



















Preview text:
  lOMoAR cPSD| 45734214
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC XÂY DỰNG 
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 1.1 Khái niệm về Chủ nghĩa xã hội 
Chủ nghĩa xã hội là một trong ba ý thức hệ chính trị lớn hình thành trong thế 
kỷ 19 bên cạnh chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa bảo thủ. Chủ nghĩa xã hội bao gồm một 
loạt các khuynh hướng chính trị từ các phong trào đấu tranh chính trị và các đảng 
công nhân có tinh thần cách mạng, những người muốn lật đổ chủ nghĩa tư bản nhanh 
chóng và bằng bạo lực cho tới các dòng cải cách chấp nhận Thể chế Đại nghị và dân 
chủ như chủ nghĩa xã hội dân chủ. Những người theo chủ nghĩa xã hội thường nhấn 
mạnh giá trị cơ bản như bình đẳng, công bằng và đoàn kết và đề cao mối quan hệ 
chặt chẽ giữa những phong trào xã hội và lý thuyết phê phán xã hội. Họ theo đuổi 
mục tiêu tạo ra một trật tự xã hội hòa hợp và hướng đến công bằng xã hội. 
 Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước mà ở đó sự thống trị chính 
trị thuộc về giai cấp công nhân, do cách mạng xã hội chủ nghĩa sản sinh ra và có sứ 
mệnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đưa nhân dân lao động lên địa vị làm 
chủ trên tất cả các mặt của đời sống xã hội trong một xã hội phát triển cao – xã hội  chủ nghĩa. 
1.2 Đặc trưng của Chủ nghĩa xã hội 
Khi nghiên cứu về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, các nhà sáng 
lập chủ nghĩa xã hội khoa học rất quan tâm dự báo những đặc trưng của từng giai 
đoạn, đặc biệt là giai đoạn đầu (giai đoạn thấp) của xã hội cộng sản nhằm định hướng 
phát triển cho phong trào công nhân quốc tế. Căn cứ vào những dự báo của C. Mác 
và Ph.Ăngghen và những quan điểm của V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội ở nước Nga 
xô - viết, có thể khái quát những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội như sau: 
Một là, chủ nghĩa xã hội giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng 
xã hội, giải phóng con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện.  1    lOMoAR cPSD| 45734214
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, khi dự báo về xã hội tương 
lai, xã hội cộng sản chủ nghĩa, C. Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Thay cho xã 
hội tư bản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên 
hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của tất 
cả mọi người”; khi đó “con người, cuối cùng làm chủ tồn tại xã hội của chính mình, 
thì cũng do đó làm chủ tự nhiên, làm chủ cả bản thân mình trở thành người tự do”. 
Hai là, chủ nghĩa xã hội là xã hội do nhân dân lao động làm chủ 
Đây là đặc trưng thể hiện thuộc tính bản chất của chủ nghĩa xã hội, xã hội vì 
con người và do con người; nhân dân mà nòng cốt là nhân dân lao động là chủ thể 
của xã hội thực hiện quyền làm chủ ngày càng rộng rãi và đầy đủ trong quá trình cải 
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Chủ nghĩa xã hội là một chế độ chính trị dân chủ, 
nhà nước xã hội chủ nghĩa với hệ thống pháp luật và hệ thống tổ chức ngày càng 
ngày càng hoàn thiện sẽ quản lý xã hội ngày càng hiệu quả. 
Ba là, chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản 
xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu 
Đây là đặc trưng về phương diện kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu cao 
nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người trên cơ sở điều kiện kinh tế - xã 
hội phát triển, mà xét đến cùng là trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất. Chủ 
nghĩa xã hội là xã hội có nền kinh tế phát triển cao, với lực lượng sản xuất hiện đại, 
quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, được tổ chức quản lý 
có hiệu quả, năng suất lao động cao và phân phối chủ yếu theo lao động. 
Bốn là, chủ nghĩa xã hội có nhà nước kiểu mới mang bản chất giai cấp công 
nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động. 
Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã khẳng định trong chủ nghĩa xã 
hội phải thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản, nhà nước kiểu mới mang bản chất 
của giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao  động.  2    lOMoAR cPSD| 45734214
Theo V.I.Lênin, chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản là một chính 
quyền do giai cấp vô sản giành được và duy trì bằng bạo lực đối với giai cấp tư sản. 
