



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 45734214
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC XÂY DỰNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 1.1 Khái niệm về Chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội là một trong ba ý thức hệ chính trị lớn hình thành trong thế
kỷ 19 bên cạnh chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa bảo thủ. Chủ nghĩa xã hội bao gồm một
loạt các khuynh hướng chính trị từ các phong trào đấu tranh chính trị và các đảng
công nhân có tinh thần cách mạng, những người muốn lật đổ chủ nghĩa tư bản nhanh
chóng và bằng bạo lực cho tới các dòng cải cách chấp nhận Thể chế Đại nghị và dân
chủ như chủ nghĩa xã hội dân chủ. Những người theo chủ nghĩa xã hội thường nhấn
mạnh giá trị cơ bản như bình đẳng, công bằng và đoàn kết và đề cao mối quan hệ
chặt chẽ giữa những phong trào xã hội và lý thuyết phê phán xã hội. Họ theo đuổi
mục tiêu tạo ra một trật tự xã hội hòa hợp và hướng đến công bằng xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước mà ở đó sự thống trị chính
trị thuộc về giai cấp công nhân, do cách mạng xã hội chủ nghĩa sản sinh ra và có sứ
mệnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đưa nhân dân lao động lên địa vị làm
chủ trên tất cả các mặt của đời sống xã hội trong một xã hội phát triển cao – xã hội chủ nghĩa.
1.2 Đặc trưng của Chủ nghĩa xã hội
Khi nghiên cứu về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, các nhà sáng
lập chủ nghĩa xã hội khoa học rất quan tâm dự báo những đặc trưng của từng giai
đoạn, đặc biệt là giai đoạn đầu (giai đoạn thấp) của xã hội cộng sản nhằm định hướng
phát triển cho phong trào công nhân quốc tế. Căn cứ vào những dự báo của C. Mác
và Ph.Ăngghen và những quan điểm của V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội ở nước Nga
xô - viết, có thể khái quát những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội như sau:
Một là, chủ nghĩa xã hội giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng
xã hội, giải phóng con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện. 1 lOMoAR cPSD| 45734214
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, khi dự báo về xã hội tương
lai, xã hội cộng sản chủ nghĩa, C. Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Thay cho xã
hội tư bản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên
hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của tất
cả mọi người”; khi đó “con người, cuối cùng làm chủ tồn tại xã hội của chính mình,
thì cũng do đó làm chủ tự nhiên, làm chủ cả bản thân mình trở thành người tự do”.
Hai là, chủ nghĩa xã hội là xã hội do nhân dân lao động làm chủ
Đây là đặc trưng thể hiện thuộc tính bản chất của chủ nghĩa xã hội, xã hội vì
con người và do con người; nhân dân mà nòng cốt là nhân dân lao động là chủ thể
của xã hội thực hiện quyền làm chủ ngày càng rộng rãi và đầy đủ trong quá trình cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Chủ nghĩa xã hội là một chế độ chính trị dân chủ,
nhà nước xã hội chủ nghĩa với hệ thống pháp luật và hệ thống tổ chức ngày càng
ngày càng hoàn thiện sẽ quản lý xã hội ngày càng hiệu quả.
Ba là, chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu
Đây là đặc trưng về phương diện kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu cao
nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người trên cơ sở điều kiện kinh tế - xã
hội phát triển, mà xét đến cùng là trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất. Chủ
nghĩa xã hội là xã hội có nền kinh tế phát triển cao, với lực lượng sản xuất hiện đại,
quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, được tổ chức quản lý
có hiệu quả, năng suất lao động cao và phân phối chủ yếu theo lao động.
Bốn là, chủ nghĩa xã hội có nhà nước kiểu mới mang bản chất giai cấp công
nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã khẳng định trong chủ nghĩa xã
hội phải thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản, nhà nước kiểu mới mang bản chất
của giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động. 2 lOMoAR cPSD| 45734214
Theo V.I.Lênin, chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản là một chính
quyền do giai cấp vô sản giành được và duy trì bằng bạo lực đối với giai cấp tư sản.
