Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao | Văn mẫu 11 Cánh diều

Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao được sưu tầm và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo. Mời các bạn cùng theo dõi bài viết. Hi vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích giúp các bạn học sinh trong quá trình học.

Chủ đề:

Văn mẫu 11 256 tài liệu

Môn:

Ngữ Văn 11 1.1 K tài liệu

Thông tin:
27 trang 8 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao | Văn mẫu 11 Cánh diều

Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao được sưu tầm và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo. Mời các bạn cùng theo dõi bài viết. Hi vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích giúp các bạn học sinh trong quá trình học.

71 36 lượt tải Tải xuống
Phân tích tác phm Chí phèo ca Nam cao Ng Văn 11
Dàn ý Phân tích tác phm Chí phèo ca Nam cao
a. M bài
Gii thiu tác phm Chí Phèo và nhà văn Nam Cao.
Dn dt vào vấn đề cn phân tích.
b. Thân bài
Khái quát chung
Xut xứ: Nam cao đt tên cho c phm y là Cái gạch cũ, 1941 đi
lại Đôi la xứng đôi, 1945 sửa li Chí Phèo, in trong tp Lung
cày.
- Tóm tt:
- Đề tài và ý nghĩa nhan đ
- Đề tài: Viết v người nông dân nghèo trước CMT8.
- Nhan đ:
Nhan đề đầu tiên: Cái gạch (nhan đ gin dị, ý nghĩa, nơi ln
đầu tiên phát hiện ra Chí, nơi Chí b b rơi, qui lut hiện tượng Chí
Phèo...).
Nhan đề th hai: Đôi la xứng đôi khi in thành sách lần đầu (NXB Đời
mi, Ni, 1941), nhà xut bn t ý đổi tên Đôi lứa xứng đôi, chủ
yếu to s tò mò và làm cho sách bán chy.
Nhan đ th ba: Chí Phèo do chính Nam Cao thay đổi khi in truyn ngn
này vào tp Lung Cày năm 1946. Ông lấy tên nhân vt trung tâm để đặt
tên truyn.
Ch đề: Qua s phn ca nhân vật Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã lên
án sâu sc hi tàn bạo, chà đạp lên nhân phẩm con người đồng thi
th hiện tình thương yêu sâu sc nim tin vào bn chất lương thiện
ca con ngưi.
- Phân tích
Nhân vt Chí Phèo
+ Quá trình tha hóa trưc khi gp Th N
Trưc khi vào tù:
con người bt hạnh: “... trần trung m ngt.. bên cái gch b
không, người làng nuôi, b Bá Kiến ghen đẩy vào tù...”
con người lương thin: Hn cm thy nhc khi ba kêu hn bóp
chân, c bóp lên trên na, hn từng ao ước “... ao ước mt gia
đình nho nhỏ, chng cuốc mướn cày thuê, v dt vi...”
Sau khi ra tù:
Biến dạng nhân nh: “... cái đầu trọc lóc, cái răng co trng hn, cái
mặt đen cơng cơng, hai mắt ờm gườm, cái ngực phanh đầy nét chm
trỗ...”
Biến dng nhân tính: uống rượu say khướt, đánh nhau, rch mặt ăn vạ,
làm tan nát biết bao nhiêu gia đình...
--> Chính nhà tù thc dân phong kiến là nguyên nhân dẫn đến s tha hóa
v nhân hình ln nhân tính ca Chí Phèo
Ý nghĩa tiếng chi Chí Phèo:
V ni dung: Khao khát mun giao tiếp vi mọi người nhưng b hi
c tuyt.
V ngh thut: To tâm thế tò mò cho ngưi tiếp nhn.
con người lương thin b hi tha hóa thành qu d, b loi ra
khi xã hi con người.
+ Qúa trình mun tr thành người lương thiện sau khi gp Th N
Thc tỉnh lương tâm
Đến vi Th N bng bản năng: ăn nằm vi nhau... ng say dưới trăng.
Nh li quá kh: “hắn ao ước có một gia đình nh.
Ý thức được hoàn cnh bản thân: “... già mà vn còn độc, cái dc bên
kia ca đời...”
Phc thiện: “... mun làm hòa vi mọi người”
→ Từ qu d, thc tỉnh lương tâm thành người lương thiện.
Ý nghĩa bát cháo hành
Th hiện tình thương ca Th N dành cho Chí Phèo.
ngn la nhen nhóm cho tính thin b vùi tt by lâu nay trong con
người Chí. Giúp Chí quay tr v con đường hoàn lương.
Tình cảm nhân đạo của nhà văn.
Th hiện tài năng miêu tả, phân tích tâm lí nhân vt ca Nam Cao.
Chí Phèo chết trên ngưng ca tr thành người lương thiện.
Th N ngăn cản mi tình Chí-Thị: “... ai lại đi lấy thng Chí
Phèo...”
Đến nhà Bá Kiến đòi lương thiện: đâm Bá Kiến ri t sát.
Định kiến hội đối với Chí Phèo: “Thằng nào ch thng y chết thì
không ai tiếc... tre già măng mc, thng y chết còn thằng khác...”
Hình tưng nhân vt Bá Kiến
Tàn bo, qu quyt, lc lõi
Chính sách thng tr: mm nn rn buông, dùng thằng đầu bò tr thng
đầu bò, nm thng có tóc ch ai nm thng trc đu..
Nhân cách ti tin, b ổi, dâm đãng, ghen tuông, độc ác.
--> Điển hình cho loi địa ch ng hào nông thôn VN trước Cách
mng.
Nhng đc sc ngh thut tác phm
Ngôi k: Ngôi th ba đảm bo tính khách quan, to cm giác chân tht
ca câu chuyn.
Cấu trúc đối thoi làm cho tác phẩm cái nhìn đa giọng điệu, đa điểm
nhìn.
Giọng điệu: đa giọng điệu.
Đối lập, tương phản gia các kiểu người, các tính cách sng.
Xây dng nhân vt đin hình.
Kết cu truyn: kết cu vòng tròn, hiện tưng Chí Phèo tiếp tục được lp
li làng Vũ Đại
c. Kết bài
Nêu nhận xét, đánh giá chung về truyn ngn Chí Phèo
M rng vấn đề bằng suy nghĩ và liên tưng ca mi cá nhân
Phân tích tác phm Chí phèo ca Nam cao - Bài làm 1
“Chí Phèocủa Nam Cao kit tác của văn học hin thc phn ảnh đậm t
hi phong kiến đầy ry nhng ti ác bất công, đồng thi khc ha thành
công hình ảnh người nông dân b bần cùng hóa. Đọc nhng trang viết ca Nam
Cao, người đc có th ờng tượng ra đưc bc tranh xã hi phong kiến nhiu
ám nh.
Xuyên sut tác phm hình nh nhân vt Chí Phèo một người nông dân
lương thiện nhưng b hội chèn ép, chà đạp, đẩy đến bước đường cùng thành
k sát nhân. Nam Cao đã để cho nhân vt Chí Phèo xut hiện ngay đu tác
phm bng “tiếng chửi”. Mt lot tiếng chi của Chí Phèo như m màn mt
cuộc đi nhiều tăm tối ca hắn “Hn chi tri, hn chửi đất, hn chi c làng
Vũ Đi. Hn chi đa nào đẻ ra hắn…”.
Chí Phèo sinh ra ti mt cái gạch cũ, được ngưi làng truyn tay nhau nuôi,
đến khi hắn đi cho Kiến. Kiến ghen tuông đã đẩy Chí Phèo vào
tù, nơi đó bắt đầu hình thành nhng oán hn c nỗi đau. Chí Phèo đã dn
đánh mất đi bản thân, đánh mất đi sự lương thin. Sau mấy năm ở tù, CHí Phèo
v làng, tr thành một con người khác. Nam Cao đã khắc ha từng đưng
nét trên khuôn mt của Chí Phèo, như phản nh s đau lòng của chế độ s
tha hóa ca một đời người. Chí Phèo xut hiện “Cái đầu thì trọc lóc, răng co
trng hn, hai mắt gườm gườm trông gm chết”. Hình ảnh người nông dân
hiền lành đã biến mt sau những năm tháng ở tù.
hội đã ớp đi nhân cách, bản tính lương thiện c ưc muốn làm người
ca Chí Phèo. Hn tr v t nhà tù, biến thành mt k chuyên đi rạch mặt ăn vạ,
hắn phá tan đi bao nhiêu gia đình làng Đại. C làng ai cũng s hn, b
mt gm giếc và hành động tàn bo.
Cuc sng ca một con người thay đổi hoàn toàn, hn ly ngh rch mặt, đâm
thuê chém mướn m ngh sng. Chí Phèo b người làng xa lánh, hn tr v
làm cho nhà Kiến. Li mt ln nữa người đọc thy đưc s bế tắc, bước
đường cùng ca Chí Phèo. Hn li tr v nơi ngày xưa đã đy hn vào cnh
cực như y giờ. l đây chính s bế tc của người dân thp c hng
trong xã hi phong kiến.
Nam Cao đã rt thành công khi xây dng thành công nhân vật Chí Phèo. Đây là
hình tượng điển hình cho s tha hóa trong hi phong kiến, s bế tc, cùng
đường lc li.
Nhưng Nam Cao đã không để cuộc đời Chí Phèo dng li đó, tác giả đã khơi
gi s khát thèm yêu thương, khát thèm cuc sống như một con người nơi hắn.
Tình hung truyn Chí Phèo gp Th N n chui sau ln hn uống rượu
say khướt. Th N xut hin với bát cháo hành đã khiến người đọc vn cm
thấy còn chút gì đó hi vọng cho mt cuộc đời bình d. Th N xu xí, thô kch,
nhưng lại là vết sáng trong cuc đời tăm tối ca Chí Phèo. S xut hin ca Chí
Phèo thc s ý nghĩa rất lớn đối với Chí Phèo, đánh thức lương tri, đánh
thc bản tính ơng thiện ca hắn. “Bát cháo hành” một chi tiết ngh thut
giàu giá tr nhân văn, cho tình người còn lp lánh gia xã hi thi nát.
Sau khi gp g vi Th N, hn thy cuộc đi ngoài kia tht tốt đp, nghe thy
những người đàn đi chợ đang nói chuyện. Hơn hết có mt chi tiết, mt suy
nghĩ khiến người đọc chùng xuống “Hắn thy già yếu, bnh tật, độc còn
đáng sợ hơn cả đau m bnh tật…hắn khát khao làm hòa vi mọi người”. Có lẽ
đã đến lúc hn nhn ra cn mt cuc sng như mọi người, không phi rch mt
ăn v na. Cuc sng bình d y nhưng với Chí li quá xa vi.
hi phong kiến nghiệt ngã, không để cho Chí Phèo được làm người lương
thin khi ca Th N xut hin. phản đối chuyn Th N Chí
Phèo, còn dùng nhng t cay độc đ mng m Chí Phèo. Bà cô là hin thân ca
hi phong kiến, c tuyệt khát khao m người, quyết dồn Chí vào c
đường cùng. Chính điều này đã khiến cho Hắn đau, rơi vào tuyệt vng và quyết
tìm đến nhà Bá Kiến để giết Bá Kiến.
Hình nh ám ảnh người đọc hình ảnh Chí Phèo giãy đành đạch, nm gia
vũng máu sân nhà Kiến. Hn giết Kiến t kết liu cuộc đời mình.
Trưc khi chết Chí phèo còn hét lên “Ai cho tao làm người lương thiện”, xã hội
này không cho, con người cũng không cho. Đúng một bi kịch qđau lòng
đối với người nông dân trong xã hi đy ry bt công.
Nam Cao vi ngòi bút sâu sắc đã xây dựng nhân vt đin hình trong xã hi đin
hình như kéo người đọc v vi thi k đau thương của đất nước ta hồi đó.
Ngh thuật đặc t tính cách, hành động đã khiến cho truyn ngn thêm sinh
động, hp dn.
Phân tích tác phm Chí phèo ca Nam cao - Bài làm 2
“Chí Phèo” chỉ mt truyn ngn mt truyn ngn sáng tác trong nhng
ngày đầu mi cm bút ca Nam Cao viết v đề tài nông dân, nhưng tác phẩm
chính s tng hp, kết tinh đỉnh cao của ngòi bút nhà văn. thể nói rng,
“Chí Phèo” một bn án cáo trạng đanh thép đối vi mt hi phong kiến
đầy bất công đã đẩy người nông dân vào con đưng bn ng hóa trưc Cách
mạng. Đồng thi, tác phẩm cũng mt câu chuyn chứa đựng nhiều ý nghĩa
nhân văn sâu sắc.
Trưc hết, tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao đã khc ha tn bi kch ca
người nông dân trước Cách mng. Trong tác phẩm y, Nam Cao không đi vào
nn u thuế hay thiên tai dch họa nhà văn lại hướng đến một phương din
khác, đó hình tượng người nông dân c ng b hi phá hy v tâm hn,
hy dit c nhân nh b ph nhận cách làm người. Ni thng kh ghê
gm ca Chí Phèo chính b ớp đi hình hài của một con ngưi, b đẩy ra
khi hội loài người phi sng kiếp sống đớn đau như thú vật. Chí t mt
anh canh điền lương thin khe mnh, hu h Ba, khiến c ghen ghét
đẩy vào lao tù. T đây, con đưng tha hóa của người nông dân cht phác bt
đầu như trượt dc không phanh. Ra khỏi tù, ngưi ta không nhn ra thng Chí
Phèo trước đây nữa thay vào đó một hình hài qu d: “Cái đầu thì trc
lốc, cái răng cạo trng hn, cái mặt thì đen rất cơng cơng, hai mắt gườm
gườm […]. i ngực phanh đầy nhng nét chm tr rồng, phưng vi mt ông
ng cm chùy, c hai cánh tay cũng thế. Trông gm chết!”
Vi ngòi bút hin thực, nhà văn Nam Cao đã chỉ ra rằng, để tn ti thì nhng
người nông dân hin lành khn kh đã dần tr nên lưu manh hóa bt cn.
H không ch b tha hóa v nhân hình mà còn b tha hóa c v nhân tính.
tù về, Chí như biến thành mt con qu d, chuyên rch mặt ăn vạ, la làng m
ĩ. Tr thành tay sai đòi nợ cho Kiến: “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cnh
yên vui, làm chy máu nước mt ca biết bao nhiêu người dân lương thiện”.
Không nhng thế, những hành động man y hắn đều làm trong lúc say: “ăn
trong lúc say, ng trong lúc say, […] đập đu, rch mt, giết người trong lúc
say”. “Những n say của hn tràn t cơn này sang cơn khác thành những cơn
dài mênh mang” khiến cho hắn chưa bao giờ tỉnh táo để ý thc v nhng vic
mình đã và đang làm.
Chính tr thành “con qu d của làng Đại” mà tất c mọi người đều c
tránh xa hn, ngay c khi hn “kêu làng, không bao gi người ta vội đến” bởi
đã quá quen với cnh hắn la làng ăn vạ. Không ai thèm chi nhau vi hn,
không ai công nhn hn, ngay c Th N ngưi ph n “xu ma chê qu hn”
cũng không cần hn. Khi y, hn mi tnh ng nhn ra bi kịch thê lương của
mình: bi kch b c tuyt quyền làm người. Hắn kêu lên: “Ai cho tao lương
thin? Làm thế nào cho mất được nhng vết mnh chai trên mt này? Tao
không th người ơng thin na”. Đó những câu hỏi đầy cay đắng
không li giải đáp. Lương thin của con người trong chính mỗi người
chúng ta. Vy Chí li phải đi “đòi” ơng thiện. Chính cái hi nhân
tính đã cưp mất lương thiện và còn khn nạn hơn, ngay cả cái quyền được làm
mt con ngưi t tế cũng bị xã hi y tước đoạt mt.
Qua tn bi kch ca Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã cho người đọc thy mt
hin thc xót xa v cuc sng và s phn của người nông dân trước Cách mng.
Đó chính cuộc sng bế tc bần cùng, người nông dân t tha hóa đã dẫn
đến lưu manh hóa. Phn ánh bi kch ấy, nhà văn Nam Cao cũng chỉ nguyên
nhân là mu thun xã hi sâu sắc đã đẩy người nông dân đến bước đưng cùng.
Trong tác phm, một bên, nhà văn y dựng hình tượng giai cp phong kiến
thng tr mu thun vi một bên người nông dân lương thiện nghèo đói.
Hình tượng điển hình cho giai cp phong kiến thng tr nông thôn chính
nhân vt Kiến. Chân dung lão ng hào cáo già Kiến dn dn hin
trong tác phm những nét tính cách được th hin hết sức sinh động, đầy n
ợng. Đó cái lối quát “rất sang”, lối nói ngt nht nhất “cái cười Tào
Tháo”. Chính sách cai tr ca hn rt khôn ngoan, ro hoạt: mềm nn, rn
buông”, “bám thng có tóc, ai bám thng trọc đầu”, “chỉ bóp đến na chừng”
“hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng ri li vớt lên đ
đền ơn”, dùng thằng đầu để tr nhng thằng đầu bò, bởi “Khi cần đến ch
cho m hào uống rượu th sai đến tác oai tác quái bt c anh nào
không nghe mình”… Tt c đã cho thấy tâm địa thâm độc ti ghê s ca
Kiến, li dụng cái ác đ trc lợi cho mình dùng cái ác để làm nên cái ác ln
hơn.
Trong khi giai cp thng tr lọc lõi khôn đời thì người nông dân thp c
hng lại lâm vào đưng cùng, tr thành nn nhân b bóc lt b đy vào con
đường tha hóa đến ti nghip.
B đẩy vào tù mt cách oan c, ra tù, Chí muốn tìm đến nhà Bá Kiến đ tính s.
Vy t ch hung hăng đòi “liu chết vi b con” lão Kiến, ch sau my
câu ngt nht my hào l ca c Bá, Chí Phèo đã trở thành mt tên tay sai
mi ca lão. y dng nên hình tượng nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã cho
người đọc thy được s phn, tình cnh của người nông dân trưc Cách mng
b hi phong kiến đy bất công đẩy vào con đường tha hóa, b c hết giá
tr cách của một con người. Mâu thun giữa người nông dân giai cp
địa ch y được đẩy lên cao trào khi Chí đã nhận ra người đã đẩy mình đến
cnh tha hóa chính là Bá Kiến và ngưi cn giết cũng chính là lão ta.
Tuy Chí Phèo đã thức tỉnh được tình cnh tha hóa ca mình và nhn diện được
k thù của mình nhưng lúc đó đã quá muộn. Đây ng chính một bi kch
đau đớn của người nông dân và ca một con người. “Chí Phèo” mt bn cáo
trạng đanh thép đối vi hi phong kiến bt công đã đẩy con ngưi ta con
đường tha hóa ng cc nht. Tuy vy, nhưng tác phẩm cũng mt minh
chng v tình yêu thương và s thc tỉnh lương tri của con ngưi.
Tình c gp Th N trong một đêm say đã khiến Chí tr thành một con người
khác. Sáng hôm sau tnh dy, Chí cm thấy bao nhiêu điều mi m: thy tiếng
chim hót vui v, tiếng huyên náo ca những người đàn đi chợ, tiếng anh
thuyền chài mái chèo đuổi cá. Hn thy lòng “bâng khuâng”, “mơ hồ bun”
lần đầu tiên cm thy s tuổi già, đói rết, ốm đau độc. Đưc Th N
chăm sóc, thương yêu, hắn bng nh lại ưc v mt mái m gia đình
“chng y thuê cuốc mướn, v nhà dt vải” thời trai tr. th thy rng,
Th N người đàn dở hơi, xấu ma chê qu hờn nhưng lại người
không h chê bai Chí, là người săn sóc, quan tâm đến anh ta mt cách du dàng
ân cn nht. Chính tình yêu ấy làm cho “Xu e l thì cũng đáng yêu”,
làm cho con qu d bao năm đã biến mất, thay vào đó một con ngưi khao
khát lương thiện, khao khát làm ngưi chân chính.
“Hay mình sang đây vi t một nhà cho vui” như một li cu hôn ca Chí
vi Th N. y t mong mun y mt cách rt chân thc, gin d cht
phác đúng kiểu mt anh nông dân, Chí mong muốn được làm li t đầu, được
sng mt cuộc đời khác, cuộc đời nh d giống như bao người Th N
chính cu nối, người vun trng cùng hn xây dng. Phi nói rng, tác gi
đã khéo lựa chn nhng chi tiết đắt giá để qua đó thể hin ý nghĩa của s hi
sinh và khẳng định sc sng của thiên lương, lương thiện trong mỗi con người.
Phát hin miêu t tài tình s thc tỉnh lương tri ca Chí Phèo chính mt
thành công ngh thuật đặc sc ca Nam Cao.
Thế nhưng, điều đáng nói con người đã biết hoàn lương nhưng hội y li
không th nào chp nhn li h được na. Chí Phèo va mới ước v mt
gia đình thì đã b Th N tt ngay cho một o nước lnh. Chí hiu rng,
mình c gắng làm sao đi nữa thì cũng không thể xóa hết nhng ti li
mình y ra, không th nào tr v hòa nhp vi cuc sống đưc na. Ý
thức được điều này, cũng là ý thức đưc k gây ra bi kịch cho mình, Chí đã tìm
đến nhà Kiến kết liu lão ta c chính mình. Điều y tt yếu bi l,
cánh cửa hoàn lương của Chí đã đóng sầm trước mắt. Để gii quyết s bế tc
đó, Chí chỉ còn cách là kết thúc cuộc đời mình và k gây nên ti ác. Cái chết y
là cái chết ca mt bi kịch đau đớn trước ngưng ca tr v làm ngưi, là tiếng
kêu cu v quyền làm người.
Vi tác phm “Chí Phèo”, Nam Cao không ch phơi bày bộ mt xã hội đen tối,
bất công nhà văn còn đồng cm vi nhng bi kch kh đau của người nông
dân thp c họng trước Cách mạng. Đồng thời nhà văn cũng kịp thi phát
hin trân trng v đẹp m hn của con người khao khát thay đổi thc ti
để vươn đến mt cuc sng tt đẹp hơn.
Phân tích tác phm Chí phèo ca Nam cao -Bài làm 3
Chí Phèo câu chuyn v đon cui cuộc đi ca một con người trong hi
thc dân phong kiến diễn ra đưc ghi li bi Nam Cao (1917 - 1951), mt
ngòi bút bc thy cách nay đã hơn sáu mươi năm.
M đầu c phm Chí Phèo xut hiện trong thế khật khưỡng ca k say rượu
vừa đi vừa chi. Hn chi vung tt c. Chi tri, chửi đời, chi c làng Vũ Đại,
chi những đứa khng chi nhau vi hắn. Đây chính do đ ngay phn tiếp
theo, tác gi k v lai lch ca Chí. Hn vốn đứa tr t khi mới đẻ ra đã bị b
rơi trong cái gạch hoang, được người làng nht v nuôi, đi cho nhiu
nhà khác nhau, cuối cùng đến năm 20 tuổi thì v làm canh điền cho Kiến.
th ghen tuông, nghi cho ba vn tính lẳng tình vi anh canh
điền kho mnh, Bí Kiến cho người bt Chí gii lên huyện và đẩy vào lao tù.