Chính quyền đó chính là nhà nước kiểu mới thực hiện dân chủ cho tuyệt đại đa số 
nhân dân và trấn áp bằng vũ lực bọn bóc lột, bọn áp bức nhân dân, thực chất của sự 
biến đổi của chế độ dân chủ trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa  cộng sản. 
Năm là, chủ nghĩa xã hội có nền văn hóa phát triển cao, kế thừa và phát huy 
những giá trị của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn nhân loại. 
V.I.Lênin, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga xô - viết đã 
luận giải sâu sắc về “văn hóa vô sản” - nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, rằng, chỉ 
có xây dựng được nền văn hóa vô sản mới giải quyết được mọi vấn đề từ kinh tế, 
chính trị đến xã hội, con người. Người khẳng định: “…nếu không hiểu rõ rằng chỉ 
có sự hiểu biết chính xác về nền văn hóa được sáng tạo ra trong toàn bộ quá trình 
phát triển của loài người và việc cải tạo nền văn hóa đó mới có thể xây dựng được 
nền văn hóa vô sản thì chúng ta không giải quyết được vấn đề” 
Thứ sáu, chủ nghĩa xã hội bảo đảm bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc và 
có quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. 
Vấn đề giai cấp và dân tộc, xây dựng một cộng đồng dân tộc, giai cấp bình 
đẳng, đoàn kết, hợp tác, hữu nghị với nhân dân các nước trên thế giới luôn có vị trí 
đặc biệt quan trọng trong hoạch định và thực thi chiến lược phát triển của mỗi dân 
tộc và mỗi quốc gia. Theo quan điểm của các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa 
học, vấn đề giai cấp và dân tộc có quan hệ biện chứng, bởi vậy, giải quyết vấn đề dân 
tộc, giai cấp trong chủ nghĩa xã hội có vị trí đặc biệt quan trọng và phải tuân thủ 
nguyên tắc: “xóa bỏ tình trạng người bóc lôt người thì tình trạng dân tộc này bóc lột 
dân tộc khác cũng bị xóa bỏ  3    lOMoAR cPSD| 45734214
1.3 Bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam  - 
Chủ nghĩa xã hội giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, 
giảiphóng con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện. 
Mục đích cao cả của chủ nghĩa xã hội cần đạt đến là xóa bỏ sự phân chia xã 
hội thành giai cấp, biến tất cả thành viên trong xã hội thành người lao động, tiêu diệt 
cơ sở của mọi tình trạng người bóc lột người. Trong quá trình phấn đấu để đạt mục 
đích cao cả đó, giai cấp công nhân, chính Đảng cộng sản phải hoàn thành nhiệm vụ 
của các giai đoạn khác nhau, trong đó có mục đích, nhiệm vụ cụ thể của thời kỳ xây 
dựng chủ nghĩa xã hội - tạo ra các điều kiện về cơ sở vật chất - kỹ thuật và đời sống 
tinh thần để thiết lập xã hội cộng sản.  - 
Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất 
hiệnđại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. 
Đặc trưng về phương diện kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Là mục tiêu cao cả 
nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người trên cơ sở điều kiện kinh tế - xã 
hội phát triển, mà xét đến cùng là trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất. Chủ 
nghĩa xã hội là xã hội có nền kinh tế phát triển cao, với lực lượng sản xuất hiện đại, 
quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, được tổ chức quản lý 
hiệu quả, năng suất lao động cao và phân phối chủ yếu theo lao động.  - 
Chủ nghĩa xã hội có nhà nước kiểu mới mang bản chất giai cấp công nhân, 
đạibiểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động. 
Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội đã khẳng định trong chủ nghĩa xã hội phải 
thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản, nhà nước kiểu mới mang bản chất của giai 
cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động.  - 
Chủ nghĩa xã hội có nền văn hóa phát triển cao, kế thừa và phát huy những 
giátrị của văn hóa dân tộc và tinh hóa văn hóa nhân loại.  4    lOMoAR cPSD| 45734214
Tính ưu việt, sự ổn định và phát triển của chế độ xã hội chủ nghĩa không chỉ 
thể hiện ở lĩnh vực kinh tế, chính trị mà còn ở lĩnh vực văn hóa - tinh thần của xã hội. 
Trong chủ nghĩa xã hội, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, mục tiêu, động lực 
của phát triển xã hội, trọng tâm là phát triển kinh tế; văn hóa đã hun đúc nên tâm hồn, 
khí phách, bản lĩnh con người, biến con người thành con người chân, thiện, mỹ.  - 
Chủ nghĩa xã hội bảo đảm bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc và có quan 
hệhữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.  