Chính quyền đó chính là nhà nước kiểu mới thực hiện dân chủ cho tuyệt đại đa số
nhân dân và trấn áp bằng vũ lực bọn bóc lột, bọn áp bức nhân dân, thực chất của sự
biến đổi của chế độ dân chủ trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.
Năm là, chủ nghĩa xã hội có nền văn hóa phát triển cao, kế thừa và phát huy
những giá trị của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn nhân loại.
V.I.Lênin, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga xô - viết đã
luận giải sâu sắc về “văn hóa vô sản” - nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, rằng, chỉ
có xây dựng được nền văn hóa vô sản mới giải quyết được mọi vấn đề từ kinh tế,
chính trị đến xã hội, con người. Người khẳng định: “…nếu không hiểu rõ rằng chỉ
có sự hiểu biết chính xác về nền văn hóa được sáng tạo ra trong toàn bộ quá trình
phát triển của loài người và việc cải tạo nền văn hóa đó mới có thể xây dựng được
nền văn hóa vô sản thì chúng ta không giải quyết được vấn đề”
Thứ sáu, chủ nghĩa xã hội bảo đảm bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc và
có quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Vấn đề giai cấp và dân tộc, xây dựng một cộng đồng dân tộc, giai cấp bình
đẳng, đoàn kết, hợp tác, hữu nghị với nhân dân các nước trên thế giới luôn có vị trí
đặc biệt quan trọng trong hoạch định và thực thi chiến lược phát triển của mỗi dân
tộc và mỗi quốc gia. Theo quan điểm của các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa
học, vấn đề giai cấp và dân tộc có quan hệ biện chứng, bởi vậy, giải quyết vấn đề dân
tộc, giai cấp trong chủ nghĩa xã hội có vị trí đặc biệt quan trọng và phải tuân thủ
nguyên tắc: “xóa bỏ tình trạng người bóc lôt người thì tình trạng dân tộc này bóc lột
dân tộc khác cũng bị xóa bỏ 3 lOMoAR cPSD| 45734214
1.3 Bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam -
Chủ nghĩa xã hội giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội,
giảiphóng con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện.
Mục đích cao cả của chủ nghĩa xã hội cần đạt đến là xóa bỏ sự phân chia xã
hội thành giai cấp, biến tất cả thành viên trong xã hội thành người lao động, tiêu diệt
cơ sở của mọi tình trạng người bóc lột người. Trong quá trình phấn đấu để đạt mục
đích cao cả đó, giai cấp công nhân, chính Đảng cộng sản phải hoàn thành nhiệm vụ
của các giai đoạn khác nhau, trong đó có mục đích, nhiệm vụ cụ thể của thời kỳ xây
dựng chủ nghĩa xã hội - tạo ra các điều kiện về cơ sở vật chất - kỹ thuật và đời sống
tinh thần để thiết lập xã hội cộng sản. -
Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiệnđại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Đặc trưng về phương diện kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Là mục tiêu cao cả
nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người trên cơ sở điều kiện kinh tế - xã
hội phát triển, mà xét đến cùng là trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất. Chủ
nghĩa xã hội là xã hội có nền kinh tế phát triển cao, với lực lượng sản xuất hiện đại,
quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, được tổ chức quản lý
hiệu quả, năng suất lao động cao và phân phối chủ yếu theo lao động. -
Chủ nghĩa xã hội có nhà nước kiểu mới mang bản chất giai cấp công nhân,
đạibiểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội đã khẳng định trong chủ nghĩa xã hội phải
thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản, nhà nước kiểu mới mang bản chất của giai
cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động. -
Chủ nghĩa xã hội có nền văn hóa phát triển cao, kế thừa và phát huy những
giátrị của văn hóa dân tộc và tinh hóa văn hóa nhân loại. 4 lOMoAR cPSD| 45734214
Tính ưu việt, sự ổn định và phát triển của chế độ xã hội chủ nghĩa không chỉ
thể hiện ở lĩnh vực kinh tế, chính trị mà còn ở lĩnh vực văn hóa - tinh thần của xã hội.
