



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 45734214
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LẠC HỒNG
----------------
BÀI TIỂU LUẬN MÔN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC ĐỀ TÀI
PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ TÔN GIÁO
GVHD: ThS. Trần Tiến NHÓM: 3 Lớp:
ĐỒNG NAI – THÁNG 5/2023 lOMoAR cPSD| 45734214
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LẠC HỒNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
KHOA CĐ-ĐT – LỚP Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Đồng Nai, ngày 3 tháng 5 năm 2023
DANH SÁCH NHÓM TIỂU LUẬN Nhóm: ----------------- Stt Họ tên Số ĐT Ghi chú 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. LỜI CẢM ƠN!
Lời đầu tiên chúng em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại
Học Lạc Hồng đã tạo điều kiện để sinh viên chúng em có một môi trường học tập
thoải mái về cơ sở hạ tầng cũng như cơ sở vật chất.
Chúng em xin cảm ơn khoa Cơ điện-điện tử đã giúp chúng em có được thêm
những kiến thức chủ nghĩa Mác-Lênin, một tư tưởng hết sức quan trọng về lịch
sử nước ngoài. Qua đó chúng em có thể nhận thức một cách đầy đủ và toàn diện
cuộc đời, sự nghiệp, những đóng góp và vai trò của Mác-Lênin đối với toàn thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Chúng em chân thành cảm ơn thầy Trần
Tiến đã hướng dẫn tận tình để nhóm chúng em hoàn thành tiểu luận này. Hi vọng lOMoAR cPSD| 45734214
thông qua những nỗ lực tìm hiểu của tất cả các thành viên, nhóm (…) sẽ giúp các
bạn hiểu rõ hơn về chủ nghĩa Mác-Lênin.
Tư tưởng Mác-Lênin là một hệ thống tư tưởng vô cùng rộng lớn vậy nên,
với những giới hạn về kiến thức và thời gian, trong quá trình tìm hiểu nhóm (…)
không tránh khỏi thiếu sót, mong thầy và các bạn tận tình góp ý để chúng em
hoàn thiện hơn nữa những kiến thức của mình.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
Về nguồn gốc của tôn giáo, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tôn giáo ra
đời, tồn tại, phát triển không chỉ dựa trên những điều kiện kinh tế, xã hội mà còn do
nhận thức (về tự nhiên, xã hội và bản thân mình), do tâm lí (sự sợ hãi, niềm tiếc thương,
tình cảm yêu mến). Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra rằng, tôn giáo chỉ mất đi khi những
cơ sở kinh tế- xã hội, thậm chí là cả cơ sở tâm lí, nhận thức cho sự tồn tại của nó không
còn nữa. Nghĩa là khi nào “không còn gì để phản ánh nữa” như Ph.Ăngghen đã chỉ ra
thì khi đó tôn giáo mới mất đi. Cần phải thấy rằng, trong quá trình xây dựng chủ nhĩa
xã hội ở nước ta hiện nay, mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người
với thế giới tự nhiên còn nhiều điều chưa thể đạt đến sự hợp lí, đặc biệt mặt trái của cơ
chế thị trường như tội phạm, sự phân hóa giàu nghèo, những rủi ro, bệnh tật, thiên tai,
v.v... vẫn còn là cơ sở khách quan cho tôn giáo tồn tại và phát triển trên những phạm vi
nhất định. Do đó, tôn giáo vẫn còn tồn tại, khó có thể đoán định được “tuổi thọ” của tôn
giáo, song chắc chắn rằng tôn giáo vẫn là một thực thể tồn tại trong chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa Mác-Lênin không chỉ nêu rõ vai trò xã hội của tôn giáo mà còn chỉ rõ
chức năng (thế giới quan, đền bù hư ảo, điều chỉnh hành vi, liên kết) của nó. Tôn giáo
không chỉ là công cụ tinh thần của các thế lực xấu lợi dụng, là liều thuốc mà các giai
cấp thống trị dùng để ru ngủ quần chúng, “là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức”,
phản ánh sự nghèo nàn hiện thực mà còn là sự “phản kháng chống lại sự nghèo nàn hiện
thực ấy”. Tôn giáo trong quá trình tồn tại và phát triển luôn bộc lộ hai mặt tích cực và
tiêu cực. Tôn giáo, tín ngưỡng không đơn thuần chỉ là vấn đề thuộc về đời sống tâm
linh, tinh thần, mà còn là vấn đề lịch sử, văn hóa, đạo đức, lối sống. Tôn giáo bên cạnh
những hạn chế cũng chứa đựng nhiều yếu tố hợp lí bởi tính nhân bản, nhân văn, tính
hướng thiện và những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của nó. Mọi tôn giáo chân chính lOMoAR cPSD| 45734214
đều răn dạy tín đồ hướng tới cái chân, thiện, mĩ. Tôn giáo có chức năng điều chỉnh hành
vi xã hội của tín đồ, hướng họ đến cái thiện, tránh cái ác. Tín đồ các tôn giáo với niềm
tin vào đấng tối cao và cuộc sống vĩnh hằng sau khi chết, lo sợ bị trừng phạt hoặc bị
“quả báo” nếu phạm tội hoặc làm điều ác nên đã có hành vi đạo đức hướng thiện. CHƯƠNG 2: NỘI DUNG 1.
Lý luận chung về vấn đề tôn giáo
1.1 Khái niệm tôn giáo
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hoang đường và hư ảo hiện thực
khách quan. Qua sự phản ánh của tôn giáo mọi sức mạnh tự phát của tự nhiên và xã hội
đều trở thành thần bí.
Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và
lịch sử xã hội xác định. Do đó xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội
phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội.
ở một mức độ nhất định tôn giáo có vai trò tích cực trong văn hoá, đạo đức xã hội
như: đoàn kết, hướng thiện, quan tâm đến con người… Tôn giáo là niềm an ủi, chỗ dựa
tinh thần của quần chúng lao động.
Về phương diện thế giới quan, thế giới quan tôn giáo là duy tâm, hoàn toàn đối lập
với hệ tư tưởng và thế giới quan Mác - Lênin khoa học và cách mạng. Sự khác nhau
giữa chủ nghĩa xã hội hiện thực và thiên đường mà các tôn giáo thường hướng tới là ở
chỗ trong quan niệm tôn giáo thiên đường không phải là hiện thực mà là ở thế giới bên
kia. Còn những người cộng sản chủ trương và hướng con người vào xã hội văn minh,
hành phúc ngay ở thế giới hiện thực, do mọi người xây dựng và vì mọi người.
1.2 Bản chất của tôn giáo
Chủ nghĩa Mác - Lênin coi tín ngưỡng, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội
phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan. Qua hình thức phản ánh
của tôn giáo, những sức mạnh tự phát trong tự nhiên và xã hội đều trở thành thần bí.