Vấn đề giai cấp và dân tộc, xây dựng một cộng đồng dân tộc, giai cấp bình 
đẳng, đoàn kết, hợp tác, hữu nghị với nhân dân các nước trên thế giới luôn có vị trí 
đặc biệt quan trọng trong hoạch định và thực thi chiến lược phát triển của mỗi dân  tộc và mỗi quốc gia. 
1.4 Các điều kiện cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội. 
Chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ kinh tế, chính trị và xã hội theo quan 
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin là một xã hội được thiết lập sau thắng lợi của cuộc 
cách mạng xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng 
sản, giành được chính quyền từ tay giai cấp thống trị và bóc lột trước đó, thiết lập 
nền chính quyền mới của nhân dân lao động từ đó xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật 
với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa tương ứng dựa theo những 
nguyên lý, quy luật cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin. 
Như vậy, chủ nghĩa xã hội phải ra đời dựa trên những tiền đề vật chất cơ bản như: 
Điều kiện thứ nhất: Do sự ra đời của sản xuất công nghiệp với thành tựu khoa học 
kỹ thuật công nghệ, lao động mang tính xã hội, lực lượng sản xuất phát triển mạnh 
mẽ và đạt tới trình độ xã hội hóa ngày càng cao, mâu thuẫn với quan hệ sản xuất dựa 
trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu. Mâu 
thuẫn này ngày càng phát triển. Đây là mâu thuẫn cơ bản trong phương thức sản xuất  tư bản chủ nghĩa.  5    lOMoAR cPSD| 45734214
Điều kiện thứ hai: cùng với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản cũng 
hình thành và phát triển hai giai cấp cơ bản: giai cấp công nhân và giai cấp tư sản có 
lợi ích đối lập nhau nên xã hội xuất hiện mâu thuẫn đối kháng. Giai cấp công nhân 
giác ngộ lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học và dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản 
lật đổ nhà nước của giai cấp tư sản, xác lập nhà nước của giai cấp công nhân và nhân 
dân lao động. Việc thiết lập nhà nước của giai cấp công nhân vànhân dân lao động là 
sự mở đầu của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa. 
Trong thời đại ngày nay, Chủ nghĩa xã hội vẫn có thể ra đời từ một quốc gia trung 
bình có trình độ phát triển trung bình thậm chí chưa qua tư bản chủ nghĩa, song phải 
đảm bảo các điều kiện mới sau đây: 
Một là, phải xuất hiện “yếu tố thời đại”, tức là nhân loại đã chuyển sang “giai đoạn 
cuối cùng của Chủ nghĩa tư bản”. Từ đó xuất hiện các “mâu thuẫn cơ bản và gay gắt 
của thời đại mới” như : 
• Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân. Đây vẫn được coi là 
mâu thuẫn cơ bản nhất xuyên suốt trong thời đại ngày nay. 
• Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa Đế quốc xâm lược với các quốc gia, dân tộc bị xâm 
lược và bị áp bức. Đây là mâu thuẫn đặc trưng cho thời kì mới. 
• Mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau do xung đột lợi ích. 
• Mâu thuẫn giữa các nước giàu trong thế giới tư bản và các nước nghèo, lạc 
hậu do bị tụt hậu xa về kinh tế. 
Hai là, phải có sự tác động toàn cầu của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, 
của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân (chủ nghĩa Mác-Lênin), đặc biệt là luận điểm 
về chủ nghĩa đế quốc và các dân tộc bị áp bức… làm thức tỉnh phong trào dân tộc, 
phong trào yêu nước của các quốc gia đấu tranh chống các chế độ áp bức, bóc lột, 
bất công của chủ nghĩa tư bản hoặc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên  chủ nghĩa xã hội.  6    lOMoAR cPSD| 45734214
Ba là, xuất phát từ những mâu thuẫn không thể giải quyết dẫn đến những nỗ lực đấu 
tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động tại các nước tư bản phát triển dẫn 
đến việc hình thành Đảng Cộng sản. 
Từ đó, sự lãnh đạo của Đảng cộng sản một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể 
nổ ra cũng có thể làm cho chủ nghĩa tư bản và các chế độ áp bức bóc lột khác diệt 
vong dẫn tới ra đời chủ nghĩa xã hội.    7    lOMoAR cPSD| 45734214
CHƯƠNG 2: TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ 
HỘI Ở VIỆT NAM 2.1 Hoàn cảnh lịch sử khi Việt Nam lựa chọn chủ nghĩa  xã hội 
Việt Nam là một quốc gia có lịch sử đấu tranh kiên cường, trải dài qua hàng 
nghìn năm từ thời kỳ dựng nước đến nay. Ngay từ những thế kỷ đầu tiên, đất 
nước đã phải đối mặt với những cuộc xâm lược từ các thế lực ngoại bang, 
điển hình là các cuộc kháng chiến chống lại các triều đại phong kiến phương 
Bắc, như thời Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, và Lý Thường Kiệt. 