Trong chủ nghĩa xã hội, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, mục tiêu, động lực
của phát triển xã hội, trọng tâm là phát triển kinh tế; văn hóa đã hun đúc nên tâm hồn,
khí phách, bản lĩnh con người, biến con người thành con người chân, thiện, mỹ. -
Chủ nghĩa xã hội bảo đảm bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc và có quan
hệhữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Vấn đề giai cấp và dân tộc, xây dựng một cộng đồng dân tộc, giai cấp bình
đẳng, đoàn kết, hợp tác, hữu nghị với nhân dân các nước trên thế giới luôn có vị trí
đặc biệt quan trọng trong hoạch định và thực thi chiến lược phát triển của mỗi dân tộc và mỗi quốc gia.
1.4 Các điều kiện cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ kinh tế, chính trị và xã hội theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin là một xã hội được thiết lập sau thắng lợi của cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản, giành được chính quyền từ tay giai cấp thống trị và bóc lột trước đó, thiết lập
nền chính quyền mới của nhân dân lao động từ đó xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật
với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa tương ứng dựa theo những
nguyên lý, quy luật cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin.
Như vậy, chủ nghĩa xã hội phải ra đời dựa trên những tiền đề vật chất cơ bản như:
Điều kiện thứ nhất: Do sự ra đời của sản xuất công nghiệp với thành tựu khoa học
kỹ thuật công nghệ, lao động mang tính xã hội, lực lượng sản xuất phát triển mạnh
mẽ và đạt tới trình độ xã hội hóa ngày càng cao, mâu thuẫn với quan hệ sản xuất dựa
trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu. Mâu
thuẫn này ngày càng phát triển. Đây là mâu thuẫn cơ bản trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. 5 lOMoAR cPSD| 45734214
Điều kiện thứ hai: cùng với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản cũng
hình thành và phát triển hai giai cấp cơ bản: giai cấp công nhân và giai cấp tư sản có
lợi ích đối lập nhau nên xã hội xuất hiện mâu thuẫn đối kháng. Giai cấp công nhân
giác ngộ lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học và dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
lật đổ nhà nước của giai cấp tư sản, xác lập nhà nước của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động. Việc thiết lập nhà nước của giai cấp công nhân vànhân dân lao động là
sự mở đầu của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Trong thời đại ngày nay, Chủ nghĩa xã hội vẫn có thể ra đời từ một quốc gia trung
bình có trình độ phát triển trung bình thậm chí chưa qua tư bản chủ nghĩa, song phải
đảm bảo các điều kiện mới sau đây:
Một là, phải xuất hiện “yếu tố thời đại”, tức là nhân loại đã chuyển sang “giai đoạn
cuối cùng của Chủ nghĩa tư bản”. Từ đó xuất hiện các “mâu thuẫn cơ bản và gay gắt
của thời đại mới” như :
• Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân. Đây vẫn được coi là
mâu thuẫn cơ bản nhất xuyên suốt trong thời đại ngày nay.
• Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa Đế quốc xâm lược với các quốc gia, dân tộc bị xâm
lược và bị áp bức. Đây là mâu thuẫn đặc trưng cho thời kì mới.
• Mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau do xung đột lợi ích.
• Mâu thuẫn giữa các nước giàu trong thế giới tư bản và các nước nghèo, lạc
hậu do bị tụt hậu xa về kinh tế.
Hai là, phải có sự tác động toàn cầu của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân (chủ nghĩa Mác-Lênin), đặc biệt là luận điểm
về chủ nghĩa đế quốc và các dân tộc bị áp bức… làm thức tỉnh phong trào dân tộc,
phong trào yêu nước của các quốc gia đấu tranh chống các chế độ áp bức, bóc lột,
bất công của chủ nghĩa tư bản hoặc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. 6 lOMoAR cPSD| 45734214
Ba là, xuất phát từ những mâu thuẫn không thể giải quyết dẫn đến những nỗ lực đấu
tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động tại các nước tư bản phát triển dẫn
đến việc hình thành Đảng Cộng sản.
