứ nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, Việt Nam phải
trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều chặng đường phát triển. Cho
đến nay, Việt Nam đã hoàn thành chặng đường đầu tiên và đang trong chặng đường tiếp
theo là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để tạo nền tảng sớm đưa Việt Nam cơ
bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, từ đây cho đến khi
kết thúc thời kỳ quá độ để trở thành một nước xã hội chủ nghĩa, Việt Nam còn phải trải
qua bao nhiêu chặng đường, nội dung kinh tế- xã hội của từng chặng đường là gì? Chỉ
có đẩy mạnh nghiên cứu lý luận- thực tiễn để giải đáp những câu hỏi đó một cách có
căn cứ khoa học thì mới có chính sách cho từng chặng đường và cho cả thời kỳ quá độ, lOMoAR cPSD| 45740153
phòng ngừa và khắc phục tư duiy giản đơn, chủ quan nóng vội trong lãnh đạo, quản lý
đem mục tiêu xa áp đặt cho mục tiêu gần.
Thứ hai, cần xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế và bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần được xây dựng theo yêu cầu
nền kinh tế thị trường hiện đại. Cần nghiên cứu làm sáng tỏ hơn việc tuân thủ các quy
luật của kinh tế thị trường với bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Giải quyết mối
quan hệ giữa Nhà nước và thị trường như thế nào để bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa ? Vai trò của thị trường đến đâu trong việc phân bổ tài nguyên, phân bổ các
nguồn lực trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Cần tiếp tục nghiên cứu vai tro của kinh tế Nhà nước, nhất là các doanh nghiệp nhà
nước, những giải pháp để kinh tế nhà nước thực sự đóng góp vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế quốc dân; những giải pháp củng cố và phát triển kinh tế tập thể. Nhà nước cần
đổi mới, bổ sung cơ chế, chính sách nhất là thể chế pháp luật để bảo đảm sự bình đăng
thực sự của kinh tế tư nhân với các thành phần kinh tế khác, phát huy mạnh mẽ hơn vai
trò động lực của kinh tế tư nhân.
Thứ ba, quá độ lên chủ nghĩa xã hội Nhà nước cần nghiên cứu làm rõ mô hình xã
hội Việt Nam hướng đến là mô hình xã hội đoàn kết, đồng thuân, hài hòa, xây dựng một
cộng đồng xã hội văn minh, trong đó tầng lớp trung lưu sẽ ngày càng chiếm số động
trong xã hội. Chủ động quản lý phân tầng xã hội, quản trị sự biến đổi xã hội, có chính
sách kinh tế, xã hội, văn hóa đồng bộ để cải thiện điều kiệnsống của nhân dân, chủ động
xây dựng cơ cấu xã hội hợp lý trên cơ sở phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thứ tư, Đảng và Nước cần tích cực tuyên truyền về con đường quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam để qua đó giúp cho nhân nhân, các cấp chính quyền luôn giữ một tinh
thần vững tin vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và Đảng Cộng sản Việt Nam đã lựa
chọn. Bên cạnh đó cần tích cực phát triển lực lượng sản xuất, đẩy nhanh tiến độ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước
ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy
vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công
nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng lOMoAR cPSD| 45740153
ngày càng nhiều hơn. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải đảm bẩo xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Thứ năm, cần xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam phải là con đường ra đời của phương
thức sản xuất xã hội chủ nghĩa. Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại, tất yếu phải có quá trình phát triển tương ứng các quan
hệ sản xuất mới. Về mặt kinh tế, nước ta xuất phát từ một trình độ kinh tế lạc hậu, để
phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất mới theo định hướng xhcn là một nhiệm vụ
vô cùng khó khăn, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải đề ra chủ trương đúng đắn.
Thứ sáu, cần mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ
quốc tế. Việt nam sẵn sàng là bạn ,là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc
tế ,phấn đấu vì hoà bình ,độc lập và phát triển. Tiếp tục giữ vững môi trường hoà bình
và tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội
Thứ bảy, cần hoàn thiện bộ máy Nhà nước và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước
của Đảng . Đồng thời phải thực hiện cải cách bộ máy hành chính, phải tăng cường khả
năng kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước, phải đổi mới pháp chế và phải hoàn thiện
chính sách về thuế, tiền lương, tiền tệ, tín dụng và ngân hàng.
3.4: Liên hệ trách nhiệm của học sinh, sinh viên
Việc nghiên cứu đề tài “Phân tích nội dung trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội” đã cho thấy được những vấn đề cơ bản về nội dung trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội tại Việt Nam. Đồng thời thấy được những thành tựu của đất nước đạt được
qua 36 năm đổi mới và những thành quả trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của
đất nước và những hạn chế còn tồn tại. Bản thân là một sinh viên và là công dân của
đất nước ,chính vì thế mà chúng ta luôn phải cố gắng và nỗ lực góp phần vào sự phát
triển của Việt Nam. Để làm được điều đó mỗi sinh viên phải xác định rõ mục đích và
nhiệm vụ của bản thân, cụ thể :
Thứ nhất, việc làm trước tiên của sinh viên là phải học tập, trang bị thật tốt cho mình
vốn kiến thức, hiểu biết về thế giới, khoa học và con người.. Đồng thời cần nâng cao lOMoAR cPSD| 45740153
trình độ lý luận chính trị, bồi đắp lý tưởng cách mạng trong sáng. Tích cực học tập các
môn có ý nghĩa lý luận sâu sắc và trau dồi kiến thức lý luận cho bản thân.
Thứ hai, không chỉ chú trọng học kiến thức chuyên ngành mà bên cạnh đó sinh viên
cần phải tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội để nâng cao kỹ năng mềm và tăng
thêm khả năng sáng tạo, đặc biệt là khả năng về tiếng anh để sẵn sàng cho việc hội nhập
và phát triển của đất nước. Bên cạnh đó cần tiếp thu nhữn thông tin hữu ích, tránh tiếp
thu những tư tưởng lệch lạc, bịa đặt nhằm chống phá Đảng và Nhà nước.
Thứ ba, sinh viên cần luôn luôn hoàn thiện bản thân, tu dưỡng về đạo đức. Có lòng
thương người và đối xử với người theo lẽ phải, đó là nhân nghĩa, là truyền thống cao
đẹp của người Việt Nam mà chúng ta cần duy trì và phát PHẦN KẾT LUẬN
Con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội đã đang và sẽ là sự lựa chọn duy nhất của đất
nước ta. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đánh dấu bằng chặng đường
đổi mới trong nhiều năm qua, vượt qua rất nhiều khó khăn thách thức, dưới sự lãnh đạo
sáng suốt của Đảng đã đạt được những thành tựu to lớn về cả kinh tế, xã hội, tư tưởng
văn hoá và chính trị. Thành quả này có được do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên
nhân quyết định chính là ở việc Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định và vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn Việt Nam cũng chính là điều kiện để Việt
Nam nhanh chóng đi tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Và nhờ vào sự đổi mới quan điểm cùa Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Bên cạnh những kết quả đạt được thì Việt
Nam còn gặp nhiều hạn chế, thách thức trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chính vì thế mà Đảng và Nhà nước ta cần có những giải pháp cụ thể, tích cực để đưa Việt
Nam gặt hái được nhiều thành công. TƯ LIỆU THAM KHẢO
1, GIÁO TRÌNH. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC - Hà Nội – 2019 lOMoAR cPSD| 45740153
2 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng 2018 [ CITATION htt \l 1033 ]
3, Đại hội VII: "Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho hành động của Đảng"
[ CITATION htt2 \l 1033 ] 4,[ CITATION htt3 \l 1033 ]