C. Mác và Ph. Ăngghen còn cho rằng, tôn giáo là một hiện tượng xã hội, văn hóa, lịch
sử; một lực lượng xã hội trần thế. Giữa tín ngưỡng và tôn giáo có sự khác nhau, song
lại có quan hệ chặt chẽ mà ranh giới để phân biệt chúng chỉ là tương đối. Tín ngưỡng là
một khái niệm rộng hơn tôn giáo. ở đây chúng ta chỉ đề cập một dạng tín ngưỡng đó là
tín ngưỡng tôn giáo (gọi tắt là tôn giáo). lOMoAR cPSD| 45734214
Tín ngưỡng là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một hiện tượng, một
lực lượng siêu nhiên, tôn sùng vào một điều gì đó pha chút thần bí, hư ảo, vô hình tác
động mạnh đến tâm linh con người, trong đó bao hàm cả niềm tin tôn giáo. Còn tôn giáo
thường được hiểu là một hiện tượng xã hội bao gồm có ý thức tôn giáo lấy niềm tin tôn
giáo làm cơ sở, hành vi và các tổ chức hoạt động tín ngưỡng tôn giáo - nghĩa là, tôn giáo
thường có giáo lý, giáo luật, lễ nghi và các tổ chức giáo hội. Mê tín dị đoan là một hiện
tượng xã hội tiêu cực đã xuất hiện từ lâu và vẫn tồn tại ở thời đại chúng ta. Trên thực tế,
mê tín dị đoan thường xen vào các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo.
Việc xác định hiện tượng mê tín dị đoan chủ yếu dựa vào biểu hiện và hậu quả tiêu
cực của nó. Mê tín dị đoan là niềm tin cuồng vọng của con người vào các lực lượng siêu
nhiên đến mức độ mê muội với những hành vi cực đoan, thái quá, phi nhân tính, phản
văn hóa của một số người gọi chung là cuồng tín. Hiện tượng mê tín dị đoan thường gắn
chặt và lợi dụng các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo để hành nghề. Vì vậy, cùng
với việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân thì chúng
ta phải loại bỏ dần mê tín dị đoan nhằm làm lành mạnh hoá đời sống tinh thần xã hội.
Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và
lịch sử xã hội xác định. Do đó, xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội
phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội.. Tuy nhiên, tôn giáo
cũng chứa đựng một số giá trị văn hoá, phù hợp với đạo đức, đạo lý của xã hội. Về
phương diện thế giới quan, thế giới quan duy vật mácxít và thế giới quan tôn giáo là đối
lập nhau. Tuy vậy, trong thực tiễn, những người cộng sản có lập trường mácxít không
bao giờ có thái độ xem thường hoặc trấn áp những nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo hợp
pháp của nhân dân. Ngược lại, chủ nghĩa Mác-Lênin và những người cộng sản, chế độ
xã hội chủ nghĩa luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
Sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội hiện thực và "thiên đường" mà các tôn giáo
thường hướng tới là ở chỗ trong quan niệm tôn giáo, "thiên đường" không phải là hiện
thực xã hội mà là ở "thế giới bên kia", trên "thượng giới" (tức là cái hư ảo). Còn những
người cộng sản chủ trương và hướng con người vào xã hội văn minh, hạnh phúc ngay
ở thế giới hiện thực, do mọi người xây dựng và vì mọi người. lOMoAR cPSD| 45734214
1.3 Nguồn gốc của tôn giáo
Tôn giáo xuất hiện rất sớm trong lịch sử xã hội loài người, hoàn thiện và biến đổi
cùng với sự phát triển của các quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội. Sự xuất hiện và biến
đổi đó gắn liền với các nguồn gốc sau:
Nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo
Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, do trình độ lực lượng sản xuất thấp
kém, con người cảm thấy yếu đuối và bất lực trước thiên nhiên rộng lớn và bí ẩn, vì vậy,
họ đã gán cho tự nhiên những sức mạnh, quyền lực to lớn, thần thánh hoá những sức
mạnh đó. Đó là hình thức tồn tại đầu tiên của tôn giáo.
Khi xã hội xuất hiện những giai cấp đối kháng, bên cạnh cảm giác yếu đuối
trước sức mạnh của tự nhiên, con người lại cảm thấy bất lực trước những sức mạnh tự
phát hoặc của thế lực nào đó của xã hội. Không giải thích được nguồn gốc của sự phân
hoá giai cấp và áp bức bóc lột, tội ác, v.v., và của những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi, con
người thường hướng niềm tin ảo tưởng vào "thế giới bên kia" dưới hình thức các tôn giáo.
Như vậy, sự yếu kém của trình độ phát triển lực lượng sản xuất, sự bần
cùng về kinh tế, áp bức về chính trị, thất vọng, bất lực trước những bất công xã hội là
nguồn gốc sâu xa của tôn giáo.
Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo
Các nhà duy vật trước C. Mác thường nhấn mạnh về nguồn gốc nhận thức
của tôn giáo. Còn các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, lại quan tâm trước hết
đến nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo. Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác-Lênin không
phủ nhận nguồn gốc nhận thức của tôn giáo mà còn làm sáng tỏ một cách có cơ sở khoa học nguồn gốc đó.
Ở một giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức của con người về tự nhiên, xã
hội và bản thân mình là có giới hạn. Khoa học có nhiệm vụ từng bước khám phá những
điều chưa biết. Song, khoảng cách giữa biết và chưa biết luôn luôn tồn tại; điều gì mà
khoa học chưa giải thích được thì điều đó dễ bị tôn giáo thay thế.
Sự xuất hiện và tồn tại của tôn giáo còn gắn liền với đặc điểm nhận thức của
con người. Con người ngày càng nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn thế giới khách quan,
khái quát hoá thành các khái niệm, phạm trù, quy luật. Nhưng càng khái quát hoá, trừu lOMoAR cPSD| 45734214
tượng hoá đến mức hư ảo thì sự vật, hiện tượng được con người nhận thức càng có khả
năng xa rời hiện thực và dễ phản ánh sai lệch hiện thực. Sự nhận thức bị tuyệt đối hoá,
cường điệu hoá của chủ thể nhận thức sẽ dẫn đến thiếu khách quan, mất dần cơ sở hiện
thực, dễ rơi vào ảo tưởng, thần thánh hoá đối tượng. Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo
Các nhà duy vật cổ đại thường đưa ra luận điểm "sự sợ hãi sinh ra thần linh". V.I.
Lênin tán thành và phân tích thêm: sợ hãi trước thế lực mù quáng của tư bản..., sự phá
sản "đột ngột", "bất ngờ", "ngẫu nhiên", làm họ bị diệt vong..., dồn họ vào cảnh chết
đói, đó chính là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo hiện đại.
Ngoài sự sợ hãi trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo làm
nảy sinh những tình cảm như lòng biết ơn, sự kính trọng, tình yêu trong quan hệ giữa
con người với tự nhiên và con người với con người. Đó là những giá trị tích cực của tín ngưỡng, tôn giáo.
Tín ngưỡng, tôn giáo đã đáp ứng nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, góp
phần bù đắp những hụt hẫng trong cuộc sống, nỗi trống vắng trong tâm hồn, an ủi, vỗ
về, xoa dịu cho các số phận lúc sa cơ lỡ vận. Vì thế, dù chỉ là hạnh phúc hư ảo, nhưng
nhiều người vẫn tin, vẫn bám víu vào. C. Mác đã nói, tôn giáo là trái tim của thế giới
không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của trạng thái xã hội không có tinh thần.