Từ đó, sự lãnh đạo của Đảng cộng sản một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể
nổ ra cũng có thể làm cho chủ nghĩa tư bản và các chế độ áp bức bóc lột khác diệt
vong dẫn tới ra đời chủ nghĩa xã hội. 7 lOMoAR cPSD| 45734214
CHƯƠNG 2: TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI Ở VIỆT NAM 2.1 Hoàn cảnh lịch sử khi Việt Nam lựa chọn chủ nghĩa xã hội
Việt Nam là một quốc gia có lịch sử đấu tranh kiên cường, trải dài qua hàng
nghìn năm từ thời kỳ dựng nước đến nay. Ngay từ những thế kỷ đầu tiên, đất
nước đã phải đối mặt với những cuộc xâm lược từ các thế lực ngoại bang,
điển hình là các cuộc kháng chiến chống lại các triều đại phong kiến phương
Bắc, như thời Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, và Lý Thường Kiệt.
Những cuộc đấu tranh này đã hun đúc tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường
và đoàn kết của người dân Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.
Đến thế kỷ XX, sau thời gian dài thuộc địa dưới ách thống trị của thực dân
Pháp, Việt Nam lại tiếp tục cuộc đấu tranh giành độc lập với phong trào yêu
nước của các nhà lãnh đạo như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và đặc biệt
là Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đã lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam
theo con đường chủ nghĩa Mác - Lênin, mang lại niềm tin và hướng đi mới
cho nhân dân. Vào ngày 2/9/1945, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành
công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, chính thức khai
sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đánh dấu một mốc son trong lịch
sử đấu tranh giành độc lập của dân tộc.
Tuy nhiên, hành trình thống nhất đất nước vẫn còn tiếp diễn với cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và sau đó là cuộc chiến đấu lâu dài chống đế
quốc Mỹ. Sau 30 năm chiến tranh, vào ngày 30/4/1975, với thắng lợi của
Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đất nước Việt Nam đã hoàn toàn thống
nhất, giành lại chủ quyền toàn vẹn từ Bắc chí Nam.
Sau khi giành được độc lập và thống nhất, Việt Nam bước vào một giai đoạn
mới: xây dựng và phát triển xã hội chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam đã
xác định xã hội chủ nghĩa là con đường tất yếu, thể hiện khát vọng xây dựng
một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Trong quá trình xây dựng và đổi 8 lOMoAR cPSD| 45734214
mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong các lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, giáo dục và an sinh xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân.
Hướng đi này vẫn đang được tiếp tục, với các chính sách cải cách và hội
nhập quốc tế nhằm xây dựng một Việt Nam phát triển bền vững, hiện đại và
giàu mạnh. Mục tiêu của Việt Nam hiện nay là không chỉ duy trì độc lập, chủ
quyền mà còn xây dựng một xã hội với giá trị nhân văn cao, nơi mà quyền
lợi của người dân được bảo vệ và phát triển toàn diện.
2.2 Tính tất yếu tiến lên chủ nghĩa xã hội
2.2.1 Các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam xây dựng.
Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu và lý tưởng của toàn Đảng và toàn dân ta. Từ khi
ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo
toàn dân đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, dựng nên nhà nước dân chủ
cộng hòa, tiến hành công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhằm thực hiện lý tưởng
cao đẹp của toàn Đảng, toàn dân: xây dựng Việt Nam thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội từ ngày lập nước đến nay của Đảng và
nhân dân ta là quá trình không ngừng vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam. Đó cũng là quá trình không ngừng
tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận để vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hiện
thực, vừa hoàn thiện những đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa về mặt lý luận của
Đảng qua mười một kỳ đại hội.
Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội do các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin
vạch ra đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và có kết quả vào công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tuy nhiên, đó cũng mới chỉ là những
nét khái quát: Xã hội không có áp bức bóc lột; con người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, làm theo năng lực, phân phối theo lao động; đời sống vật chất và tinh
thần cao; con người được phát triển toàn diện; xã hội công bằng, bình đẳng; có chế 9 lOMoAR cPSD| 45734214
độ công hữu về tư liệu sản xuất; nhà nước của toàn dân… Hơn nữa, trong một thời
gian dài, chủ nghĩa xã hội được xây dựng theo mô hình kế hoạch hóa tập trung đã bị
biến dạng và tụt hậu không chỉ ở Việt Nam mà cả ở các nước thành trì của chủ nghĩa xã hội.
