



















Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI BỘ MÔN TRIẾT HỌC ĐỀ TÀI
PHÂN TÍCH CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN.
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM NÀY ĐỂ PHÂN TÍCH NHỮNG ẢNH
HƯỞNG CỦA ĐẠI DỊCH COVID-19 ĐẾN CÁC VẤN ĐỀ CỦA ĐỜI
SỐNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY NHÓM 3 LỚP HP: 2273MLNP0221
CHUYÊN NGÀNH: KHỞI NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN KINH DOANH HÀ NỘI, 2022
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ TT Họ và tên Nhiệm vụ Nhó Đánh giá của m tự giảng viên xếp loại 1Trần Thị Làm powerpoint Kim Liên 2Nguyễn
Làm nội dung 1.1 & 1.2 & Tuệ Linh
1.4; tổng hợp thông tin thành
bài luận hoàn chỉnh; tóm tắt nội dung powerpoint 3Phan Ngọc Mở đầu; Linh làm nội dung 1.3 4Mai Mai
Làm nội dung 1.5 & 1.6 & Hương 1.7 5Đặng Kết luận; Khánh làm nội dung 2.3 Huyền 6Ngô Diệu Làm nội dung 2.1 & 2.2 Linh 7Nguyễn Thị Tài liệu tham khảo; Huế làm nội dung 2.5 8Nguyễn Thị Làm powerpoint Hoài 9Bùi Khánh Thuyết trình Linh 10 Phan Diệu Thuyết trình Linh MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................2
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN......................................2
1.1. Khái niệm về quan điểm toàn diện.............................................................2
1.2. Nguồn gốc của quan điểm toàn diện..........................................................3
1.3. Cơ sở lí luận của quan điểm toàn diện – nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến....................................................................................................................3
1.3.1. Phép biện chứng duy vật là gì.............................................................3
1.3.2. Đặc điểm và vai trò của phép biện chứng duy vật..............................4
1.3.3. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến......................................................5
1.3.4. Tính chất của mối liên hệ phổ biến.....................................................6
1.3.5. Ý nghĩa phương pháp luận của mối liên hệ phổ biến..........................8
1.4. Nội dung của quan điểm toàn diện.............................................................9
1.4.1. Xét về mặt không gian.........................................................................9
1.4.2. Xét về mặt thời gian............................................................................9
1.4.3. Xét về mặt cấu tạo.............................................................................10
1.5. Yêu cầu của quan điểm toàn diện.............................................................10
1.6. Vai trò của quan điểm toàn diện trong hoạt động của con người.............11
1.7. Nếu không tôn trọng quan điểm toàn diện thì sẽ thế nào?.......................11
II. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN ĐỂ PHÂN TÍCH NHỮNG ẢNH
HƯỞNG CỦA ĐẠI DỊCH COVID-19 ĐẾN CÁC VẤN ĐỀ CỦA ĐỜI SỐNG
XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY.......................................................................12
2.1. Thực trạng................................................................................................12
2.2. Tác động của đại dịch Covid-19...............................................................13
2.3. Những hệ lụy của đại dịch Covid-19 gây ra.............................................18
2.3.1. Chênh lệch giàu nghèo......................................................................18
2.3.2. Nạn đói thêm trầm trọng...................................................................19
2.3.3. Đe dọa khủng bố và ma túy...............................................................20
2.4. Mặt tích cực của đại dịch Covid-19 bên cạnh những tiêu cực.................21
2.5. Những giải pháp áp dụng quan điểm toàn diện vào đời sống xã hội.......23
2.5.1. Giải pháp khôi phục kinh tế..............................................................23
2.5.2. Giải pháp quản lí xã hội....................................................................26
2.5.3. Giải pháp của hệ thống y tế...............................................................26
2.5.4. Giải pháp đối với các vấn đề sức khỏe tinh thần (đặc biệt ở trẻ em) 27
2.5.5. Định hướng tuyên truyền...................................................................28
KẾT LUẬN.........................................................................................................29
LỜI CẢM ƠN.....................................................................................................30
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................30 MỞ ĐẦU
Triết học Mác-Lênin là bộ môn nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ
bản của con người, thế giới quan và vị trí của con người trong thế giới quan,
những vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý
thức, và ngôn ngữ. Triết học được phân biệt với những môn khoa học khác bằng
cách thức mà nó giải quyết những vấn đề trên, đó là ở tính phê phán, phương
pháp tiếp cận có hệ thống chung nhất và sự phụ thuộc của nó vào tính duy lý trong việc lập luận.
Triết học vạch ra cho con người hệ thống những cách thức, những nguyên
tắc để định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Qua quá trình nghiên cứu học tập, hiểu được vai trò của môn học đối với
việc nhận thức thế giới và hành động của bản thân. Chính vì thế, chúng em xin
tìm hiểu đề tài “Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện, vận dụng quan điểm này
để phân tich những ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 đến các vấn đề của đời
sống xã hội ở Việt Nam hiện nay.” *Ý nghĩa đề tài:
Đề tài hệ thống hóa những vấn đề lý thuyết cơ bản của bài học tôn trọng
khách quan và đổi mới tư duy bao gồm phạm trù vật chất, ý thức, mối quan hệ
phổ biến và quan điểm toàn diện, nội dung bài học tôn trọng khách quan và vận
dụng vào thực tiễn cuộc sống xã hội nước ta hiện nay.