Những cuộc đấu tranh này đã hun đúc tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường 
và đoàn kết của người dân Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. 
Đến thế kỷ XX, sau thời gian dài thuộc địa dưới ách thống trị của thực dân 
Pháp, Việt Nam lại tiếp tục cuộc đấu tranh giành độc lập với phong trào yêu 
nước của các nhà lãnh đạo như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và đặc biệt 
là Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đã lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam 
theo con đường chủ nghĩa Mác - Lênin, mang lại niềm tin và hướng đi mới 
cho nhân dân. Vào ngày 2/9/1945, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành 
công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, chính thức khai 
sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đánh dấu một mốc son trong lịch 
sử đấu tranh giành độc lập của dân tộc. 
Tuy nhiên, hành trình thống nhất đất nước vẫn còn tiếp diễn với cuộc kháng 
chiến chống thực dân Pháp và sau đó là cuộc chiến đấu lâu dài chống đế 
quốc Mỹ. Sau 30 năm chiến tranh, vào ngày 30/4/1975, với thắng lợi của 
Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đất nước Việt Nam đã hoàn toàn thống 
nhất, giành lại chủ quyền toàn vẹn từ Bắc chí Nam. 
Sau khi giành được độc lập và thống nhất, Việt Nam bước vào một giai đoạn 
mới: xây dựng và phát triển xã hội chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam đã 
xác định xã hội chủ nghĩa là con đường tất yếu, thể hiện khát vọng xây dựng 
một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Trong quá trình xây dựng và đổi  8    lOMoAR cPSD| 45734214
mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong các lĩnh vực 
kinh tế, văn hóa, giáo dục và an sinh xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân. 
Hướng đi này vẫn đang được tiếp tục, với các chính sách cải cách và hội 
nhập quốc tế nhằm xây dựng một Việt Nam phát triển bền vững, hiện đại và 
giàu mạnh. Mục tiêu của Việt Nam hiện nay là không chỉ duy trì độc lập, chủ 
quyền mà còn xây dựng một xã hội với giá trị nhân văn cao, nơi mà quyền 
lợi của người dân được bảo vệ và phát triển toàn diện. 
2.2 Tính tất yếu tiến lên chủ nghĩa xã hội 
2.2.1 Các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam xây dựng. 
Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu và lý tưởng của toàn Đảng và toàn dân ta. Từ khi 
ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo 
toàn dân đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, dựng nên nhà nước dân chủ 
cộng hòa, tiến hành công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhằm thực hiện lý tưởng 
cao đẹp của toàn Đảng, toàn dân: xây dựng Việt Nam thành một nước xã hội chủ  nghĩa phồn vinh. 
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội từ ngày lập nước đến nay của Đảng và 
nhân dân ta là quá trình không ngừng vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư 
tưởng Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam. Đó cũng là quá trình không ngừng 
tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận để vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hiện 
thực, vừa hoàn thiện những đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa về mặt lý luận của 
Đảng qua mười một kỳ đại hội. 
Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội do các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin 
vạch ra đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và có kết quả vào công 
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tuy nhiên, đó cũng mới chỉ là những 
nét khái quát: Xã hội không có áp bức bóc lột; con người có cuộc sống ấm no, tự do, 
hạnh phúc, làm theo năng lực, phân phối theo lao động; đời sống vật chất và tinh 
thần cao; con người được phát triển toàn diện; xã hội công bằng, bình đẳng; có chế  9    lOMoAR cPSD| 45734214
độ công hữu về tư liệu sản xuất; nhà nước của toàn dân… Hơn nữa, trong một thời 
gian dài, chủ nghĩa xã hội được xây dựng theo mô hình kế hoạch hóa tập trung đã bị 
biến dạng và tụt hậu không chỉ ở Việt Nam mà cả ở các nước thành trì của chủ nghĩa  xã hội. 