Và rồi vận dụng sáng tạo và phát triển của chủ nghĩa Mác -Lênin vào điều kiện
cụ thể ở Việt Nam, tổng kết thực tiễn quá trình cách mạng Việt Nam, nhất là qua hơn
30 năm đổi mới, nhận thức của Đảng và nhân dân dân ta về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng rõ. Đại hội IV (1976), nhận thức của
Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường phát triển của cách mạng nước ta mới
dừng ở mức độ định hướng: Trên cơ sở phương hướng đúng, hãy hành động thực
tếcho câu trả lời. Đến Đại hội VII, nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa đã sáng tỏ hơn, không chỉ dừng ở nhận
thức định hướng, định tính mà từng bước đạt tới trình độ đình hình, định lượng.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), đã
xác định mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta với sáu đặc trưng: •
Do nhân dân lao động làm chủ. •
Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Có nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. •
Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo
năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ẩm no, tự do hạnh phúc,
có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. •
Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. •
Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. 10 lOMoAR cPSD| 45734214
Đến Đại hội XI, trên cơ sở tổng kết 25 năm đổi mới, nhận thức của Đảng ta về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã có bước phát triển mới.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã phát triển
mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam với tám đặc trưng cơ bản, trong đó có đặc trưng
về mục tiêu, bản chất, nội dung của xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, đó là:
- Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. - Do nhân dân làm chủ.
- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp.
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp
đỡ nhau cùng phát triển.
- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
2.2.2. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử
Ở Việt Nam thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ 1954 ở miền
bắc và từ 1975 trên phạm vi cả nước, sau khi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân hoàn thành thắng lợi, đất nước hoàn toàn thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan đối với mọi
quốc gia xây dựng chủ nghĩa xã hội, dù xuất phát ở trình độ cao hay thấp.
Một là, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với quy luật
khách quan của lịch sử. Loài người đã trải qua các hình thái kinh tế- xã hội: công 11 lOMoAR cPSD| 45734214
xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa. Sự biến đổi của
các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên, hình thái kinh tế - xã
hội sau cao hơn hình thái xã hội trước và tuân theo quy luật quan hệ sản xuất phải
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Cho dù ngày nay, chủ nghĩa tư bản đang nắm ưu thế về vốn, khoa học,
công nghệ và thị trường nhưng vẫn không vượt ra khỏi những mâu thuẫn vốn có
của nó, đặc biệt là mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa tính chất xã hội hóa ngày
càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa
về tư liệu sản xuất. Sự phất triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và xã hội hóa
lao động làm cho các tiền đề vật chất, kinh tế, xã hội ngày càng chín muồi cho
sự phủ định chủ nghĩa tư bản và sự ra đời của xã hội mới – xã hội xã hội chủ
nghĩa. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của loài người. Theo quy luật
tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Hai là, phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội không chỉ phù hợp với
xu thế của thời đại, mà còn phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam: cách
mạng dân tộc, dân chủ gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cuộc cách mạng
dân tộc, dân chủ trước hết là giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do, dân chủ...
đồng thời nó là tiền đề để “làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm
cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no, và sống một đời hạnh phúc”,
nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”. Vì vậy, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự tiếp tục hợp logic cuộc
cách mạng dân tộc, dân chủ, làm cho cách mạng dân tộc, dân chủ được thực hiện triệt để.
2.3 Những nguyên tắc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Một là, kiên định và vận dụng sáng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh 12 lOMoAR cPSD| 45734214
Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là học thuyết khoa học và cách
mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tổng Bí thư khẳng định: “Tính
khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là
những giá trị bền vững, đã và đang được người cách mạng theo đuổi và thực hiện.
Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như
trong thực tiễn phát triển của khoa học”. Vì vậy, để xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam cần phải kiên định, vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo cho phù
hợp với thực tiễn Việt Nam và xu hướng của thời đại. Tổng Bí thư nêu rõ: “Chúng ta
cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những
thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta
luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại,
không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống”. Những thành tựu đạt được
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước, nhất là
trong hơn 35 năm đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng chính là nhờ sự kiên định, nắm
vững và vận dụng sáng tạo, đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu phát triển bức thiết của cách mạng Việt Nam và phù
hợp với quy luật phát triển của thời đại.