Nghiên cứu làm cơ sở khoa học cho sinh viên ứng dụng nhằm nâng cao
hiệu quả học tập. Đặc biệt, bài làm đã đưa ra một số đề xuất, góp phần nâng cao
hiệu quả học tập của sinh viên. *Cách thức triển khai:
I. Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện 1
II. Vận dụng quan điểm toàn diện để phân tich những ảnh hưởng của đại dịch
Covid-19 đến các vấn đề của đời sống xã hội ở Việt Nam hiện nay 2 NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN
1.1. Khái niệm về quan điểm toàn diện
Quan điểm toàn diện là quan điểm đánh giá, xem xét sự vật với tất cả các
mối liên hệ mà sự vật có nhưng phải tìm ra được mối liên hệ nào là cơ bản, quy
định sự tồn tại, vận động của sự vật. Từ đó để có cách nhìn nhận đánh giá đúng
bản chất, đúng trọng tâm của sự vật mà không dàn trải. Quan điểm này là một
trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của triết học Mác – Lenin,
giúp con người khắc phục được bệnh phiến diện, chủ nghĩa chiết trung và thuật
ngụy biện trong nhận thức và cải tạo thực tiễn.
Với các đánh giá toàn diện trên các mặt, quan điểm toàn diện có thể mang
đến những nhận định đúng đắn. Thay vì những cái nhìn phiến diện trong quan
điểm khi đánh giá chủ thể, nó được nhấn mạnh với những nội dung từ phương
pháp luận của phép biện chứng duy vật. Theo đó, các phản ánh được thực hiện
trên cơ sở lý luận. Nó mang đến những phù hợp trong quan điểm tiến bộ và khoa
học, khi những mặt khác nhau tác động lên một vấn đề cần được phản ánh toàn diện.
Quan điểm toàn diện thể hiện vai trò của người thực hiện các phân tích
trên đối tượng. Khi nghiên cứu và xem xét hiện tượng, sự vật hay sự việc, chúng
ta phải quan tâm đến tất cả các yếu tố kể cả khâu gián tiếp hay trung gian có liên
quan đến sự vật. Tức là tất cả những tác động có thể lên chủ thể đang quan tâm.
Không chỉ nhìn nhận với tính chất tiêu cực hay tích cực theo cả xúc, mà phải là
những tiến hành trên lý trí, kinh nghiệm và trình độ đáng giá chuyên môn. Như
vậy các hướng tác động mới nếu có mới mang đến hiệu quả.
Ví dụ: Quan điểm này thể hiện trong tất cả các hoạt động có tác động của
phản ánh quan điểm. Như những ví dụ trong đánh giá một con người với những
mặt khác nhau phản ánh trong con người họ. Không thể chỉ thực hiện quan sát
phiến diện từ những thể hiện bên ngoài để đánh giá tính cách hay thái độ, năng 3
lực của họ. Cũng không thể chỉ dựa trên một hành động để phán xét con người
và cách sống của họ. Khi đánh giá, cần có thời gian cho sự quan sát tổng thể. Từ
những phản ánh trong bản chất con người, các mối quan hệ của người này với
người khác. Cách cư xử cũng như việc làm trong quá khứ và hiện tại. Những
nhìn nhận và đánh giá trên từng khía cạnh và kết hợp với nhau sẽ cho ra những
quan điểm toàn diện. Từ đó mà cách nhìn nhận một người được thực hiện hiệu
quả với các căn cứ rõ ràng. Nó không phải là những phù phiếm của nhận định.
Chỉ khi hiểu hết về người đó ta mới có thể đưa ra các nhận xét.
1.2. Nguồn gốc của quan điểm toàn diện
Nguồn gốc của quan điểm toàn diện xuất phát từ mối liên hệ nằm trong
nguyên lý phổ biến của các hiện tượng, sự vật trên thế giới với các tính chất
trong tác động và phản ánh kết quả khác nhau. Bởi phải có quan điểm toàn diện
vì bất cứ mối quan hệ nào cũng tồn tại sự vật, sự việc. Không có bất cứ sự vật,
sự việc nào tồn tại một cách riêng biệt, hay chỉ chịu tác động từ duy nhất một
yếu tố và có khả năng tồn tại cô lập độc lập với các sự vật khác. Tính chất trong
những ảnh hưởng từ chủ quan và khách quan là rất đa dạng. Nghiên cứu và phân
tích cho thấy rằng, nếu muốn đánh giá chủ thể một cách hiệu quả nhất, cần nhìn
nhận vào toàn diện và bày tỏ quan điểm.