Và rồi vận dụng sáng tạo và phát triển của chủ nghĩa Mác -Lênin vào điều kiện 
cụ thể ở Việt Nam, tổng kết thực tiễn quá trình cách mạng Việt Nam, nhất là qua hơn 
30 năm đổi mới, nhận thức của Đảng và nhân dân dân ta về chủ nghĩa xã hội và con 
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng rõ. Đại hội IV (1976), nhận thức của 
Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường phát triển của cách mạng nước ta mới 
dừng ở mức độ định hướng: Trên cơ sở phương hướng đúng, hãy hành động thực 
tếcho câu trả lời. Đến Đại hội VII, nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ 
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa đã sáng tỏ hơn, không chỉ dừng ở nhận 
thức định hướng, định tính mà từng bước đạt tới trình độ đình hình, định lượng. 
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), đã 
xác định mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta với sáu đặc trưng:  • 
Do nhân dân lao động làm chủ.  • 
Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại 
và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.  Có nền văn 
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.  • 
Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo 
năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ẩm no, tự do hạnh phúc, 
có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.  • 
Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng  tiến bộ.  • 
Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế  giới.  10    lOMoAR cPSD| 45734214
Đến Đại hội XI, trên cơ sở tổng kết 25 năm đổi mới, nhận thức của Đảng ta về 
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã có bước phát triển mới. 
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã phát triển 
mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam với tám đặc trưng cơ bản, trong đó có đặc trưng 
về mục tiêu, bản chất, nội dung của xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, đó  là: 
- Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.  - Do nhân dân làm chủ. 
- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ 
sản xuất tiến bộ phù hợp. 
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. 
- Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn  diện. 
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp 
đỡ nhau cùng phát triển. 
- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân 
dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. 
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. 
2.2.2. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử 
Ở Việt Nam thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ 1954 ở miền 
bắc và từ 1975 trên phạm vi cả nước, sau khi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ 
nhân dân hoàn thành thắng lợi, đất nước hoàn toàn thống nhất đi lên chủ nghĩa  xã hội. 
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan đối với mọi 
quốc gia xây dựng chủ nghĩa xã hội, dù xuất phát ở trình độ cao hay thấp. 
Một là, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với quy luật 
khách quan của lịch sử. Loài người đã trải qua các hình thái kinh tế- xã hội: công  11    lOMoAR cPSD| 45734214
xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa. Sự biến đổi của 
các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên, hình thái kinh tế - xã 
hội sau cao hơn hình thái xã hội trước và tuân theo quy luật quan hệ sản xuất phải 
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. 
Cho dù ngày nay, chủ nghĩa tư bản đang nắm ưu thế về vốn, khoa học, 
công nghệ và thị trường nhưng vẫn không vượt ra khỏi những mâu thuẫn vốn có 
của nó, đặc biệt là mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa tính chất xã hội hóa ngày 
càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa 
về tư liệu sản xuất. Sự phất triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và xã hội hóa 
lao động làm cho các tiền đề vật chất, kinh tế, xã hội ngày càng chín muồi cho 
sự phủ định chủ nghĩa tư bản và sự ra đời của xã hội mới – xã hội xã hội chủ 
nghĩa. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của loài người. Theo quy luật 
tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội. 
Hai là, phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội không chỉ phù hợp với 
xu thế của thời đại, mà còn phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam: cách 
mạng dân tộc, dân chủ gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cuộc cách mạng 
dân tộc, dân chủ trước hết là giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do, dân chủ... 
đồng thời nó là tiền đề để “làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm 
cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no, và sống một đời hạnh phúc”, 
nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn 
minh”. Vì vậy, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự tiếp tục hợp logic cuộc 
cách mạng dân tộc, dân chủ, làm cho cách mạng dân tộc, dân chủ được thực hiện  triệt để. 
2.3 Những nguyên tắc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 
Một là, kiên định và vận dụng sáng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa MácLênin,  tư tưởng Hồ Chí Minh  12    lOMoAR cPSD| 45734214
Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là học thuyết khoa học và cách 
mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tổng Bí thư khẳng định: “Tính 
khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là 
những giá trị bền vững, đã và đang được người cách mạng theo đuổi và thực hiện. 
Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như 
trong thực tiễn phát triển của khoa học”. Vì vậy, để xây dựng thành công chủ nghĩa 
xã hội ở Việt Nam cần phải kiên định, vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin, 
tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo cho phù 
hợp với thực tiễn Việt Nam và xu hướng của thời đại. Tổng Bí thư nêu rõ: “Chúng ta 
cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những 
thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta 
luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, 
không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống”. Những thành tựu đạt được 
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước, nhất là 
trong hơn 35 năm đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng chính là nhờ sự kiên định, nắm 
vững và vận dụng sáng tạo, đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh 
trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu phát triển bức thiết của cách mạng Việt Nam và phù 
hợp với quy luật phát triển của thời đại. 