Ngay sau khi về, Chí đã uống ợu say khướt ri cm v chai đến cng
nhà Kiến (lúc này Kiến đã bộ) chửi Cường con trai Kiến
xông ra hành hung Chí, đưc th Chí đã dùng mảnh chai rch mặt ăn vạ. Đang
thế, Kiến xut hin, lên ging mắng Cường ri dùng li ngon ngọt để an
i Chí, li mi Chí vào nhà tiếp đãi cơm rượu hậu hĩnh, cho Chí một đổng bc
đem về Chí cùng h hê. T đó, khi nào hết tin hn, lại đến ăn vòi. Ln th
hai, Chí đến nhà Bá Kiến xin đi ln na vi cách lp luận đi tù còn có cơm
ăn, làng mảnh đất cm rùi cũng không cái ăn cũng không, Bá Kiến li
dùng hội y nh hắn đi đòi nợ Đội Tảo 50 đồng và ha sẽ, vườn cho
Chí. Sau khi Chí hoàn thành việc được giao, Bá Kiến cho vài hào uống rượu và
ct cho hắn 5 sào vườn bãi sông. Lúc y Chí mi 27, 28 tuổi. Cũng bắt đầu
t đây, Chí trờ thành k đâm thuê chém mướn, mt công c đắc lc ca
Kiến nhm c hiếp dân lành thanh toán nhng k máu mt trong làng
nhưng không cùng vây cánh. Chí Phèo đã thực s tr thành "con qu d ca
làng Vũ Đi", ai ai cũng đu s hn và tránh mt hn.
Mt ln trong bui tối sáng trăng, sau khi được uống rượu vi T Lãng, hn tr
v túp lều ven sông định bước xung tm, tình c nhìn thy Th N đang nằm
ng. Th người nghèo rt mồng tơi, xấu ma chê qu hn li ngẩn ngơ như
người đần trong c tích. H đã ăn nằm với nhau đánh thc tình cm bình
thưng ng mong mun làm một người bình thường trong Chí. Nh th tình
cảm y bao nhiêu ước hin lành thi trai tr bng thức đậy, hn mun
có mt t m gia đình bình dị. Ri Chí b cm. Th N đã ân cần chăm sóc, nu
cháo hành cho hắn ăn giải cảm... Tưởng được bn lâu, nào ng ch được vn
vẹn năm ngày, đến ngày th sáu, th N đi buôn chuyến tr về. đã xỉ
v mng nhiếc th đã biết được chuyn gia Th với Chí Phèo. Do đấy, Th
N đến mng Chí Phèo b mc Chí trong tuyt vng. Thế ri Chí khóc, Chí
lại tìm đến u, Khi say hn dắt dao vào lưng, nói đi đâm chết “nó", tức
đâm chết hai cháu nhà Th Nở. Nhưng bước chân khật khưng ca Chí c
thế đến nhà Kiến. Hn xông vào Kiến, vung dao đòi làm người lương
thiện. Trong cơn tỉnh say cuối cùng y. Chí đã vung dao đâm chết Kiến
cũng t kết liu cuc đi mình.
Nghe tin hai cái chết, trong lúc bao ngưi, o k h hê, Th N ngđến Chí
“sao lúc hiền như đất nh li những lúc ăn nằm vi hắn”. Thị lo mình
cha. Khép li câu chuyn nh nh th nhìn nhanh xung bụng “đột
nhiên th thy cái lò gch thoáng hin, xa nhà ca và vắng bóng người qua li”
Đây mt truyn ngắn dung ng hiên thực được phn ánh trong trng
thái dn nén, cha nhiu mâu thun, vi nhiu nhân vt, nhiu lp thi
gian..., mang tm vóc ca mt tiu thuyết. Có th phân tích theo vấn đề ý nghĩa
nhân sinh ca truyn, th phân tích theo tuyến nhân vt, hoặc cũng phân
tích tng mi quan h gia nhân vt chính Chí Phèo với làng Đại mt
s nhân vt quan h trc tiếp (Bá Kiến, th Nở). Đâu đi theo con đường nào
cũng cn m ni bt ngh thut xây dng tình hung, ngh thut miêu t
nhân vt ngôn ng truyn. Sc mnh ca truyn ngắn trước hết chi tiết.
Cách phân tích dưới đây cố gắng đi theo tình huống này.
Làng Đi, mt hình nh thu nh ca hi phong kiến nông thôn Vit
Nam trước cách mng. V kết cu ngôn ng truyện. Trưc nht phi k đến
kết cu. Nếu xét v kết cấu hình tượng, truyện Chí Phèo cũng có một ct truyn
th k được nhưng điều đáng nói đây là kết cấu văn hán truyện. Nam Cao
đã rất có ý thc sáng tạo huy động kết cu tham gia vào vic y dng nhân
vật cũng như đắp bi thêm by, b sâu các lớp nghĩa cho tác phm. Th nht,
Nam Cao s dng kết cấu vòng tròn. Đó là sự tr li chi tiết “cái gạch b
hoang” phn kết truyn hình nh cái gch b hoang nơi Chí bị b rơi lúc
mới đẻ phần đầu truyện được nhà văn sử dụng để cho Th N đột nhiên thy
thoáng hin ra khi nhìn xung bng, s nh may mình cha. Kết truyn nay
sc gi rt lớn. Điu y nếu không phi kh năng tái sinh ca Chí
Phèo? Chng nào còn tn ti cái hi kiểu làng Đại thì chừng đó sẽ còn
ny nòi ra loại người như Chí. Môi trường này cần được thay đi. Nếu như đặt
vấn đểy cu ly nhân cách con người thì rõ ràng phi bắt đầu t vic cu ly
môi tờng đã hu hoi nhân cách. Th hai, các thành, phn li trn thuật được
xáo trn, lắp ghép, đan xen không luân theo trình tự tuyến tính ca ct truyn.
Nam Cao bắt đầu bng hình nh Chí khật khưng say và vừa đi vừa chi; Chân
dung nhân vật bước đu hin ra vi những đưng nét tht ấn tượng, buộc người
đọc chú ý và ham mê theo dõi ngay lp tc.
V yếu t ngôn ng truyn nhiều điều th bán được nhưng đây chỉ xin
đơn cử mt cách thc s dng ngn ng hết sc sáng tạo độc đáo kiểu Nam
Cao. Ông đã đan xen, trn ln li nhân vt lời người k truyn, nhiều đơn vị
lời văn thể ca nhân vt va của người k chuyện. Điều y tác
dng rt lớn cho phép nhà văn soi quét, lách sâu vào thẻ gii ni tâm rt phc
tp tinh tế ca nhân vt. Nh vy chân dung nhân vt hin ra hết sc chân
thc sống động. Ch cần đơn cử đoạn m đầu truyện đã thấy th pháp
ngh thut s dng ngôn ng đan xen, hoà trộn như thế’ nào. Đây một
thut ca ngôn ng tiu thuyết hiện đại không phải nhà văn cùng thi nào
với Nam Cao cũng đã biết s dng. Hiu như vậy mi thy s cách tân
đóng góp vào thuật tiu thuyết ca Nam Cao thc s không nh
nhiều ý nghĩa cho nn tiu thuyết Vit Nam hiện đại.
Tóm li, ch vi tác phẩm Chí Phèo đã dù thy Nam Cao trong bui mt k ca
ch nghĩa hiện thực phê phán nước ta đã công đưa lên một tm cao mi
v c ni dung và ngh thut trưc khi nó im tiếng.
Phân tích tác phm Chí phèo ca Nam cao -Bài làm 4
Ch mt truyn ngn, li là truyn ngn sáng tác sm ca Nam Cao v đề tài
nông dân, nhưng Chí Phèo s tng hp, s kết tinh ca ngòi bút Nam Cat v
đề tài này. Nếu như Nam Cao có th được coi "nhà văn của nông dân" , cùng
vi Ngô Tt Tố, thì trưc hết vì ông có Chí Phèo.
Khác vi truyn ngn cùng đề tài ca tác gi, Chí Phèo phm vi hin thc
được phn ánh tri ra c b rng không gian (mt làng quê) c b dài thi
gian. Có th nói, làng Vũ Đi trong truyn chính hình nh thu nh ca xã hi
nông thôn Việt Nam đương thời.
Những năm 1940 - 1945, nông thôn vn một đề tài lớn trong văn xuôi khu
vc hợp pháp. Các nhà văn đã đi vào đề tài này theo chiều hướng khác nhau.
Trưc hết là đi vào phong tục tp quán dân quê, s lục đục gia v c v l,
m chng nàng dâu, gh con chng, anh em, chú bác, cu
những đứa cháu bên ni, bên ngoi.
Trên bi cnh chung của văn học hin thc thi 1940 - 1945, Chí Phèo
mt hiện tượng đột xuất. Giông như Tắt đèn, Bước đường cùng, Giông t....
thi Mt trn dân chủ, Chí Phèo cũng "bc tranh hi rng ln vi nhng
xung đột giai cp quyết lit". Tác phm y n tượng đậm nét v tính đầy đặn,
đa dạng nhiu màu sc ca bc tranh v đời sông xã hi nông thôn.
Song, dng lên bc tranh hi nông thôn, Nam Cao trưc hết tp trung ni
bt mối xung đột giai cấp đối kháng gia bọn địa ch ng hào thng tr
người nông dân b áp bc bóc lt. Tức là, cũng như tác gi Tắt đèn, c
cùng.... Nam Cao đã phn ánh hin thc nông thôn trên bình din mâu thun
giai cp.
Chí Phèo ca Nam Cao đã xây dng một hình ợng đin hình khá hoàn chnh
v giai cp phong kiến thng tr nông thôn: Bá Kiến.
Chân dung lão cường hào cáo già Kiến dn dn hin trong tác phm
những nét tính cách được th hin hết sc sinh động, đầy ấn ợng. Đó khái
quát "rt sang" ("bắt đầu bao gi c cũng quát để th y thn kinh mi
người"), li nói ngt nht, nhất "cái cười Tào Tháo" ("c vn t ph n
đời cái cười Tào Tháo y") - tt c đều cho thy bn cht gian ng ca lão
ờng hào "khôn róc đời" y. Nam Cao cũng hé cho thấy tư cách nhem nhuốc
ca "c tiên chỉ": đó là thói ghen tuông thm hi của lão cường hào háo sc
s v - lão cay đắng nhn ra mình "già yếu quá " "bà Tư" thì "c tr, c
phây phây", "nhìn thì thích nhưng mà tưng tc l... khác nhai miếng lt
st khi rng gn hết răng". Đó là chuyện lão g gc ti t đối với ngưi v lính
vng chng... Và b sung vào đó, để cho s thi nát ca nhà "c Bá" được hoàn
chỉnh, còn "Bà Tư" quỷ cái "thường gọi canh điền lên bóp chân li "c
bóp lên trên, trên nữa''... Nhà văn chỉ k qua, nh nhàng, - tuy khôngm thâm
thúy, ch không sa đà trong việc soi mói đời tư thi tha của lão cường hào.
Ông tập ưung ngòi bút vào việc soi sáng bn cht hi ca nhân vt, ch yếu
th hin trong mi quan h với người nông dân b áp bức. Đoạn độc thoi ni
tâm rt mực sinh động ca "c tiên ch làng Đại" v cái "ngh tng lí"cho
thy Nam Cao chng nhng soi thấu tim đen của nhân vt còn t ra hiu rt
sâu các mi quan h hi nông thôn. Kiến đã lặng l nghin ngm v
ngh thng tr, rút ra t bốn đời tng những phương châm, thủ đoạn thng tr
khôn ngoan: "mm nn, rn buông", "bám thng có tóc, ai bám thng trọc đầu",
"th nht s k anh hùng, th hai s k c cùng liu thân", "ch bóp đến na
chng", "hãy ngm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng rồi li dắt lên để
đền ơn"... Còn đây chính sách dùng ni ca lão: "không nhng
thằng đu thì ly ai tr nhng thằng đu bò", "thu dng nhng thng bt
mng không s chết và không s đi tù. Những thng y chính nhng thng
được vic. Khi cần đến ch cho dăm hào uống u th sai đến tác
oai tác quái bt c anh nào không nghe mình (...). chúng sinh chuyn thì
mi có dịp ăn.... "... Tất c đều nhm sao cho va bóp nặn được nhiu nht,
va gi chc cái ghế thng trị. Tâm địa thâm độc ti ghê s ca Kiến còn
th hin trong vic hn nh nhàng "khích" Chí Phèo đòi nợ đi Tảo, đẩy nhng
k sẵn sàng đâm chém y vào ch chém nhau, để k nào sng "cũng lợi c
c"! Bá Kiến tht là mt con h biết cưi!.
Vch kh cho người nông dân b áp bc bóc lột, Nam Cao không đi vào nan
sưu thuế, nn chiếm đot ruộng đất, nn tc, quan tham li nhng, thiên tai
địch ha.... Chí Phèo nhiu truyn nữa, nhà văn đi vào một phương khác:
người nông dân b hi tàn phá v tâm hn, hy dit c nhân tính, do đó, bị
ph nhn giá trị, cách làm người. Ni thng kh ghê gm ca Chí Phèo
không phi ch tt c cuc đời người nông dân c cùng này ch là mt không:
không nhà, không ca, không cha không m, không h hàng thân thích không
tấc đất cm dùi, c đời không h biết đến một bàn tay chăm sóc của đàn nếu
không gp Th N..., chính ch anh đã bị hi rch nát c b mt
người, cướp đi linh hồn người, để b loi ra khi hội loài người, phi sng
kiếp sng tối m của thú vt. M đầu truyn hình nh hết sc sống đng,
độc đáo của Chí Phèo khật khưng vừa đi vừa chửi. Nhưng đng sau cái chân
dung say rượu chi lm nhảm đưc v bng những nét bút ởng đâu
họa gây cười y, nếu đọc kĩ còn thể thy một cáinhư là sự vt ca mt
linh hồn đau đớn, tuyt vng. Không, tiếng chi ca Chí Phèo không hn
bâng quơ. Hắn t "chi trời" đến "chửi đời" ri "chi ngay tt c làng
Đại..." .Và hn bng tc ti khi thy "không ai lên tiếng cả"... Trong cơn say
hn vn cm thấy tuy hồ thm thìa "nông ni" khôn kh ca thân phn.
Đó "nông nỗi" không ngưi nào chu chi li hắn! nghĩa tt c mi
người đã dứt khoát không coi hắn là người. Chi li hắn nghĩa là còn thừa nhn
hắn người, còn bng lòng giao tiếp, đối thoi vi hn. Chí Phèo chi c
làng vi... hi vọng được người nào đó chửi li. Nhng tín hiu yêu cu giao
tiếp phát đi liên tục đó chỉ gp s im lặng đáng sợ. vn còn li mt mình
Chí Phèo trong sa mạc đơn: Hắn c "chi ri li nghe", "ch ba con chó
d mt thằng say rượu!...
Cnh m đầu đột ngt ca thiên truyện đó chẳng nhng đã giới thiu hp dn
tính cách độc đáo của nhân vt còn thy tình trạng bi đát ca mt s
phận. Chí Phèo trưc hết mt hiện tượng tính quy lut, tính ph biến, sn
phm ca tình trng áp bc bóc lt tàn t nông thôn Vit Nam trước đây. Đây
hiện tượng những người nông dân lao động b đè n thái quá đã chống tr
lại để tn ti bng con đường lưu manh. Kiến đẩy anh canh điền hin lành
vào tù; nhà thc n - ch da tin cy ca bn phong kiến trong việc đàn áp
nông dân - đã tiếp tay lão ờng hào để giết chết phần người trong con người
Chí, biến Chí thành Chí Phèo, biến một người nông dân lương thiện thành mt
con qu d. Vi ngòi bút hin thc tnh táo ông vch ra rng, những người
nông khn kh phi giành ly s tn ti sinh vt bng vic bán c nhân phm
ấy, đã tr thành lực lượng phá hoi quáng, d dàng b bn thng tr thâm
độc li dng, thế Chí Phèo t ch hung hăng đến nhà Kiến, tuyên b
"liu chết vi b con" lão, ch cn my câu nói ngt xt, chuỗi cười Tào Tháo
my hào chỉ, đã trở thành tên tay sai mi ca lão. Hiện tượng ma mai, đau
xót rt ph biến tính quy lut ngòi bút phân tích hi u sc Nam
Cao đã vạch ra.
Giá tr điển hình, sc mnh t eáo to ln của hình tượng Chí Phèo trưc hết
ch làm ni bt lên cái hiện tượng tính quy lut vn hng din ra hi
nông thôn đầy bt công và tội ác đương thời đó. Vấn đ ca Chí Phèo là vn đ
nông dân - với ý nghĩa đó, vn có th nói Chí Phèo là một hình tượng điển hình
v nông dân.
Truyện ban đầu đưc tác gi đặt tên Cái gạch cũ; hình nh cái gạch
được xut hin phn m đầu c khi kết thúc truyện. ràng đó ý nghệ
thut ca Nam Cao. Cái gạch cũ như mt biểu tượng v s hin tt yếu
ca hiện tượng Chí Phèo, gn lin vi tuyến ch đề chính ca tác phm.
Câu chuyn mi tình Chí Phèo - Th N qu hp dẫn đặc bit. Song mc
giọng văn bông lơn, có lúc như chế giu, mặc dù đối vi mt s người, đó là sự
hp dn ca loi truyn tình b hi ca hng nữa người ngợm, ngưu tầm ngưu
tm mã, "đôi lứa xứng đôi", thì đây vẫn tht s truyn mt ni dung
hết sc nghiêm túc, cha đng một tưởng nhân đạo tht mi mẻ, độc đáo
đem lại cho tác phm mt tm vóc bt ng.
Ban đầu, Chí Phèo đến vi Th N mt cách rt... Chí Phèo. Trong một đêm
"rười rưi nhng trăng", có những tu chui nm ngửa ưn cong cong lên hng
lấy trăng xanh rười rợi như ướt nước, thnh thong b gió lay li giãy lên
đành như "hứng tình", Chí Phèo rt say và cm thy "bt rt", "nga ngáy"
da thịt, đã xông tới người đàn khốn kh "di dột đã nm nh ch ng
ngay gn nhà hn". Khi Th N ht hong kêu làng, thì "cái thng trời đánh
không chết y lại kêu to hơn, "va kêu va dn người đàn bà xuống"! Trâng no,
lợm đến thế cùng! Nhưng điu diệu đã xảy ra là, nếu như ban đầu, Th
N ch khơi dậy bản năng giống đực đàn ông Chí Phèo, thì sau đó, sự
chăm sóc giản d đầy ân tình ng yêu thương mộc mc chân thành ca
đàn khốn kh ấy đã m thức dy bn chất lương thiện của người lao động
trong Chí Phèo. Đoạn văn viết v s thc tnh ca linh hn Chí Phèo sau cuc
gp g vi Th N, một đoạn tuyệt bút, đầy chất thơ tập trung th hiện
ởng nhân đạo sâu sc bt ng cùa ngòi bút Nam Cao.
Sáng hôm y, Chí Phèo tnh dy muộn lòng "bâng khuâng", "mơ h bun".
Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, Chí Phèo mi li nghe thy tiếng chim hót vui
v, tiếng i nói ca nhng người đi chợ, tiếng anh thuyn chài n chèo
đuổi cá...Nhng âm thanh quen thuc trong cuc sống lao động xung quanh y
hôm nào ch có, nhưng hôm nay bng tr nên vang đng sâu xa trong lòng Chí
Phèo, tr thành nhng tiếng gi tha thiết ca cuc sng vẳng đến bên tai ln
đầu tiên tnh táo ca anh. Cuc gp g vi Th N đã lóe sáng như một tia chp
trong cuộc đời tăm tối dng dc của CPhèo. Dưới ánh sáng ca tia chp y,
Chí Phèo bng nhìn tt c cuộc đời mình: nhng ngày xưa "rất xa xôi " đã
từng "ao ưc có một gia đình nho nhỏ. Chng cuốc mướn cày thuê. V dt vi,
chúng li b mt con lợn đ làm vn liếng! Khá gi thì mua dăm ba sào ruộng
làm". Cái hin tại đáng bun: "già mà vẫn độc", cái tương lai còn đáng bun
hơn: "đói rét ốm đau độc cái y còn đáng s hơn đói rét ốm đau".
Nếu như bao nhiêu năm nay, Chí Phèo "bao gi cũng say", "say tận", "có l
hắn chưa bao giờ tnh táo, để nh rng hn đi", thì hôm nay lần đầu tiên
Chí Phèo tnh táo, tỉnh táo để t ý thc v thân phận. Trước đi CPhèo sống
và hành động hoàn toàn vô thc, hn không th biết và không cn biết hn là
và đã làm những gì: "hn không biết rng hncon qu .. của làng Đại, đ
tác quái cho bao nhiêu dân làng (...). Hn biết đâu làm tt c nhng vic y
trong khi người hn say... Gi đây, lần đầu tiên, Chí Phèo nhn ra s hin hu
của mình, đối mt với chính mình, đồng thời, cũng lần đu tiên, nhn ra s
bế tc tuyt vng ca thân phn mình. Khi thy Th Ni bưng cháo hành đến,
hn "rt ngc nhiên" hết sức xúc động uBi ln này ln th nht hn
được một người đàn cho". Hắn ăn bát cháo từ tay Th N và bng nhn thy
rằng cháo hành ăn rất ngon. Bởi hương vị cháo hành này chính là hương v
ca tình yêu thương chân thành, ca hnh phúc gin d, mà có tht, ln đầu tiên
đến vi Chí Phèo. Lần đầu tiên, Chí Phèo mắt "như ươn ướt", "ôi sau hn
hin, ai dám bo đó là thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rch mt ca mình". Tr li
anh canh đin trong trắng năm xưa cảm thây b xúc phm khi b cái ba
"qu cái" gi lên bóp chân, tr lại anh nông dân lương thiện từng ước cuc
sống gia đình hạnh phúc hết sc bình d khiêm nhường trong lao động... "Đó
cái bn tính ca hắn ngày thường b lấp đi... "
Như vây , lòng yêu thương, cái tình người chân thành đã làm sng li trong
Chí Phèo cái bn chất đẹp đ của người nông dân lao động, bao lâu nay b cho
lp, vùi dập nhưng vẫn không tt. Bọn ng hào nhà thc n, nói rng
ra c cái hi tàn bo y, ra sc giết chết cái "bn tính tt" y ca anh
"Trn tri gia by sói", anh không th hin lành, trong trắng, mà để tn ti anh
phải cướp giật, ăn vạ, đâm chém. Muốn thế phi liu mnh, nhng th y
Chí Phèo tìm u. Chí Phèo luôn luôn say, " hn say thì hn làm bt c
cái người ta sai hn làm" - xét cho cùng, Chí Phèo không chu trách nhim
v những hành động ca mình: linh hn của anh đã bị ớp đi rồi.
Nhưng m nay, tình yêu đã thc tnh anh linh hồn anh đã trở v. Anh thy
"thèm lương thin", "mun làm hòa vi mọi người biết bao!", Anh như rưng
rưng bn ln trong s phc sinh ca linh hồn đó. Anh mong được nhn vào
cái hi bng phng, thân thin ca những người lương thiện". Tình ca Th
N chng những đã thức tĩnh anh còn mở cho anh con đưng tr li m
người, tr li cuc đi, và anh hi hp hy vng.
Đã hơn một ln, Nam Cao viết v nhng mi tình ca nhng k b c hi
mit thị, lăng nhục độc ác: Lang Rn - m Lợi, Đức - Nhi, Chí Phèo - Th N...