1.3. Cơ sở lí luận của quan điểm toàn diện – nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
1.3.1. Phép biện chứng duy vật là gì
Phép biện chứng duy vật là “linh hồn sống”, là “cái quyết định” của chủ
nghĩa Mác, bởi khi nghiên cứu các quy luật phát triển phổ biến của hiện thực
khách quan và của nhận thức khoa học, phép biện chứng duy vật thực hiện chức
năng phương pháp luận chung nhất của hoạt động nhận thức và thực tiễn. Chức
năng này thể hiện ở chỗ, con người dựa vào các nguyên lý, được cụ thể hóa
bằng các cặp phạm trù và quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật để đề ra
các nguyên tắc tương ứng, định hướng hoạt động lý luận và thực tiễn của mình. 4
C. Mác, PH. Ăngghen và V.I Lênin không đưa ra một định nghĩa thống nhất
nào về phép biện chứng duy vật, mà trong các tác phẩm của ông có nhiều định
nghĩa khác nhau về phép biện chứng duy vật. Trong tác phẩm Chống Dduyrrinh,
khi bàn về các quy luật, Ph. Ăngghen định nghĩa: “Phép biện chứng chẳng qua
chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát
triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy.” Khi chỉ ra nội dung chủ
yếu của phép biện chứng, Ph. Ăngghen định nghĩa: “Phép biện chứng là khoa
học về sự liên hệ phổ biến. Những quy luật chủ yếu: sự chuyển hóa lượng thành
chất, sự xâm nhập lẫn nhau của các mâu thuẫn đối cực và sự chuyển hóa từ mâu
thuẫn này sang mâu thuẫn khác khi mâu thuẫn đó lên tới cực độ, sự phát triển
bằng mâu thuẫn hoặc phủ định của phủ định, phát triển theo hình thức xoáy trôn
ốc”, “phép biện chứ đã được coi là khoa học về những quy luật phổ biến nhất
của mọi vận động. Điều đó có nghĩa là những quy luật ấy phải có hiệu lực đối
với vận động trong giới tự nhiên và trong lịch sử loài người cũng như đối với
vận động của tư duy.”
1.3.2. Đặc điểm và vai trò của phép biện chứng duy vật
Từ những định nghĩa trên có thể chỉ ra một số đặc điểm và vai trò của phép
biện chứng duy vật. Về đặc điểm, phép biện chứng duy vật hình thành từ sự
thống nhất, hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng;
giữa lý luận nhận thức và logic biện chứng. Mỗi nguyên lý cảu phép biện chứng
duy vật đều được xây dựng trên lập trường duy vật, mỗi luận điểm của phép
biện chứng duy vật đều được rút ra từ sự vận hành của giới tự nhiên và lịch sử
xã hội loài người; mỗi nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng đều
được luận giải trên cơ sở khoa học và được chứng minh bằng toàn bộ sự phát
triển của khoa học tự nhiên trước đó.
Về vai trò, phép biện chứng duy vật đã kế thừa và phát triển phép biện
chứng từ tự phát đến tự giác, tạo ra chức năng phương pháp luận chung nhất,
giúp định hướng việc đề ra các nguyên tắc tương ướng trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn; là một hình thức tư duy hiệu quả quan trọng nhất đối với khoa 5
học, bởi chỉ có nó mới có thể đem lại phương pháp giải thích những quá trình
phát triển diễn ra trong thế giới, giải thích những mối quan hệ chung, những
bước quá độ từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác.
Nguyên lý triết học là những luận điểm – định đề khái quát nhất được hình
thành nhờ sự quan sát, trải nghiệm của nhiều thế hệ người trong mọi lĩnh vực tự
nhiên, xã hội và tư duy; rồi làm tiền đề cho những suy lý tiếp theo rút ra những
nguyên tắc, quy luật, quy tắc, phương pháp... phục vụ cho các hoạt động nhận
thức và thực tiễn con người.
1.3.3. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
Nguyên lý triết học là những luận điểm – định đề khái quát nhất được hình
thành nhờ sự quan sát, trải nghiệm của nhiều thế hệ người trong mọi lĩnh vực tự
nhiên, xã hội và tư duy; rồi làm tiền đề cho những suy lý tiếp theo rút ra những
nguyên tắc, quy luật, quy tắc, phương pháp... phục vụ cho các hoạt động nhận
thức và thực tiễn con người.
Theo chủ nghĩa Mác -Lênin thì các sự vật hiện tượng trong thế giới chỉ
biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua sự vận động, sự tác động qua lại lẫn
nhau. Bản chất tính quy luật của sự vật, hiện tượng cũng chỉ bộc lộ thông qua sự
tác động qua lại giữa các mặt của bản thân chúng hay sự tác động của chúng đối
với sự vật, hiện tượng khác. Đồng thời cũng qua đó phê phán cách xem xét của các nhà siêu hình học.