1.4 Tính chất của tôn giáo
1.4.1 Tính lịch sử của tôn giáo
Con người sáng tạo ra tôn giáo. Mặc dù tôn giáo còn tồn tại lâu dài, nhưng nó
chỉ là một phạm trù lịch sử. Tôn giáo không phải xuất hiện cùng với sự xuất hiện của
con người. Tôn giáo chỉ xuất hiện khi khả năng tư duy trừu tượng của con người đạt tới
một mức độ nhất định. Tôn giáo là sản phẩm của lịch sử. Trong từng thời kỳ của lịch
sử, tôn giáo có sự biến đổi cho phù hợp với kết cấu chính trị và xã hội của thời đại đó.
Thời đại thay đổi, tôn giáo cũng có sự thay đổi, điều chỉnh theo. Đến một giai đoạn lịch
sử, khi những nguồn gốc sản sinh ra tôn giáo bị loại bỏ, khoa học và giáo dục giúp cho
đại đa số quần chúng nhân dân nhận thức được bản chất các hiện tượng tự nhiên và xã
hội thì tôn giáo sẽ dần dần mất đi vị trí của nó trong đời sống xã hội và cả trong nhận
thức, niềm tin của mỗi con người.Đương nhiên, để đi đến trình độ đó sẽ còn là một quá
trình phát triển rất lâu dài của xã hội loài người. lOMoAR cPSD| 45734214
1.4.2 Tính quần chúng của tôn giáo
Tính quần chúng của tôn giáo không chỉ biểu hiện ở số lượng tín đồ các tôn
giáo. Hiện nay tín đồ của các tôn giáo chiếm tỷ lệ khá cao trong dân số thế giới (nếu chỉ
tính các tôn giáo lớn, đã có tới từ 1/3 đến 1/2 dân số thế giới chịu ảnh hưởng của tôn
giáo). Mặt khác, tính quần chúng của tôn giáo còn thể hiện ở chỗ các tôn giáo là nơi
sinh hoạt văn hóa, tinh thần của một số bộ phận quần chúng nhân dân lao động. Dù tôn
giáo hướng con người niềm tin vào hạnh phúc hư ảo của thế giới bên kia, song nó luôn
luôn phản ánh khát vọng của những người bị áp bức về một xã hội tự do, bình đẳng, bác
ái... Bởi vì, tôn giáo thường có tính nhân văn, nhân đạo và hướng thiện. Vì vậy, còn
nhiều người ở trong các tầng lớp khác nhau của xã hội tin theo.
1.4.3 Tính chính trị của tôn giáo
Trong xã hội không có giai cấp, tôn giáo chưa mang tính chính trị. Tính chất
chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp, có sự khác biệt về
lợi ích, các giai cấp thống trị đã lợi dụng tôn giáo để phục vụ lợi ích của mình. Những
cuộc chiến tranh tôn giáo trong lịch sử và hiện tại, như các cuộc thập tự chinh thời trung
cổ ở châu Âu hay xung đột tôn giáo ở bán đảo Ban Căng, ở Pakixtan, ấn Độ, Angiêri,
Bắc Ailen, Bắc Capcadơ (thuộc Nga) ... đều xuất phát từ những ý đồ của những thế lực
khác nhau trong xã hội, lợi dụng tôn giáo để thực hiện mục tiêu chính trị của mình.
Trong nội bộ các tôn giáo, cuộc đấu tranh giữa các dòng, hệ, phái... nhiều khi cũng mang
tính chính trị. Trong những cuộc đấu tranh ý thức hệ, thì tôn giáo thường là một bộ phận
của đấu tranh giai cấp.
Ngày nay, tôn giáo đang có chiều hướng phát triển, đa dạng, phức tạp không
chỉ thể hiện tính tự phát trong nhân dân, mỗi địa phương, mỗi quốc gia... mà còn có tổ
chức ngày càng chặt chẽ, rộng lớn ngoài phạm vi địa phương, quốc gia - đó là nhiều tổ
chức quốc tế của các tôn giáo với vai trò, thế lực không nhỏ trên toàn cầu và với những
trang bị hiện đại tác động không chỉ trong lĩnh vực tư tưởng, tâm lý... mà cả trong chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Vì vậy, cần nhận rõ rằng: đa số quần chúng tín đồ đến với
tôn giáo nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần; song, trên thực tế, tôn giáo đã và đang bị các
thế lực chính trị - xã hội lợi dụng cho thực hiện mục đích ngoài tôn giáo của họ. lOMoAR cPSD| 45734214 2.
Quan điểm của chủ nghĩa mác-lênin về tôn giáo
Kế thừa những quan niệm đúng đắn của các nhà triết học duy vật đi trước, Mác
Ăngghen đã vạch ra một cách khoa học nguồn gốc, bản chất, tính chất và vai trò của tôn
giáo trong đời sống xã hội.
Khi bàn về vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội, Mác - Ăngghen cho rằng,
sự ra đời của tôn giáo một mặt là sự phản ánh hiện thực khách quan, mặt khác nó còn
là sự phản kháng xã hội hiện thực với quá nhiều bất công, đau khổ. Mác - Ăngghen, khi
bàn đến vai trò của tôn giáo, cũng đã lưu ý đến khía cạnh tôn giáo là nhu cầu của một
bộ phận nhân dân, nhu cầu của sự phát triển xã hội trong những thời kỳ lịch sử nhất định.
Ăngghen, khi nghiên cứu đạo Cơ Đốc sơ kỳ cũng đã thừa nhận nó như là sự phản
ánh khát vọng của những người nô lệ và trong bản thân nó có những điểm tương đồng
với lý tưởng của chủ nghĩa xã hội. Ông viết: “Trong lịch sử đạo Cơ Đốc sơ kỳ có những
điểm giống đáng lưu ý với phong trào công nhân hiện đại, đạo Cơ Đốc nảy sinh như là
một phong trào của những người bị áp bức; lúc đầu nó là tôn giáo của những người nô
lệ và nô lệ đã được tha, của người nghèo và người vô quyền, của các dân tộc bị La Mã
chinh phục hoặc đuổi đi tản mát. Cả đạo Cơ Đốc lẫn chủ nghĩa xã hội công nhân đều
tuyên truyền sự giải phóng con người trong tương lai khỏi cảnh nô lệ và nghèo khổ.
Trên lập trường duy vật vô thần triệt để, chủ nghĩa Mác - Lênin dù có thừa nhận
những giá trị tích cực nhất định của tôn giáo, song vẫn phê phán nó, vì xét cho cùng,
tôn giáo vẫn hướng con người vào một thế giới ảo tưởng, an ủi họ quên nỗi đau khổ ở
cuộc sống hiện thực và hứa hẹn sự đền bù cho họ ở một thế giới siêu nhiên. Trong khi
đó, để khắc phục những khổ đau ở cuộc sống trần thế, con người cần phải có phương
tiện hiện thực, có nghị lực, dũng cảm sáng tạo vượt qua trong xã hội hiện thực. Ăngghen
đã chỉ ra điểm khác nhau căn bản giữa đạo Cơ Đốc và chủ nghĩa xã hội, đó là: “Đạo Cơ
Đốc tìm sự giải thoát ấy trong cuộc sống trên trời, ở thế giới bên kia sau khi chết, còn
chủ nghĩa xã hội thì tìm nó ở thế giới bên này, ở việc tổ chức lại xã hội.