Tuy vn gi giọng văn khách quan, hài hước, nhà văn đã dứt khoát đứng ra làm
luật cãi trắng án cho những con ngưi bt hnh, b mọi người ht hủi đó,
nht khi h b ném vào tình thế nhc nhã, tr thành cái đích cho những mũi
tên chế giễu độc ác ca người đời đầy thành kiến mu muội. Ông đã đanh thép
bênh quyền được yêu ca h và khẳng định tính chính đáng ca nhng mi tình
như thế. Có gì là không chính đáng nếu như những con người trong khi b c
hội xua đuổi y đã đến vi nhau, tìm thy nhau s giao cm, chia s ni lòng?
nếu tình yêu chân chính tình yêu làm nhân đạo hóa con người, nâng cao
sống, thì đã mấy ln tình yêu tác dụng nhân đạo hóa diu, cảm động
như mối tình Th N - Chí Phèo? Chng phải tình yêu thương tuy đơn giản,
phn thô l ca người đàn bà xu xí y đã gọi dy linh hồn người trong con qu
d Chí Phèo, đưa hắn t cõi địa ngc tr v cõi người đó sao? Chẳng phi mt
s hóa gii thn nào mà ch mt tình yêu rt mc trn tục, nhưng tình
yêu đích thực con người, tht lành mnh, khe khon. típ ngh thut y
được x bng một tưởng nhân đạo ln lao mt bút lực phi thường, ch
có Nam Cao.
tưởng nhân đo hút lực phi thường đó còn thể hin đoạn văn miêu tả
tn bi kch tinh thn ca Chí Phèo. Truyn ngắn đầy hp dn y càng v cui
càng đặc bit hp dn; không phi ch vì ct truyn, tình tiết đầy tính kch, biến
hóa khôn lưng, mà còn vì tầm tư tưởng càng ngày càng nâng cao mt cách bt
ng ca tác phm.
Nhiều người cũng nói đến Chí Phèo như một bi kch s phn, song nếu hiu
cho cht ch, chính c thì ch t nhân vật này đã thức tnh linh hn, khao khát
tr lại làm người nhưng b c tuyt lnh lùng, thì ch đến khi đó, Chí Phèo mới
tht s rơi vào tình thế bi kch: bi kch của con ngưi b t chối không đưc
làm người.
Khi hiu ra rng hi không công nhn mình, Chí Phèo vật đau đớn. Hn
li uống, nhưng điều l là, hôm nay "hn càng ung càng tnh ra". Đúng hơn là
tuy say, trong tâm thc Chí Phèo lúc y vn một điềm tnh: ni đau khôn
cùng v thân phn, "hn ôm mặt khóc ng rức". Rồi như để chy trn bn
thân, chy trn nổi đau, hắn "li ung... li uống... đến say mềm người". Ri
hắn đi với mt con dao vừa đi vừa chửi... như mọi ln. Nhưng li hoàn toàn
khác mi ln: hôm nay, Chí Phèo qun quại đau đớn tuyt vng, càng thm
thía n bao giờ ti ác ca k thù, đã đến thẳng trước Kiến "trn mt, ch
tay vào mt" lão, dõng dạc đòi quyền làm người, đòi lại b mặt người đã bị
vm nát ca mình. K chết ý thc nhân phẩm đã trở v, anh không th chp
nhn tr li kiếp sông thú vật được nữa. Chí Phèo đã chết trên ngưỡng ca tr
v cuc sng, chết trong tâm trng bi kịch đau đớn. Thế là, trước đây, để bám
li s sng, Chí Phèo phi t b nhân phm, bán linh hn cho qu; gi đây, ý
thc nhân phm thc dy, linh hn tr v. Nhiều người nghi ng tâm ng ca
Nam Cao đối vi nông dân, thy người nông dân của nhà n phn nhiu
xu xa d tn. Vy chính những người khn kh b mt tính cách
không mấy "đáng yêu" đó, nhiều khi ý thc nhân phm còn mạnh hơn cả cái
chết. Lão Hc b ngoài dường như lm cm, gàn d nhưng o đã lng l tìm
đến cái chết để gi trn lòng t trng trong cảnh cùng đường (Lão Hc). Lang
Rận cũng tìm đến cái chết không chu ni điều nhục nhã đang chờ ông ta
hôm sau (Lang Rn) và đây là Chí Phèo?
Chí Phèo đã chết qun quại trên vũng máu trong niềm đau thương vô hn, khao
khát lớn lao, thiêng liêng được làm người lương thiện đã không thực hin
được. Li nói cui cùng ca Chí Phèo, vừa đanh thép, chất cha phn n va
mang sc thái triết học âm điệu bi thống đầy ám ảnh, làm người đời sng s
day dứt không thôi..."Ai cho tao lương thiện?". Làm thế nào để con người
được sng cuc sống con người? Đó "một câu hi ln không lời đáp chẳng
nhng Kiến không th hiu hi khi y cũng chưa thể tr li Câu hi
ấy được đặt ra mt cách bc thiết, day dt trong hầu như toàn bộ sáng tác Nam
Cao trước cách mạng. đt ra bng một tài năng lớn, độc đáo, khiến cho
nhiu sáng tác ca Nam Cao - trước hết Chí Phèo - thuc vào nhng trang
hay nht ca nền văn xuôi Việt Nam.
Phân tích tác phm Chí phèo ca Nam cao -Bài làm 5
"Khi Chí Phèo ngật ngưỡng c ra t trang sách của Nam Cao, người ta mi
thấy đây hiện thân đầy đủ nht cho nhng gi cùng kh của người dân
cày trong mt hi thuộc địa: b dày đạp, cào xé, hy hoi t nhân tính đến
nhân hình." (Nguyễn Đăng Mạnh). Người ta vẫn coi Chí Phèo như một hin
ng l của văn học đời sng, mt sáng tạo đặc bit ca Nam Cao qua
đó, bao lớp hin thc được lt d, bao tầng tư tưởng đưc cày xi.
"Chí Phèo" tht s đã đưa tên tui ca Trn Hu Tri chính thc tr thành Nam
Cao. Vn một nhà văn hiện thc đến sau, bước vào làng văn khi mảnh
đất v người nông dân đã đưc lt xi nhiu ln, Nam Cao vẫn cày đưc nhng
đường y thật đẹp nâng tác phm ca mình tr thành tuyt tác. Tôi cho
rng "Chí Phèo" là tác phm Nam Cao viết hay sâu sc nht v người nông
dân bi tính hin thc và tư tưởng nhà văn gửi trong đó.
Đi theo cách nhà văn muốn dn dắt người đọc, Nam Cao đã đẩy Chí Phèo ra
gia sân khu cuộc đời vi trng thái say chi - mt trng thái đy ấn tượng
ám nh: "Hn vừa đi vừa chi. Bao gi cũng vậy, c u xong hn
chi." Hn - cái cách Nam Cao gi Chí Phèo - mt k đang đằm mình
trong men ợu và đối thoi với đời bng tiếng chi. Tiếng chi có lp có lang,
gn xa, t chi tri, hn chửi đời, ri chi sang c dân làng Đại, chi
đứa nào không chi nhau vi hn, sau cùng chửi "đứa chết m nào đã đẻ
ra hn". Tiếng chửi như đã tr thành quy lut sng ca mt k say, Nam Cao đã
cho ta thy trng thái tn ti c th nht ca nhân vt, thy được chất lưu manh
trong con người hn, và phn nào thy được bi kch b c tuyt ca Chí Phèo.
Trong tiếng chi dường như sự độc. Dân làng Đại không ai ra điều,
đáp lại hn ch tiếng sa ca ba con chó d. Chí Phèo b gch n ra khi
hội chăng? Vì đâu mà hắn b c xã hi ghê s và lng tránh? Nhng câu hi gi
m Nam Cao đặt ra t đầu truyện đã cho ta lần bưc tìm hiu v nhân vt...
Chí Phèo vn là mt thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường
hào làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang b b rơi từ lúc
mi lt lòng, Cđưc mt bác phó cối không con đem v nuôi. Bác phó ci
chết, Chí t c thân, hết đi cho nhà y lại đi cho nhà khác. Không cha
không m, không mt tấc đất cm dùi, Chí ln lên như cây c, chẳng đưc ai
ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh đin cho nhà Kiến, Chí được
tiếng hiền như đất. nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết
đâu phải trái, đúng sai, đâu tình yêu và đâu sự dâm đãng đáng khinh bỉ.
Mi ln b m v ba Kiến bt bóp chân, Chí "ch thy nhc ch yêu đương
gì". Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng ước mt cuc sng gia
đình đơn giản đầm m: "Chng cuốc mướn cày thuê, v dt vi. Chúng li
b mt con lợn để làm vn liếng. Khá gi thì mua dăm ba sào ruộng làm". Thế
nhưng cái mầm thin trong con người Chí sm b quật ngã và không sao gưng
dậy được. Đó là lúc Chí b Bá Kiến đẩy vào tù ch vì một cơn ghen bạo chúa, bi
kịch lưu manh hóa cũng bắt đu t đó.
Chí ra tù, mang theo s biến đổi nhân hình nhân tính đến méo d dng.
T một anh canh điền khe mnh, Chí tr nên một đứa "đặc như thằng săng
đá", với "cái đầu trc lốc, cái răng cạo trng, cái mt câng câng, con mắt gườm
gườm. Người ta ởng như mt con qu d v làng. Chui ngày sau khi ra tù,
hn ngp ln trong trng thái tinh thần say miên man. Ăn trong lúc say, ng
trong lúc say, đập đầu, rch mt, chi bi, da nạt trong lúc say. Đau đớn hơn,
s tha hóa không ch hiện lên thành hình, còn đang dần gm nhm t bên
trong khi Chí đã tự mình bán r linh hn cho Kiến. Tr v làng Đi,
cái mảnh đất quần ngư tranh thực, ln nut y, Chí Phèo không th
hin lành, nhn nhục như trưc na. Hắn đã nắm được quy lut ca s sinh tn:
nhng k cùng đinh càng hiền lành càng b c hiếp đến không th ngóc đầu lên
được. Phi d dn, lm, tàn ác mi mong tn ti. Vy ch sau nhng li
mi d ngt nht ca tên gian hùng lọc lõi như Kiến, Chí đã tr thành mt
tay đi đòi nợ thuê, chém giết thuê. "Hắn đâu biết hắn đã phá bao nhiêu
nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đ bao nhiêu hnh phúc, làm chy
máu nước mt của bao người dân lương thiện". Chí Phèo đã thực hiện đúng
mưu đồ ca cha con nKiến: "Ly thằng đầu để tr nhng thằng đầu
bò". Chất Người trong hắn dường như đã cạn kit, linh hn qu xâm chiếm
tàn phá hn.
Nhưng cũng chính t bi kch y mà ta nhìn thy bn cht, b mt ca c mt xã
hi - mt hi nhân vi nhng những con ngưi cn sạch tính người, mt
hội Trọng Phng gọi "chó đểu". đó, những tên cường hào ác
như Kiến nm mi quyn lc, th tuyệt đường sng của người dân
lương thiện bt c lúc nào, nhà thc dân bt vào một người lương thin
th ra mt con qu d, những người như dân làng Đại khước t s
dung np và chp nhn mt người như Chí Phèo.
ởng như Chí đã trượt dài lún sâu trong tn bi kịch đời mình, nhưng Nam
Cao vn đủ tin tưởng trái tim nhà văn vẫn rất nhân đạo khi "c tìm mà hiu"
chất Người trong tâm hn ca mt k mà phần Con đã chiếm thế. Đó là lúc Chí
gp Th N - một người đàn xấu ma chê qu hn của làng Đại. Qua cái
đêm ăn nằm như vợ chng vi th, Chí tnh dy bao nhiêu s hồi sinh đã
được đánh thc. Hi sinh ý thc v không gian, thi gian, v tình cm tiếng
nói con ngưi. Lần đầu tiên trong cuộc đi, Chí nghe thy "tiếng chim hót
ngoài kia vui v quá. tiếng cười nói ca những người đi chợ. Anh thuyn
chài gõ mái chèo đuổi cá". Cũng lần đầu, hn ý thức được v tui tác ca mình,
v hin tại "đã già vẫn còn độc", v quá kh với ước lành thiện khi
xưa, về tương lai với "đói rét, ốm đau độc". Con người y lần đầu
nhng cm giác rất ngưi, thc dy c v ơng tri lương m. Hắn biết lo,
biết s, biết xúc động ng rưng trước bát cháo hành ta nồng hơi m, biết ăn
năn hối ci v ti ác ca mình. Chính bàn tay ca một người ph n dòng
dõi m hủi đã cứu đỡ hn ra khi b vc tha hóa, đ ri không ch bc l bn
chất lương thin vn luôn sẵn trong con người, Chí Phèo còn tri dy c
khao khát hoàn lương - tr v vi hội loài ngưi. Hn tin rng "Th N s
m đưng cho hn"; "Th th làm hòa vi hn sao mọi người li không th".
Chưa bao giờ, ước muốn được quay tr v làm người lương thiện li mãnh lit
đến thế. Chính đôi mắt tinh tế tm ng cảm thương của Nam Cao đã nhìn
thy mm thin ca một con người vn sống lương thiện, b hi tàn ác vùi
dập và đày đọa.
Nhưng hiện thc vn hin thc. Ngòi bút trung thành vi hin thc ca Nam
Cao đã không chối b mt s tht khác, rng sng trong hội đầy ry nhng
định kiến c h lc hậu, con người không th sng yên ổn theo đúng nghĩa.
Mt ln nữa, Chí Phèo rơi vào bi kch b c tuyt quyền làm người bởi định
kiến ca Th Nở. Người đàn y đã dõng dạc tuyên b rng: "Trai làng
đã chết hết hay sao đi đâm đu ly mt thng không cha, ly mt thng ch
có mt ngh là rch mt ăn v". Cái loa ca đnh kiến làng đã đưa bước chân
Th N đến t chi thng thng khát vọng hoàn lương hnh phúc ca Chí
Phèo. Giây phút nhân vt na tin na ng, na say na tnh, c níu mà không
th giữ, bàng hoàng đến đau đớn đã biến Chí Phèo tr thành mt k tht s ti
nghip và đáng thương. Thị N ớc đi, cánh cửa dn li v hội loài người
đóng sầm ngay trước mặt. Chí Phèo tìm đến tên k thù ln nht của đời mình
để tr thù cũng kết liễu luôn đi mình. Chết là mt kết cc bi thảm đau đớn,
nhưng lẽ tt yếu khi sng trong hội đầy nhơ nhuốc y. Không được dung
np vào hội chung, Chí Phèo cũng không th tr li làm qu d, bởi ơng
tri ơng tâm đã trở v. Chí chết mi cách gii quyết tt nht,
thật đau đớn. Đó là cái chết bo toàn nhân phm, cái chết cnh tnh cho c mt
hội, để ri ngày nay, tiếng hỏi "Ai cho tao lương thiện?" vn không ngng
vang vng và ám nh.
Để làm nên thành công ca tác phm trong vic xây dng nhân vt, không th
không k đến ngh thut phân tích m bc thy ca Nam Cao, ngh thut
kết cu linh hot theo dòng m s dng những đoạn độc thại, đối thoi
phù hp. Ngòi bút của Nam Cao đã điển hình hóa mt kiểu người, mt s phn
trong hội, để ngà nay Chí Phèo vẫn cái tên đầu tiên khi người ta nh v
Nam Cao.
Bài làm 6
Khi nhn định v các tác phm ca Nam Cao, Nguyn Hoành Khung cho rng:
“Trong mảnh sáng tác v nông dân của Nam Cao, người đọc thường gp nhng
nhân vt xu xí, thô l cc cn nhng chuyn nhc nhã ca h. Chính thế
mà mt s ngưi t ra hoài nghi giá tr hin thc và nhân đo ca ngòi bút Nam
Cao, biết đâu rằng, chính với đám nhân vật “có vấn để” đó cái nhìn hin
thc và quan điểm nhân đo của nhà văn mi th hiện rõ, đầy đủ nhất”.
nhân vt Chí Phèo trong tác phm cùng tên ca Nam Cao mt nhân vt
“có vấn đề” như thế, nhưng chính những lời văn tác giả viết v nhân vt
này và nhng bi kch y phi chịu đựng đã thể hin đưc giá tr hin thc
nhân đạo sâu sc ca tác phm mà Nam Cao mun gi gm qua nhân vt này.
Chí Phèo mt tuổi thơ thật bt hnh: Ngay t khi chào đời, Chí Phèo đã
một đứa con hoang, b b rơi trong cái lò gạch cũ và không biết cha m mình
ai. Chí ln lên nh s đùm bọc, cưu mang của dân làng. Lớn lên Chí đi hết
nhà này đến nhà n. C như thế, Chí ln lên bình yên gia những người dân
nghèo kh nhưng hiền lành. Chí cũng ước riêng của mình, đó một
gia đình nho nhỏ “chng cuốc mướn, cày thuê, v dt vải”.
Đến năm hai mươi tuổi, Chí tr thành mt chàng trai v đẹp toàn vn t
ngoi hình mnh khỏe cho đến ni tâm hiền lành. Nhưng rồi Chí đi làm cho
nhà Kiến cũng chỉ chuyn ghen tuông v vn Chí b đẩy vào tù, sau
bảy, m năm biệt tích tr v làng gi đây Chí Phèo đã hoàn toàn thay đi t
ngoại hình cho đến tính cách.
Ngoi hình ca Chí thật đáng sợ: cái đầu co trc lốc, cái răng cạo trng hn,
cái mặt thì đen và rất cơng cơng, hai mắt gm gm trông gm chết. Ngoi hình
y n cha một tính cách đã hoàn toàn thay đổi, không còn tính cách “lành như
đất” nữa gi đây hắn chuyên đi đập đầu, rch mặt ăn v, hn lấy rượu để
bu bn vi mình rồi trong cơn say hắn đến nhà Kiến để tr thù nhưng
kết qu ca c hai ln là hắn đã bị Bá Kiến “ru ngủ” bằng rượu, tht và tin.
ri t đó, Chí rơi vào trng thái mất phương hướng, không biết ai k thù
ca cuộc đời mình và li tiếp tiếp tục rơi vào cái bẫy mà Bá Kiến đã giăng sn,
hn vào Kiến ri khi ra li tiếp tc biến mình thành tay sai cho
chính k thù ca mình, còn gì nhục nhã hơn là điều đó.
C thế, cuộc đi hắn trượt dài trong nhng bi kch, hn không làm ngoài
vic rch mặt, ăn vạ để đòi tiền, đ đâm chém những ai không cùng phe cánh
vi c Bá. Cuộc đời hắn chìm trong cơn say, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong
lúc say và đánh nhau trong cơn say, “hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đập v
bao nhiêu hnh phúc, làm chy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện”.
C như thế đời hắn trượt dài, nhìn vào mt hắn người ta không biết hn bao
nhiêu tui. Cuộc đời hắn đã xem như bỏ đi, nhân hình bị hy hoi, nhân tính
b xói mòn. C làngĐại đu tránh mt hn mi ln hắn đi qua. Ngay cả bn
thân hắn cũng quên sự có mt ca hn trên đời.
Nhưng rồi người nông dân b lưu manh hóa y cuối cùng cũng đã thức tnh.
Trong tâm hồn tưởng chừng như chai đá y ca Chí vn còn le lói mt ánh
sáng của lương tâm, lương thiện ch cần hội thôi s bng sáng.
Nam Cao đã cho Chí một hội để ánh sáng y dp bừng lên, đó cho Chí
được gp g vi Th N. Chính cuc gp g y, s chăm sóc ân cần ca Th
cùng bát cháo hành ng hổi nghi ngút khói đã m sống dy bn chất lương
thin ca Chí.
Đưc Th N chăm c, Chí Phèo rt ngạc nhiên xưa nay nào hn thy ai
t cho ai cái gì, hn phi da nạt hay cướp git mi có. Lần đầu tiên khi tnh
gic, hn bâng khuâng nghe tiếng chim t, tiếng cười nói ca những người đi
ch và cùng với đó là khát vọng đưc sng mt cuc sống khác, được hòa nhp
cùng mọi người, h s nhn hn vào cái hi bng phng, thân thin ca
những người lương thiện. Hn t đặt ra câu hi cho mình: hn th làm bn
được sao li ch gây thù? Th N chính người mà Chí đặt nim tin vào, Chí
tin Th N s là chiếc cu ni giúp Chí tr v vi cuc sống đó.
Nhưng rồi, khát khao sng mt cuc sống lương thiện ca hn va mới được
nhen nhóm thì đã bị dp tt. Chiếc cu ni y đã bỏ hắn đi chỉ vì li nói ca
bà cô: “đàn ông đã chết hết c ri hay sao li phi ly mt thng không cha,
không m ch biết rch mặt ăn vạ”, bỏ li Chí vi nỗi đau khổ đến tt cùng, hn
đau xót nhận ra rng s chng còn chiếc cu nào mang hn v vi cuc sng
ca những người lương thiện na.
Nhng li l cuối cùng đã bộc l tt c bi kch ni tâm của Chí: “Tao muốn
làm người lương thiện (…). Không được! Ai cho tao lương thin? Làm thế nào
cho mất đưc nhng mnh chai trên mt này? Tao không th người lương
thin na. Biết không!”.
Và cui cùng, bi kịch đã biến thành thm kch. Tột đỉnh ca s kh đau đã biến
thành tột đỉnh ca s căm thù, uất hn. Chí thy k thù trước mắt cướp đi tình
yêu ca hn chính là bà cô Th N nhưng trong sâu thm tâm hn l hn vn
ý thức được ai mi chính k thù y nên mt chui dài bi kch ca cuộc đời
mình.
Hắn xách dao đến nhà Th N nhưng lại đi thẳng đến nhà Kiến, Chí
Phèo đã đâm chết Kiến ri t kết liu cuộc đời mình. Trong s bế tắc đến
tột cùng, Chí đã t tìm ra lối thoát cho riêng mình, đó cái chết, chết để kết
thúc tt c bi kch ca cuc đi Chí.
Nhân vt Chí Phèo nhân vt tiêu biu cho s phn của người nông dân trong
hi nông thôn Việt Nam trưc cách mng tháng m. Nam Cao đã thể hin
tấm lòng yêu thương, trân trọng của mình đối vi nhng người s phn bt
hnh. sâu thm trong m hn h chính s khát khao hạnh phúc, đưc yêu
thương và sống mt cuc sng tốt đẹp hơn.
Bài làm 7
Trưc Cách mng tháng Tám, nhiu tác phm thuộc dòng văn học hin thc
phê phán viết v s phận người nông dân ra đời như Tắt đèn của Ngô Tt T
vi ch Dậu, Bước đường cùng ca Nguyn Công Hoan vi anh Phan,...
không th không k đến Nam Cao vi hàng lot tác phm xut sc v người
nông dân Việt Nam. Trong đó nổi bật hình tượng nhân vt Chí Phèo trong
tác phm cùng tên Chí Phèo.
Trưc Cách mng tháng Tám, nhiu tác phm thuộc dòng văn học hin thc
phê phán viết v s phận người nông dân ra đời như Tắt đèn của Ngô Tt T
vi ch Dậu, Bước đường cùng ca Nguyn Công Hoan vi anh Phan,...
không th không k đến Nam Cao vi hàng lot tác phm xut sc v người
nông dân Việt Nam. Trong đó nổi bật hình tượng nhân vt Chí Phèo trong
tác phm cùng tên Chí Phèo.
Chí Phèo vn mt thanh niên hiền lành, lương thiện, đứa con hoang b b
rơi lúc mới lọt lòng. Chí được một bác phó cưu mang đưa Chí về nuôi rồi đến
khi bác phó chết, Chí không cha, không m, không mt tấc đất cm dùi, sut
ngày đi cho nhà này ri sang nhà khác, chẳng được ai ban cho chút tình
thương.
Thời gian Chí Phèo đến m canh điền cho nhà Kiến, Chí được mi người
khen hiền như đất, không được học hành nhưng Chí phân biệt đúng sai,
phi trái khi trong nhà Kiến. Mi ln b m v Kiến gi vào bt bóp
chân, Chí "ch thy nhc ch yêu đương gì", Chí hiểu được đâu là tình yêu, đau
là s dâm đãng đáng khinh rẻ.