Hai là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Tổng Bí thư luận giải, nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá trình đấu tranh
cách mạng lâu dài, gian khổ, hy sinh chống lại sự cường quyền, áp bức của các thế
lực ngoại xâm để giành và giữ nền độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân
dân. Vì vậy, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội “là đường lối cơ
bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng kinh nghiệm, thực tiễn phong phú của mình
kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh đã
đưa ra kết luận sâu sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có 13 lOMoAR cPSD| 45734214
thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự
do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc”.
Ba là, kiên định đường lối đổi mới của Đảng.
Thực tiễn 35 năm đổi mới đất nước, Việt Nam đã đạt được những thành tựu
đáng ghi nhận trên các lĩnh vực. Nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục
với tốc độ tương đối cao trong suốt những năm qua với mức tăng trưởng trung bình
khoảng 7%/năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ
USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người
tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu
nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt
Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước
xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Đến nay, hơn 60% số
xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã nông thôn đều có đường ô tô đến trung
tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại.
2.4 Về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới
Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội là sự vận dụng
những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ
nghĩa xã hội gắn với quá trình phát triển đất nước qua các thời kỳ. Thời kỳ trước đổi
mới, nhận thức về xã hội xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta phác thảo ban đầu trong
các văn kiện Đại hội từ năm 1954 đến năm 1986. Nhìn một cách tổng thể, thời kỳ
này, chúng ta chưa xác định được mô hình và những đặc trưng cụ thể của xã hội xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) đã
chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm, nguyên nhân của hạn chế, yếu kém trong nhận
thức về xã hội xã hội chủ nghĩa. Lần đầu tiên trong lịch sử xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng đã được
Đảng ta chỉ ra trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ 14 lOMoAR cPSD| 45734214
nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991). Cương lĩnh năm 1991 xác định xã hội xã hội
chủ nghĩa là một xã hội gồm 6 đặc trưng: Do nhân dân lao động làm chủ. Có nền
kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các
tư liệu sản xuất chủ yếu. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Con người
được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao
động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá
nhân. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Có thể nói, những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội được nêu trong Cương lĩnh
năm 1991 là những đặc trưng bản chất để nhận biết về chủ nghĩa xã hội. Những đặc
trưng này ở một phương diện nào đó cũng đã chỉ rõ động lực và mục tiêu của quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đến Đại hội X, tổng kết hơn 20 năm đổi mới, Đảng ta đã có nhận thức mới
sâu sắc hơn về bản chất, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Đại hội X xác định, xã hội
xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng gồm 8 đặc trưng cơ bản: “dân giàu, nước
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển
cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản;
có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”.
Có thể nói, so với Cương lĩnh năm 1991, nhận thức về bản chất, đặc trưng của
chủ nghĩa xã hội ở Đại hội X có những điểm mới. Hệ mục tiêu chung “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được xác định là đặc trưng thứ nhất
trong 8 đặc trưng. Mục đích của chủ nghĩa xã hội được xác định rõ nét, cụ thể hơn. 15 lOMoAR cPSD| 45734214
Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mặc dù có những thay đổi về mặt ngôn từ (chẳng
hạn: không đề cập đến chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu ở đặc trưng về
quan hệ sản xuất; cụm từ các dân tộc trong nước được thay bằng các dân tộc trong
cộng đồng Việt Nam…), nhưng về bản chất cơ bản vẫn được giữ nguyên và bổ sung
thêm một đặc trưng mới (có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản). Đây là một bổ sung
quan trọng về đặc trưng bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân
ta xây dựng. So với Cương lĩnh năm 1991, nhận thức này đầy đủ hơn, toàn diện hơn.
