Phân tích tác phẩm Cõi lá của Đỗ Phấn | Văn mẫu 11 Chân trời sáng tạo

Văn mẫu lớp 11: Phân tích tản văn Cõi lá của Đỗ Phấn mang đến dàn ý và bài văn mẫu siêu hay. Qua đó giúp các bạn học sinh lớp 11 có thêm nhiều nguồn tư liệu tham khảo củng cố kiến thức rèn kỹ năng viết văn ngày một tốt hơn.

Dàn ý phân tích Cõi lá
I. M bài
- Gii thiệu đôi nét v tác phm, tác gi
II. Thân bài
- Tác gi Đỗ Phn
+ Ông sinh năm 1956 ti Hà Ni
+ Bng bút pháp ngh thuật tài hoa, độc đáo cùng những màu sc khác l qua vic
khc ha hình ảnh đi sng sinh hot của người dân Th đô.
- Tác phẩm Cõi lá: Nhà văn đã bằng tình yêu thương của mình, khc ha nên v
đẹp của mùa xuân nơi mảnh đất Th đô, thật thơ mộng, tht du dàng, khiến cho bao
trái tim bạn đọc phi xao xuyến v Hà Nội thương
- Tng kết giá tr ni dung, giá tr ca tác phm
- Nhn xét tình cm ca nhà thơ dành cho mảnh đất Hà Ni
III. Kết bài
Cảm nghĩ của bn thân v tác phm “Cõi lá
Phân tích Cõi lá
“Khi ta ch là nơi đất
Khi ta đi, đt bng hóa tâm hồn”
Những câu thơ y của nhà thơ Chế Lan Viên đã cho thấy s gn sâu sc gia con
người vi mảnh đất nơi ta sinh sng. T nơi ta sinh ra, lớn lên đến tng vùng đất ta
đặt chân ti trong hành trình ca cuộc đời, tt c đều tr thành mt mnh ghép sng
động ca tâm hn. Hiu được tình cm y, nhà n - họa Đ Phn - một ngưi con
ca Hà Nội đã gửi gm tình yêu vi Th đô nghìn năm văn hiến qua tản văn “Cõi lá”.
Đỗ Phn bén duyên với văn chương khá mun bi ông vn mt họa sĩ. Nhà văn tự
nhn mình mt k “tay ngang” trong văn chương bi ông không hc qua mt
trưng lp chuyên nghip nào. Ông viết v Ni bng mt tình yêu t nhiên tha
thiết. Đỗ Phn quan nim rng tt c những điều đẹp đẽ xu của nơi mình đang
sống đều “trở thành ký c theo ta sut đi. Lớn hơn, có thể là tiền đề cho vic sáng to
văn học ngh thuật”. Những tác phm như “Ngồi đôi mách với Nội”, “Hà Nội
thì không tuyết”, “Bâng quơ một thi Nội”,… đều cho thy con mt quan sát
tinh ng, nhng cm nhn tinh tế cùng s gn của Đỗ Phn vi Ni. Tác
phẩm “Cõi lá” được sáng tác vào năm 2008, mt trong nhng tản văn đưc yêu
thích nht ca Đ Phn, th hiện rõ đặc trưng phong cách của nhà văn.
M đầu tản văn cảm xúc mãnh lit ca tác gi khi mùa xuân tới: “Bẽ bàng mùa
xuân đến mun. Khi cái nắng đã chao chát trên nhng lc non báo hiu mùa hè, chng
hiểu sao lòng ngưi bng rộn ng đến thế. thc cùng với xôn xao cành”. Từ
láy “Bẽ bàng” được đảo lên đầu câu, nhn mnh tâm trng của con người. Mùa xuân
năm nay tới hơi muộn nên lòng người chút gin hờn chăng? Nàng xuân đến khi cái
nắng đã tràn lên nhng mầm non mơn mởn. T y “chao chát” diễn t cái nng có
phn gay gt vn rc r tươi sáng. Đứng trước khung cnh ấy, lòng người bng
rn ràng o nc. Nhng nim vui trong m hn bỗng “Òa thức”, xáo động không
ngừng. “Òa thức” sự sáng to t rt riêng của Đ Phn din t trng thái bng tnh
đầy bt ng mnh m. Tác gi ngắt câu văn một cách đt ngột, để đng t “Òa
thc” đầu câu càng nhn mnh s khoan khoái, tràn đầy sc sng ca con ngưi
thiên nhiên.