Mọi đối tượng đều trong trạng thái vừa cô lập vừa liên hệ với nhau. Chúng
liên hệ với nhau ở một số khía cạnh và không liên hệ với nhau ở những khía
cạnh khác, trong chúng có cả những biến đổi khiến các đối tượng khác thay đổi,
lẫn những biến đổi không làm các đối tượng khác thay đổi. Như vậy, liên hệ và
cô lập thống nhất với nhau mà ví dụ điển hình là quan hệ giữa cơ thể sống và
môi trường. Cơ thể sống gắn bó với môi trường nhưng đồng thời cũng tách biệt,
có tính độc lập tương đối. Một số thay đổi nhất định của môi trường làm cơ thể
sống thay đổi, nhưng có những thay đổi khác lại không làm nó thay đổi. Chỉ 6
những biến đổi môi trường gắn với hoạt động sống của cơ thể mới làm ảnh
hưởng đến cơ thể; còn thay đổi nào không gắn với hoạt động đó thì không gây ra
sự biến đổi. Như vậy, liên hệ và cô lập luôn tồn tại cùng nhau, là những mặt tất
yếu của mọi quan hệ cụ thể giữa các đối tượng.
Khi quan niệm về sự liên hệ được mở rộng đến các đối tượng tinh thần và
giữa chúng vốn thuộc chủ thể với các đối tượng khách quan thì sẽ có quan niệm
về mối liên hệ phổ biến. Loại liên hệ chung nhất, là đối tượng nghiên cứu của
phép biện chứng, được gọi là liên hệ phổ biến. Thế giới không phải là thể hỗn
loạn các đối tượng, mà là hệ thống các liên hệ đối tượng. Như vậy, chính tính
thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở cho mọi liên hệ. Nhờ sự thống nhất đó
các đối tượng không thể tồn tại cô lập, mà luôn tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau.
Quan điểm siêu hình về sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng trong thế giới
thường phủ định mối liên hệ tất yếu giữa các đối tượng, được phổ biến rộng rãi
trong khoa học tự nhiên rồi lan truyền sang triết học. Quan điểm này dẫn thế
giới quan triết học đến sai lầm là dựng lên ranh giới giả tạo giữa các sự vật, hiện
tượng, đặt đối lập các nghiên cứu khoa học chuyên ngành với nhau.
Trái lại, quan điểm biện chứng duy vật cho rằng, các sự vật, hiện tượng của
thế giới tồn tại trong mối liên hệ qua lại với nhau, quy định lẫn nhau, thâm nhập,
chuyển hóa lẫn nhau, không tách biệt nhau. Đó là nội dung của nguyên lý về
mối liên hệ phổ biến.
1.3.4. Tính chất của mối liên hệ phổ biến
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ phổ biến có
ba tính chất cơ bản: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú. *Tính khách quan:
Phép biện chứng duy vật khẳng định tính khách quan của các mối liên hệ,
tác động trong thế giới. Có mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng vật chất với
nhau. Có mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng vật chất với hiện tượng tinh thần. 7
Có mối liên hệ giữa những hiện tượng tinh thần với nhau. Các mối liên hệ là vốn
có của mọi sự vật, hiện tượng, không phụ thuộc vào ý thức của con người. *Tính phổ biến:
Bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào, ở bất kỳ không gian nào và ở bất kỳ thời
gian nào cũng có mối liên hệ với những sự vật, hiện tượng khác. Ngay trong
cùng một sự vật, hiện tượng thì bất kỳ một thành phần nào, một yếu tố nào cũng
có mối liên hệ với những thành phần, những yếu tố khác. *Tính đa dạng, phong phú:
Sự vật khác nhau, hiện tượng khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác
nhau thì các mối liên hệ biểu hiện khác nhau. Có thể chia các mối liên hệ thành
nhiều loại: mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu,
mối liên hệ thứ yếu, v.v.. Các mối liên hệ này có vị trí, vai trò khác nhau đối với
sự tồn tại và vận động của sự vật, hiện tượng. Để khái quát nên tính chất biến
hóa của sự vật, hiện tượng, Ăng-ghen đã viết rằng: Tư duy của nhà siêu hình chỉ
dựa trên những phản đề tuyệt đối không thể dung nhau được, họ nói có là có,
không là không. Đối với họ, một sự vật hoặc tồn tại hoặc không tồn tại, một hiện
tượng không thể vừa là chính nó lại là vừa cái khác, cái khẳng định và cái phủ
định tuyệt đối bài trừ nhau. Ngược lại tư duy biện chứng là một tư duy mềm dẻo
linh hoạt, không còn biết đến những đường ranh giới tuyệt đối nghiêm ngặt, đến
những cái “hoặc là… hoặc là”, “vô điều kiện” (kiểu như: “hoặc là có, hoặc là
không”, “hoặc tồn tại, hoặc không tồn tại"). Tư duy biện chứng thừa nhận trong
những trường hợp cần thiết bên cạnh cái "hoặc là… hoặc là" còn có cả cái "vừa
là… vừa là" nữa. Chẳng hạn, theo quan điểm biện chứng, một vật hữu hình
trong mỗi lúc vừa là nó, vừa không phải là nó, một cái tên đang bay trong mỗi
lúc vừa ở vị trí A lại vừa không ở vị trí A, cái khẳng định và cái phủ định vừa
loại trừ nhau vừa không thể lìa nhau được. 8
1.3.5. Ý nghĩa phương pháp luận của mối liên hệ phổ biến
Từ nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, phép biện chứng khái quát
thành nguyên tắc toàn diện với những yêu cầu sau:
Thứ nhất, khi xem khi xem xét các sự vật, hiện tượng, cần phải xem xét tất
cả các mặt, các mối liên hệ, kể cả những mắt khâu trung gian trong những điều
kiện không gian, thời gian nhất định. V. I. Lênin viết: “Muốn thực sự hiểu được
sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên
hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó”.