Cũng như bao nhiều khác, Chí cũng về mt cuc sống gia đình ấm áp nơi
“Chồng cuốc mướn cày thuê, v dt vi. Chúng li b mt con lợn đ m vn
liếng. Khá gi thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Nhưng ri tt c b vùi dp
cuộc đời Chí trượt theo vết dài khi Chí b Kiến đẩy vào con đưng tù ti ch
vì s ghen tuông bo chúa, b kch ca cuc đời Chí Phèo cũng bắt đu t đó.
Ngày Chí ra vi s biến dng nhân hình, s tha hóa nhân cách đến méo
d dng. Chí t mt thanh niên khe mnh, hin lành, tr thành một đứa “đặc
như thằng săng đá”, vi “cái đu trc lốc, cái răng co trng, cái mt câng câng,
con mắt gườm gườm". Mọi người nhìn Chí như một con qu trong làng, Chí b
mi người xa lánh, đi đến đâu cũng bị xua đuổi.
Chí ngp ln trong nhng cơn say miên man, ăn trong lúc say, ngủ trong lúc
say, cy cái say đi đập đầu, rch mt, chi bới, ăn vạ, da nt mọi người.
Tr v làng Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, bon chen, chèn ép con
người đến nght th, CPhèo không sng hin lành, nhn nhục như ngày xưa
được na.
Hn lì lm, hung d, tàn bo thế nên ch sau nhng li d d của tên địa ch
lọc lõi như Kiến,, Chí đã trở thành một tay đòi n thuê, chém giết thuê,
làm mi th không s một ai. Chí đã m theo mưu đồ ca cha con nhà
Kiến Lấy thằng đầu để tr nhng thằng đầu bò”. Dường như Chí ca
ngày xưa chết hn ri, Chí ca bây gi không khác gì con qu d, mt linh hn
qu đang tàn phá trong con người Chí Phèo.
ờng như qua từng chi tiết càng bc l hơn bản cht, b mt ca hi
ngày a- mt hội nhân đo vi những con ngưi sng không tình
người, mt hội Trọng Phng gi vi cái tên khinh nhưc "c
đểu". Nơi những tên địa ch như Bá Kiến nm hết mi quyn lc, thm chí
h còn quyết định được s sng của người khác, khi mng sống con người
không được bảo đảm.
ng Chí Phèo c mãi đi theo, trượt dài trong bi kch cuộc đời mình nhưng
nhà văn Nam Cao đã không m thế, ông vẫn tin tưởng sâu thm trong phn
con ca Chí vn tn ti chất người. Và dường như phần người của Chí được th
hin khi gặp được đúng người cm thông, dang rng vòng tay vi Chí.
Đó lúc Chí gặp Th N - mt người đàn xấu ma chê qu hn của làng
Đại. Qua cái đêm định mnh gia Chí Phèo Th N, thc dy vào sáng sm
Chí như đưc hi sinh. l lần đầu tiên t khi ra tr v, Chí mi lng nghe
"tiếng chim hót ngoài kia vui v quá. Có tiếng cười nói ca những người đi chợ.
Anh thuyền chài gõ mái chèo đui cá". Lần đầu Chí ý thc v tui tác, bn thân
mình "đã già mà vẫn còn cô độc".
ờng nhưtrí và lương tâm được đánh thức bừng sáng trong con ngưi Chí.
Một con người đâm thuê, chém mướn không biết sợ, không chút suy nghĩ
ng chừng như sống không tình, không người nhưng Chí đã xúc động rưng
rưng nước mắt khi bưng trên tay bát cháo hành tỏa nồng hơi ấm.
Chính bàn tay, chính nh ngưi của người ph n xấu đã cứu vt mt con
người tha hóa thc tnh, đánh thức phần ngưi trong Chí thc dy. Chí Phèo
khao khát hoàn lương- tr v vi hòa nhp vi hi, vi cộng đồng. Hn
mang mt lòng tin rng chính Th s là ngưi m đường cho hắn. Chưa bao giờ
ước mun, khao khát muốn được làm người lương thiện li mãnh lit, mnh m
trong Chí đến thế.
Nhưng hiện thc vn hin thc, trong cái khung cảnh, tưởng lúc by gi
Nam Cao không th ri thc tế mà b mc những định kiến c h lc hậu được.
Khao khát hoàn lương chưa kp thc hin, mt ln na Chí Phèo rơi vào bi kch
b c tuyt quyền m người bi li nói ca ca Th N “Trai làng đã
chết hết hay sao đi đâm đầu ly mt thng không cha, ly mt thng ch
mt ngh là rch mặt ăn vạ”.
Nhng lời định kiến ca làng xã, nhng li nói của đưa Th N đến t
chi khát vọng hoàn lương hnh phúc của Chí Phèo. Trong cơn na say na
tình, c níu không th gi, Chí Phèo tr thành mt k đáng thương tội
nghip. Th N quay lưng bước đi cũng chính lúc cánh cửa hoàn ơng của
Chí đóng sập li. Chí li ngập trong cơn say tìm đến k đã đẩy Chí thành
mt ngưi thân tàn ma di đ tr thù và cũng kết liễu luôn đời mình.
Chết là cái kết quá đau thương nhưng nếu sng mà làm con qu d trong cái xã
hội đầy nnhuốc y thì cái chết chc s cách gii quyết tt nhất. Đó cái
chết để bảo toàn lương tri, lương tâm, cái chết thc tnh c mt hi phong
kiến c h để rồi câu nói "Ai cho ao lương thiện?" vang vng ám nh mãi
không nguôi. Đúng một bi kịch quá đau lòng đối với người nông dân trong
xã hi đy ry bt công.
Để làm nên một "Chí Phèo" thành công vang bóng đến tn hôm nay ngoài
ni dung, ý nghãi ca tác phm còn phi k đến s thành công trong vic y
dng nhân vt, phân tích tâm lý nhân vt, cách s dng ngôn ng linh hot, vn
dụng đối thoại, độc thoi phù hợp để bc l được hết thông điệp nhà văn muốn
gi gm. Ngòi bút hin thực Nam Cao đã đưa đến cho người đọc nhng dòng
cm xúc chân thc nht, phải chăng thế khi nhắc đến Nam Cao thì Chí
Phèo s làm người ta gi nh đầu tiên.
Hình tượng nhân vật Chí Phèo trong trang văn của Nam Cao giúp ngưi sau
hiểu được phn nào cuc sống khổ, chà đạp, hy hoại con người đến tn
cùng. Qua đó th hiện được tên tui, ngòi bút tài hoa của nhà văn Nam Cao.
Bài làm 8
Là một nhà văn luôn băn khoăn trăn tr v cách sng và cách viết, Nam Cao đã
từng tuyên ngôn “Sống đã rồi hãy viết”. Một nhà văn muốn viết được nhân đạo
trưc hết phi sống cho nhân đạo bi cuộc đời quyết định đến văn chương.
Nam Cao luôn nhìn đời bằng đôi mắt ca tình thương, đôi mắt ca lòng nhân ái.
Vi cách nhìn đi này, Nam Cao bt đu cm bút sáng tác.
Trưc Cách Mng, Nam Cao viết v hai đề tài, đề tài người nông dân đề tài
người trí thc tiểu sản. đề tài nông dân hay nht, tiêu biu nht phi k
đến sáng tác đầu tay ca Nam Cao, tác phm Chí Phèo. Linh hn ca câu
chuyn nhân vật ng tên được nhà văn miêu tả vi mt tn bi kch b c
tuyt quyền làm người: Sinh ra người nhưng không được m người, c đời
khao khát lương thiện, cui cùng tr thành k bt lương.
Thông qua bi kch b c tuyt quyền làm người ca hn nông dân Chí, ngòi t
Nam Cao bc l mt ngòi bút nhân đạo, nhân văn, sâu sc cao cả. Người
ta thường nói bi kch mt hoàn cnh bi thảm, bi thương, bi đát nào đó, điều
này không chính xác. Bi kch vốn đưc hiu nhng khát vng chân chính,
cháy bng, mãnh lit ca một con người nhưng không có điều kin thc hin
trên thc tế, cuối cùng người mang khát vng b rơi vào kết cc ca mt thm
kch.
Bi kch cuộc đấu tranh dai dng, không khoan nhượng gia thin ác, gia
ánh sáng bóng ti, giữa cao thưng thp hèn, giữa chính nghĩa phi
nghĩa. Trong cuộc sống thường ngày, thương nht, bi kch không din ra gia
các lc lưng xã hi đu tranh vi nhau.
Trái li nó là lc lưng tinh thần trong đời sng m hn ca một con người,
như nhân vật Chí Phèo trong tác phm cùng tên của nhà văn Nam Cao, c đời
hắn khao khát lương thiện, cui cùng tr thành k bất lương, sinh ra ngưi
nhưng không được làm người, để ri hn chết trên con đường tr v lương
thin.
Cuộc đời con ngưi mt chui biến động liên hoàn mà chúng ta không th
phân tách hay chia ct được.Tuy nhiên cuộc đời mỗi con người được hình
thành bi những điều kin, hoàn cnh . những điều kin ln, hoàn cnh
ln,bn cht con ngưi mới được bc l bởi nói như H.Balzac: Bản cht ca
con người thường b bánh xe ca s phận che đậy, và khi lao vào bão t, tt
hay xu, t nó bc lộ.”
Cuộc đời Chí Phèo lúc sinh ra đến lúc chết đi được chia làm hai chng
đường: chặng đưng đầu tiên t lúc Chí sinh ra đến năm hai mươi tui sau
khi ra tù. Lai lịch Chí Phèo được m ra trong câu chuyn một đứa tr xám
ngắt, được bc trong mt tm y đụp bên cnh gch b hoang, được người
th ống lươn đem về trong mt bui sớm tinh sương. Lớn lên, Chí Phèo đưc
cưu mang bởi những con ngưi nghèo khổ, Chí Phèo đi hết nhà này cho đến
nhà khác, t bà goá mù cho đến ông Phó Ci.
Quá kh y không khiến Chí Phèo tr thành một đứa tr hỏng, trái lại, đến
năm hai mươi tuổi, khi đi làm hắn chắn điền cho nhàKiến, Chí Phèo vn gi
nguyên bn tính ca một người nông dân thun hậu. Cũng như biết bao người
nông dân làng Đại, Chí Phèo ước đưc mt cuc sng bình d bi
ước ca một con người phn nào bc l bn tính của người y. đây, Chí
Phèo ước mơ có một cuc sng nho nh, chng cuốc mướn cày thuê, v dt vi.
Chúng li b con ln để nuôi, khá gi mua năm ba sào rung cy.
ước y chng t rng hn một người nông dân thun hu, thm chí làng
Đại còn gi hắn người “lành như cục đất”. Ta còn thấy Chí phèo mt
người trong sáng và trng danh d. Làm hn chắn điền cho nhà lí Kiến, ri mt
ln b Ba Kiến gi lên bóp chân, Chí Phèo ch thy nhc, thy s. Trái tim
của Chí Phèo hai mươi tuổi đâu còn gỗ đá, Chí Phèo đã nhn thức được đâu
là tình yêu chân chính, đâu là thói dâm ô.
B gọi “đấm bóp cho 3 qu quái hn ch thy nhc ch yêu đương gì”. Như
vậy, ràng, đến đây ta thể khẳng định hn một ngưi nông dân thun
hậu, nhưng hội y không cho Chí Phèo sng yên ổn. Chí Phèo đang sống
trong cái hội Kiếp người cơm vãi cơm rơi - Biết đâu nẻo đất phương
trời đi.”, trong cái hi cm by người giăng giăng như mắc ci thì
nhng ngi hiền lành như Chí Phèo bao gi cũng phải chu thit thòi.
mt cơn ghen bóng gió, Chí Phèo đã b Kiến tng vào ngc tù, con
người xo quyt này sẵn sàng chà đp lên cuộc đời người khác không thương
tiếc, không ghê tay. Bt đầu t đây, Chí Phèo chuyển sang mt trng thái khác,
mt cuc sống khác. Nhân đây cũng phi nói qua cái nhà tù, đây là nhà thc
dân, đồng lõa vi lão Bá tha hóa Chí Phèo.
Nhà tù ybn cht xã hi trái hoàn toàn vi bn cht xã hi ca mt nhà tù
loài người đang mong đợi. Nhà y ch thu np tù nhân khi hn ta còn
lành như cục đất, vào nhào nặn, đào tạo đến khi thành con qu d thì th h ra.
Nhà y tiếp tay cho lão tha hóa Chí Phèo, nhà y đã biến hn Chí
“lành như cục đất” gi đây ra tù... hãy nghe Nam Cao mô tả din mo ca Chí
Phèo lúc ra tù: ”Cái đầu co trc lc, cái răng cạo trng hn, cái mặt thì đen
rất cơng cơng, hai mắt ờm gưm, ngc tay chm tr đầy nhng hình rng
phượng, có c một ông tướng cm chu.
Trông Chí Phèo đặc như một tên săng đá”.Hình ảnh y đã làm tái hin mt
Chí Phèo khác hoàn toàn, thay thế hn nông dân thun hậu ngày xưa gi đây là
một Chí Phèo sinh ra làm người nhưng không được làm người, hin lành chân
cht là thế gi dây tr thành con qu d của làng Vũ Đại.
Đây là bi kịch đầu tiên ca Chí Phèo bi bi kch là khát vng chân chính, mãnh
lit ca một con người nhưng không điu kin thc hin trên thc tế, Chí
Phèo c đời khao khát lương thiện nhưng gi đây thành kẻ bất lương mất ri,
thành con qu mất ri. Hình nh của Chí say rượu vừa đi vừa chi hết sc
buồn i, phải chăng đằng sau s lm nhm ca hn tiếng kêu gào tuyt
vng ca s thèm khát được giao tiếp vi đng loi.
Trong cơn say hắn nhn ra được s cô đơn khủng khiếp của 1 con ngưi b xh
rung bỏ. “Hắn thèm được người ta chi, chi hắn nghĩa còn công nhận
hn người”. Thế nhưng hắn c chi, xung quanh hn s im lặng đáng sợ,
hn chi ri lại nghe: “ch 3 con chó d vi 1 thằng say rượu”. Hắn đã bị t
chi quyền làm người tuyt đi. Bn cht ca hắn đâu phi là k nát rượu.
Khi còn tr hắn đã “ao ưc có 1 i ấm gia đình nho nhỏ, chng cày thuê cuc
n v dt vải nuôi heo”. ước ca hn tht bình d bng sức lao động
chân chính, cái hạnh phúc đơn nhưng m cúng tình người tưởng chng ai
cũng được nhưng với Chí li quá xa vi. Gi đây, hắn mun sng trong cái
Làng Vũ Đại “đầy bọn ăn thịt ngưi không thắn” thì hắn phi y gổ, cưp git,
ăn v.
Mun thế hn phi gan, phi mnh, thế là hắn mượn rượu để say như h
chìm, như thế hn s làm “bất c điều người ta mun hắn làm”, hội đã
vm nát b mt ngưi ca hắn đ hắn không còn được coi là con người nữa “ai
cũng tránh mỗi ln hắn đi qua”. Trong cơn say rượu, Chí đã gp Th N h
đã ăn nằm với nhau….
Sau khi tỉnh cơn say, hắn nhận được s t/yêu c/sóc ca TN làm cho trong sâu
xa t/hn hắn lay động 1 tia chp lóe sáng trong cuộc đời tối tăm i dằng dc
ca hn hn nhận ra được tình trạng bi thương của s phận mình. “Hắn
h thy rng s 1 lúc mà ngưi ta không th liều lĩnh đưc na, by gi mi
nguy”, hắn ti thân vì hn nhn ra s trơ trọi ca chính mình.
Đó những ân hn khi Chí Phèo hiu ra hn đã m quá nhiều điều ti li, khn
ni khi gây ra những điu này Chí trin miên trong những cơn say nên nào biết
gì! Tình yêu ca Th N làm cho hắn “bỗng thèm lương thiện”, t cháo hành
đã đưa Chí r vào c ngoc mi, bát cháo hành biểu tượng ca s cm
thông yêu thương giữa những người cùng cnh ngộ, mãi mãi đi vào cuc
sống văn chương với tư cách là biểu tượng ca ch nghĩa nhân đạo.
Hn cảm động quá! cm động lần đầu tiên hắn được ăn 1 thứ ngon như thế.
Hơn nữa muốn cơm ăn, u ung chí phi dọa, cướp git. Lần đầu tiên
người t nguyn cho hắn ăn, đặc biệt hơn đó lại đàn nên con qu d đã
mm ra thành tng giọt nước mt. Cùng vi nhng giọt nước mt Chí nghe
được tiếng chim hót bui sáng, tiếng mái chèo của người thuyền chài đuổi
cá trên sông, tiếng trò chuyn ca những ngưi đi ch sm.
Cái đẹp ca t nhiên, cái đẹp của lao động chứa chan tình ngưi, tt c thật đơn
nhưng ng thật gần gũi thân thiết, nhng âm thanh này ngày o cũng
nhưng đây lần đầu tiên Chí cm nhận được. Giọt c mt ca Chí cùng
nhng âm thanh buổi sáng đã làm nên một Chí Phèo khác hẳn, nghĩa hắn
chắn điền lương thiện năm nào đã sống li.
Đây lần đầu tiên Chí tnh lần đầu tiên nhn thức được ti li, s ân hn
muộn màng nhưng sao cũng đáng ghi nhận. Đó là biểu hin ca s làm lành
“hn mun làm hòa vi mọi ngưi biết bao” Chí muốn đưc mọi ngưi b qua
cho tt c. Th N s giúp hn làm loi t đầu, nim khát khao mi người làm
sao! Tình yêu ca Th N làm cho hn thc tnh m đường cho hn tr li
làm người, nhưng tht tr trêu, Th N đã đóng sầm cánh ca li,
không cho cháu bà “đi lấy 1 thằng ăn vạ”.
Cách nhìn của cũng chính cách nhìn của Làng Đi, linh hn ca Chí
va tr v thì b c tuyt, không ai nhn ra. Khát vng của Chí đã bị đã bị
hi t chối, điều này cũng d hiu hi quen nhìn Chí trong b dng qu
d, không th chp nhn mt Chí Phèo hin lên với thế con người. S t
chi ca xã hội đầy định kiến, xã hội không đ ợng bao dung đón đứa con lc
loài tr v vòng tay cộng đồng.
Hoàn cảnh đặt Chí trưc 2 con đường để la chọn: “hoặc sng làm qu d hoc
chết để khẳng định gía tr làm người”. Thực cht Chí ch 1 con đường để đi,
khi giá tr làm người thc tnh thì chí không th làm qu dữ, đó chính là bi kch
thân phận con người không được quyền làm ngưi.
S t chi ca Th N đã đóng sập cánh cửa hoàn lương của Chí. Lúc này hn
đã uống rt nhiều rượu “càng ung càng tỉnh ra” để thm thía thân phn mình
“hn ôm mặt khóc rưng rức”. Trong cơn say hắn xách dao ra đi, hắn lm nhm
đến nhà Th N để đâm chém nhưng bước chân lại tìm đi tìm “k gây ra tình
trng tuyt vọng cho đời mình”. Thc trạng này đòi hi chúng ta phải xác định
Chí say hay tnh?
Nếu bo hn tnh tkhông thuyết phc ý thc ca hn không còn kh năng
điều khin hành vi, bo hắn say cũng không thỏa đáng ngưi say không th
biết đòi lương thiện “tao muốn làm người ơng thiện” biết rt không ai
cho hắn lương thiện, nghịch y rượu đã làm cho thế gii tinh thn hn
m m đi, nhưng 1 bộ phận mà u không th làm liệt được ý thc làm
người, cho nên hành động đòi lương thiện là vô cùng tnh táo.
vy Chí đã giết Kiến t hy dit mình. Cái kết thúc tht rùng rn
máu chảy nhưng cũng thật nhân bn tội ác đã được trng tr giá tr làm
người được khẳng định. Mt Chí Phèo tỉnh đã giết chết mt Chí Phèo say . C
Phèo bằng xương, bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lòng người đọc Chí
Phèo đòi quyền sống, đang dõng dạc đòi làm người lương thiện.
Như vậy, khi ý thc nhân phẩm đã trở v, Chí Phèo không bng lòng sống như
trưc na. Chí Phèo chết trong bi kịch đau đớn, chết trên ngưỡng ca tr v
cuc sống . Đây không th hành động lưu manh s vùng lên tuyt
vng của người nông dân khi thc tnh cuc sng.
Chí Phèo - mt tn bi kch ca một người nông dân nghèo b tha hóa trong
hội cũ, một con người điển hình. cui tác phẩm, “đột nhiên th thoáng thy
hin ra mt cái gạc b không, xa nhà ca, vắng người qua lại…”, chi
tiết y mun nói vi chúng ta rng, mt ngày gần đây thôi, Thị N li bng
mang d cha vượt cn giữa đồng không mông qunh, gia con mt th ơ ca
người dân làng Vũ Đi, lai mt Chí Phèo con xut hin.
Điu này chng t rằng “Chí Phèo” không phải bi kch ca một con ngưi
bi kch của người nông dân tn tại trong lòng nông thôn trước Cách
mạng tháng Tám. Mang đậm giá tr t cáo rt cao, lên án giai cp phong kiến
thng tr tha hoá, nhng b kịch như vậy s còn tiếp din.
| 1/27

Preview text:

Phân tích tác phẩm Chí phèo của Nam cao Ngữ Văn 11
Dàn ý Phân tích tác phẩm Chí phèo của Nam cao a. Mở bài
 Giới thiệu tác phẩm Chí Phèo và nhà văn Nam Cao.
 Dẫn dắt vào vấn đề cần phân tích. b. Thân bài  Khái quát chung
 Xuất xứ: Nam cao đặt tên cho tác phẩm này là Cái lò gạch cũ, 1941 đổi
lại là Đôi lứa xứng đôi, 1945 sửa lại là Chí Phèo, in trong tập Luống cày. - Tóm tắt:
- Đề tài và ý nghĩa nhan đề
- Đề tài: Viết về người nông dân nghèo trước CMT8. - Nhan đề:
 Nhan đề đầu tiên: Cái lò gạch cũ (nhan đề giản dị, có ý nghĩa, nơi lần
đầu tiên phát hiện ra Chí, nơi Chí bị bỏ rơi, qui luật hiện tượng Chí Phèo...).
 Nhan đề thứ hai: Đôi lứa xứng đôi khi in thành sách lần đầu (NXB Đời
mới, Hà Nội, 1941), nhà xuất bản tự ý đổi tên là Đôi lứa xứng đôi, chủ
yếu tạo sự tò mò và làm cho sách bán chạy.
 Nhan đề thứ ba: Chí Phèo do chính Nam Cao thay đổi khi in truyện ngắn
này vào tập Luống Cày năm 1946. Ông lấy tên nhân vật trung tâm để đặt tên truyện.
 Chủ đề: Qua số phận của nhân vật Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã lên
án sâu sắc xã hội tàn bạo, chà đạp lên nhân phẩm con người đồng thời
thể hiện tình thương yêu sâu sắc và niềm tin vào bản chất lương thiện của con người. - Phân tích Nhân vật Chí Phèo
+ Quá trình tha hóa trước khi gặp Thị Nở Trước khi vào tù:
 Là con người bất hạnh: “... trần truồng và xám ngắt.. bên cái lò gạch bỏ
không, người làng nuôi, bị Bá Kiến ghen đẩy vào tù...”
 Là con người lương thiện: Hắn cảm thấy nhục khi bà ba kêu hắn bóp
chân, mà cứ bóp lên trên nữa, hắn từng ao ước “... ao ước có một gia
đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải...” Sau khi ra tù:
 Biến dạng nhân hình: “... cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái
mặt đen cơng cơng, hai mắt gườm gườm, cái ngực phanh đầy nét chạm trỗ...”
 Biến dạng nhân tính: uống rượu say khướt, đánh nhau, rạch mặt ăn vạ,
làm tan nát biết bao nhiêu gia đình...