Mùa xuân, chng phải đề tài hiếm gp của văn chương t c chí kim. Xuân Ni
cũng đã được nhiu cây bút miêu tả. Nhưng với Đỗ Phn, cm thc v xuân gn cht
vi nhng màu lá. Tác gi quan sát chín cây b đề trên đường Trn Nhân Tông
chìm đắm vào “khoảng tri trong veo màu thch lựu” hàng cây tạo nên. Dường
như đứng dưới nhng tán y y, con người được c vào mt không gian riêng,
tách bit vi thế gii bên ngoài. Thch lựu chính màu đỏ nhưng trong trẻo lp
lánh ta nhng viên ngc quý. Tác gi dùng màu thch lựu để miêu t sắc đ ca lá,
gi ra khung cnh những cành đỏ đan cài vào nhau san sát, được ánh nng chiếu
vào bng tr nên lung linh huyn diu. T cái nhìn bao quát, tác gi ngắm nghía
càng hơn từng chiếc nhn ra s chuyển động nh nhàng ca nhng chiếc non.
Chúng “đu đưa trong gtưởng ntiếng chuông chùa huyn hoc vng v t cõi
thanh cao u tịch”. Câu văn va t cnh li va t âm thanh. Phải con người yêu Hà
Ni, trái tim nhy cảm trước thiên nhiên mi th viết nên những câu văn tinh tế
như vậy! Ch mt tiếng xao đng nh nhàng nay gi cảm, nên thơ đến thế! Cách
miêu t “thanh cao u tịch” còn gợi ra chiu cao chót vót ca nhng hàng y. Con
người nh đứng t mặt đất ngước nhìn lên ch thy mt vùng trời đỏ xa xăm vời
vi. Nhng gc y y đã gắn mt thiết với đời sống con ngưi Hà Ni nên mi
khung cảnh “Những đứa tr tan trường ríu rít dưi gốc y như những thiên thần bước
ra t lá”. Hàng b đề khiến ngưi ta yêu thương, nhung nhớ, xuyến xao đến mc
nhiều ngưi chng việc cũng vòng xe qua đoạn ph đông chật chi [..] y
ch để ngm nhìn mt chút sc lá ngọt ngào như mật chy tháng Giêng.” Cách so sánh
“như mật chảy tháng Giêng” thật độc đáo, khiến đoạn văn mang đậm cht tr tình
ợt mà như thi ca. Màu thch lu óng ánh chy tràn trên hè ph, bao trùm ly không
gian, khiến người ta đê say đắm đến mc muốn “nếm” thử sắc hương. Đó chính
món quà quý giá mà tháng Giêng đã ban tặng cho Hà Ni.
Sau hình nh v hàng y b đề trên đường Trần Nhân Tông, nhà văn bày tỏ nhng
chiêm nghim sâu sắc: “Nhìn chung thì vòng đời ca mt chiếc b đề được mc
ra t Ni hay nơi Phật t Thích Ca u Ni thuyết pháp cũng ch kéo dài không
đến một năm. rất nhiu loài cây trong ph một vòng đời như vậy. hình như
đó cũng một đặc trưng của y Ni. m nên mùa rng o dài sut t thu
sang đông”. Đoạn văn tả thc một đặc trưng rất riêng ca Hà Ni - quanh năm lá rụng.