Thứ hai, trong vô vàn các mối liên hệ, trước hết cần rút ra những mối liên
hệ cơ bản, chủ yếu, tức là xem xét một cách có trọng tâm, trọng điểm, nhờ đó
nắm bắt được bản chất của sự vật, hiện tượng.
Thứ ba, sau khi nắm bắt được bản chất của sự vật, hiện tượng thì cần phải
đối chiếu với các mối liên hệ còn lại để tránh mắc sai lầm trong nhận thức.
Thứ tư, chống lại cách xem xét siêu hình, phiên diện, một chiều (không
thấy được trọng tâm, trọng điểm, đánh giá tràn lan các mối liên hệ, không thấy
đâu là chủ yếu, chỉ thấy một mặt mà không thấy nhiều mặt, chỉ thấy một mối
liên hệ mà không thấy các mối liên hệ khác).
Thứ năm, chống lại cách xem xét cào bằng, dàn trải (coi mọi mối liên hệ
như nhau), có nghĩa là chống lại chủ nghĩa chiết trung về mối liên hệ. Quan
điểm toàn diện đòi hỏi ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ đến
chỗ khái quát để rút ra cái bản chất, cái quan trọng nhất của sự vật, hiện tượng.
Điều này không đồng nhất với cách xem xét dàn trải, liệt kê.
Thứ sáu, chống lại thuật ngụy biện (quy cái thứ yếu thành cái chủ yếu, quy
cái không cơ bản thành cái cơ bản, bằng lý lẽ, lập luận tưởng rằng có lý nhưng thực chất là vô lý). 9
1.4. Nội dung của quan điểm toàn diện
1.4.1. Xét về mặt không gian
Mỗi sự vật hiện tượng là một chỉnh thể riêng biệt, song chúng tồn tại
không phải trong trạng thái biệt lập tách rời tuyệt đối với các sự vật hiện tượng
khác. Ngược lại, trong sự tồn tại của mình thì chúng tác động lẫn nhau và nhận
sự tác động của các sự vật hiện tượng khác. Chúng vừa phụ thuộc nhau, chế ước
nhau, làm tiền đề cho nhau tồn tại và phát triển. Đó chính là hai mặt của quá
trình tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng. Ăngghen đã khẳng định: “Tất
cả thế giới mà chúng ta có thể nghiên cứu được là một hệ thống, một tập hợp
gồm các vật thể liên hệ khăng khít với nhau và việc các vật thể ấy có mối liên hệ
qua lại với nhau đã có ý nghĩa là các vật thể này tác động qua lại lẫn nhau và sự
tác động qua lại ấy chính là sự vận động.”
Trong xã hội ngày nay không có một quốc gia, dân tộc nào mà không có
mối quan hệ, liên hệ với quốc gia, dân tộc khác về mọi mặt đời sống xã hội. Đây
chính là sự tồn tại, phát triển cho mỗi quốc gia, dân tộc. Trên thế giới đã và đang
xuất hiện xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa mọi mặt của đời sống xã hội. Các
quốc gia dân tộc ngày càng phụ thuộc và tác động lẫn nhau trên con đường phát triển của mình.
1.4.2. Xét về mặt thời gian
Mỗi sự vật hiện tượng nói riêng và cả thế giới nói chung trong sự tồn tại,
phát triển của mình đều phải trải qua các giai đoạn, các thời kì khác nhau và các
giai đoạn đó không tách rời nhau, có liên hệ làm tiền đề cho nhau, sự kết thúc
của giai đoạn này làm mở đầu cho giai đoạn khác tiếp theo. Điều này thể hiện rõ
trong mối liên hệ giữa quá khứ - hiện tại – tương lai (hiện tại chẳng qua là bước
tiếp theo của quá khứ và là bàn đạp cho tương lai).
Quan điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định tính khách quan,
tính phổ biến vốn có của sự liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, các quá trình mà
nó còn nêu rõ tính phong phú, đa dạng và phức tạp của mối liên hệ qua lại đó. 10
Khi nghiên cứu hiện thực khách quan có thể phân chia mối liên hệ thành từng
loại khác nhau tùy tính chất phức tạp hay đơn giản, phạm vi rộng hay hẹp, trình
độ nông hay sâu, vai trò trực tiếp hay gián tiếp... Khái quát lại có những mối liên
hệ sau đây: mối liên hệ bên trong - bên ngoài, chủ yếu – thứ yếu, chung – riêng,
trực tiếp – gián tiếp, bản chất – không bản chất, ngẫu nhiên – tất nhiên. Trong đó
có mối liên hệ bên trong, trực tiếp, chủ yếu, bản chất và tất nhiên bao giờ cũng
giữ vai trò quan trọng, quyết định cho sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện
tượng. Triết học Mác xít đồng thời cũng thừa nhận rằng các mối liên hệ khác
nhau có khả năng chuyển hóa cho nhau, thay đổi vị trí của nhau và điều đó diễn
ra có thể là sự thay đổi phạm vi bao quát sự vật, hiện tượng hoặc có thể do kết
quả vận động khách quan của sự vật hiện tượng đó.