Tổng kết 25 năm đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011) đã nêu rõ: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã
hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có
nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong
cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do
Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã làm rõ một số vấn đề về nội
dung xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Thứ nhất, khẳng định đặc trưng hàng đầu là xây dựng một xã hội: dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chủ nghĩa xã hội phải là dân giàu, nước
mạnh. Dân có giàu nước mới mạnh, nước mạnh tạo điều kiện cho dân giàu có chính
đáng. Dân giàu không chỉ giàu về của cải vật chất mà giàu cả về trí tuệ, văn hóa, tinh
thần, đạo đức. Sức mạnh của đất nước bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân. Nước
mạnh dựa trên nền tảng kinh tế phát triển cao, chế độ chính trị tiến bộ, dân chủ, ổn
định quốc phòng, an ninh vững mạnh, xã hội đoàn kết, đồng thuận, trong ấm ngoài 16 lOMoAR cPSD| 45734214
êm, không gây thù oán trong quan hệ quốc tế. Nước mạnh còn thể hiện ở ý chí độc
lập, tự lực, tự cường, ở bản lĩnh vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức.
Thứ hai, đề cao dân chủ, nội dung dân chủ được đặt lên trước công bằng, văn
minh. Đây là một điểm mới trong nhận thức và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội
của Đảng ta. Dân chủ là bước tiến, là khát vọng của con người, của mỗi dân tộc. Dân
chủ tư sản là bước tiến bộ so với chế độ phong kiến. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự
phát triển chưa từng có, giải phóng triệt để con người khỏi mọi áp bức, bất công để
tạo dựng một xã hội tốt đẹp.
Thứ ba, điểm nhấn mới trong đặc trưng về kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam: Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Nói quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với lực lượng
sản xuất hiện đại là phản ánh đúng quy luật về quan hệ sản xuất phải phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp đặt ra nhiệm vụ phải không ngừng hoàn thiện quan hệ sản xuất với sự đồng bộ
của tất cả các yếu tố (chế độ sở hữu tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ, phương
thức phân phối sản phẩm), chứ không chỉ về chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất.
Thứ tư, về vấn đề xã hội và con người, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm
2011) diễn đạt khái quát: Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện. Việc xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công chỉ là giải pháp để
đạt tới mục đích vì cuộc sống tốt đẹp của con người. Mục tiêu xây dựng, phát triển
con người trong chế độ xã hội chủ nghĩa cần xác định con người, nhân dân Việt Nam
là chủ thể xây dựng, tạo dựng xã hội tốt đẹp và được hưởng chính những thành quả
đó. Con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải là những người năng
động, có trí tuệ, học vấn cao, vươn tới đỉnh cao của tri thức nhân loại.
Để làm rõ và cụ thể hóa những nội dung của Cương lĩnh, Văn kiện Đại hội XII
của Đảng xác định 4 trụ cột phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới: Thời kỳ đổi
mới đòi hỏi phải phát triển đất nước toàn diện, đồng bộ hơn về chính trị, kinh tế, văn 17 lOMoAR cPSD| 45734214
hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là
trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; xây dựng văn hóa, con người là nền tảng tinh
thần; tăng cường quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Điểm mới nổi bật
là: Văn kiện Đại hội XII của Đảng không chỉ xác định xây dựng văn hóa là nền tảng
tinh thần mà cả xây dựng con người là nền tảng tinh thần. Đây chính là mục tiêu, bản
chất chủ nghĩa xã hội mà chúng ta xây dựng.
2.5 Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Thời kỳ trước đổi mới, nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam đã đạt được một số nhiều thành tựu bước đầu thể hiện qua phương châm, chiến
lược gắn độc lập dân tộc với xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, nhận thức về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ này còn nhiều hạn chế. Đảng ta chưa nhận
thức hết tính phức tạp, khó khăn và lâu dài của thời kỳ quá độ; chưa xác định nội
dung “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”, thậm chí đối lập chủ nghĩa tư bản với chủ
nghĩa xã hội một cách máy móc theo kiểu phủ định sạch trơn; tư duy giáo điều, giản
đơn về chủ nghĩa tư bản, đồng nhất bản chất bóc lột, áp bức, nô dịch loài người của
chủ nghĩa tư bản và chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa với toàn bộ những tiến bộ, văn
minh của chủ nghĩa tư bản. Điều này đã làm ảnh hưởng lớn đến công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội. Việc giải quyết mối
quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất còn nhiều hạn chế, yếu kém.