Theo Mác - Ăngghen, sự phản kháng của tôn giáo về cơ bản vẫn mang tính tiêu
cực, thụ động, nó khuyên con người chấp nhận hiện thực để mỗi người tự hoàn thiện
mình, tách khỏi mọi mối quan hệ của xã hội hiện thực. lOMoAR cPSD| 45734214
Tiếp tục quan điểm của Mác - Ăngghen, V. I. Lênin bổ sung, phát triển, hoàn thiện
thêm và chỉ ra vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội, về cơ bản, là tác động tiêu cực.
Tôn giáo dạy cho con người chịu đựng những đau khổ để chờ đợi những điều tốt đẹp
ảo tưởng, không có thực: “Những điều thiêng liêng của đạo chính thống quý báu là ở
chỗ nó dạy người ta chịu đựng đau khổ “không một tiếng kêu ca”! Thực tế, điều thiêng
liêng đó có lợi cho giai cấp thống trị biết chừng nào!…tôn giáo dạy người ta chịu đựng
“không một tiếng kêu ca”cái địa ngục trần gian để chờ đợi một thiên đường nào đấy.
Lênin cho rằng, một mặt tôn giáo đem lại cho con người sự an ủi mơ hồ, răn dạy
họ nhẫn nhục trong cuộc sống thực để hy vọng được đền bù ở cõi sống khác, mặt khác
tôn giáo là sự biện hộ cho các thế lực bóc lột và khuyên những người bị bóc lột hãy cam
chịu cuộc sống hiện tại. Người viết: “Đối với những ai suốt đời vẫn lao động và sống
trong cảnh thiếu thốn, tôn giáo dạy họ phải sống theo tinh thần cam chịu và nhẫn nhục
trong cuộc sống dưới trần gian, bằng cách làm cho họ hy vọng sẽ được đền đáp khi lên
thiên đường. Còn đối với những kẻ sống bằng lao động của người khác, tôn giáo dạy họ
hãy làm điều thiện ở thế gian, biện hộ một cách rẻ tiền cho toàn bộ cuộc đời bóc lột của
chúng, và bán rẻ cho chúng những tấm thẻ để lên thiên đường của những người hạnh phúc.
Lênin đã chỉ ra rằng, khi tôn giáo bị giai cấp tư sản lợi dụng làm công cụ chính trị
thì nó trở thành “thứ rượu tinh thần, làm cho những người nô lệ của tư bản mất phẩm
cách con người và quên mất hết những điều họ đòi hỏi để được sống một cuộc đời đôi
chút xứng đáng với con người.
Tôn giáo được Lênin xem xét gắn liền với thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai
cấp vô sản, trong điều kiện lịch sử cụ thể của nước Nga và châu Âu cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX. Chính vì vậy, Lênin nói đến vai trò tiêu cực của tôn giáo và giáo hội
cũng trong một tình huống rất cụ thể: tôn giáo và giáo hội tôn giáo bị giai cấp tư sản lợi
dụng làm công cụ để bảo vệ chế độ bóc lột, đầu độc quần chúng bị áp bức. Lúc này,
mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản đã trở nên gay gắt và trong xã hội đó,
“Tôn giáo là một trong những hình thức áp bức về tinh thần, luôn luôn và bất cứ ở đâu
cũng đè nặng lên quần chúng nhân dân khốn khổ vì phải lao động suốt đời cho người
khác hưởng, vì phải chịu cảnh bần cùng cô độc. lOMoAR cPSD| 45734214
Do điều kiện và yêu cầu của cách mạng đương thời, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lênin chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu các khía cạnh khác như văn hóa,
tâm lý, tình cảm, đạo đức... của tôn giáo. Do đó, các ông rất ít đề cập đến vai trò tích
cực của tôn giáo trong đời sống xã hội. Đây là một trong những vấn đề đòi hỏi các đảng
cộng sản và giai cấp công nhân cần phải tiếp tục vận dụng phương pháp luận khoa học
của chủ nghĩa Mác-Lênin đi sâu tìm hiểu tôn giáo từ nhiều góc độ khác nhau để có cách
nhìn khách quan, khoa học về hiện tượng xã hội này.
2.1 Quan niệm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo
Nếu chủ nghĩa duy vật lịch sử được coi là một trong ba phát minh quan trọng nhất
của chủ nghĩa Mác, thì những quan điểm về tôn giáo là một trong những biểu hiện rõ
nét nhất lập trường duy vật về lịch sử của học thuyết này. Nó thể hiện thông qua các
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về cả bản chất, nguồn gốc lẫn chức năng của tôn
giáo. Trong khi các nhà duy tâm, thần học cho rằng tôn giáo có nguồn gốc siêu nhiên,
thế giới tự nhiên, xã hội loài người cũng như toàn bộ hoạt động của mỗi cá nhân con
người đều chịu sự chi phối, điều khiển của các lực lượng siêu nhiên, thần thánh thì các
nhà duy vật, vô thần đã có quan điểm hoàn toàn đối lập. L.Phoiơbắc - nhà triết học duy
vật người Đức, trong Bản chất đạo Cơ đốc, đã khẳng định rằng, không phải thần thánh
sáng tạo ra con người mà con người sáng tạo ra thần thánh theo hình mẫu của mình;
rằng: “Thượng đế siêu hình không phải là cái gì khác mà là sự tập hợp, là toàn bộ những
đặc tính chung nhất rút ra từ giới tự nhiên, song con người, nhờ vào sức tưởng tượng…
lại đem giới tự nhiên biến thành một chủ thể hay một thực thể độc lập. Tuy nhiên,
Phoiơbắc chưa chỉ ra được bản chất thực sự của tôn giáo và ở khía cạnh này, ông vẫn
chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm khi chỉ phê phán thứ tôn giáo hiện thời chứ không
phê phán tôn giáo nói chung, càng chưa hề đề cập đến sự phê phán những điều kiện hiện
thực đã làm nảy sinh tôn giáo. Thậm chí, ông còn cho rằng người ta vẫn rất cần một thứ
tôn giáo khác thay thế, đó là “tôn giáo tình yêu” để xoá bỏ đi những áp bức, bất công trong xã hội.