Hai là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. 
Tổng Bí thư luận giải, nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá trình đấu tranh 
cách mạng lâu dài, gian khổ, hy sinh chống lại sự cường quyền, áp bức của các thế 
lực ngoại xâm để giành và giữ nền độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân 
dân. Vì vậy, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội “là đường lối cơ 
bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư 
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng kinh nghiệm, thực tiễn phong phú của mình 
kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh đã 
đưa ra kết luận sâu sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có  13    lOMoAR cPSD| 45734214
thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự 
do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc”. 
Ba là, kiên định đường lối đổi mới của Đảng. 
Thực tiễn 35 năm đổi mới đất nước, Việt Nam đã đạt được những thành tựu 
đáng ghi nhận trên các lĩnh vực. Nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục 
với tốc độ tương đối cao trong suốt những năm qua với mức tăng trưởng trung bình 
khoảng 7%/năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ 
USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người 
tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu 
nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt 
Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước 
xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Đến nay, hơn 60% số 
xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã nông thôn đều có đường ô tô đến trung 
tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại. 
2.4 Về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới 
Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội là sự vận dụng 
những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ 
nghĩa xã hội gắn với quá trình phát triển đất nước qua các thời kỳ. Thời kỳ trước đổi 
mới, nhận thức về xã hội xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta phác thảo ban đầu trong 
các văn kiện Đại hội từ năm 1954 đến năm 1986. Nhìn một cách tổng thể, thời kỳ 
này, chúng ta chưa xác định được mô hình và những đặc trưng cụ thể của xã hội xã 
hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) đã 
chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm, nguyên nhân của hạn chế, yếu kém trong nhận 
thức về xã hội xã hội chủ nghĩa. Lần đầu tiên trong lịch sử xây dựng chủ nghĩa xã 
hội ở Việt Nam, mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng đã được 
Đảng ta chỉ ra trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ  14    lOMoAR cPSD| 45734214
nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991). Cương lĩnh năm 1991 xác định xã hội xã hội 
chủ nghĩa là một xã hội gồm 6 đặc trưng: Do nhân dân lao động làm chủ. Có nền 
kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các 
tư liệu sản xuất chủ yếu. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Con người 
được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao 
động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá 
nhân. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. 
Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. 
Có thể nói, những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội được nêu trong Cương lĩnh 
năm 1991 là những đặc trưng bản chất để nhận biết về chủ nghĩa xã hội. Những đặc 
trưng này ở một phương diện nào đó cũng đã chỉ rõ động lực và mục tiêu của quá 
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 
Đến Đại hội X, tổng kết hơn 20 năm đổi mới, Đảng ta đã có nhận thức mới 
sâu sắc hơn về bản chất, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Đại hội X xác định, xã hội 
xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng gồm 8 đặc trưng cơ bản: “dân giàu, nước 
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển 
cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ 
phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; 
con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh 
phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn 
kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ 
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; 
có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”. 
Có thể nói, so với Cương lĩnh năm 1991, nhận thức về bản chất, đặc trưng của 
chủ nghĩa xã hội ở Đại hội X có những điểm mới. Hệ mục tiêu chung “dân giàu, nước 
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được xác định là đặc trưng thứ nhất 
trong 8 đặc trưng. Mục đích của chủ nghĩa xã hội được xác định rõ nét, cụ thể hơn.  15    lOMoAR cPSD| 45734214
Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mặc dù có những thay đổi về mặt ngôn từ (chẳng 
hạn: không đề cập đến chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu ở đặc trưng về 
quan hệ sản xuất; cụm từ các dân tộc trong nước được thay bằng các dân tộc trong 
cộng đồng Việt Nam…), nhưng về bản chất cơ bản vẫn được giữ nguyên và bổ sung 
thêm một đặc trưng mới (có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, 
do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản). Đây là một bổ sung 
quan trọng về đặc trưng bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân 
ta xây dựng. So với Cương lĩnh năm 1991, nhận thức này đầy đủ hơn, toàn diện hơn. 
Tổng kết 25 năm đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Cương 
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển 
năm 2011) đã nêu rõ: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã 
hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có 
nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất 
tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc 
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong 
cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có 
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do 
Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. 