Chủ trương “lấy quan hệ sản xuất tiến bộ mở đường cho lực lượng sản xuất phát
triển” là quan điểm chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan. Nhất là thời
kỳ sau khi thống nhất đất nước, do duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
làm triệt tiêu nhiều động lực phát triển đất nước.
Trong phương hướng phát triển đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội đã không
chú ý đúng đắn đến các lợi ích chính đáng; chưa giải quyết thoả đáng mối quan hệ
lợi ích giữa cá nhân - tập thể - xã hội. 18 lOMoAR cPSD| 45734214
Nhiều quy luật, đặc biệt là các quy luật kinh tế trong thời kỳ quá độ đã bị nhận
thức sai lệch hoặc quá máy móc, giáo điều. Việc tồn tại hai hình thức sở hữu, hai
thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể đã làm triệt tiêu các nguồn
lực cần thiết, vốn có trong các thành phần kinh tế tất yếu phải tồn tại trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Các vấn đề khác như dân chủ xã hội chủ nghĩa, văn hóa xã hội chủ nghĩa, con
người mới xã hội chủ nghĩa còn có nhiều nhận thức mơ hồ, chủ quan, duy ý chí…
Các phương hướng, giải pháp để xây dựng chủ nghĩa xã hội còn chung chung, trừu
tượng. Vì vậy, trên thực tế chỉ tồn tại ở hình thức, không có nội dung, thực chất. Một
số vấn đề về xã hội như bình đẳng xã hội, công bằng xã hội giữa các tộc người, giữa
miền núi với miền xuôi, giữa nông thôn và thành thị… đều có những nhận thức chưa
đầy đủ. Tính hiệu quả, thiết thực của các chính sách xã hội còn nhiều hạn chế.
Khắc phục những hạn chế nêu trên, bước vào thời kỳ đổi mới, qua các kỳ đại
hội, nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã ngày càng sáng
tỏ hơn. Những điểm mới trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội của Đảng ta thời kỳ đổi mới thể hiện trên những nét căn bản sau:
Thứ nhất, nhận thức rõ hơn về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tiến trình đổi mới của Việt Nam được bắt đầu từ đổi mới tư duy, trước hết là
đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tại Đại
hội VI - Đại hội của đổi mới, Đảng ta xác định, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ và độ dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể của mỗi nước. Đối với nước ta, thời kỳ quá
độ rất lâu dài và khó khăn. Đó là một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện,
triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan
hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng; trong đó, bao hàm nhiều chặng đường, nhiều
bước quá độ nhỏ với những nhiệm vụ tương ứng. Phải có “những hình thức và bước
đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực 19 lOMoAR cPSD| 45734214
lượng sản xuất, luôn luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất”.
Đây là những cơ sở lý luận quan trọng để Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra đường lối
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng -
tiền...; trong đó, thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo và chi phối các
thành phần kinh tế khác. Với đường lối đổi mới của Đảng, trước hết là đổi mới kinh
tế, lực lượng sản xuất được giải phóng khỏi những trói buộc cũ, có những bước phát
triển quan trọng, có những chuyển biến tích cực thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát
triển, tạo nên sắc thái mới trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Đường lối
phát triển kinh tế đúng đắn này đã được Đảng tiếp tục phát triển và hoàn thiện dần
qua các kỳ đại hội sau đó, tạo điều kiện cho sự phát triển mới về chất trong toàn bộ
đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Nhận thức này khắc phục được tư tưởng chủ
quan, nóng vội, giản đơn về thời kỳ quá độ.
Thứ hai, nhận thức đầy đủ hơn về cách thức bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Việc “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” được giải thích rõ về hai phương diện:
Một là, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa”. Hai là, trong khi bỏ qua
những mặt đó, cần “tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới
chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực
lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Đương nhiên, việc kế thừa những
thành tựu này phải trên quan điểm phát triển, có chọn lọc. Nhận thức này đã góp
phần khắc phục tư duy giáo điều, siêu hình về sự tương đồng và khác biệt của hai
hình thái kinh tế - xã hội mà trước đây chúng ta đã mắc phải. Thực tế xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam và ở các nước khác đã khẳng định luận điểm của V.I. Lênin:
“chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh như thế nào từ tổng số những kiến thức của nhân loại”. 20