Kế thừa và vượt lên trên quan điểm của Phoiơbắc và các nhà duy vật trước đó, các
nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã đứng vững trên lập trường duy vật lịch sử để lý
giải vấn đề bản chất của tôn giáo. Theo đó, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội,
do tồn tại xã hội quyết định. Mặc dù có tính độc lập tương đối nhưng mọi hiện tượng lOMoAR cPSD| 45734214
trong đời sống tinh thần, xét đến cùng, đều có nguồn gốc từ đời sống vật chất. Tôn giáo
là một hiện tượng tinh thần của xã hội và vì vậy, nó là một trong những hình thái ý thức
xã hội, phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Nhưng khác với
những hình thái ý thức xã hội khác, sự phản ánh của tôn giáo đối với hiện thực là sự
phản ánh đặc thù, đó là sự phản ánh “lộn ngược”, “hoang đường” thế giới khách quan.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, “tôn giáo là những sự rút hết toàn bộ nội dung của con
người và giới tự nhiên, là việc chuyển nội dung đó sang cho bóng ma. Thượng đế ở bên
kia thế giới, Thượng đế này, sau đó, do lòng nhân từ, lại trả về cho con người và giới tự
nhiên một chút ân huệ của mình”.
Với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, tôn giáo là sự phản ánh một cách biến
dạng, sai lệch, hư ảo về giới tự nhiên và con người, về các quan hệ xã hội. Hay nói cách
khác, tôn giáo là sự nhân cách hoá giới tự nhiên, là sự “đánh mất bản chất người”. Chính
con người đã khoác cho thần thánh những sức mạnh siêu nhiên khác với bản chất của
mình để rồi từ đó con người có chỗ dựa, được chở che, an ủi - dù đó chỉ là chỗ dựa “hư
ảo”. Chỉ ra bản chất sâu xa của hiện tượng đó, Ph.Ăngghen đã viết: “Con người vẫn
chưa hiểu rằng họ đã nghiêng mình trước bản chất của chính mình và đã thần thánh hoá
nó như một bản chất xa lạ nào đó. Lột tả bản chất của tôn giáo, ông cho rằng, “tôn giáo
chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào đầu óc của con người – của những lực lượng
ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những
lực lượng ở trần thế mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”.
Vấn đề đặt ra ở đây là, nguyên nhân nào dẫn đến sự phản ánh “hoang đường”, “hư
ảo” của tôn giáo? Tại sao con người lại có nhu cầu tôn giáo và đặt niềm tin lớn lao vào
tôn giáo như vậy? Đứng vững trên lập trường duy vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
luận giải rằng sự xuất hiện và tồn tại của tôn giáo xuất phát từ hiện thực khách quan và
nguồn gốc quan trọng nhất của tôn giáo chính là điều kiện kinh tế – xã hội. Trong lịch
sử tiến hoá của mình, trước hết con người có nhu cầu cải tạo tự nhiên để tạo ra của cải
vật chất đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mình. Nhưng do trình độ và khả năng cải
tạo tự nhiên còn thấp kém, con người luôn cảm thấy yếu đuối, bất lực trước các hiện
tượng tự nhiên và đã gắn cho tự nhiên những sức mạnh siêu nhiên. Đó chính là cơ sở
cho sự nảy sinh các hiện tượng thờ cúng. Đặc biệt, khi xã hội có sự phân chia và áp bức
giai cấp thì các mối quan hệ xã hội càng phức tạp, một bộ phận người dân rơi vào tình lOMoAR cPSD| 45734214
thế cùng quẫn, bất lực trước các thế lực thống trị. Thêm vào đó, những yếu tố tự phát,
ngẫu nhiên, rủi ro bất ngờ nằm ngoài ý muốn của con người gây ra cho họ sự sợ hãi, lo
lắng, mất cảm giác an toàn. Đó cũng là nguyên nhân khiến người ta tìm đến và dựa vào
sự che chở của tôn giáo.
Cắt nghĩa về nguồn gốc kinh tế – xã hội của tôn giáo, Ph.Ăngghen viết: “Trong
những thời kỳ đầu của lịch sử chính những lực lượng thiên nhiên là những cái trước tiên
được phản ánh như thế, và trong quá trình phát triển hơn nữa thì ở những dân tộc khác
nhau, những lực lượng thiên nhiên ấy đã được nhân cách hóa một cách hết sức nhiều vẻ
và hết sức hỗn tạp... Nhưng chẳng bao lâu, bên cạnh những lực lượng thiên nhiên lại
còn có cả những lực lượng xã hội tác động - những lực lượng này đối lập với con người,
một cách cũng xa lạ lúc đầu cũng không thể hiểu được đối với họ, và cũng thống trị họ
với cái vẻ tất yếu bề ngoài giống như bản thân những lực lượng tự nhiên vậy”. Bàn về
vấn đề này, V.I.Lênin cũng khẳng định: “Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc
đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào cuộc đời tốt đẹp ở thế giới bên
kia, cũng giống y như sự bất lực của người dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên
nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ và những phép màu”.
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tôn giáo có nguồn gốc từ
trong hiện thực và phản ánh chính hiện thực đó – một hiện thực cần có tôn giáo và có
điều kiện để tôn giáo xuất hiện và tồn tại. Trong Phê phán triết học pháp quyền của
Hêghen, C.Mác đã viết: “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn
hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở
dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng như nó là
tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”.
Luận điểm trên của C.Mác đã thể hiện rõ nguồn gốc, bản chất, chức năng của tôn giáo
trên lập trường duy vật lịch sử. Với C.Mác, tôn giáo như là “vầng hào quang” ảo tưởng,
là những vòng hoa giả đầy màu sắc và đẹp một cách hoàn mỹ, là ước mơ, là niềm hy
vọng và điểm tựa tinh thần vô cùng to lớn cho những số phận bé nhỏ, bất lực trước cuộc
sống hiện thực. Vì, trong cuộc sống hiện thực, khi con người bất lực trước tự nhiên, bất
lực trước các hiện tượng áp bức, bất công của xã hội thì họ chỉ còn biết
“thở dài” và âm thầm, nhẫn nhục chịu đựng. Cũng trong cuộc sống hiện thực ấy, họ
không thể tìm thấy “một trái tim” để yêu thương, che chở nên phải tìm đến một “trái lOMoAR cPSD| 45734214
tim” trong tưởng tượng nơi tôn giáo. Trái tim đó sẽ sẵn sàng bao dung, tha thứ, chở che
và tiếp thêm sức mạnh cho họ để họ có thể vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.
Với luận điểm “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, C.Mác không chỉ muốn
khẳng định tính chất “ru ngủ” hay độc hại của tôn giáo, mà còn nhấn mạnh đến sự tồn
tại tất yếu của tôn giáo với tư cách một thứ thuốc giảm đau được dùng để xoa dịu những
nỗi đau trần thế. Thực vậy, người ta dùng thuốc giảm đau khi người ta bị đau đớn và
chừng nào còn đau đớn, thì chừng đó còn có nhu cầu dùng nó. Đó chính là lý do để lý
giải tại sao người ta hướng tới, hy vọng và coi tôn giáo như chiếc “phao cứu sinh” cho
cuộc sống của mình, cho dù đó chỉ là những hạnh phúc ảo tưởng, chỉ là “sự đền bù hư ảo”.