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã làm rõ một số vấn đề về nội 
dung xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 
Thứ nhất, khẳng định đặc trưng hàng đầu là xây dựng một xã hội: dân giàu, 
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chủ nghĩa xã hội phải là dân giàu, nước 
mạnh. Dân có giàu nước mới mạnh, nước mạnh tạo điều kiện cho dân giàu có chính 
đáng. Dân giàu không chỉ giàu về của cải vật chất mà giàu cả về trí tuệ, văn hóa, tinh 
thần, đạo đức. Sức mạnh của đất nước bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân. Nước 
mạnh dựa trên nền tảng kinh tế phát triển cao, chế độ chính trị tiến bộ, dân chủ, ổn 
định quốc phòng, an ninh vững mạnh, xã hội đoàn kết, đồng thuận, trong ấm ngoài  16    lOMoAR cPSD| 45734214
êm, không gây thù oán trong quan hệ quốc tế. Nước mạnh còn thể hiện ở ý chí độc 
lập, tự lực, tự cường, ở bản lĩnh vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức. 
Thứ hai, đề cao dân chủ, nội dung dân chủ được đặt lên trước công bằng, văn 
minh. Đây là một điểm mới trong nhận thức và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội 
của Đảng ta. Dân chủ là bước tiến, là khát vọng của con người, của mỗi dân tộc. Dân 
chủ tư sản là bước tiến bộ so với chế độ phong kiến. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự 
phát triển chưa từng có, giải phóng triệt để con người khỏi mọi áp bức, bất công để 
tạo dựng một xã hội tốt đẹp. 
Thứ ba, điểm nhấn mới trong đặc trưng về kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa 
ở Việt Nam: Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và 
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Nói quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với lực lượng 
sản xuất hiện đại là phản ánh đúng quy luật về quan hệ sản xuất phải phù hợp với 
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất tiến bộ phù 
hợp đặt ra nhiệm vụ phải không ngừng hoàn thiện quan hệ sản xuất với sự đồng bộ 
của tất cả các yếu tố (chế độ sở hữu tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ, phương 
thức phân phối sản phẩm), chứ không chỉ về chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất. 
Thứ tư, về vấn đề xã hội và con người, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 
2011) diễn đạt khái quát: Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều 
kiện phát triển toàn diện. Việc xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công chỉ là giải pháp để 
đạt tới mục đích vì cuộc sống tốt đẹp của con người. Mục tiêu xây dựng, phát triển 
con người trong chế độ xã hội chủ nghĩa cần xác định con người, nhân dân Việt Nam 
là chủ thể xây dựng, tạo dựng xã hội tốt đẹp và được hưởng chính những thành quả 
đó. Con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải là những người năng 
động, có trí tuệ, học vấn cao, vươn tới đỉnh cao của tri thức nhân loại. 
Để làm rõ và cụ thể hóa những nội dung của Cương lĩnh, Văn kiện Đại hội XII 
của Đảng xác định 4 trụ cột phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới: Thời kỳ đổi 
mới đòi hỏi phải phát triển đất nước toàn diện, đồng bộ hơn về chính trị, kinh tế, văn  17    lOMoAR cPSD| 45734214
hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là 
trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; xây dựng văn hóa, con người là nền tảng tinh 
thần; tăng cường quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Điểm mới nổi bật 
là: Văn kiện Đại hội XII của Đảng không chỉ xác định xây dựng văn hóa là nền tảng 
tinh thần mà cả xây dựng con người là nền tảng tinh thần. Đây chính là mục tiêu, bản 
chất chủ nghĩa xã hội mà chúng ta xây dựng. 
2.5 Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay 
Thời kỳ trước đổi mới, nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt 
Nam đã đạt được một số nhiều thành tựu bước đầu thể hiện qua phương châm, chiến 
lược gắn độc lập dân tộc với xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, nhận thức về con 
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ này còn nhiều hạn chế. Đảng ta chưa nhận 
thức hết tính phức tạp, khó khăn và lâu dài của thời kỳ quá độ; chưa xác định nội 
dung “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”, thậm chí đối lập chủ nghĩa tư bản với chủ 
nghĩa xã hội một cách máy móc theo kiểu phủ định sạch trơn; tư duy giáo điều, giản 
đơn về chủ nghĩa tư bản, đồng nhất bản chất bóc lột, áp bức, nô dịch loài người của 
chủ nghĩa tư bản và chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa với toàn bộ những tiến bộ, văn 
minh của chủ nghĩa tư bản. Điều này đã làm ảnh hưởng lớn đến công cuộc xây dựng 
chủ nghĩa xã hội, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội. Việc giải quyết mối 
quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất còn nhiều hạn chế, yếu kém. 