1.4.3. Xét về mặt cấu tạo
Cấu trúc bên trong của sự vật hiện tượng thì mỗi sự vật hiện tượng đều
được tạo thành bởi nhiều nhân tố, nhiều bộ phận khác nhau. Các nhân tố, bộ
phận đó không tồn tại riêng lẻ mà chúng được tổ chức sắp xếp theo một logic và
trật tự nhất định để tạo thành chỉnh thể. Mỗi biện pháp, yếu tố trong đó có vai
trò vị trí riêng của mình, vừa tạo điều kiện cho các bộ phận, yếu tố khác. Nghĩa
là giữa chúng có sự ảnh hưởng, ràng buộc tác động lẫn nhau. Sự biến đổi bộ
phận nào đó trong cấu trúc của sự vật hiện tượng sẽ ảnh hưởng đến bộ phận
khác và đối với cả chỉnh thể sự vật, hiện tượng.
1.5. Yêu cầu của quan điểm toàn diện
Yêu cầu của quan điểm toàn diện là khi nhận thức hoặc hoạt động thực
tiễn thì phải xem xét toàn diện các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng, kể cả mối
liên hệ của sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác, đến mối liên hệ
giữa các yếu tố, bộ phận cấu thành sự vật, hiện tượng, cũng như mối liên hệ của
sự vật, hiện tượng với môi trường và hoàn cảnh xung quanh; đồng thời, khi xem
xét hệ thống các mối liên hệ của sự vật, cần chú ý đến những mắt khâu trung
gian, gián tiếp của chúng; nhìn nhận, đánh giá sự vật, hiện tượng trong cả hiện
tại, quá khứ và xu hướng phát triển trong tương lai. Quan điểm toàn diện đòi hỏi 11
chủ thể phải biết nhận thức trọng tâm, trọng điểm, từ đó xem xét cái toàn bộ,
trên cơ sở thấu hiểu quy luật vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Quan
điểm toàn diện đối lập và đòi hỏi phải loại bỏ mọi suy nghĩ và hành động phiến
diện, chiết trung và ngụy biện.
1.6. Vai trò của quan điểm toàn diện trong hoạt động của con người -
Khái quát toàn cảnh thế giới trong những mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện tượng. -
Giúp con người khắc phục được bệnh phiến diện, chủ nghĩa chiết trung và
chủ nghĩa ngụy biện trong nhận thức và cải tạo thực tiễn -
Đánh giá toàn diện các mặt, các yếu tố, các lĩnh vực. -
Đánh giá , xác định vị trí, vai trò của từng lĩnh vực, đối tượng. -
Phản ánh được đầy đủ sự tồn tại khách quan với nhiều thuộc tính, nhiều mối
liên hệ, quan hệ và tác động qua lại của đối tượng -
Xem xét mối liên hệ giữa đối tượng này với đối tượng khác và với môi
trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gian tiếp;
trong không gian, thời gian nhất định.
1.7. Nếu không tôn trọng quan điểm toàn diện thì sẽ thế nào?
Nếu không tôn trọng quan điểm toàn diện, ta sẽ mắc phải ba sai lầm là
chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện:
Chủ nghĩa phiến diện: là cách xem xét chỉ thấy một mặt, một mối quan
hệ, tính chất nào đó mà không thấy được nhiều mặt, nhiều mối quan hệ, nhiều
tính chất của sự vật; chỉ xem xét sự vật ở một góc độ hay từ một phương diện nào đó mà thôi.
Chủ nghĩa chiết trung: là cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều mặt, nhiều
mối liên hệ của sự vật nhưng không rút ra được mặt bản chất, không thấy được
mội liên hệ cơ bản của sự vật; mà coi chúng như nhau, kết hợp chúng một cách vô nguyên tắc, tùy tiện
Chủ nghĩa ngụy biện: là cách xem xét qua đó đánh tráo cái cơ bản với cái
không cơ bản, cái chủ yếu với cái thứ yếu,… hay ngược lại nhằm đạt được mục 12
đích hay lợi ích của mình một cách tinh vi. Ngoài ra nếu không tôn trọng nguyên
tắc toàn diện ta sẽ dễ sa vào chủ nghĩa bình quân, quan điểm dàn đều, tức không
thấy được trọng tâm, trọng điểm, điều cốt lõi trong cuộc sống vô cũng phức tạp.
II. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN ĐỂ PHÂN TÍCH NHỮNG ẢNH
HƯỞNG CỦA ĐẠI DỊCH COVID-19 ĐẾN CÁC VẤN ĐỀ CỦA ĐỜI SỐNG
XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY. 2.1. Thực trạng
Bệnh do virút corona (COVID-19) là một bệnh truyền nhiễm có thể lây từ
miệng hoặc mũi của người bị nhiễm bệnh dưới dạng các giọt nhỏ khi họ ho, hắt
hơi, nói chuyện, hát hoặc thở. Ta có thể bị nhiễm bệnh khi hít phải virút nếu
đang ở gần người nhiễm COVID-19 hoặc chạm vào bề mặt có virút rồi lại chạm
tay vào mắt, mũi hoặc miệng. Virút dễ lây lan hơn trong nhà và ở những nơi đông đúc.
Dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus Corona (Covid-
19) xuất hiện vào tháng 12/2019 và đến 2020, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã
tuyên bố tình trạng y tế khẩn cấp mang tính toàn cầu.
Từ đầu năm 2021 đến nay, đại dịch COVID-19 với những biến chủng mới,
lây lan nhanh và nguy hiểm hơn, tiếp tục diễn biến phức tạp, khó kiểm soát, tác
động tiêu cực, kéo dài đến hoạt động trong nhiều lĩnh vực trên thế giới, trong đó
có khu vực Đông Nam Á và nước ta.
Ở Việt Nam, ngày 23/01/2020 ghi nhận trường hợp mắc Covid-19 đầu tiên,
sau đó tiếp tục ghi nhận thêm 15 trường hợp. Tất cả 16 trường hợp này đều được
chữa khỏi hoàn toàn. Sau 22 ngày không ghi nhận trường hợp mắc mới, ngày
06/3/2020, Việt Nam phát hiện ca nhiễm bệnh đầu tiên từ châu Âu, cuộc chiến
phòng, chống dịch bắt đầu bước sang một giai đoạn mới (dịch thâm nhập từ
nhiều hướng và đã tiềm ẩn trong cộng đồng). 13
Tuy nhiên, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và qua hoạt động
tuyên truyền của các cấp ủy đảng, chính quyền, nhận thức của người dân về sự
nguy hiểm của dịch bệnh và các biện pháp phòng, chống dịch bệnh ngày càng
được nâng lên, mỗi người dân đều nêu cao ý thức tự phòng, chống dịch bệnh
cho bản thân, gia đình, cộng đồng và cơ bản thực hiện khai báo y tế đầy đủ,
trung thực. Với tinh thần “Chống dịch như chống giặc”, đại đa số nhân dân tin
tưởng vào sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của các cấp ủy đảng, chính quyền;
không hoang mang, dao động trước những thông tin trái chiều, không chính xác.
2.2. Tác động của đại dịch Covid-19
2.2.1. Tác động của đại dịch Covid-19 đến nền kinh tế
Các chuyên gia nhận định dịch Covid-19 đang tạo ra 2 thách thức lớn:
(1) Sự bất trắc gây ra bởi Covid-19, nhất là trong bối cảnh thế giới vẫn chưa
thể đánh giá chính xác được mức độ nguy hiểm, thời điểm kiểm soát được dịch.
(2) Tác động tiêu cực từ các biện pháp ngăn chặn đại dịch.
Hai yếu tố này tác động rất lớn đến kinh tế toàn cầu, từ tình trạng gián đoạn
chuỗi cung ứng, quan hệ cung - cầu, đến việc giảm nhu cầu, thay đổi thói quen
chi tiêu, đi lại của người tiêu dùng, dẫn đến sản xuất đình trệ, thất nghiệp gia
tăng, kéo theo nguy cơ vỡ nợ, phá sản của doanh nghiệp và tâm lý lo ngại rủi ro,
thậm chí hoảng sợ của các nhà đầu tư tài chính.
Tác động đến tăng trưởng kinh tế: Trong thời điểm dịch Covid-19 bùng
phát tại Trung Quốc vào đầu tháng 2/2020, nhóm hàng nông, thủy sản của nước
ta chịu ảnh hưởng rất rõ rệt bởi đây là thị trường xuất khẩu nông, thủy sản chủ
lực của Việt Nam. Cụ thể: Tháng 2/2020, giá trị xuất khẩu hàng thủy sản sang
Trung Quốc giảm 57,21% so với cùng kỳ; hàng rau quả giảm 24,79%; hạt điều
giảm 69,26%; cà phê giảm 14,34%; chè giảm 78,39%...
Tác động đến lạm phát: Ảnh hưởng của Covid-19 đã khiến giá cả của nhiều
mặt hàng có xu hướng biến động khác với thường kỳ. Trong tháng 1/2020, giá 14
cả hàng hóa vẫn tăng khá mạnh ở hầu hết các nhóm hàng, lạm phát Việt Nam
tăng 1,23% so với tháng 12/2019.
Tác động đến xuất, nhập khẩu: Tăng trưởng xuất, nhập khẩu năm 2020
dưới tác động của dịch Covid-19 thấp hơn nhiều so với những năm trước đó, ở
thời điểm 10 tháng năm 2020, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đã giảm xuống còn
4,7%, thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng của năm 2019 là 8,1% .