mùa nào Th đô, ta ng th bt gp khung cnh những hàng y đ lá,
nhng góc ph xào xc bay. Dt xe do quanh Ni một vòng, người du khách
bng cm thy l lùng phi thốt lên: “Ồ, mt ngày đây tất c các mùa?”. Vi
nhà văn, rụng, mc không còn mt hiện tượng t nhiên thuần y đã trở
thành mt phn không th thiếu trong trái tim nhng người con xa quê. Lá v v, lá i
an tâm hồn con người gia nhng bn b của đời sng. Chính thế tác gi nhc
đến người em gái: “Cô em gái ca tôi sng xa T quốc đã hai chục năm có l. Mi ln
gọi điện v, nó li hỏi con đường ven H ơm mùa y đã rụng? L thế! Mùa nào
cũng hỏi như vậy.” Đếm ngày đếm tháng, chi bằng đếm mùa rng. Con s m sao
hu tình bng sắc lá. Nhưng hình như muốn con người quên đi năm tháng nên y
Nội cũng… khó hiểu cùng. Đ Phn ch biết tr lời “đang ngổn ngang vàng
i sc ven h”. Nào của nhng y su c th đường Đinh Tiên Hoàng, nào
bằng lăng, bàng đỏ chói trên đường Thái T ch thc ra chúng chng bao gi
rng cùng mt lúc vi nhau. Bng chứng Cây cơm nguội vàng và cây bàngđ...
nhiu khi rng cách nhau c đến... một mùa thu!”. Câu văn được ngt ra thành
nhiu nhp vi các dấu “…” diễn t s kéo dài ca thi gian và cm xúc bt ng, lí thú
ca nhà văn.
Nhà văn miêu tả đến nhng y c. Nói v loài cây y, nhà văn dành cho
nhng lời “giận hờn”: “Những ởng duyên đến như cây cừ cùng. C như
người đànphổng phao nht hoét. Ch được mỗi ưu điểm v kích thước. Và cũng lại
nhược điểm. Mùa mưa bão rt mt công ct ta bt cành phòng khi b đổ”. Lối so
sánh “như người đàn phổng phao nhạt hoét” khiến câu văn trở n đm tính khu
ng đời thường. Chi tiết y cho thy s am hiểu tường tn, vn sng phong phú ca
nhà văn v thiên nhiên và con ngưi Hà Ni. Cây xà c đem lại cho Đỗ Phn ấn tượng
v kích thước to ln, khiến mùa mưa bão con ngưi tr nên vt v phi ta bt cành
lá. Thế nhưng, “Thân hình cường tráng lá cành rm rạp đến thế ca cây li cùng
yếu mm trước một heo may đến sm. Ngp c lối đi những xanh chen ln vàng
làm nên mt mùa thu quyến từng ớc chân người”. Nhà văn dành cho thiên nhiên
cái nhìn trân trng, yêu thương, tinh tế phát hin nhng v đẹp nên thơ y cối như
người ta kĩ càng soi chiếu tâm hồn con người.
Cui cùng, kết thúc tản văn, nhà văn nhn mnh tình cm của mình dành cho “Cõi lá”
mộng của Nội: “Miên man trong cõi mùa xuân thành phố, ơng mặt ai ai
cũng nhưphần tr li. Hay t nhn rằng mình như thế?”. Quả thc, đối với nhà văn
cũng như rất nhiều người con Ni, những hàng cây, vòm đã tr thành mt t
văn hóa mang đậm bn sc ca Th đô. Nội luôn chn rn, luôn hi h nhưng
ngay gia nhng ph phường đông đúc, ta vẫn luôn những “Cõi lá” để ghé vào
ngh ngơi, trẻ hóa tâm hn.
Tản văn “Cõi lá” đm cht tr tình nên thơ, thể hiện đặc trưng văn phong tài hoa,
nh nhàng, thanh lch, tinh tế cùng tình yêu thiên nhiên, con người Nội tràn đy
của Đỗ Phn. Nhng t láy giàu sc gi nh, nhng li so nh liên tưởng phong
phú, ngôn ng trong sáng gần gũi, giọng văn tràn đầy cm xúc đã góp phn giúp
nhà văn miêu tả khung cnh Hà Ni mùa xuân.