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, tôn giáo mặc dù là sự phản ánh hoang
đường, hư ảo hiện thực, là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội nhưng nó không phải
không có những yếu tố tích cực. Tôn giáo chỉ là những “bông hoa giả” tô điểm cho một
cuộc sống hiện thực đầy xiềng xích. Nhưng nếu không có những “bông hoa giả” ấy thì
cuộc sống của con người chỉ còn lại “xiềng xích” mà thôi. Và nếu không có thứ “thuốc
giảm đau” ấy thì con người sẽ phải vật vã đau đớn trong cuộc sống hiện thực với đầy
rẫy những áp bức, bất công và bạo lực.
Điều vĩ đại của C.Mác, quan điểm duy vật lịch sử và tính cách mạng trong học
thuyết Mác về tôn giáo chính là ở chỗ đó. Trong khi các nhà duy vật vô thần chỉ biết
phê phán bản thân tôn giáo thì C.Mác lại không phê phán tôn giáo mà phê phán chính
cái hiện thực đã làm nảy sinh tôn giáo, tức là phê phán sự áp bức, bất công, bạo lực…
trong xã hội đã đẩy con người phải tìm đến với tôn giáo và ru ngủ mình trong tôn giáo.
C.Mác đã nhận thấy rất rõ quan hệ nhân – quả trong vấn đề này. Vì tôn giáo là một hiện
tượng tinh thần có nguyên nhân từ trong đời sống hiện thực nên muốn xoá bỏ tôn giáo,
không có cách nào khác là phải xoá bỏ cái hiện thực đã làm nó nảy sinh. Theo C.Mác,
vấn đề không phải là “vứt những bông hoa giả” đi mà là xoá bỏ bản thân cái “xiềng
xích” được trang điểm bởi những bông hoa giả đó để con người có thể “giơ tay hái
những bông hoa thật” cho mình, tức là tìm kiếm được hạnh phúc thật sự ngay trong thế
giới hiện thực. Từ đó, C.Mác đã khẳng định rằng, muốn xoá bỏ tôn giáo và giải phóng
con người khỏi sự nô dịch của tôn giáo thì trước hết phải đấu tranh giải phóng con người
khỏi những thế lực của trần thế, xoá bỏ chế độ áp bức bất công, nâng cao trình độ nhận lOMoAR cPSD| 45734214
thức cho người dân và xây dựng một xã hội mới không còn tình trạng người bóc lột
người, đó là xã hội cộng sản chủ nghĩa.
2.2 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về việc giải quyết vấn đề tôn giáo trong chủ
nghĩa xã hội trên lập trường duy vật lịch sử
Trên lập trường duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin đã kịch liệt phản đối những
hành vi cực đoan, tấn công trực diện vào tôn giáo một cách thô bạo. Bản thân tôn giáo
không có tội và vì vậy, không nên phê phán tôn giáo mà cần phê phán cái hiện thực đã
làm nảy sinh tôn giáo. Việc phê phán tôn giáo không thể được tiến hành trực diện mà
cần “làm cho con người thoát khỏi ảo tưởng, để con người tư duy, hành động, xây dựng
tính hiện thực của mình với tư cách một con người vừa thoát khỏi ảo tưởng và đạt đến
tuổi có lý trí; để con người vận động xung quanh bản thân mình, nghĩa là vận động xung
quanh cái mặt trời thật sự của mình. Tôn giáo chỉ là cái mặt trời ảo tưởng, nó vận động
xung quanh con người chừng nào con người còn chưa bắt đầu vận động xung quanh bản
thân mình”. Như vậy, theo quan điểm của C.Mác, tôn giáo chỉ thật sự mất đi khi con
người ta tự nhận thức được về bản thân mình, từ bỏ những ảo tưởng thần thánh để quay
trở về với cuộc sống hiện thực.
Phê phán các nhà duy vật vô thần trước đó, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định,
thật sai lầm nếu cho rằng sẽ đánh tan được những thiên kiến tôn giáo chỉ bằng tuyên
truyền, giáo dục hay mệnh lệnh hành chính. Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội nên
về nguyên tắc, nó chỉ thay đổi khi bản thân tồn tại xã hội được thay đổi, nó chỉ được
giải quyết khi bản thân hiện thực nảy sinh tôn giáo được cải tạo. Cũng trong “Phê phán
triết học pháp quyền của Hêghen”, C.Mác đã nêu rõ nguyên tắc này: “Xoá bỏ tôn giáo,
coi là hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân, là yêu cầu thực hiện hạnh phúc thực sự của
nhân dân. Đòi hỏi nhân dân từ bỏ những ảo tưởng về tình cảnh của mình nghĩa là đòi
hỏi nhân dân từ bỏ một tình cảnh đang cần có ảo tưởng. Do đó, việc phê phán tôn giáo
là hình thức manh nha của sự phê phán cái biển khổ ấy, cái biển khổ mà tôn giáo là vòng
hào quang thần thánh”. Do đó, theo ông, “nhiệm vụ của lịch sử, sau khi thế giới bên kia
của chân lý đã mất đi, là xác lập chân lý của thế giới bên này… Như vậy, phê phán
thượng giới biến thành phê phán cõi trần, phê phán tôn giáo biến thành phê phán pháp
quyền, phê phán thần học biến thành phê phán chính trị”. lOMoAR cPSD| 45734214
Vì vậy, muốn khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo, trước hết cần
phải tạo lập được một thế giới hiện thực không có áp bức, bất công, nghèo đói, thất
học…, một thế giới hiện thực không còn cần đến “sự đền bù hư ảo” của tôn giáo mà
người ta có thể tìm thấy những hạnh phúc thật sự ngay trong cuộc sống, một xã hội cộng
sản chủ nghĩa văn minh. Đó là một quá trình cách mạng lâu dài, gian khổ gắn liền với
cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Xuất phát từ nhận thức tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân và
đó là nhu cầu hoàn toàn chính đáng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa cần phải tôn trọng và
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, không được chống tôn giáo mà chỉ chống
những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá cách mạng, đi ngược lại lợi
ích quốc gia, dân tộc. Tuyệt đối không được nóng vội, chủ quan trong việc giải quyết
vấn đề tôn giáo. Về vấn đề này, V.I.Lênin đã nhấn mạnh: “Những lời tuyên chiến ầm ĩ
với chủ nghĩa duy tâm, những mệnh lệnh ngăn cấm tín ngưỡng, tôn giáo là những hành
vi dại dột, vô chính phủ, làm cho kẻ thù lợi dụng để kích động tình cảm tôn giáo của tín
đồ, làm cho họ ngày càng gắn bó với tôn giáo, xa lánh thậm chí đi đến chống lại công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đương nhiên, như vậy không có nghĩa là coi nhẹ việc
giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học, thế giới quan duy vật cho toàn dân, trong đó có
những tín đồ tôn giáo, việc làm đó góp phần nâng cao trình độ kiến thức cho toàn dân”.
Tôn giáo không chỉ là một hình thái ý thức xã hội, mà còn là một thiết chế xã hội,
nó biến đổi cùng với sự biến đổi của lịch sử. ở từng thời kỳ lịch sử, vai trò của tôn giáo
đối với đời sống xã hội không giống nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ,
giáo dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội luôn có sự khác biệt. Do đó, cần căn cứ
vào từng trường hợp cụ thể, trong những điều kiện cụ thể mà Nhà nước xã hội chủ nghĩa
xác định thái độ, cách ứng xử phù hợp. 3.
Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
3.1 Tình hình tôn giáo thế giới hiện nay
Từ khi xuất hiện đến nay, tôn giáo luôn luôn biến động phản ánh sự biến đổi của
lịch sử. Một tôn giáo có thể hưng thịnh, suy vong, thậm chí mất đi nhưng tôn giáo luôn
luôn song hành cùng với đời sống của nhân loại. Tôn giáo là một hiện tượng xã hội sẽ
còn tồn tại lâu dài. Về đánh giá thực trạng của tôn giáo, có nhiều ý kiến khác nhau. Tựu
trung lại có ba ý kiến sau: lOMoAR cPSD| 45734214
Tôn giáo đang khủng hoảng, suy tàn: những người đánh giá theo quan niệm này
cho rằng trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ. đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân sẽ được cải thiện, tôn giáo sẽ bị suy thoái dưới nhiều hình
thái khác nhau. Họ cho rằng tôn giáo là một hiện tượng xã hội không có tương lai
Tôn giáo Tây Âu suy tàn nhưng tôn giáo ở các nước khác đang phát triển:
đánh giá này xuất phát từ thực tế tôn giáo ở Tây Âu. Sự suy giảm biểu hiện rõ nhất trong
lĩnh vực thực hành tôn giáo: đi lễ và tuân thủ một số nghi lễ, niềm tin giảm sút (nhạt
đạo thậm chí khô đạo). Tuy nhiên cũng có người chỉ thừa nhận sự suy giảm ấy chỉ diễn
ra ở trung tâm châu Âu. Trong khi đó tôn giáo ở các nước khác ngoài châu
Âu, đặc biệt là các nước đang phát triển
Tôn giáo, tín ngưỡng đang phục hồi và phát triển mạnh mẽ ở nhiều quốc gia,
châu lục: cách đánh gia này được nhiều người thừa nhận. Thực tế là trong mấy thập kỷ
gần đây, tín ngưỡng, tôn giáo đang phục hồi và phát triển ở nhiều quốc gia, châu lục. Số
lượng tín đồ hiện nay chiếm khoảng 3/4 dân số trên thế giới (có số liệu là 5/6).
3.2 Nguyên nhân tôn giáo vẫn còn tồn tại cho đến giai đoạn hiện nay
Tôn giáo vẫn còn tồn tại cho đến ngày hôm nay, bao gồm cả những nước xã hội
chủ nghĩa do những nguyên nhân sau:
Nguyên nhân nhận thức : Hiện nay dân trí ở một số nơi chưa được cao. Nhiều
hiện tượng tự nhiên và xã hội đến nay khoa học chưa giải thích được. Nhân loại đã đạt
được những thành tựu to lớn về khoa học và công nghệ, với những tiến bộ vượt bậc của
công nghệ thông tin, sinh học, vật liệu mới... đã giúp con người có thêm những khả
năng để nhận thức xã hội và làm chủ tự nhiên. Song, thế giới khách quan là vô tận, tồn
tại đa dạng và phong phú, nhận thức của con người là một quá trình và có giới hạn, thế
giới còn nhiều vấn đề mà hiện tại khoa học chưa thể làm rõ. Những sức mạnh tự phát
của tự nhiên, xã hội đôi khi rất nghiêm trọng còn tác động và chi phối đời sống con
người. Do vậy, tâm lý sợ hãi, trông chờ, nhờ cậy và tin tưởng vào Thần, Thánh, Phật...
chưa thể gạt bỏ khỏi ý thức của con người trong xã hội.
Nguyên nhân tâm lý: Tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử loài người, ăn sâu
vào trong tiềm thức của nhiều người dân. Trong mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý
thức xã hội, thì ý thức xã hội bảo thủ hơn so với tồn tại xã hội, trong đó tôn giáo lại là
một trong những hình thái ý thức xã hội bảo thủ nhất. Tín ngưỡng, tôn giáo đã in sâu lOMoAR cPSD| 45734214
vào đời sống tinh thần, ảnh hưởng khá sâu đậm đến nếp nghĩ, lối sống của một bộ phận
nhân dân qua nhiều thế hệ đến mức trở thành một kiểu sinh hoạt văn hoá tinh thần không
thể thiếu của cuộc sống. Cho nên, dù có thể có những biến đổi lớn lao về kinh tế, chính
trị, xã hội... thì tín ngưỡng, tôn giáo cũng không thayđổi ngay theo tiến độ của những
biến đổi kinh tế, xã hội mà nó phản ánh.
Nguyên nhân chính trị - xã hội : Trong các nguyên tắc tôn giáo có những điểm
còn phù hợp với chủ nghĩa xã hội, với đường lối chính sách của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Đó là mặt giá trịđạo đức, văn hóa của tôn giáo, đáp ứng được nhu cầu tinh thần
của một bộ phận nhân dân. Dưới chủ nghĩa xã hội, tôn giáo cũng có khả năng tự biến
đổi để thích nghi theo xu hướng "đồng hành với dân tộc" sống "tốt đời, đẹp đạo", "sống
phúc âm giữa lòng dân tộc"... Nhà nước không ngừng nâng cao địa vị, tính tích cực xã
hội của những người có đạo bằng cách tạo điều kiện để họ tham gia ngày càng nhiều
vào các hoạt động thực tiễn. Trên cơ sở đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa làm cho người
có đạo hiểu rằng, niềm tin tôn giáo chân chính không đối lập với chủ nghĩa nhân đạo xã
hội chủ nghĩa, và chủ nghĩa xã hội đang hiện thực hoá lý tưởng của chủ nghĩa nhân đạo
trong cuộc sống của mỗi người dân. Cuộc đấu tranh giai cấp vẫn đang diễn ra dưới nhiều
hình thức vô cùng phức tạp; trong đó, các thế lực chính trị vẫn lợi dụng tôn giáo để phục
vụ cho mưu đồ chính trị của mình. Mặt khác, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột
dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, khủng bố, bạo loạn, lật đổ... còn xảy ra ở nhiều nơi. Nỗi lo sợ
về chiến tranh, bệnh tật, đói nghèo... cùng với những mối đe dọa khác là điều kiện thuận
lợi cho tôn giáo tồn tại.
Nguyên nhân kinh tế : Nền kinh tế của tư bản chủ nghĩa vận hành theo cơ chế
thị trường còn Tcong chủ nghĩa xã hội, nhất là giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ còn
nhiều thành phần kinh tế vẫn vận hành theo cơ chế thị trường với những lợi ích khác
nhau của các giai tầng xã hội, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội...
vẫn là một thực tế; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân chưa cao, thì con người
càng chịu tác động mạnh mẽ của những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi. Điều đó đã làm cho
con người có tâm lý thụ động, nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên.