 --> Chính nhà tù thực dân phong kiến là nguyên nhân dẫn đến sự tha hóa
về nhân hình lẫn nhân tính của Chí Phèo
Ý nghĩa tiếng chửi Chí Phèo:
 Về nội dung: Khao khát muốn giao tiếp với mọi người nhưng bị xã hội cự tuyệt.
 Về nghệ thuật: Tạo tâm thế tò mò cho người tiếp nhận.
 → Là con người lương thiện bị xã hội tha hóa thành quỷ dữ, bị loại ra
khỏi xã hội con người.
+ Qúa trình muốn trở thành người lương thiện sau khi gặp Thị Nở Thức tỉnh lương tâm
 Đến với Thị Nở bằng bản năng: ăn nằm với nhau... ngủ say dưới trăng.
 Nhớ lại quá khứ: “hắn ao ước có một gia đình nhỏ.
 Ý thức được hoàn cảnh bản thân: “... già mà vẫn còn cô độc, cái dốc bên kia của đời...”
 Phục thiện: “... muốn làm hòa với mọi người”
 → Từ quỷ dữ, thức tỉnh lương tâm thành người lương thiện. Ý nghĩa bát cháo hành
 Thể hiện tình thương của Thị Nở dành cho Chí Phèo.
 Là ngọn lửa nhen nhóm cho tính thiện bị vùi tắt bấy lâu nay trong con
người Chí. Giúp Chí quay trở về con đường hoàn lương.
 Tình cảm nhân đạo của nhà văn.
 Thể hiện tài năng miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật của Nam Cao.
Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở thành người lương thiện.
 Bà cô Thị Nở ngăn cản mối tình Chí-Thị: “... ai lại đi lấy thằng Chí Phèo...”
 Đến nhà Bá Kiến đòi lương thiện: đâm Bá Kiến rồi tự sát.
 Định kiến xã hội đối với Chí Phèo: “Thằng nào chứ thằng ấy chết thì
không ai tiếc... tre già măng mọc, thằng ấy chết còn thằng khác...”
Hình tượng nhân vật Bá Kiến
 Tàn bạo, quỷ quyệt, lọc lõi
 Chính sách thống trị: mềm nắn rắn buông, dùng thằng đầu bò trị thằng
đầu bò, nắm thằng có tóc chứ ai nắm thằng trọc đầu..
 Nhân cách ti tiện, bỉ ổi, dâm đãng, ghen tuông, độc ác.
 --> Điển hình cho loại địa chủ cường hào ở nông thôn VN trước Cách mạng.
Những đặc sắc nghệ thuật tác phẩm
 Ngôi kể: Ngôi thứ ba đảm bảo tính khách quan, tạo cảm giác chân thật của câu chuyện.
 Cấu trúc đối thoại làm cho tác phẩm có cái nhìn đa giọng điệu, đa điểm nhìn.
 Giọng điệu: đa giọng điệu.
Đối lập, tương phản giữa các kiểu người, các tính cách sống.
 Xây dựng nhân vật điển hình.
 Kết cấu truyện: kết cấu vòng tròn, hiện tượng Chí Phèo tiếp tục được lặp lại ở làng Vũ Đại c. Kết bài
 Nêu nhận xét, đánh giá chung về truyện ngắn Chí Phèo
 Mở rộng vấn đề bằng suy nghĩ và liên tưởng của mỗi cá nhân
Phân tích tác phẩm Chí phèo của Nam cao - Bài làm 1
“Chí Phèo” của Nam Cao là kiệt tác của văn học hiện thực phản ảnh đậm nét
xã hội phong kiến đầy rẫy những tội ác và bất công, đồng thời khắc họa thành
công hình ảnh người nông dân bị bần cùng hóa. Đọc những trang viết của Nam
Cao, người đọc có thể mường tượng ra được bức tranh xã hội phong kiến nhiều ám ảnh.
Xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh nhân vật Chí Phèo – một người nông dân
lương thiện nhưng bị xã hội chèn ép, chà đạp, đẩy đến bước đường cùng thành
kẻ sát nhân. Nam Cao đã để cho nhân vật Chí Phèo xuất hiện ngay đầu tác
phẩm bằng “tiếng chửi”. Một loạt tiếng chửi của Chí Phèo như mở màn một
cuộc đời nhiều tăm tối của hắn “Hắn chửi trời, hắn chửi đất, hắn chửi cả làng
Vũ Đại. Hắn chửi đứa nào đẻ ra hắn…”.
Chí Phèo sinh ra tại một cái lò gạch cũ, được người làng truyền tay nhau nuôi,
đến khi hắn đi ở cho Bá Kiến. Bá Kiến vì ghen tuông mà đã đẩy Chí Phèo vào
tù, nơi đó bắt đầu hình thành những oán hận và cả nỗi đau. Chí Phèo đã dần
đánh mất đi bản thân, đánh mất đi sự lương thiện. Sau mấy năm ở tù, CHí Phèo
về làng, trở thành một con người khác. Nam Cao đã khắc họa rõ từng đường
nét trên khuôn mặt của Chí Phèo, như phản ảnh sự đau lòng của chế độ và sự
tha hóa của một đời người. Chí Phèo xuất hiện “Cái đầu thì trọc lóc, răng cạo
trắng hớn, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Hình ảnh người nông dân
hiền lành đã biến mất sau những năm tháng ở tù.
Xã hội đã cướp đi nhân cách, bản tính lương thiện và cả ước muốn làm người
của Chí Phèo. Hắn trở về từ nhà tù, biến thành một kẻ chuyên đi rạch mặt ăn vạ,
hắn phá tan đi bao nhiêu gia đình ở làng Vũ Đại. Cả làng ai cũng sợ hắn, vì bộ
mặt gớm giếc và hành động tàn bạo.
Cuộc sống của một con người thay đổi hoàn toàn, hắn lấy nghề rạch mặt, đâm
thuê chém mướn làm nghề sống. Chí Phèo bị người làng xa lánh, hắn trở về
làm cho nhà Bá Kiến. Lại một lần nữa người đọc thấy được sự bế tắc, bước
đường cùng của Chí Phèo. Hắn lại trở về nơi ngày xưa đã đẩy hắn vào cảnh cơ
cực như bây giờ. Có lẽ đây chính là sự bế tắc của người dân thấp cổ bé họng trong xã hội phong kiến.
Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng thành công nhân vật Chí Phèo. Đây là
hình tượng điển hình cho sự tha hóa trong xã hội phong kiến, là sự bế tắc, cùng đường lạc lối.
Nhưng Nam Cao đã không để cuộc đời Chí Phèo dừng lại ở đó, tác giả đã khơi
gợi sự khát thèm yêu thương, khát thèm cuộc sống như một con người nơi hắn.
Tình huống truyện Chí Phèo gặp Thị Nở ở vườn chuối sau lần hắn uống rượu
say khướt. Thị Nở xuất hiện với bát cháo hành đã khiến người đọc vẫn cảm
thấy còn chút gì đó hi vọng cho một cuộc đời bình dị. Thị Nở xấu xí, thô kệch,
nhưng lại là vết sáng trong cuộc đời tăm tối của Chí Phèo. Sự xuất hiện của Chí
Phèo thực sự có ý nghĩa rất lớn đối với Chí Phèo, đánh thức lương tri, đánh
thức bản tính lương thiện của hắn. “Bát cháo hành” là một chi tiết nghệ thuật
giàu giá trị nhân văn, cho tình người còn lấp lánh giữa xã hội thối nát.
Sau khi gặp gỡ với Thị Nở, hắn thấy cuộc đời ngoài kia thật tốt đẹp, nghe thấy
những người đàn bà đi chợ đang nói chuyện. Hơn hết có một chi tiết, một suy
nghĩ khiến người đọc chùng xuống “Hắn thấy già yếu, bệnh tật, và cô độc còn
đáng sợ hơn cả đau ốm bệnh tật…hắn khát khao làm hòa với mọi người”. Có lẽ
đã đến lúc hắn nhận ra cần một cuộc sống như mọi người, không phải rạch mặt
ăn vạ nữa. Cuộc sống bình dị ấy nhưng với Chí lại quá xa vời.
Xã hội phong kiến nghiệt ngã, không để cho Chí Phèo được làm người lương
thiện khi bà cô của Thị Nở xuất hiện. Bà cô phản đối chuyện Thị Nở và Chí
Phèo, còn dùng những từ cay độc để mắng mỏ Chí Phèo. Bà cô là hiện thân của
xã hội phong kiến, cự tuyệt khát khao làm người, quyết dồn Chí vào bước
đường cùng. Chính điều này đã khiến cho Hắn đau, rơi vào tuyệt vọng và quyết
tìm đến nhà Bá Kiến để giết Bá Kiến.
Hình ảnh ám ảnh người đọc là hình ảnh Chí Phèo giãy đành đạch, nằm giữa
vũng máu ở sân nhà Bá Kiến. Hắn giết Bá Kiến và tự kết liễu cuộc đời mình.
Trước khi chết Chí phèo còn hét lên “Ai cho tao làm người lương thiện”, xã hội
này không cho, con người cũng không cho. Đúng là một bi kịch quá đau lòng
đối với người nông dân trong xã hội đầy rẫy bất công.
Nam Cao với ngòi bút sâu sắc đã xây dựng nhân vật điển hình trong xã hội điển
hình như kéo người đọc về với thời kỳ đau thương của đất nước ta hồi đó.
Nghệ thuật đặc tả tính cách, hành động đã khiến cho truyện ngắn thêm sinh động, hấp dẫn.
Phân tích tác phẩm Chí phèo của Nam cao - Bài làm 2
“Chí Phèo” chỉ là một truyện ngắn và là một truyện ngắn sáng tác trong những
ngày đầu mới cầm bút của Nam Cao viết về đề tài nông dân, nhưng tác phẩm
chính là sự tổng hợp, kết tinh đỉnh cao của ngòi bút nhà văn. Có thể nói rằng,
“Chí Phèo” là một bản án cáo trạng đanh thép đối với một xã hội phong kiến
đầy bất công đã đẩy người nông dân vào con đường bần cùng hóa trước Cách
mạng. Đồng thời, tác phẩm cũng là một câu chuyện chứa đựng nhiều ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Trước hết, tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao đã khắc họa tấn bi kịch của
người nông dân trước Cách mạng. Trong tác phẩm này, Nam Cao không đi vào
nạn sưu thuế hay thiên tai dịch họa mà nhà văn lại hướng đến một phương diện
khác, đó là hình tượng người nông dân cố cùng bị xã hội phá hủy về tâm hồn,
hủy diệt cả nhân tính và bị phủ nhận tư cách làm người. Nỗi thống khổ ghê
gớm của Chí Phèo chính là bị cướp đi hình hài của một con người, bị đẩy ra
khỏi xã hội loài người và phải sống kiếp sống đớn đau như thú vật. Chí từ một
anh canh điền lương thiện khỏe mạnh, vì hầu hạ bà Ba, khiến cụ Bá ghen ghét
đẩy vào lao tù. Từ đây, con đường tha hóa của người nông dân chất phác bắt
đầu như trượt dốc không phanh. Ra khỏi tù, người ta không nhận ra thằng Chí
Phèo trước đây nữa mà thay vào đó là một hình hài quỷ dữ: “Cái đầu thì trọc
lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm
gườm […]. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông
tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!”
Với ngòi bút hiện thực, nhà văn Nam Cao đã chỉ ra rằng, để tồn tại thì những
người nông dân hiền lành khốn khổ đã dần trở nên lưu manh hóa và bất cần.
Họ không chỉ bị tha hóa về nhân hình mà còn bị tha hóa cả về nhân tính.
Ở tù về, Chí như biến thành một con quỷ dữ, chuyên rạch mặt ăn vạ, la làng ầm
ĩ. Trở thành tay sai đòi nợ cho Bá Kiến: “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh
yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện”.
Không những thế, những hành động dã man ấy hắn đều làm trong lúc say: “ăn
trong lúc say, ngủ trong lúc say, […] đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc
say”. “Những cơn say của hắn tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn
dài mênh mang” khiến cho hắn chưa bao giờ tỉnh táo để ý thức về những việc mình đã và đang làm.
Chính vì trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại” mà tất cả mọi người đều cố
tránh xa hắn, ngay cả khi hắn “kêu làng, không bao giờ người ta vội đến” bởi
đã quá quen với cảnh hắn la làng ăn vạ. Không ai thèm chửi nhau với hắn,
không ai công nhận hắn, ngay cả Thị Nở – người phụ nữ “xấu ma chê quỷ hờn”
cũng không cần hắn. Khi ấy, hắn mới tỉnh ngộ nhận ra bi kịch thê lương của
mình: bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Hắn kêu lên: “Ai cho tao lương
thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao
không thể là người lương thiện nữa”. Đó là những câu hỏi đầy cay đắng và
không có lời giải đáp. Lương thiện của con người là ở trong chính mỗi người
chúng ta. Vậy mà Chí lại phải đi “đòi” lương thiện. Chính cái xã hội vô nhân
tính đã cướp mất lương thiện và còn khốn nạn hơn, ngay cả cái quyền được làm
một con người tử tế cũng bị xã hội ấy tước đoạt mất.
Qua tấn bi kịch của Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã cho người đọc thấy một
hiện thực xót xa về cuộc sống và số phận của người nông dân trước Cách mạng.
Đó chính là cuộc sống bế tắc và bần cùng, người nông dân từ tha hóa đã dẫn
đến lưu manh hóa. Phản ánh bi kịch ấy, nhà văn Nam Cao cũng chỉ rõ nguyên
nhân là mẫu thuẫn xã hội sâu sắc đã đẩy người nông dân đến bước đường cùng.
Trong tác phẩm, một bên, nhà văn xây dựng hình tượng giai cấp phong kiến
thống trị mẫu thuẫn với một bên là người nông dân lương thiện nghèo đói.
Hình tượng điển hình cho giai cấp phong kiến thống trị ở nông thôn chính là
nhân vật Bá Kiến. Chân dung lão cường hào cáo già Bá Kiến dần dần hiện rõ
trong tác phẩm những nét tính cách được thể hiện hết sức sinh động, đầy ấn
tượng. Đó là cái lối quát “rất sang”, lối nói ngọt nhạt và nhất là “cái cười Tào
Tháo”. Chính sách cai trị của hắn rất khôn ngoan, rảo hoạt: “mềm nắn, rắn
buông”, “bám thằng có tóc, ai bám thằng trọc đầu”, “chỉ bóp đến nửa chừng”
và “hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng rồi lại vớt nó lên để nó
đền ơn”, dùng thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò, bởi “Khi cần đến chỉ
cho nó dăm hào uống rượu là có thể sai nó đến tác oai tác quái bất cứ anh nào
không nghe mình”… Tất cả đã cho thấy tâm địa thâm độc tới ghê sợ của Bá
Kiến, lợi dụng cái ác để trục lợi cho mình và dùng cái ác để làm nên cái ác lớn hơn.
Trong khi giai cấp thống trị lọc lõi khôn đời thì người nông dân thấp cổ bé
họng lại lâm vào đường cùng, trở thành nạn nhân bị bóc lột và bị đẩy vào con
đường tha hóa đến tội nghiệp.
Bị đẩy vào tù một cách oan ức, ra tù, Chí muốn tìm đến nhà Bá Kiến để tính sổ.
Vậy mà từ chỗ hung hăng đòi “liều chết với bố con” lão Bá Kiến, chỉ sau mấy
câu ngọt nhạt và mấy hào lẻ của cụ Bá, Chí Phèo đã trở thành một tên tay sai
mới của lão. Xây dựng nên hình tượng nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã cho
người đọc thấy được số phận, tình cảnh của người nông dân trước Cách mạng
bị xã hội phong kiến đầy bất công đẩy vào con đường tha hóa, bị tước hết giá
trị và tư cách của một con người. Mâu thuẫn giữa người nông dân và giai cấp
địa chủ ấy được đẩy lên cao trào khi mà Chí đã nhận ra người đã đẩy mình đến
cảnh tha hóa chính là Bá Kiến và người cần giết cũng chính là lão ta.
Tuy Chí Phèo đã thức tỉnh được tình cảnh tha hóa của mình và nhận diện được
kẻ thù của mình nhưng lúc đó đã là quá muộn. Đây cũng chính là một bi kịch
đau đớn của người nông dân và của một con người. “Chí Phèo” là một bản cáo
trạng đanh thép đối với xã hội phong kiến bất công đã đẩy con người ta và con
đường tha hóa cùng cực nhất. Tuy vậy, nhưng tác phẩm cũng là một minh
chứng về tình yêu thương và sự thực tỉnh lương tri của con người.
Tình cờ gặp Thị Nở trong một đêm say đã khiến Chí trở thành một con người
khác. Sáng hôm sau tỉnh dậy, Chí cảm thấy bao nhiêu điều mới mẻ: thấy tiếng
chim hót vui vẻ, tiếng huyên náo của những người đàn bà đi chợ, tiếng anh
thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Hắn thấy lòng “bâng khuâng”, “mơ hồ buồn”
và lần đầu tiên cảm thấy sợ tuổi già, đói rết, ốm đau và cô độc. Được Thị Nở
chăm sóc, thương yêu, hắn bỗng nhớ lại mơ ước về một mái ấm gia đình
“chồng cày thuê cuốc mướn, vợ ở nhà dệt vải” thời trai trẻ. Có thể thấy rằng,
dù Thị Nở là người đàn bà dở hơi, xấu ma chê quỷ hờn nhưng lại là người
không hề chê bai Chí, là người săn sóc, quan tâm đến anh ta một cách dịu dàng
và ân cần nhất. Chính tình yêu ấy làm cho “Xấu mà e lệ thì cũng đáng yêu”,
làm cho con quỷ dữ bao năm đã biến mất, thay vào đó là một con người khao
khát lương thiện, khao khát làm người chân chính.
“Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” như một lời cầu hôn của Chí
với Thị Nở. Bày tỏ mong muốn ấy một cách rất chân thực, giản dị mà chất
phác đúng kiểu một anh nông dân, Chí mong muốn được làm lại từ đầu, được
sống một cuộc đời khác, cuộc đời bình dị giống như bao người mà Thị Nở
chính là cầu nối, là người vun trồng cùng hắn xây dựng. Phải nói rằng, tác giả
đã khéo lựa chọn những chi tiết đắt giá để qua đó thể hiện ý nghĩa của sự hồi
sinh và khẳng định sức sống của thiên lương, lương thiện trong mỗi con người.
Phát hiện và miêu tả tài tình sự thức tỉnh lương tri của Chí Phèo chính là một
thành công nghệ thuật đặc sắc của Nam Cao.
Thế nhưng, điều đáng nói là con người đã biết hoàn lương nhưng xã hội ấy lại
không thể nào chấp nhận lại họ được nữa. Chí Phèo vừa mới mơ ước về một
gia đình thì đã bị bà cô Thị Nở tạt ngay cho một gáo nước lạnh. Chí hiểu rằng,
mình có cố gắng làm sao đi nữa thì cũng không thể xóa hết những tội lỗi mà
mình gây ra, không thể nào mà trở về hòa nhập với cuộc sống được nữa. Ý
thức được điều này, cũng là ý thức được kẻ gây ra bi kịch cho mình, Chí đã tìm
đến nhà Bá Kiến kết liễu lão ta và cả chính mình. Điều này là tất yếu bởi lẽ,
cánh cửa hoàn lương của Chí đã đóng sầm trước mắt. Để giải quyết sự bế tắc
đó, Chí chỉ còn cách là kết thúc cuộc đời mình và kẻ gây nên tội ác. Cái chết ấy
là cái chết của một bi kịch đau đớn trước ngưỡng cửa trở về làm người, là tiếng
kêu cứu về quyền làm người.
Với tác phẩm “Chí Phèo”, Nam Cao không chỉ phơi bày bộ mặt xã hội đen tối,
bất công mà nhà văn còn đồng cảm với những bi kịch khổ đau của người nông
dân thấp cổ bé họng trước Cách mạng. Đồng thời nhà văn cũng kịp thời phát
hiện và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của con người và khao khát thay đổi thực tại
để vươn đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Phân tích tác phẩm Chí phèo của Nam cao -Bài làm 3
Chí Phèo là câu chuyện về đoạn cuối cuộc đời của một con người trong xã hội
thực dân phong kiến diễn ra và được ghi lại bởi Nam Cao (1917 - 1951), một
ngòi bút bậc thầy cách nay đã hơn sáu mươi năm.
Mở đầu tác phẩm Chí Phèo xuất hiện trong tư thế khật khưỡng của kẻ say rượu
vừa đi vừa chửi. Hắn chửi vung tất cả. Chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại,
chửi những đứa khổng chửi nhau với hắn. Đây chính là lí do để ngay phần tiếp
theo, tác giả kể về lai lịch của Chí. Hắn vốn là đứa trẻ từ khi mới đẻ ra đã bị bỏ
rơi trong cái lò gạch bò hoang, được người làng nhặt về nuôi, đi ở cho nhiều
nhà khác nhau, cuối cùng đến năm 20 tuổi thì về làm canh điền cho Lí Kiến.
Có thể vì ghen tuông, nghi cho bà ba vốn tính lẳng lơ có tư tình với anh canh
điền khoẻ mạnh, Bí Kiến cho người bắt Chí giải lên huyện và đẩy vào lao tù.
Ngay sau khi ở tù về, Chí đã uống rượu say khướt rồi cầm vỏ chai đến cổng
nhà Bá Kiến (lúc này Bá Kiến đã là Bá bộ) chửi Lí Cường con trai Bá Kiến
xông ra hành hung Chí, được thể Chí đã dùng mảnh chai rạch mặt ăn vạ. Đang
thế, Bá Kiến xuất hiện, lên giọng mắng Lí Cường rồi dùng lời ngon ngọt để an
ủi Chí, lại mời Chí vào nhà tiếp đãi cơm rượu hậu hĩnh, cho Chí một đổng bạc
đem về Chí vô cùng hả hê. Từ đó, khi nào hết tiền hắn, lại đến ăn vòi. Lần thứ
hai, Chí đến nhà Bá Kiến xin đi ờ tù lần nữa với cách lập luận đi tù còn có cơm
ăn, ở làng mảnh đất cắm rùi cũng không có mà cái ăn cũng không, Bá Kiến lợi
dùng cơ hội này nhờ hắn đi đòi nợ Đội Tảo 50 đồng và hứa sẽ, có vườn cho
Chí. Sau khi Chí hoàn thành việc được giao, Bá Kiến cho vài hào uống rượu và
cắt cho hắn 5 sào vườn ở bãi sông. Lúc này Chí mới 27, 28 tuổi. Cũng bắt đầu
từ đây, Chí trờ thành kẻ đâm thuê chém mướn, một công cụ đắc lực của Bá
Kiến nhằm ức hiếp dân lành và thanh toán những kẻ có máu mặt trong làng
nhưng không cùng vây cánh. Chí Phèo đã thực sự trở thành "con quỷ dữ của
làng Vũ Đại", ai ai cũng đều sợ hắn và tránh mặt hắn.