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ gặp
khó khăn khi tìm kiếm nguồn hàng hóa đầu vào thay thế trong thời gian ngắn.
Điều này sẽ khiến cho xuất nhập khẩu của Việt Nam sa sút và càng khiến tình
trạng thất nghiệp hoặc nghỉ việc tạm thời do thiếu nguyên liệu sản xuất trầm trọng hơn.
Sự sa sút về kinh tế cũng như đóng cửa biên giới tạm thời của Trung Quốc
cũng tác động làm gián đoạn quan hệ giao thương của nước này với thế giới,
trong đó có Việt Nam. Tình trạng xuất nhập khẩu bị đình trệ khiến thuế xuất
nhập khẩu, một nguồn thu ngân sách quan trọng, cũng bị tác động rõ rệt. Theo
Tổng cục Hải quan, trong tháng 2, số thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt
23.700 tỷ đồng, giảm hơn 2.300 tỷ đồng so với tháng 1, bình quân mỗi ngày số
thu 2 tháng đầu năm nay khoảng 1.308 tỷ đồng, ít hơn 150 tỷ đồng so với cùng
kỳ năm 2019. Do ảnh hưởng của dịch Covid-19, hầu hết KNXNK các mặt hàng
có số thu lớn (máy móc, thiết bị, sắt thép, xăng dầu,...) đều giảm.
2.2.2. Tác động của đại dịch Covid-19 đến xã hội
Các biến chủng mới lây lan nhanh, hết sức nguy hiểm, khó kiểm soát đã
ảnh hưởng tiêu cực đến mọi mặt của đời sống văn hóa, xã hội; đời sống vật chất
cũng như tinh thần của nhân dân ta và đặc biệt là đã cướp đi sinh mạng của hàng
nghìn đồng bào, trong đó có cả cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang, các y,
bác sĩ nơi tuyến đầu chống dịch.
Dịch Covid-19 đã, đang và sẽ tiếp tục gây ra hàng loạt vụ phá sản ở mỗi
quốc gia, cũng như trên toàn cầu; kéo theo đó là việc giảm tổng cầu xã hội và 15
gia tăng nạn thất nghiệp, gây áp lực mạnh đến công tác bảo đảm an sinh, thu
nhập, việc làm theo cả quy mô quốc gia và quốc tế. Trong bối cảnh đó, nhiều
nước đã tung ra các gói cứu trợ trị giá hàng tỷ USD để giúp doanh nghiệp và
người lao động vượt qua khó khăn trước mắt… Theo Báo cáo đánh giá sơ bộ
của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): “Covid-19 và thế giới việc làm: Tác động
và giải pháp”, cuộc khủng hoảng kinh tế và lao động do dịch Covid-19 gây ra có
thể làm tăng thêm 25 triệu người thất nghiệp trên toàn cầu, so với số lượng
người thất nghiệp sẵn có là 188 triệu trong năm 2019. Hàng triệu người lao động
sẽ phải rơi vào tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm, giảm giờ làm và tiền
lương, và rớt xuống dưới chuẩn nghèo. Nhóm lao động tự làm ở các nước đang
phát triển, vốn thường là tấm đệm giúp làm nhẹ bớt độ xung của những tác động
do những thay đổi đột ngột mang lại, thì lần này sẽ không còn tác dụng vì những
hạn chế di chuyển đối với con người và hàng hóa. Giảm số lượng việc làm đồng
nghĩa với việc mất đi nguồn thu nhập lớn cho người lao động, ước tính con số
này tương đương từ 860 tỷ USD đến 3,4 nghìn tỷ USD trong năm 2020. ILO
ước tính, sẽ có thêm từ 8,8 đến 35 triệu người lao động rơi vào đói nghèo trên
khắp thế giới, so mức ước tính trước đây cho năm 2020 (là giảm 14 triệu người).
Ngoài ra, tác động của cuộc khủng hoảng việc làm tới một số nhóm lao động sẽ
không đồng đều và làm gia tăng bất bình đẳng. Những người bị ảnh hưởng lớn
bao gồm những người được bảo vệ ít hơn và làm những công việc được trả
lương thấp, nhất là lao động trẻ và lao động cao tuổi. Phụ nữ và lao động di cư
cũng thuộc nhóm này. Lao động di cư dễ bị tổn thương vì họ thường không được
hưởng đầy đủ quyền lao động và an sinh xã hội. Trong khi đó, phụ nữ thường
chiếm số đông trong nhóm các công việc lương thấp và các ngành kinh tế bị tác
động bởi dịch bệnh. ILO cũng kêu gọi thực hiện các biện pháp khẩn cấp, quyết
đoán; trên diện rộng và đồng bộ ở cả ba trụ cột: bảo vệ người lao động tại nơi
làm việc, kích thích nền kinh tế và việc làm, và hỗ trợ việc làm và thu nhập.
Những biện pháp này bao gồm: mở rộng an sinh xã hội, hỗ trợ khả năng giữ việc
làm (như giảm thời giờ làm việc, nghỉ phép có lương, và các trợ cấp khác), giảm
thuế và hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa. hỗ trợ cho 16