Nguyên nhân về văn hoá: Sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo có khả năng đáp ứng ở
một mức độ nào đó nhu cầu văn hoá tinh thần và có ý nghĩa nhất định về giáo dục ý
thức cộng đồng, đạo đức, phong cách, lối sống. Vì vậy, việc kế thừa, bảo tồn và phát lOMoAR cPSD| 45734214
huy văn hoá (có chọn lọc) của nhân loại, trong đó có đạo đức tôn giáo là cần thiết. Mặt
khác, tín ngưỡng, tôn giáo có liên quan đến tình cảm, tư tưởng của một bộ phận dân cư,
và do đó sự tồn tại của tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
như một hiện tượng xã hội khách quan.
3.3 Tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
Việt Nam có thể coi là bảo tàng về tôn giáo, tín ngưỡng của thế giới. Ở đây có đủ
từ các tín ngưỡng truyền thống như đồng, cốt, xem bài, xóc thẻ đến các tôn giáo hiện
đại. Có tôn giáo ngoại nhập như Công giáo, Hồi giáo, Tin lành, Phật giáo, Baha’i. Có
tôn giáo nội sinh như Cao đài, Hoà hảo, Tứ ân hiếu nghĩa, Bửu sơn kỳ hương… Theo
số liệu của Ban tôn giáo Chính phủ năm 2011, nước ta có hơn 25 triệu tín đồ
(chiếm hơn1/4 dân số), trong đó Phật giáo khoảng 10 triệu người, Công giáo 6,1 triệu,
Cao đài 2,4 triệu, Hoà hảo 1,2 triệu, Tin lành 1,5 triệu và Hồi giáo khoảng 100.000 tín
đồ. Song nếu kể các hành vi thờ cúng tổ tiên, thành hoàng, vua Hùng… thì hầu hết
người Việt có tâm linh tôn giáo.
Nhà nước đã công nhận tư cách pháp nhân của 13 tôn giáo với 33 tổ chức tôn giáo
và đang xem xét hồ sơ một số tôn giáo nữa. Sau khi Việt Nam mở cửa, hội nhập với thế
giới, nhiều tôn giáo mới đã du nhập vào. Nhiều nhất là các tổ chức đạo Tin lành đến từ
Hoa Kỳ, Hàn Quốc. Miền Nam trước giải phóng chỉ có 12 hệ phái Tin lành, nay có tới
30 phái. Tôn giáo này có sức lôi cuốn học sinh, sinh viên và giới trẻ. Những năm trước
1990, ở phía Bắc hầu như không có tín đồ Tin lành nhưng với đài “Nguồn sống” phát
đi từ Hồng Kông, Manila bằng 16 thứ tiếng dân tộc và các đạo truyền nhiệt thành mà
nay đã có hàng vạn người theo đạo. Có nơi lập tôn giáo thờ anh hùng dân tộc. Cùng với
việc Nhà nước cho tu sửa nhiều đình chùa, lăng, miếu và hồi phục các lễ hội tôn giáo
truyền thống trong đó có lễ hội đền Hùng được tổ chức theo quy mô quốc gia thì nhiều
nơi cũng phát sinh các hình thức mê tín dị đoan. Rõ nhất là cảnh xin lộc rơi, lộc vãi
ở đền Bà Chúa Kho (Bắc Ninh). Rồi xin thẻ, bói toán ở ngay trước cửa Phật. Chuyện
chen chúc xin ấn ở hội đền Trần (Nam Định). Tại Hà Nội (cũ), có một thống kê của
Viện Nghiên cứu Tôn giáo năm 2003 nói có chừng 600 thày bói.
Nhiều tôn giáo xuất hiện cũng đồng nghĩa với sự gia tăng số lượng tín đồ các tôn
giáo. Năm 1999, ở ta có 14,7 triệu tín đồ chiếm 19,4% dân số. Năm 2001, riêng 6 tôn
giáo lớn là Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hoà Hảo, Cao đài đã là 18,3 triệu tín đồ. Một lOMoAR cPSD| 45734214
số địa phương có số lượng phát triển nhanh không bình thường. Tin lành ở Đắc Lắc
trong các năm từ 1975-2001 tăng 10 lần, Gia Lai tăng 25 lần, Kon Tum tăng 4 lần. Tại
Lai Châu năm 1996 có 26.419 người theo đạo Vàng Chứ, năm 2001 tăng lên 36.102
người. Tín đồ Công giáo ở Tây Nguyên cũng tăng mạnh. Trước năm 1975 chỉ có chưa đầy
130.000 tín hữu mà năm 2005 đã tới hơn 300.000. Số liệu của giáo phận Kon Tum
cho biết tỷ lệ tăng trưởng số tín hữu từ năm 1977-2001 là 17,6%. Năm 1988 là 137,7%.
Có những nơi như An Mỹ năm 1990 tăng 369,2%. Trong 9 năm (1995- 2004) tín hữu người Gia rai tăng 473%.
Trong số các tín đồ tôn giáo có cả tầng lớp trí thức, cán bộ công chức, học sinh,
sinh viên. Cứ nhìn vào số người đi chùa Hương, đền Bà Chúa Kho, trẩy hội đền Trần,
Phủ Giày…và số bàn thờ ở tư gia, công sở sẽ thấy sự phức tạp của việc sinh hoạt tôn
giáo hiện nay ở nước ta. Cách truyền giáo bây giờ cũng khác xưa. Đài phát thanh,
internet, băng đĩa đều có thể truyền đạo. Chương trình từ thiện, dự án đầu tư cũng dễ đi
kèm với phát triển tôn giáo. Một linh mục ở Nha Trang cho biết, 40 năm giảng đạo
chẳng khuyên bảo được ai trở lại đạo nhưng khi mở phòng khám từ thiện, có ngày 2-3
người đến xin rửa tội.
Các tôn giáo ở Việt Nam dù khác nhau về nguồn gốc, giáo lý nhưng lại không
thuần nhất mà đan xen, vay mượn nghi lễ của nhau. Đạo Tổ tiên vừa cúng khấn như đạo
Lão nhưng chọn ngày rằm, mùng một như đạo Phật. Trên bàn thờ của đạo Cao đài có
thờ đủ Khổng Tử, Lão Tử, Đức Phật, Chúa Giêsu và Khương Tử Nha. Đạo Công giáo
bây giờ cũng thắp hương trước ảnh người quá cố và ghi điều khấn nguyện ra giấy rồi
đốt đi trước bàn thờ Đức Mẹ. Tâm lý người Việt cũng chi phối cả niềm tin tôn giáo.
Trong đạo Công giáo, Chúa là trên hết và chỉ thờ một Chúa nhưng ở Việt Nam, Đức Mẹ
được sùng bái hơn. Nhiều nhà thờ, đền thánh dâng kính Đức Mẹ. Nhiều nữ giáo dân lấy
quan thày là Maria. Phật giáo cũng thế. Phật Bà Quan âm được dựng tượng nhiều hơn
và sùng bái hơn ở các chùa chiền. Tín đồ tôn giáo này nhưng cũng tham gia nhiều sinh
hoạt của tôn giáo khác. Ví dụ, người Công giáo vẫn thắp hương ngày rằm, mùng 1 và đi xem bói.
Một số tín đồ Phật tử vẫn đến xin khấn ở các nhà thờ Công giáo.