Một lần trong buổi tối sáng trăng, sau khi được uống rượu với Tự Lãng, hắn trở
về túp lều ven sông định bước xuống tắm, tình cờ nhìn thấy Thị Nở đang nằm
ngủ. Thị là người nghèo rớt mồng tơi, xấu ma chê quỷ hờn lại ngẩn ngơ như
người đần trong cổ tích. Họ đã ăn nằm với nhau và đánh thức tình cảm bình
thường cùng mong muốn làm một người bình thường trong Chí. Nhờ thứ tình
cảm này mà bao nhiêu mơ ước hiền lành thời trai trẻ bỗng thức đậy, hắn muốn
có một tổ ấm gia đình bình dị. Rồi Chí bị cảm. Thị Nở đã ân cần chăm sóc, nấu
cháo hành cho hắn ăn giải cảm... Tưởng được bền lâu, nào ngờ chỉ được vẻn
vẹn năm ngày, đến ngày thứ sáu, bà cô thị Nở đi buôn chuyến trở về. Bà đã xỉ
vả mắng nhiếc thị vì đã biết được chuyện giữa Thị với Chí Phèo. Do đấy, Thị
Nở đến mắng Chí Phèo và bỏ mặc Chí trong tuyệt vọng. Thế rồi Chí khóc, Chí
lại tìm đến rượu, Khi say hắn dắt dao vào lưng, nói là đi đâm chết “nó", tức
đâm chết hai cô cháu nhà Thị Nở. Nhưng bước chân khật khường của Chí cứ
thế đến nhà Bá Kiến. Hắn xông vào Bá Kiến, vung dao đòi làm người lương
thiện. Trong cơn tỉnh say cuối cùng này. Chí đã vung dao đâm chết Bá Kiến và
cũng tự kết liễu cuộc đời mình.
Nghe tin hai cái chết, trong lúc bao người, báo kẻ hả hê, Thị Nở nghĩ đến Chí
“sao có lúc nó hiền như đất và nhớ lại những lúc ăn nằm với hắn”. Thị lo mình
có chửa. Khép lại câu chuyện là hình ảnh thị nhìn nhanh xuống bụng và “đột
nhiên thị thấy cái lò gạch thoáng hiện, xa nhà cửa và vắng bóng người qua lại”
Đây là một truyện ngắn mà dung lượng hiên thực được phản ánh trong trạng
thái dồn nén, chứa nhiều mâu thuẫn, với nhiều nhân vật, có nhiều lớp thời
gian..., mang tầm vóc của một tiểu thuyết. Có thể phân tích theo vấn đề ý nghĩa
nhân sinh của truyện, có thể phân tích theo tuyến nhân vật, hoặc cũng có phân
tích từng mối quan hệ giữa nhân vật chính là Chí Phèo với làng Vũ Đại và một
số nhân vật có quan hệ trực tiếp (Bá Kiến, thị Nở). Đâu đi theo con đường nào
cũng cần làm nổi bật rõ nghệ thuật xây dựng tình huống, nghệ thuật miêu tả
nhân vật và ngôn ngữ truyện. Sức mạnh của truyện ngắn trước hết là chi tiết.
Cách phân tích dưới đây cố gắng đi theo tình huống này.
Làng Vũ Đại, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến ở nông thôn Việt
Nam trước cách mạng. Về kết cấu và ngôn ngữ truyện. Trước nhất phải kể đến
kết cấu. Nếu xét về kết cấu hình tượng, truyện Chí Phèo cũng có một cốt truyện
có thể kể được nhưng điều đáng nói ở đây là kết cấu văn hán truyện. Nam Cao
đã rất có ý thức sáng tạo và huy động kết cấu tham gia vào việc xây dựng nhân
vật cũng như đắp bồi thêm bề dày, bề sâu các lớp nghĩa cho tác phẩm. Thứ nhất,
Nam Cao sử dụng kết cấu vòng tròn. Đó là sự trở lại chi tiết “cái lò gạch bỏ
hoang” ở phần kết truyện hình ảnh cái lò gạch bỏ hoang nơi Chí bị bỏ rơi lúc
mới đẻ ở phần đầu truyện được nhà văn sử dụng để cho Thị Nở đột nhiên thấy
thoáng hiện ra khi nhìn xuống bụng, sợ nhỡ may mình có chửa. Kết truyện nay
có sức gợi rất lớn. Điểu này gì nếu không phải là khả năng tái sinh của Chí
Phèo? Chừng nào còn tồn tại cái xã hội kiểu làng Vũ Đại thì chừng đó sẽ còn
nảy nòi ra loại người như Chí. Môi trường này cần được thay đổi. Nếu như đặt
vấn để hãy cứu lấy nhân cách con người thì rõ ràng phải bắt đầu từ việc cứu lấy
môi trường đã huỷ hoại nhân cách. Thứ hai, các thành, phẩn lời trần thuật được
xáo trộn, lắp ghép, đan xen không luân theo trình tự tuyến tính của cốt truyện.
Nam Cao bắt đầu bằng hình ảnh Chí khật khưỡng say và vừa đi vừa chửi; Chân
dung nhân vật bước đầu hiện ra với những đường nét thật ấn tượng, buộc người
đọc chú ý và ham mê theo dõi ngay lập tức.
Về yếu tố ngôn ngữ truyện có nhiều điều có thể bán được nhưng ở đây chỉ xin
đơn cử một cách thức sử dụng ngổn ngữ hết sức sáng tạo và độc đáo kiểu Nam
Cao. Ông đã đan xen, trộn lẫn lời nhân vật và lời người kể truyện, nhiều đơn vị
lời văn có thể là của nhân vật vừa là của người kể chuyện. Điều này có tác
dụng rất lớn cho phép nhà văn soi quét, lách sâu vào thẻ giới nội tâm rất phức
tạp và tinh tế của nhân vật. Nhờ vậy chân dung nhân vật hiện ra hết sức chân
thực và sống động. Chỉ cần đơn cử đoạn mở đầu truyện là đã thấy thủ pháp
nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ đan xen, hoà trộn như thế’ nào. Đây là một kĩ
thuật của ngôn ngữ tiểu thuyết hiện đại mà không phải nhà văn cùng thời nào
với Nam Cao cũng đã biết và sử dụng. Hiểu như vậy mới thấy sự cách tân và
đóng góp vào kĩ thuật tiểu thuyết của Nam Cao thực sự là không nhỏ và có
nhiều ý nghĩa cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
Tóm lại, chỉ với tác phẩm Chí Phèo đã dù thấy Nam Cao trong buổi mạt kỳ của
chủ nghĩa hiện thực phê phán nước ta đã có công đưa nó lên một tầm cao mới
về cả nội dung và nghệ thuật trước khi nó im tiếng.
Phân tích tác phẩm Chí phèo của Nam cao -Bài làm 4
Chỉ là một truyện ngắn, lại là truyện ngắn sáng tác sớm của Nam Cao về đề tài
nông dân, nhưng Chí Phèo là sự tổng hợp, sự kết tinh của ngòi bút Nam Cat về
đề tài này. Nếu như Nam Cao có thể được coi là "nhà văn của nông dân" , cùng
với Ngô Tất Tố, thì trước hết vì ông có Chí Phèo.
Khác với truyện ngắn cùng đề tài của tác giả, Chí Phèo có phạm vi hiện thực
được phản ánh trải ra cả bề rộng không gian (một làng quê) và cả bề dài thời
gian. Có thể nói, làng Vũ Đại trong truyện chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội
nông thôn Việt Nam đương thời.
Những năm 1940 - 1945, nông thôn vẫn là một đề tài lớn trong văn xuôi khu
vực hợp pháp. Các nhà văn đã đi vào đề tài này theo chiều hướng khác nhau.
Trước hết là đi vào phong tục tập quán dân quê, sự lục đục giữa vợ cả và vợ lẽ,
mẹ chồng và nàng dâu, dì ghẻ và con chồng, anh và em, chú bác, cô cậu và
những đứa cháu bên nội, bên ngoại.
Trên bối cảnh chung của văn học hiện thực thời kì 1940 - 1945, Chí Phèo là
một hiện tượng đột xuất. Giông như Tắt đèn, Bước đường cùng, Giông tố....
thời Mặt trận dân chủ, Chí Phèo cũng là "bức tranh xã hội rộng lớn với những
xung đột giai cấp quyết liệt". Tác phẩm gây ấn tượng đậm nét về tính đầy đặn,
đa dạng nhiều màu sắc của bức tranh về đời sông xã hội nông thôn.
Song, dựng lên bức tranh xã hội ở nông thôn, Nam Cao trước hết tập trung nổi
bật mối xung đột giai cấp đối kháng giữa bọn địa chủ cường hào thống trị và
người nông dân bị áp bức bóc lột. Tức là, cũng như tác giả Tắt đèn, Bước
cùng.... Nam Cao đã phản ánh hiện thực nông thôn trên bình diện mâu thuẫn giai cấp.
Chí Phèo của Nam Cao đã xây dựng một hình tượng điển hình khá hoàn chỉnh
về giai cấp phong kiến thống trị ở nông thôn: Bá Kiến.
Chân dung lão cường hào cáo già Bá Kiến dần dần hiện rõ trong tác phẩm
những nét tính cách được thể hiện hết sức sinh động, đầy ấn tượng. Đó là khái
quát "rất sang" ("bắt đầu bao giờ cụ cũng quát để thử dây thần kinh mọi
người"), lối nói ngọt nhạt, và nhất là "cái cười Tào Tháo" ("cụ vẫn tự phụ hơn
đời cái cười Tào Tháo ấy") - tất cả đều cho thấy bản chất gian hùng của lão
cường hào "khôn róc đời" này. Nam Cao cũng hé cho thấy tư cách nhem nhuốc
của "cụ tiên chỉ": đó là thói ghen tuông thảm hại của lão cường hào háo sắc mà
sợ vợ - lão cay đắng nhận ra mình "già yếu quá " mà "bà Tư" thì "cứ trẻ, cứ
phây phây", "nhìn thì thích nhưng mà tưng tức lạ... khác gì nhai miếng bò lựt
sựt khi rụng gần hết răng". Đó là chuyện lão gỡ gạc tồi tệ đối với người vợ lính
vắng chồng... Và bổ sung vào đó, để cho sự thối nát của nhà "cụ Bá" được hoàn
chỉnh, còn có "Bà Tư" quỷ cái "thường gọi canh điền lên bóp chân mà lại "cứ
bóp lên trên, trên nữa' ... Nhà văn chỉ kể qua, nhẹ nhàng, - tuy không kém thâm
thúy, chứ không sa đà trong việc soi mói đời tư thối tha của lão cường hào.
Ông tập ưung ngòi bút vào việc soi sáng bản chất xã hội của nhân vật, chủ yếu
thể hiện trong mối quan hệ với người nông dân bị áp bức. Đoạn độc thoại nội
tâm rất mực sinh động của "cụ tiên chỉ làng Vũ Đại" về cái "nghề tổng lí"cho
thấy Nam Cao chẳng những soi thấu tim đen của nhân vật mà còn tỏ ra hiểu rất
sâu các mối quan hệ xã hội ở nông thôn. Bá Kiến đã lặng lẽ nghiền ngẫm về
nghề thống trị, rút ra từ bốn đời tổng lí những phương châm, thủ đoạn thống trị
khôn ngoan: "mềm nắn, rắn buông", "bám thằng có tóc, ai bám thằng trọc đầu",
"thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân", "chỉ bóp đến nửa
chừng", "hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng rồi lại dắt nó lên để
nó đền ơn"... Còn đây là chính sách dùng người của lão: "không có những
thằng đầu bò thì lấy ai trị những thằng đầu bò", "thu dụng những thằng bạt
mạng không sợ chết và không sợ đi tù. Những thằng ấy chính là những thằng
được việc. Khi cần đến chỉ cho nó dăm hào uống rượu là có thể sai nó đến tác
oai tác quái bất cứ anh nào không nghe mình (...). có chúng nó sinh chuyện thì
mới có dịp mà ăn.... "... Tất cả đều nhằm sao cho vừa bóp nặn được nhiều nhất,
vừa giữ chắc cái ghế thống trị. Tâm địa thâm độc tới ghê sợ của Bá Kiến còn
thể hiện trong việc hắn nhẹ nhàng "khích" Chí Phèo đòi nợ đội Tảo, đẩy những
kẻ sẵn sàng đâm chém ấy vào chỗ chém nhau, để kẻ nào sống "cũng có lợi cụ
cả"! Bá Kiến thật là một con hổ biết cười!.
Vạch khổ cho người nông dân bị áp bức bóc lột, Nam Cao không đi vào nan
sưu thuế, nạn chiếm đoạt ruộng đất, nạn tô tức, quan tham lại những, thiên tai
địch họa.... ở Chí Phèo và nhiều truyện nữa, nhà văn đi vào một phương khác:
người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính, do đó, bị
phủ nhận giá trị, tư cách làm người. Nỗi thống khổ ghê gớm của Chí Phèo
không phải ở chỗ tất cả cuộc đời người nông dân cố cùng này chỉ là một không:
không nhà, không cửa, không cha không mẹ, không họ hàng thân thích không
tấc đất cắm dùi, cả đời không hề biết đến một bàn tay chăm sóc của đàn bà nếu
không gặp Thị Nở..., mà chính là ở chỗ anh đã bị xã hội rạch nát cả bộ mặt
người, cướp đi linh hồn người, để bị loại ra khỏi xã hội loài người, phải sống
kiếp sống tối tăm của thú vật. Mở đầu truyện là hình ảnh hết sức sống động,
độc đáo của Chí Phèo khật khưỡng vừa đi vừa chửi. Nhưng đằng sau cái chân
dung gã say rượu chửi lảm nhảm được vẽ bằng những nét bút tưởng đâu là kí
họa gây cười ấy, nếu đọc kĩ còn có thể thấy một cái gì như là sự vật vã của một
linh hồn đau đớn, tuyệt vọng. Không, tiếng chửi của Chí Phèo không hẳn là
bâng quơ. Hắn từ "chửi trời" đến "chửi đời" rồi "chửi ngay tất cả làng Vũ
Đại..." .Và hắn bỗng tức tối khi thấy "không ai lên tiếng cả"... Trong cơn say
hắn vẫn cảm thấy tuy mơ hồ mà thấm thìa "nông nỗi" khôn khổ của thân phận.
Đó là "nông nỗi" không có người nào chịu chửi lại hắn! Có nghĩa là tất cả mọi
người đã dứt khoát không coi hắn là người. Chửi lại hắn nghĩa là còn thừa nhận
hắn là người, là còn bằng lòng giao tiếp, đối thoại với hắn. Chí Phèo chửi cả
làng với... hi vọng được người nào đó chửi lại. Những tín hiệu yêu cầu giao
tiếp phát đi liên tục đó chỉ gặp sự im lặng đáng sợ. Và vẫn còn lại một mình
Chí Phèo trong sa mạc cô đơn: Hắn cứ "chửi rồi lại nghe", "chỉ có ba con chó
dữ một thằng say rượu!...
Cảnh mở đầu đột ngột của thiên truyện đó chẳng những đã giới thiệu hấp dẫn
tính cách độc đáo của nhân vật mà còn hé thấy tình trạng bi đát của một số
phận. Chí Phèo trước hết là một hiện tượng có tính quy luật, tính phổ biến, sản
phẩm của tình trạng áp bức bóc lột tàn tệ ở nông thôn Việt Nam trước đây. Đây
là hiện tượng những người nông dân lao động bị đè nén thái quá đã chống trả
lại để tồn tại bằng con đường lưu manh. Bá Kiến đẩy anh canh điền hiền lành
vào tù; nhà tù thực dân - chỗ dựa tin cậy của bọn phong kiến trong việc đàn áp
nông dân - đã tiếp tay lão cường hào để giết chết phần người trong con người
Chí, biến Chí thành Chí Phèo, biến một người nông dân lương thiện thành một
con quỷ dữ. Với ngòi bút hiện thực tỉnh táo ông vạch ra rằng, những người
nông khốn khổ phải giành lấy sự tồn tại sinh vật bằng việc bán cả nhân phẩm
ấy, đã trở thành lực lượng phá hoại mù quáng, dễ dàng bị bọn thống trị thâm
độc lợi dụng, Vì thế mà Chí Phèo từ chỗ hung hăng đến nhà Bá Kiến, tuyên bố
"liều chết với bố con" lão, chỉ cần mấy câu nói ngọt xớt, chuỗi cười Tào Tháo
và mấy hào chỉ, đã trở thành tên tay sai mới của lão. Hiện tượng mỉa mai, đau
xót rất phổ biến và có tính quy luật mà ngòi bút phân tích xã hội sâu sắc Nam Cao đã vạch ra.
Giá trị điển hình, sức mạnh tố eáo to lớn của hình tượng Chí Phèo trước hết là
ở chỗ làm nổi bật lên cái hiện tượng có tính quy luật vẫn hằng diễn ra ở xã hội
nông thôn đầy bất công và tội ác đương thời đó. Vấn đề của Chí Phèo là vấn đề
nông dân - với ý nghĩa đó, vẫn có thể nói Chí Phèo là một hình tượng điển hình về nông dân.
Truyện ban đầu được tác giả đặt tên là Cái lò gạch cũ; hình ảnh cái lò gạch cũ
được xuất hiện ở phần mở đầu và cả khi kết thúc truyện. Rõ ràng đó là ý nghệ
thuật của Nam Cao. Cái lò gạch cũ như là một biểu tượng về sự hiện tất yếu
của hiện tượng Chí Phèo, gắn liền với tuyến chủ đề chính của tác phẩm.
Câu chuyện mối tình Chí Phèo - Thị Nở quả là hấp dẫn đặc biệt. Song mặc dù
giọng văn bông lơn, có lúc như chế giễu, mặc dù đối với một số người, đó là sự
hấp dẫn của loại truyện tình bờ hụi của hạng nữa người ngợm, ngưu tầm ngưu
mã tầm mã, "đôi lứa xứng đôi", thì đây vẫn thật sự là truyện có một nội dung
hết sức nghiêm túc, chứa đựng một tư tưởng nhân đạo thật mới mẻ, độc đáo
đem lại cho tác phẩm một tầm vóc bất ngờ.
Ban đầu, Chí Phèo đến với Thị Nở một cách rất... Chí Phèo. Trong một đêm
"rười rượi những trăng", có những tầu chuối nằm ngửa ưỡn cong cong lên hứng
lấy trăng xanh rười rợi như là ướt nước, thỉnh thoảng bị gió lay lại giãy lên
đành như là "hứng tình", Chí Phèo rất say và cảm thấy "bứt rứt", "ngứa ngáy"
da thịt, đã xông tới người đàn bà khốn khổ "dại dột đã nằm ềnh ệch mà ngủ
ngay gần nhà hắn". Khi Thị Nở hốt hoảng kêu làng, thì "cái thằng trời đánh
không chết ấy lại kêu to hơn, "vừa kêu vừa dằn người đàn bà xuống"! Trâng no,
lì lợm đến thế là cùng! Nhưng điều kì diệu đã xảy ra là, nếu như ban đầu, Thị
Nở chỉ khơi dậy bản năng giống đực ở gã đàn ông Chí Phèo, thì sau đó, sự
chăm sóc giản dị đầy ân tình và lòng yêu thương mộc mạc mà chân thành của
đàn bà khốn khổ ấy đã làm thức dậy bản chất lương thiện của người lao động
trong Chí Phèo. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn Chí Phèo sau cuộc
gặp gỡ với Thị Nở, là một đoạn tuyệt bút, đầy chất thơ và tập trung thể hiện tư
tưởng nhân đạo sâu sắc bất ngờ cùa ngòi bút Nam Cao.
Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy muộn và lòng "bâng khuâng", "mơ hồ buồn".
Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, Chí Phèo mới lại nghe thấy tiếng chim hót vui
vẻ, tiếng cười nói của những người đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ nể chèo
đuổi cá...Những âm thanh quen thuộc trong cuộc sống lao động xung quanh ấy
hôm nào chả có, nhưng hôm nay bỗng trở nên vang động sâu xa trong lòng Chí
Phèo, trở thành những tiếng gọi tha thiết của cuộc sống vẳng đến bên tai lần
đầu tiên tỉnh táo của anh. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã lóe sáng như một tia chớp
trong cuộc đời tăm tối dằng dặc của Chí Phèo. Dưới ánh sáng của tia chớp ấy,
Chí Phèo bỗng nhìn rõ tất cả cuộc đời mình: những ngày xưa "rất xa xôi " đã
từng "ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải,
chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng! Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng
làm". Cái hiện tại đáng buồn: "già mà vẫn cô độc", cái tương lai còn đáng buồn
hơn: "đói rét và ốm đau và cô độc cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau".
Nếu như bao nhiêu năm nay, Chí Phèo "bao giờ cũng say", "say tận", "có lẽ
hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ rằng có hắn ở đời", thì hôm nay lần đầu tiên
Chí Phèo tỉnh táo, tỉnh táo để tự ý thức về thân phận. Trước đi Chí Phèo sống
và hành động hoàn toàn vô thức, hắn không thể biết và không cần biết hắn là gì
và đã làm những gì: "hắn không biết rằng hắn là con quỷ .. của làng Vũ Đại, để
tác quái cho bao nhiêu dân làng (...). Hắn biết đâu vì làm tất cả những việc ấy
trong khi người hắn say... Giờ đây, lần đầu tiên, Chí Phèo nhận ra sự hiện hữu
của mình, đối mặt với chính mình, và đồng thời, cũng lần đầu tiên, nhận ra sự
bế tắc tuyệt vọng của thân phận mình. Khi thấy Thị Ni bưng cháo hành đến,
hắn "rất ngạc nhiên" và hết sức xúc động uBởi vì lần này là lần thứ nhất hắn
được một người đàn bà cho". Hắn ăn bát cháo từ tay Thị Nở và bỗng nhận thấy
rằng cháo hành ăn rất ngon. Bởi vì hương vị cháo hành này chính là hương vị
của tình yêu thương chân thành, của hạnh phúc giản dị, mà có thật, lần đầu tiên
đến với Chí Phèo. Lần đầu tiên, Chí Phèo mắt "như ươn ướt", "ôi sau mà hắn
hiền, ai dám bảo đó là thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt của mình". Trở lại
là anh canh điền trong trắng năm xưa cảm thây bị xúc phạm khi bị cái bà ba
"quỷ cái" gọi lên bóp chân, trở lại anh nông dân lương thiện từng mơ ước cuộc
sống gia đình hạnh phúc hết sức bình dị khiêm nhường trong lao động... "Đó là
cái bản tính của hắn ngày thường bị lấp đi... "
Như vây là, lòng yêu thương, cái tình người chân thành đã làm sống lại trong
Chí Phèo cái bản chất đẹp đẽ của người nông dân lao động, bao lâu nay bị cho
lấp, vùi dập nhưng vẫn không tắt. Bọn cường hào và nhà tù thực dân, nói rộng
ra là cả cái xã hội tàn bạo ấy, ra sức giết chết cái "bản tính tốt" ấy của anh
"Trần trụi giữa bầy sói", anh không thể hiền lành, trong trắng, mà để tồn tại anh
phải cướp giật, ăn vạ, đâm chém. Muốn thế phải liều và mạnh, những thứ ấy
Chí Phèo tìm ở rượu. Và Chí Phèo luôn luôn say, " hắn say thì hắn làm bất cứ
cái gì người ta sai hắn làm" - xét cho cùng, Chí Phèo không chịu trách nhiệm
về những hành động của mình: linh hồn của anh đã bị cướp đi rồi.
Nhưng hôm nay, tình yêu đã thức tỉnh anh và linh hồn anh đã trở về. Anh thấy
"thèm lương thiện", "muốn làm hòa với mọi người biết bao!", Anh như rưng
rưng và bẽn lẽn trong sự phục sinh của linh hồn đó. Anh mong được nhận vào
cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện". Tình của Thị
Nở chẳng những đã thức tĩnh anh mà còn hé mở cho anh con đường trở lại làm
người, trở lại cuộc đời, và anh hồi hộp hy vọng.
Đã hơn một lần, Nam Cao viết về những mối tình của những kẻ bị cả xã hội
miệt thị, lăng nhục độc ác: Lang Rận - mụ Lợi, Đức - Nhi, Chí Phèo - Thị Nở...