Chủ trương “lấy quan hệ sản xuất tiến bộ mở đường cho lực lượng sản xuất phát 
triển” là quan điểm chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan. Nhất là thời 
kỳ sau khi thống nhất đất nước, do duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp 
làm triệt tiêu nhiều động lực phát triển đất nước. 
Trong phương hướng phát triển đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội đã không 
chú ý đúng đắn đến các lợi ích chính đáng; chưa giải quyết thoả đáng mối quan hệ 
lợi ích giữa cá nhân - tập thể - xã hội.  18    lOMoAR cPSD| 45734214
Nhiều quy luật, đặc biệt là các quy luật kinh tế trong thời kỳ quá độ đã bị nhận 
thức sai lệch hoặc quá máy móc, giáo điều. Việc tồn tại hai hình thức sở hữu, hai 
thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể đã làm triệt tiêu các nguồn 
lực cần thiết, vốn có trong các thành phần kinh tế tất yếu phải tồn tại trong thời kỳ 
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 
Các vấn đề khác như dân chủ xã hội chủ nghĩa, văn hóa xã hội chủ nghĩa, con 
người mới xã hội chủ nghĩa còn có nhiều nhận thức mơ hồ, chủ quan, duy ý chí… 
Các phương hướng, giải pháp để xây dựng chủ nghĩa xã hội còn chung chung, trừu 
tượng. Vì vậy, trên thực tế chỉ tồn tại ở hình thức, không có nội dung, thực chất. Một 
số vấn đề về xã hội như bình đẳng xã hội, công bằng xã hội giữa các tộc người, giữa 
miền núi với miền xuôi, giữa nông thôn và thành thị… đều có những nhận thức chưa 
đầy đủ. Tính hiệu quả, thiết thực của các chính sách xã hội còn nhiều hạn chế. 
Khắc phục những hạn chế nêu trên, bước vào thời kỳ đổi mới, qua các kỳ đại 
hội, nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã ngày càng sáng 
tỏ hơn. Những điểm mới trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên 
chủ nghĩa xã hội của Đảng ta thời kỳ đổi mới thể hiện trên những nét căn bản sau: 
Thứ nhất, nhận thức rõ hơn về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 
Tiến trình đổi mới của Việt Nam được bắt đầu từ đổi mới tư duy, trước hết là 
đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tại Đại 
hội VI - Đại hội của đổi mới, Đảng ta xác định, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã 
hội tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ và độ dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào 
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể của mỗi nước. Đối với nước ta, thời kỳ quá 
độ rất lâu dài và khó khăn. Đó là một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, 
triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan 
hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng; trong đó, bao hàm nhiều chặng đường, nhiều 
bước quá độ nhỏ với những nhiệm vụ tương ứng. Phải có “những hình thức và bước 
đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực  19    lOMoAR cPSD| 45734214
lượng sản xuất, luôn luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất”. 
Đây là những cơ sở lý luận quan trọng để Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra đường lối 
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng - 
tiền...; trong đó, thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo và chi phối các 
thành phần kinh tế khác. Với đường lối đổi mới của Đảng, trước hết là đổi mới kinh 
tế, lực lượng sản xuất được giải phóng khỏi những trói buộc cũ, có những bước phát 
triển quan trọng, có những chuyển biến tích cực thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát 
triển, tạo nên sắc thái mới trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Đường lối 
phát triển kinh tế đúng đắn này đã được Đảng tiếp tục phát triển và hoàn thiện dần 
qua các kỳ đại hội sau đó, tạo điều kiện cho sự phát triển mới về chất trong toàn bộ 
đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Nhận thức này khắc phục được tư tưởng chủ 
quan, nóng vội, giản đơn về thời kỳ quá độ. 
Thứ hai, nhận thức đầy đủ hơn về cách thức bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa 
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 
Việc “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” được giải thích rõ về hai phương diện: 
Một là, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của 
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa”. Hai là, trong khi bỏ qua 
những mặt đó, cần “tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới 
chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực 
lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Đương nhiên, việc kế thừa những 
thành tựu này phải trên quan điểm phát triển, có chọn lọc. Nhận thức này đã góp 
phần khắc phục tư duy giáo điều, siêu hình về sự tương đồng và khác biệt của hai 
hình thái kinh tế - xã hội mà trước đây chúng ta đã mắc phải. Thực tế xây dựng chủ 
nghĩa xã hội ở Việt Nam và ở các nước khác đã khẳng định luận điểm của V.I. Lênin: 
“chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh như thế nào từ tổng số những kiến thức của nhân  loại”.  20