Tuy vẫn giữ giọng văn khách quan, hài hước, nhà văn đã dứt khoát đứng ra làm
luật sư cãi trắng án cho những con người bất hạnh, bị mọi người hắt hủi đó,
nhất là khi họ bị ném vào tình thế nhục nhã, trở thành cái đích cho những mũi
tên chế giễu độc ác của người đời đầy thành kiến mu muội. Ông đã đanh thép
bênh quyền được yêu của họ và khẳng định tính chính đáng của những mối tình
như thế. Có gì là không chính đáng nếu như những con người trong khi bị cả xã
hội xua đuổi ấy đã đến với nhau, tìm thấy ở nhau sự giao cảm, chia sẻ nỗi lòng?
Vì nếu tình yêu chân chính là tình yêu làm nhân đạo hóa con người, nâng cao
sống, thì đã có mấy lần tình yêu có tác dụng nhân đạo hóa kì diệu, cảm động
như mối tình Thị Nở - Chí Phèo? Chẳng phải tình yêu thương tuy đơn giản, có
phần thô lỗ của người đàn bà xấu xí ấy đã gọi dậy linh hồn người trong con quỷ
dữ Chí Phèo, đưa hắn từ cõi địa ngục trở về cõi người đó sao? Chẳng phải một
sự hóa giải thần bí nào mà chỉ là một tình yêu rất mực trần tục, nhưng là tình
yêu đích thực con người, thật lành mạnh, khỏe khoắn. Mô típ nghệ thuật này
được xử lí bằng một tư tưởng nhân đạo lớn lao và một bút lực phi thường, chỉ có Nam Cao.
Tư tưởng nhân đạo và hút lực phi thường đó còn thể hiện ở đoạn văn miêu tả
tấn bi kịch tinh thần của Chí Phèo. Truyện ngắn đầy hấp dẫn này càng về cuối
càng đặc biệt hấp dẫn; không phải chỉ vì cốt truyện, tình tiết đầy tính kịch, biến
hóa khôn lường, mà còn vì tầm tư tưởng càng ngày càng nâng cao một cách bất ngờ của tác phẩm.
Nhiều người cũng nói đến Chí Phèo như là một bi kịch số phận, song nếu hiểu
cho chặt chẽ, chính xác thì chỉ từ nhân vật này đã thức tỉnh linh hồn, khao khát
trở lại làm người nhưng bị cự tuyệt lạnh lùng, thì chỉ đến khi đó, Chí Phèo mới
thật sự rơi vào tình thế bi kịch: bi kịch của con người bị từ chối không được làm người.
Khi hiểu ra rằng xã hội không công nhận mình, Chí Phèo vật vã đau đớn. Hắn
lại uống, nhưng điều lạ là, hôm nay "hắn càng uống càng tỉnh ra". Đúng hơn là
tuy say, trong tâm thức Chí Phèo lúc này vẫn có một điềm tỉnh: nỗi đau khôn
cùng về thân phận, và "hắn ôm mặt khóc rưng rức". Rồi như để chạy trốn bản
thân, chạy trốn nổi đau, hắn "lại uống... lại uống... đến say mềm người". Rồi
hắn đi với một con dao và vừa đi vừa chửi... như mọi lần. Nhưng lại hoàn toàn
khác mọi lần: hôm nay, Chí Phèo quằn quại đau đớn vì tuyệt vọng, càng thấm
thía hơn bao giờ tội ác của kẻ thù, đã đến thẳng trước Bá Kiến "trợn mắt, chỉ
tay vào mặt" lão, dõng dạc đòi quyền làm người, đòi lại bộ mặt người đã bị
vằm nát của mình. Kẻ chết vì ý thức nhân phẩm đã trở về, anh không thể chấp
nhận trở lại kiếp sông thú vật được nữa. Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở
về cuộc sống, chết trong tâm trạng bi kịch đau đớn. Thế là, trước đây, để bám
lại sự sống, Chí Phèo phải từ bỏ nhân phẩm, bán linh hồn cho quỷ; giờ đây, ý
thức nhân phẩm thức dậy, linh hồn trở về. Nhiều người nghi ngờ tâm lòng của
Nam Cao đối với nông dân, vì thấy người nông dân của nhà văn phần nhiều
xấu xa dữ tợn. Vậy mà chính ở những người khốn khổ có bộ mặt và tính cách
không mấy "đáng yêu" đó, nhiều khi ý thức nhân phẩm còn mạnh hơn cả cái
chết. Lão Hạc bề ngoài dường như lẩm cẩm, gàn dở nhưng lão đã lặng lẽ tìm
đến cái chết để giữ trọn lòng tự trọng trong cảnh cùng đường (Lão Hạc). Lang
Rận cũng tìm đến cái chết vì không chịu nổi điều nhục nhã đang chờ ông ta
hôm sau (Lang Rận) và ở đây là Chí Phèo?
Chí Phèo đã chết quằn quại trên vũng máu trong niềm đau thương vô hạn, khao
khát lớn lao, thiêng liêng là được làm người lương thiện đã không thực hiện
được. Lời nói cuối cùng của Chí Phèo, vừa đanh thép, chất chứa phẫn nộ vừa
mang sắc thái triết học và âm điệu bi thống đầy ám ảnh, làm người đời sững sờ
và day dứt không thôi..."Ai cho tao lương thiện?". Làm thế nào để con người
được sống cuộc sống con người? Đó là "một câu hỏi lớn không lời đáp chẳng
những Bá Kiến không thể hiểu mà xã hội khi ấy cũng chưa thể trả lời Câu hỏi
ấy được đặt ra một cách bức thiết, day dứt trong hầu như toàn bộ sáng tác Nam
Cao trước cách mạng. Và đặt ra bằng một tài năng lớn, độc đáo, khiến cho
nhiều sáng tác của Nam Cao - trước hết là Chí Phèo - thuộc vào những trang
hay nhất của nền văn xuôi Việt Nam.
Phân tích tác phẩm Chí phèo của Nam cao -Bài làm 5
"Khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang sách của Nam Cao, người ta mới
thấy đây là hiện thân đầy đủ nhất cho những gì gọi là cùng khổ của người dân
cày trong một xã hội thuộc địa: bị dày đạp, cào xé, hủy hoại từ nhân tính đến
nhân hình." (Nguyễn Đăng Mạnh). Người ta vẫn coi Chí Phèo như một hiện
tượng lạ của văn học và đời sống, một sáng tạo đặc biệt của Nam Cao mà qua
đó, bao lớp hiện thực được lật dở, bao tầng tư tưởng được cày xới.
"Chí Phèo" thật sự đã đưa tên tuổi của Trần Hữu Tri chính thức trở thành Nam
Cao. Vốn là một nhà văn hiện thực đến sau, bước vào làng văn khi mà mảnh
đất về người nông dân đã được lật xới nhiều lần, Nam Cao vẫn cày được những
đường cày thật đẹp và nâng tác phẩm của mình trở thành tuyệt tác. Tôi cho
rằng "Chí Phèo" là tác phẩm Nam Cao viết hay và sâu sắc nhất về người nông
dân bởi tính hiện thực và tư tưởng nhà văn gửi trong đó.
Đi theo cách nhà văn muốn dẫn dắt người đọc, Nam Cao đã đẩy Chí Phèo ra
giữa sân khấu cuộc đời với trạng thái say và chửi - một trạng thái đầy ấn tượng
và ám ảnh: "Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng vậy, cứ rượu xong là hắn
chửi." Hắn - cái cách mà Nam Cao gọi Chí Phèo - là một kẻ đang đằm mình
trong men rượu và đối thoại với đời bằng tiếng chửi. Tiếng chửi có lớp có lang,
có gần có xa, từ chửi trời, hắn chửi đời, rồi chửi sang cả dân làng Vũ Đại, chửi
đứa nào không chửi nhau với hắn, và sau cùng là chửi "đứa chết mẹ nào đã đẻ
ra hắn". Tiếng chửi như đã trở thành quy luật sống của một kẻ say, Nam Cao đã
cho ta thấy trạng thái tồn tại cụ thể nhất của nhân vật, thấy được chất lưu manh
trong con người hắn, và phần nào thấy được bi kịch bị cự tuyệt của Chí Phèo.
Trong tiếng chửi dường như có sự cô độc. Dân làng Vũ Đại không ai ra điều,
đáp lại hắn chỉ là tiếng sủa của ba con chó dữ. Chí Phèo bị gạch tên ra khỏi xã
hội chăng? Vì đâu mà hắn bị cả xã hội ghê sợ và lảng tránh? Những câu hỏi gợi
mở Nam Cao đặt ra từ đầu truyện đã cho ta lần bước tìm hiểu về nhân vật...
Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường
hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc
mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối
chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Không cha
không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai
ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được
tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết
đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ.
Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí "chỉ thấy nhục chứ yêu đương
gì". Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một cuộc sống gia
đình đơn giản mà đầm ấm: "Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại
bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Thế
nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã và không sao gượng
dậy được. Đó là lúc Chí bị Bá Kiến đẩy vào tù chỉ vì một cơn ghen bạo chúa, bi
kịch lưu manh hóa cũng bắt đầu từ đó.
Chí ra tù, mang theo sự biến đổi nhân hình và nhân tính đến méo mó dị dạng.
Từ một anh canh điền khỏe mạnh, Chí trở nên là một đứa "đặc như thằng săng
đá", với "cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng, cái mặt câng câng, con mắt gườm
gườm. Người ta tưởng như một con quỷ dữ về làng. Chuỗi ngày sau khi ra tù,
hắn ngụp lặn trong trạng thái tinh thần say miên man. Ăn trong lúc say, ngủ
trong lúc say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say. Đau đớn hơn,
sự tha hóa không chỉ hiện lên thành hình, nó còn đang dần gặm nhấm từ bên
trong khi mà Chí đã tự mình bán rẻ linh hồn cho Bá Kiến. Trở về làng Vũ Đại,
cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể
hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm được quy luật của sự sinh tồn:
những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên
được. Phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Vậy là chỉ sau những lời
mời dụ ngọt nhạt của tên gian hùng lọc lõi như Bá Kiến, Chí đã trở thành một
tay đi đòi nợ thuê, chém giết thuê. "Hắn đâu biết hắn đã phá bao nhiêu cơ
nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy
máu và nước mắt của bao người dân lương thiện". Chí Phèo đã thực hiện đúng
mưu đồ của cha con nhà Bá Kiến: "Lấy thằng đầu bò để trị những thằng đầu
bò". Chất Người trong hắn dường như đã cạn kiệt, linh hồn quỷ xâm chiếm và tàn phá hắn.
Nhưng cũng chính từ bi kịch ấy mà ta nhìn thấy bản chất, bộ mặt của cả một xã
hội - một xã hội vô nhân với những những con người cạn sạch tính người, một
xã hội mà Vũ Trọng Phụng gọi là "chó đểu". Ở đó, có những tên cường hào ác
bá như Bá Kiến nắm mọi quyền lực, có thể tuyệt đường sống của người dân
lương thiện bất cứ lúc nào, có nhà tù thực dân bắt vào một người lương thiện
và thả ra một con quỷ dữ, có những người như dân làng Vũ Đại khước từ sự
dung nạp và chấp nhận một người như Chí Phèo.
Tưởng như Chí đã trượt dài và lún sâu trong tấn bi kịch đời mình, nhưng Nam
Cao vẫn đủ tin tưởng và trái tim nhà văn vẫn rất nhân đạo khi "cố tìm mà hiểu"
chất Người trong tâm hồn của một kẻ mà phần Con đã chiếm thế. Đó là lúc Chí
gặp Thị Nở - một người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn của làng Vũ Đại. Qua cái
đêm ăn nằm như vợ chồng với thị, Chí tỉnh dậy và bao nhiêu sự hồi sinh đã
được đánh thức. Hồi sinh ý thức về không gian, thời gian, về tình cảm và tiếng
nói con người. Lần đầu tiên trong cuộc đời, Chí nghe thấy "tiếng chim hót
ngoài kia vui vẻ quá. Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền
chài gõ mái chèo đuổi cá". Cũng lần đầu, hắn ý thức được về tuổi tác của mình,
về hiện tại "đã già mà vẫn còn cô độc", về quá khứ với ước mơ lành thiện khi
xưa, về tương lai với "đói rét, ốm đau và cô độc". Con người ấy lần đầu có
những cảm giác rất người, thức dậy cả về lương tri và lương tâm. Hắn biết lo,
biết sợ, biết xúc động rưng rưng trước bát cháo hành tỏa nồng hơi ấm, biết ăn
năn hối cải về tội ác của mình. Chính bàn tay của một người phụ nữ có dòng
dõi mả hủi đã cứu đỡ hắn ra khỏi bờ vực tha hóa, để rồi không chỉ bộc lộ bản
chất lương thiện vẫn luôn sẵn có trong con người, Chí Phèo còn trỗi dậy cả
khao khát hoàn lương - trở về với xã hội loài người. Hắn tin rằng "Thị Nở sẽ
mở đường cho hắn"; "Thị có thể làm hòa với hắn sao mọi người lại không thể".
Chưa bao giờ, ước muốn được quay trở về làm người lương thiện lại mãnh liệt
đến thế. Chính đôi mắt tinh tế và tấm lòng cảm thương của Nam Cao đã nhìn
thấy mầm thiện của một con người vốn sống lương thiện, bị xã hội tàn ác vùi dập và đày đọa.
Nhưng hiện thực vẫn là hiện thực. Ngòi bút trung thành với hiện thực của Nam
Cao đã không chối bỏ một sự thật khác, rằng sống trong xã hội đầy rẫy những
định kiến cổ hủ lạc hậu, con người không thể sống yên ổn theo đúng nghĩa.
Một lần nữa, Chí Phèo rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người bởi định
kiến của bà cô Thị Nở. Người đàn bà ấy đã dõng dạc tuyên bố rằng: "Trai làng
đã chết hết hay sao mà đi đâm đầu lấy một thằng không cha, lấy một thằng chỉ
có một nghề là rạch mặt ăn vạ". Cái loa của định kiến làng xã đã đưa bước chân
Thị Nở đến từ chối thẳng thừng khát vọng hoàn lương và hạnh phúc của Chí
Phèo. Giây phút nhân vật nửa tin nửa ngờ, nửa say nửa tỉnh, cố níu mà không
thể giữ, bàng hoàng đến đau đớn đã biến Chí Phèo trở thành một kẻ thật sự tội
nghiệp và đáng thương. Thị Nở bước đi, cánh cửa dẫn lối về xã hội loài người
đóng sầm ngay trước mặt. Chí Phèo tìm đến tên kẻ thù lớn nhất của đời mình
để trả thù và cũng kết liễu luôn đời mình. Chết là một kết cục bi thảm đau đớn,
nhưng là lẽ tất yếu khi sống trong xã hội đầy nhơ nhuốc ấy. Không được dung
nạp vào xã hội chung, Chí Phèo cũng không thể trở lại làm quỷ dữ, bởi lương
tri và lương tâm đã trở về. Chí có chết mới là cách giải quyết tốt nhất, dù nó
thật đau đớn. Đó là cái chết bảo toàn nhân phẩm, cái chết cảnh tỉnh cho cả một
xã hội, để rồi ngày nay, tiếng hỏi "Ai cho tao lương thiện?" vẫn không ngừng vang vọng và ám ảnh.
Để làm nên thành công của tác phẩm trong việc xây dựng nhân vật, không thể
không kể đến nghệ thuật phân tích tâm lý bậc thầy của Nam Cao, nghệ thuật
kết cấu linh hoạt theo dòng tâm lý và sử dụng những đoạn độc thại, đối thoại
phù hợp. Ngòi bút của Nam Cao đã điển hình hóa một kiểu người, một số phận
trong xã hội, để ngà nay Chí Phèo vẫn là cái tên đầu tiên khi người ta nhớ về Nam Cao. Bài làm 6
Khi nhận định về các tác phẩm của Nam Cao, Nguyễn Hoành Khung cho rằng:
“Trong mảnh sáng tác về nông dân của Nam Cao, người đọc thường gặp những
nhân vật xấu xí, thô lỗ cục cằn và những chuyện nhục nhã của họ. Chính vì thế
mà một số người tỏ ra hoài nghi giá trị hiện thực và nhân đạo của ngòi bút Nam
Cao, có biết đâu rằng, chính với đám nhân vật “có vấn để” đó mà cái nhìn hiện
thực và quan điểm nhân đạo của nhà văn mới thể hiện rõ, đầy đủ nhất”.
Và nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao là một nhân vật
“có vấn đề” như thế, nhưng chính những lời văn mà tác giả viết về nhân vật
này và những bi kịch mà y phải chịu đựng đã thể hiện được giá trị hiện thực và
nhân đạo sâu sắc của tác phẩm mà Nam Cao muốn gửi gắm qua nhân vật này.
Chí Phèo có một tuổi thơ thật bất hạnh: Ngay từ khi chào đời, Chí Phèo đã là
một đứa con hoang, bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ và không biết cha mẹ mình là
ai. Chí lớn lên nhờ sự đùm bọc, cưu mang của dân làng. Lớn lên Chí đi ở hết
nhà này đến nhà nọ. Cứ như thế, Chí lớn lên bình yên giữa những người dân
nghèo khổ nhưng hiền lành. Chí cũng có ước mơ riêng của mình, đó là có một
gia đình nho nhỏ “chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải”.
Đến năm hai mươi tuổi, Chí trở thành một chàng trai có vẻ đẹp toàn vẹn từ
ngoại hình mạnh khỏe cho đến nội tâm hiền lành. Nhưng rồi Chí đi làm cho
nhà Bá Kiến và cũng chỉ vì chuyện ghen tuông vớ vẩn Chí bị đẩy vào tù, sau
bảy, tám năm biệt tích trở về làng giờ đây Chí Phèo đã hoàn toàn thay đổi từ
ngoại hình cho đến tính cách.
Ngoại hình của Chí thật đáng sợ: cái đầu cạo trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn,
cái mặt thì đen và rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm trông gớm chết. Ngoại hình
ấy ẩn chứa một tính cách đã hoàn toàn thay đổi, không còn tính cách “lành như
đất” nữa mà giờ đây hắn chuyên đi đập đầu, rạch mặt ăn vạ, hắn lấy rượu để
bầu bạn với mình và rồi trong cơn say hắn đến nhà Bá Kiến để trả thù nhưng
kết quả của cả hai lần là hắn đã bị Bá Kiến “ru ngủ” bằng rượu, thịt và tiền.
Và rồi từ đó, Chí rơi vào trạng thái mất phương hướng, không biết ai là kẻ thù
của cuộc đời mình và lại tiếp tiếp tục rơi vào cái bẫy mà Bá Kiến đã giăng sẵn,
hắn vào tù vì Bá Kiến và rồi khi ra tù lại tiếp tục biến mình thành tay sai cho
chính kẻ thù của mình, còn gì nhục nhã hơn là điều đó.
Cứ thế, cuộc đời hắn trượt dài trong những bi kịch, hắn không làm gì ngoài
việc rạch mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai không cùng phe cánh
với cụ Bá. Cuộc đời hắn chìm trong cơn say, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong
lúc say và đánh nhau trong cơn say, “hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đập vỡ
bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện”.
Cứ như thế đời hắn trượt dài, nhìn vào mặt hắn người ta không biết hắn bao
nhiêu tuổi. Cuộc đời hắn đã xem như là bỏ đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính
bị xói mòn. Cả làng Vũ Đại đều tránh mặt hắn mỗi lần hắn đi qua. Ngay cả bản
thân hắn cũng quên sự có mặt của hắn ở trên đời.
Nhưng rồi người nông dân bị lưu manh hóa ấy cuối cùng cũng đã thức tỉnh.
Trong tâm hồn tưởng chừng như chai đá ấy của Chí vẫn còn le lói một ánh
sáng của lương tâm, lương thiện chỉ cần có cơ hội thôi là sẽ bừng sáng. Và
Nam Cao đã cho Chí một cơ hội để ánh sáng ấy có dịp bừng lên, đó là cho Chí
được gặp gỡ với Thị Nở. Chính cuộc gặp gỡ ấy, sự chăm sóc ân cần của Thị
cùng bát cháo hành nóng hổi nghi ngút khói đã làm sống dậy bản chất lương thiện của Chí.
Được Thị Nở chăm sóc, Chí Phèo rất ngạc nhiên vì xưa nay nào hắn có thấy ai
tự cho ai cái gì, hắn phải dọa nạt hay cướp giật mới có. Lần đầu tiên khi tỉnh
giấc, hắn bâng khuâng nghe tiếng chim hót, tiếng cười nói của những người đi
chợ và cùng với đó là khát vọng được sống một cuộc sống khác, được hòa nhập
cùng mọi người, họ sẽ nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của
những người lương thiện. Hắn tự đặt ra câu hỏi cho mình: hắn có thể làm bạn
được sao lại chỉ gây thù? Thị Nở chính là người mà Chí đặt niềm tin vào, Chí
tin Thị Nở sẽ là chiếc cầu nối giúp Chí trở về với cuộc sống đó.
Nhưng rồi, khát khao sống một cuộc sống lương thiện của hắn vừa mới được
nhen nhóm thì đã bị dập tắt. Chiếc cầu nối ấy đã bỏ hắn mà đi chỉ vì lời nói của
bà cô: “đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà lại phải lấy một thằng không cha,
không mẹ chỉ biết rạch mặt ăn vạ”, bỏ lại Chí với nỗi đau khổ đến tột cùng, hắn
đau xót nhận ra rằng sẽ chẳng còn chiếc cầu nào mang hắn về với cuộc sống
của những người lương thiện nữa.
Những lời lẽ cuối cùng đã bộc lộ tất cả bi kịch nội tâm của Chí: “Tao muốn
làm người lương thiện (…). Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào
cho mất được những mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương
thiện nữa. Biết không!”.
Và cuối cùng, bi kịch đã biến thành thảm kịch. Tột đỉnh của sự khổ đau đã biến
thành tột đỉnh của sự căm thù, uất hận. Chí thấy kẻ thù trước mắt cướp đi tình
yêu của hắn chính là bà cô Thị Nở nhưng trong sâu thẳm tâm hồn có lẽ hắn vẫn
ý thức được ai mới chính là kẻ thù gây nên một chuỗi dài bi kịch của cuộc đời mình.
Hắn xách dao đến nhà bà cô Thị Nở nhưng lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến, Chí
Phèo đã đâm chết Bá Kiến rồi tự kết liễu cuộc đời mình. Trong sự bế tắc đến
tột cùng, Chí đã tự tìm ra lối thoát cho riêng mình, đó là cái chết, chết để kết
thúc tất cả bi kịch của cuộc đời Chí.
Nhân vật Chí Phèo là nhân vật tiêu biểu cho số phận của người nông dân trong
xã hội nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Nam Cao đã thể hiện
tấm lòng yêu thương, trân trọng của mình đối với những người có số phận bất
hạnh. Ở sâu thẳm trong tâm hồn họ chính là sự khát khao hạnh phúc, được yêu
thương và sống một cuộc sống tốt đẹp hơn. Bài làm 7
Trước Cách mạng tháng Tám, nhiều tác phẩm thuộc dòng văn học hiện thực
phê phán viết về số phận người nông dân ra đời như Tắt đèn của Ngô Tất Tố
với chị Dậu, Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan với anh Phan,... và
không thể không kể đến Nam Cao với hàng loạt tác phẩm xuất sắc về người
nông dân Việt Nam. Trong đó nổi bật là hình tượng nhân vật Chí Phèo trong
tác phẩm cùng tên Chí Phèo.
Trước Cách mạng tháng Tám, nhiều tác phẩm thuộc dòng văn học hiện thực
phê phán viết về số phận người nông dân ra đời như Tắt đèn của Ngô Tất Tố
với chị Dậu, Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan với anh Phan,... và
không thể không kể đến Nam Cao với hàng loạt tác phẩm xuất sắc về người
nông dân Việt Nam. Trong đó nổi bật là hình tượng nhân vật Chí Phèo trong
tác phẩm cùng tên Chí Phèo.
Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện, là đứa con hoang bị bỏ
rơi lúc mới lọt lòng. Chí được một bác phó cưu mang đưa Chí về nuôi rồi đến
khi bác phó chết, Chí không cha, không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, suốt
ngày đi ở cho nhà này rồi sang nhà khác, chẳng được ai ban cho chút tình thương.
Thời gian Chí Phèo đến làm canh điền cho nhà Bá Kiến, Chí được mọi người
khen là hiền như đất, dù không được học hành nhưng Chí phân biệt đúng sai,
phải trái khi ở trong nhà Bá Kiến. Mỗi lần bị mụ vợ Bá Kiến gọi vào bắt bóp
chân, Chí "chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì", Chí hiểu được đâu là tình yêu, đau
là sự dâm đãng đáng khinh rẻ.
Cũng như bao nhiều khác, Chí cũng mơ về một cuộc sống gia đình ấm áp nơi
“Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn
liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Nhưng rồi tất cả bị vùi dập và
cuộc đời Chí trượt theo vết dài khi Chí bị Bá Kiến đẩy vào con đường tù tội chỉ
vì sự ghen tuông bạo chúa, bị kịch của cuộc đời Chí Phèo cũng bắt đầu từ đó.
Ngày Chí ra tù với sự biến dạng nhân hình, sự tha hóa nhân cách đến méo mó
dị dạng. Chí từ một thanh niên khỏe mạnh, hiền lành, trở thành một đứa “đặc
như thằng săng đá”, với “cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng, cái mặt câng câng,
con mắt gườm gườm". Mọi người nhìn Chí như một con quỷ trong làng, Chí bị
mọi người xa lánh, đi đến đâu cũng bị xua đuổi.
Chí ngụp lặn trong những cơn say miên man, ăn trong lúc say, ngủ trong lúc
say, cậy cái say nó đi đập đầu, rạch mặt, chửi bới, ăn vạ, dọa nạt mọi người.
Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, bon chen, chèn ép con
người đến nghẹt thở, Chí Phèo không sống hiền lành, nhẫn nhục như ngày xưa được nữa.
Hắn lì lợm, hung dữ, tàn bạo vì thế nên chỉ sau những lời dụ dỗ của tên địa chủ
lọc lõi như Bá Kiến,, Chí đã trở thành một tay đòi nợ thuê, chém giết thuê, nó
làm mọi thứ mà không sợ một ai. Chí đã làm theo mưu đồ của cha con nhà Bá
Kiến là “Lấy thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò”. Dường như Chí của
ngày xưa chết hẳn rồi, Chí của bây giờ không khác gì con quỷ dữ, một linh hồn
quỷ đang tàn phá trong con người Chí Phèo.
Dường như qua từng chi tiết càng bộc lộ rõ hơn bản chất, bộ mặt của xã hội
ngày xưa- một xã hội vô nhân đạo với những con người sống không có tình
người, một xã hội mà Vũ Trọng Phụng gọi nó với cái tên khinh nhược là "chó
đểu". Nơi mà những tên địa chủ như Bá Kiến nắm hết mọi quyền lực, thậm chí
họ còn quyết định được sự sống của người khác, khi mạng sống con người không được bảo đảm.
Tưởng Chí Phèo cứ mãi đi theo, trượt dài trong bi kịch cuộc đời mình nhưng
nhà văn Nam Cao đã không làm thế, ông vẫn tin tưởng sâu thẳm trong phần
con của Chí vẫn tồn tại chất người. Và dường như phần người của Chí được thể
hiện khi gặp được đúng người cảm thông, dang rộng vòng tay với Chí.
Đó là lúc Chí gặp Thị Nở - một người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn của làng Vũ
Đại. Qua cái đêm định mệnh giữa Chí Phèo và Thị Nở, thức dậy vào sáng sớm
Chí như được hồi sinh. Có lẽ lần đầu tiên từ khi ra tù trở về, Chí mới lắng nghe
"tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá. Có tiếng cười nói của những người đi chợ.
Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá". Lần đầu Chí ý thức về tuổi tác, bản thân
mình "đã già mà vẫn còn cô độc".
Dường như lý trí và lương tâm được đánh thức bừng sáng trong con người Chí.
Một con người đâm thuê, chém mướn không biết sợ, không chút suy nghĩ
tưởng chừng như sống không tình, không người nhưng Chí đã xúc động rưng
rưng nước mắt khi bưng trên tay bát cháo hành tỏa nồng hơi ấm.
Chính bàn tay, chính tình người của người phụ nữ xấu xí đã cứu vớt một con
người tha hóa thức tỉnh, đánh thức phần người trong Chí thức dậy. Chí Phèo
khao khát hoàn lương- trở về với hòa nhập với xã hội, với cộng đồng. Hắn
mang một lòng tin rằng chính Thị sẽ là người mở đường cho hắn. Chưa bao giờ
ước muốn, khao khát muốn được làm người lương thiện lại mãnh liệt, mạnh mẽ trong Chí đến thế.
Nhưng hiện thực vẫn là hiện thực, trong cái khung cảnh, tư tưởng lúc bấy giờ
Nam Cao không thể rời thực tế mà bỏ mặc những định kiến cổ hủ lạc hậu được.
Khao khát hoàn lương chưa kịp thực hiện, một lần nữa Chí Phèo rơi vào bi kịch
bị cự tuyệt quyền làm người bởi lời nói của bà cô của Thị Nở “Trai làng đã
chết hết hay sao mà đi đâm đầu lấy một thằng không cha, lấy một thằng chỉ có
một nghề là rạch mặt ăn vạ”.
Những lời định kiến của làng xã, những lời nói của bà cô đưa Thị Nở đến từ
chối khát vọng hoàn lương và hạnh phúc của Chí Phèo. Trong cơn nửa say nửa
tình, cố níu mà không thể giữ, Chí Phèo trở thành một kể đáng thương và tội
nghiệp. Thị Nở quay lưng bước đi cũng chính là lúc cánh cửa hoàn lương của
Chí đóng sập lại. Chí lại ngập trong cơn say và tìm đến kẻ đã đẩy Chí thành
một người thân tàn ma dại để trả thù và cũng kết liễu luôn đời mình.
Chết là cái kết quá đau thương nhưng nếu sống mà làm con quỷ dữ trong cái xã
hội đầy nhơ nhuốc ấy thì cái chết chắc sẽ là cách giải quyết tốt nhất. Đó là cái
chết để bảo toàn lương tri, lương tâm, cái chết thức tỉnh cả một xã hội phong
kiến cổ hủ để rồi câu nói "Ai cho ao lương thiện?" vang vọng và ám ảnh mãi
không nguôi. Đúng là một bi kịch quá đau lòng đối với người nông dân trong
xã hội đầy rẫy bất công.
Để làm nên một "Chí Phèo" thành công và vang bóng đến tận hôm nay ngoài
nội dung, ý nghãi của tác phẩm còn phải kể đến sự thành công trong việc xây
dựng nhân vật, phân tích tâm lý nhân vật, cách sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, vận
dụng đối thoại, độc thoại phù hợp để bộc lộ được hết thông điệp nhà văn muốn
gửi gắm. Ngòi bút hiện thực Nam Cao đã đưa đến cho người đọc những dòng
cảm xúc chân thực nhất, phải chăng vì thế mà khi nhắc đến Nam Cao thì Chí
Phèo sẽ làm người ta gợi nhớ đầu tiên.
Hình tượng nhân vật Chí Phèo trong trang văn của Nam Cao giúp người sau
hiểu được phần nào cuộc sống cơ khổ, chà đạp, hủy hoại con người đến tận
cùng. Qua đó thể hiện được tên tuổi, ngòi bút tài hoa của nhà văn Nam Cao. Bài làm 8
Là một nhà văn luôn băn khoăn trăn trở về cách sống và cách viết, Nam Cao đã
từng tuyên ngôn “Sống đã rồi hãy viết”. Một nhà văn muốn viết được nhân đạo
trước hết phải sống cho nhân đạo bởi cuộc đời quyết định đến văn chương.
Nam Cao luôn nhìn đời bằng đôi mắt của tình thương, đôi mắt của lòng nhân ái.
Với cách nhìn đời này, Nam Cao bắt đầu cầm bút sáng tác.
Trước Cách Mạng, Nam Cao viết về hai đề tài, đề tài người nông dân và đề tài
người trí thức tiểu tư sản. Ở đề tài nông dân hay nhất, tiêu biểu nhất phải kể
đến sáng tác đầu tay của Nam Cao, tác phẩm Chí Phèo. Linh hồn của câu
chuyện là nhân vật cùng tên được nhà văn miêu tả với một tấn bi kịch bị cự
tuyệt quyền làm người: Sinh ra là người nhưng không được làm người, cả đời
khao khát lương thiện, cuối cùng trở thành kẻ bất lương.
Thông qua bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của hắn nông dân Chí, ngòi bút
Nam Cao bộc lộ là một ngòi bút nhân đạo, nhân văn, sâu sắc và cao cả. Người
ta thường nói bi kịch là một hoàn cảnh bi thảm, bi thương, bi đát nào đó, điều
này không chính xác. Bi kịch vốn được hiểu là những khát vọng chân chính,
cháy bỏng, mãnh liệt của một con người nhưng không có điều kiện thực hiện
trên thực tế, cuối cùng người mang khát vọng bị rơi vào kết cục của một thảm kịch.
Bi kịch là cuộc đấu tranh dai dẳng, không khoan nhượng giữa thiện và ác, giữa
ánh sáng và bóng tối, giữa cao thượng và thấp hèn, giữa chính nghĩa và phi
nghĩa. Trong cuộc sống thường ngày, thương nhật, bi kịch không diễn ra giữa
các lực lượng xã hội đấu tranh với nhau.
Trái lại nó là lực lượng tinh thần trong đời sống tâm hồn của một con người, ví
như nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao, cả đời
hắn khao khát lương thiện, cuối cùng trở thành kẻ bất lương, sinh ra là người
nhưng không được làm người, để rồi hắn chết trên con đường trở về lương thiện.
Cuộc đời con người là một chuỗi biến động liên hoàn mà chúng ta không thể
phân tách hay chia cắt được.Tuy nhiên cuộc đời mỗi con người được hình
thành bởi những điều kiện, hoàn cảnh . Ở những điều kiện lớn, hoàn cảnh
lớn,bản chất con người mới được bộc lộ bởi nói như H.Balzac: “Bản chất của
con người thường bị bánh xe của số phận che đậy, và khi lao vào bão tố, dù tốt
hay xấu, tự nó bộc lộ.”
Cuộc đời Chí Phèo tù lúc sinh ra đến lúc chết đi được chia làm hai chặng
đường: chặng đường đầu tiên từ lúc Chí sinh ra đến năm hai mươi tuổi và sau
khi ra tù. Lai lịch Chí Phèo được mở ra trong câu chuyện là một đứa trẻ xám
ngắt, được bọc trong một tấm váy đụp bên cạnh lò gạch bỏ hoang, được người
thả ống lươn đem về trong một buổi sớm tinh sương. Lớn lên, Chí Phèo được
cưu mang bởi những con người nghèo khổ, Chí Phèo đi ở hết nhà này cho đến
nhà khác, từ bà goá mù cho đến ông Phó Cối.
Quá khứ ấy không khiến Chí Phèo trở thành một đứa trẻ hư hỏng, trái lại, đến
năm hai mươi tuổi, khi đi làm hắn chắn điền cho nhà lí Kiến, Chí Phèo vẫn giữ
nguyên bản tính của một người nông dân thuần hậu. Cũng như biết bao người
nông dân làng Vũ Đại, Chí Phèo ước mơ có được một cuộc sống bình dị bởi
mơ ước của một con người phần nào bộc lộ bản tính của người ấy. Ở đây, Chí
Phèo ước mơ có một cuộc sống nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải.
Chúng lại bỏ con lợn để nuôi, khá giả mua năm ba sào ruộng cấy.
Mơ ước ấy chứng tỏ rằng hắn là một người nông dân thuần hậu, thậm chí làng
Vũ Đại còn gọi hắn là người “lành như cục đất”. Ta còn thấy Chí phèo là một
người trong sáng và trọng danh dự. Làm hắn chắn điền cho nhà lí Kiến, rồi một
lần bị bà Ba Kiến gọi lên bóp chân, Chí Phèo chỉ thấy nhục, thấy sợ. Trái tim
của Chí Phèo hai mươi tuổi đâu còn là gỗ đá, Chí Phèo đã nhận thức được đâu
là tình yêu chân chính, đâu là thói dâm ô.
Bị gọi “đấm bóp cho bà 3 quỷ quái hắn chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”. Như
vậy, rõ ràng, đến đây ta có thể khẳng định hắn là một người nông dân thuần
hậu, nhưng xã hội ấy không cho Chí Phèo sống yên ổn. Chí Phèo đang sống
trong cái xã hội mà “Kiếp người cơm vãi cơm rơi - Biết đâu nẻo đất phương
trời mà đi.”, trong cái xã hội mà cạm bẫy người giăng giăng như mắc cửi thì
những ngời hiền lành như Chí Phèo bao giờ cũng phải chịu thiệt thòi.
Vì một cơn ghen bóng gió, Chí Phèo đã bị Bá Kiến tống vào ngục tù, con
người xảo quyệt này sẵn sàng chà đạp lên cuộc đời người khác không thương
tiếc, không ghê tay. Bắt đầu từ đây, Chí Phèo chuyển sang một trạng thái khác,
một cuộc sống khác. Nhân đây cũng phải nói qua cái nhà tù, đây là nhà tù thực
dân, đồng lõa với lão Bá tha hóa Chí Phèo.
Nhà tù này có bản chất xã hội trái hoàn toàn với bản chất xã hội của một nhà tù
mà loài người đang mong đợi. Nhà tù này chỉ thu nạp tù nhân khi hắn ta còn
lành như cục đất, vào nhào nặn, đào tạo đến khi thành con quỷ dữ thì thả họ ra.
Nhà tù này tiếp tay cho lão Bá tha hóa Chí Phèo, nhà tù này đã biến hắn Chí
“lành như cục đất” giờ đây ra tù... hãy nghe Nam Cao mô tả diện mạo của Chí
Phèo lúc ra tù: ”Cái đầu cạo trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà
rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm, ngực và tay chạm trổ đầy những hình rồng
phượng, có cả một ông tướng cầm chuỳ.
Trông Chí Phèo đặc như một tên săng đá”.Hình ảnh này đã làm tái hiện một
Chí Phèo khác hoàn toàn, thay thế hắn nông dân thuần hậu ngày xưa giờ đây là
một Chí Phèo sinh ra làm người nhưng không được làm người, hiền lành chân
chất là thế giờ dây trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Đây là bi kịch đầu tiên của Chí Phèo bởi bi kịch là khát vọng chân chính, mãnh
liệt của một con người nhưng không có điều kiện thực hiện trên thực tế, Chí
Phèo cả đời khao khát lương thiện nhưng giờ đây thành kẻ bất lương mất rồi,
thành con quỷ dũ mất rồi. Hình ảnh của Chí say rượu vừa đi vừa chửi hết sức
buồn cười, phải chăng đằng sau sự lảm nhảm của hắn là tiếng kêu gào tuyệt
vọng của sự thèm khát được giao tiếp với đồng loại.
Trong cơn say hắn nhận ra được sự cô đơn khủng khiếp của 1 con người bị xh
ruồng bỏ. “Hắn thèm được người ta chửi, chửi hắn có nghĩa là còn công nhận
hắn là người”. Thế nhưng hắn cứ chửi, xung quanh hắn là sự im lặng đáng sợ,
hắn chửi rồi lại nghe: “chỉ có 3 con chó dữ với 1 thằng say rượu”. Hắn đã bị từ
chối quyền làm người tuyệt đối. Bản chất của hắn đâu phải là kẻ nát rượu.
Khi còn trẻ hắn đã “ao ước có 1 mái ấm gia đình nho nhỏ, chồng cày thuê cuốc
mướn vợ dệt vải nuôi heo”. Mơ ước của hắn thật bình dị bằng sức lao động
chân chính, cái hạnh phúc đơn sơ nhưng ấm cúng tình người tưởng chừng ai
cũng có được nhưng với Chí lại quá xa vời. Giờ đây, hắn muốn sống trong cái
Làng Vũ Đại “đầy bọn ăn thịt người không thắn” thì hắn phải gây gổ, cướp giật, ăn vạ.
Muốn thế hắn phải có gan, phải mạnh, thế là hắn mượn rượu để say như hủ
chìm, như thế hắn sẽ làm “bất cứ điều gì người ta muốn hắn làm”, xã hội đã
vằm nát bộ mặt người của hắn để hắn không còn được coi là con người nữa “ai
cũng tránh mỗi lần hắn đi qua”. Trong cơn say rượu, Chí đã gặp Thị Nở và họ đã ăn nằm với nhau….
Sau khi tỉnh cơn say, hắn nhận được sự t/yêu c/sóc của TNở làm cho trong sâu
xa t/hồn hắn lay động 1 tia chớp lóe sáng trong cuộc đời tối tăm dài dằng dặc
của hắn và hắn nhận ra được tình trạng bi thương của số phận mình. “Hắn mơ
hồ thấy rằng sẽ có 1 lúc mà người ta không thể liều lĩnh được nữa, bấy giờ mới
nguy”, hắn tủi thân vì hắn nhận ra sự trơ trọi của chính mình.
Đó những ân hận khi Chí Phèo hiểu ra hắn đã làm quá nhiều điều tội lỗi, khốn
nổi khi gây ra những điều này Chí triền miên trong những cơn say nên nào biết
gì! Tình yêu của Thị Nở làm cho hắn “bỗng thèm lương thiện”, bát cháo hành
đã đưa Chí rẽ vào bước ngoặc mới, bát cháo hành là biểu tượng của sự cảm
thông yêu thương giữa những người cùng cảnh ngộ, nó mãi mãi đi vào cuộc
sống văn chương với tư cách là biểu tượng của chủ nghĩa nhân đạo.
Hắn cảm động quá! cảm động vì lần đầu tiên hắn được ăn 1 thứ ngon như thế.
Hơn nữa muốn có cơm ăn, rượu uống chí phải dọa, cướp giật. Lần đầu tiên có
người tự nguyện cho hắn ăn, đặc biệt hơn đó lại là đàn bà nên con quỷ dữ đã
mềm ra thành từng giọt nước mắt. Cùng với những giọt nước mắt là Chí nghe
được tiếng chim hót buổi sáng, tiếng gõ mái chèo của người thuyền chài đuổi
cá trên sông, tiếng trò chuyện của những người đi chợ sớm.
Cái đẹp của tự nhiên, cái đẹp của lao động chứa chan tình người, tất cả thật đơn
sơ nhưng cũng thật gần gũi thân thiết, những âm thanh này ngày nào cũng có
nhưng đây là lần đầu tiên Chí cảm nhận được. Giọt nước mắt của Chí cùng
những âm thanh buổi sáng đã làm nên một Chí Phèo khác hẳn, có nghĩa là hắn
chắn điền lương thiện năm nào đã sống lại.
Đây là lần đầu tiên Chí tỉnh và lần đầu tiên nhận thức được tội lỗi, sự ân hận
muộn màng nhưng dù sao cũng đáng ghi nhận. Đó là biểu hiện của sự làm lành
“hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao” Chí muốn được mọi người bỏ qua
cho tất cả. Thị Nở sẽ giúp hắn làm loại từ đầu, niềm khát khao mới người làm
sao! Tình yêu của Thị Nở làm cho hắn thức tỉnh và mở đường cho hắn trở lại
làm người, nhưng thật trớ trêu, bà cô Thị Nở đã đóng sầm cánh cửa lại, bà
không cho cháu bà “đi lấy 1 thằng ăn vạ”.
Cách nhìn của bà cũng chính là cách nhìn của Làng Vũ Đại, linh hồn của Chí
vừa trở về thì bị cự tuyệt, không ai nhận ra. Khát vọng của Chí đã bị đã bị xã
hội từ chối, điều này cũng dễ hiểu vì xã hội quen nhìn Chí trong bộ dạng quỹ
dữ, không thể chấp nhận một Chí Phèo hiện lên với tư thế con người. Sự từ
chối của xã hội đầy định kiến, xã hội không độ lượng bao dung đón đứa con lạc
loài trở về vòng tay cộng đồng.
Hoàn cảnh đặt Chí trước 2 con đường để lựa chọn: “hoặc sống làm quỷ dữ hoặc
chết để khẳng định gía trị làm người”. Thực chất Chí chỉ có 1 con đường để đi,
khi giá trị làm người thức tỉnh thì chí không thể làm quỹ dữ, đó chính là bi kịch
thân phận con người không được quyền làm người.
Sự từ chối của Thị Nở đã đóng sập cánh cửa hoàn lương của Chí. Lúc này hắn
đã uống rất nhiều rượu “càng uống càng tỉnh ra” để thấm thía thân phận mình
“hắn ôm mặt khóc rưng rức”. Trong cơn say hắn xách dao ra đi, hắn lảm nhảm
đến nhà Thị Nở để đâm chém nhưng bước chân lại tìm đi tìm “kẻ gây ra tình
trạng tuyệt vọng cho đời mình”. Thực trạng này đòi hỏi chúng ta phải xác định Chí say hay tỉnh?
Nếu bảo hắn tỉnh thì không thuyết phục vì ý thức của hắn không còn khả năng
điều khiển hành vi, bảo hắn say cũng không thỏa đáng vì người say không thể
biết đòi lương thiện “tao muốn làm người lương thiện” và biết rất rõ không ai
cho hắn lương thiện, nghịch lý này là rượu đã làm cho thế giới tinh thần hắn
mụ mị đi, nhưng 1 bộ phận mà rượu không thể làm tê liệt được là ý thức làm
người, cho nên hành động đòi lương thiện là vô cùng tỉnh táo.
Vì vậy Chí đã giết Bá Kiến và tự hủy diệt mình. Cái kết thúc thật rùng rợn vì
máu chảy nhưng cũng thật nhân bản vì tội ác đã được trừng trị và giá trị làm
người được khẳng định. Một Chí Phèo tỉnh đã giết chết một Chí Phèo say . Chí
Phèo bằng xương, bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lòng người đọc là Chí
Phèo đòi quyền sống, đang dõng dạc đòi làm người lương thiện.
Như vậy, khi ý thức nhân phẩm đã trở về, Chí Phèo không bằng lòng sống như
trước nữa. Và Chí Phèo chết trong bi kịch đau đớn, chết trên ngưỡng cửa trở về
cuộc sống . Đây không thể là hành động lưu manh mà là sự vùng lên tuyệt
vọng của người nông dân khi thức tỉnh cuộc sống.
Chí Phèo - một tấn bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã
hội cũ, một con người điển hình. Ở cuối tác phẩm, “đột nhiên thị thoáng thấy
hiện ra một cái lò gạc cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người qua lại…”, chi
tiết ấy muốn nói với chúng ta rằng, một ngày gần đây thôi, Thị Nở lại bụng
mang dạ chửa vượt cạn giữa đồng không mông quạnh, giữa con mắt thờ ơ của
người dân làng Vũ Đại, lai một Chí Phèo con xuất hiện.
Điều này chứng tỏ rằng “Chí Phèo” không phải là bi kịch của một con người
mà là bi kịch của người nông dân tồn tại trong lòng nông thôn trước Cách
mạng tháng Tám. Mang đậm giá trị tố cáo rất cao, lên án giai cấp phong kiến
thống trị tha hoá, những bị kịch như vậy sẽ còn tiếp diễn.