Cái tôi Đỗ Phn thc s mt cái tôi lãng mn. Viết v Ni Thạch Lam,
Bằng và nay ta có thêm Đ Phn - “ngưi sống đầy, nh dai. Nhiu th người ta quên,
đọc văn Đ Phn lp tc nh li, nh ng tn t m, thm chí nh c mt quãng
đời”.
| 1/5

Preview text:


Dàn ý phân tích Cõi lá I. Mở bài
- Giới thiệu đôi nét về tác phẩm, tác giả II. Thân bài - Tác giả Đỗ Phấn
+ Ông sinh năm 1956 tại Hà Nội
+ Bằng bút pháp nghệ thuật tài hoa, độc đáo cùng những màu sắc khác lạ qua việc
khắc họa hình ảnh đời sống sinh hoạt của người dân Thủ đô.
- Tác phẩm Cõi lá: Nhà văn đã bằng tình yêu thương của mình, mà khắc họa nên vẻ
đẹp của mùa xuân nơi mảnh đất Thủ đô, thật thơ mộng, thật dịu dàng, khiến cho bao
trái tim bạn đọc phải xao xuyến về Hà Nội thương
- Tổng kết giá trị nội dung, giá trị của tác phẩm
- Nhận xét tình cảm của nhà thơ dành cho mảnh đất Hà Nội III. Kết bài
Cảm nghĩ của bản thân về tác phẩm “Cõi lá” Phân tích Cõi lá
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn”
Những câu thơ ấy của nhà thơ Chế Lan Viên đã cho thấy sự gắn bó sâu sắc giữa con
người với mảnh đất nơi ta sinh sống. Từ nơi ta sinh ra, lớn lên đến từng vùng đất ta
đặt chân tới trong hành trình của cuộc đời, tất cả đều trở thành một mảnh ghép sống
động của tâm hồn. Hiểu được tình cảm ấy, nhà văn - họa sĩ Đỗ Phấn - một người con
của Hà Nội đã gửi gắm tình yêu với Thủ đô nghìn năm văn hiến qua tản văn “Cõi lá”.
Đỗ Phấn bén duyên với văn chương khá muộn bởi ông vốn là một họa sĩ. Nhà văn tự
nhận mình là một kẻ “tay ngang” trong văn chương bởi ông không học qua một
trường lớp chuyên nghiệp nào. Ông viết về Hà Nội bằng một tình yêu tự nhiên và tha
thiết. Đỗ Phấn quan niệm rằng tất cả những điều đẹp đẽ và xấu xí của nơi mình đang
sống đều “trở thành ký ức theo ta suốt đời. Lớn hơn, có thể là tiền đề cho việc sáng tạo
văn học nghệ thuật”. Những tác phẩm như “Ngồi lê đôi mách với Hà Nội”, “Hà Nội
thì không có tuyết”, “Bâng quơ một thời Hà Nội”,… đều cho thấy con mắt quan sát
tinh tường, những cảm nhận tinh tế cùng sự gắn bó của Đỗ Phấn với Hà Nội. Tác
phẩm “Cõi lá” được sáng tác vào năm 2008, là một trong những tản văn được yêu
thích nhất của Đỗ Phấn, thể hiện rõ đặc trưng phong cách của nhà văn.
Mở đầu tản văn là cảm xúc mãnh liệt của tác giả khi mùa xuân tới: “Bẽ bàng mùa
xuân đến muộn. Khi cái nắng đã chao chát trên những lộc non báo hiệu mùa hè, chẳng
hiểu vì sao lòng người bỗng rộn ràng đến thế. Oà thức cùng với xôn xao lá cành”. Từ
láy “Bẽ bàng” được đảo lên đầu câu, nhấn mạnh tâm trạng của con người. Mùa xuân
năm nay tới hơi muộn nên lòng người có chút giận hờn chăng? Nàng xuân đến khi cái
nắng đã tràn lên những mầm non mơn mởn. Từ láy “chao chát” diễn tả cái nắng có
phần gay gắt mà vẫn rực rỡ tươi sáng. Đứng trước khung cảnh ấy, lòng người bỗng
rộn ràng náo nức. Những niềm vui trong tâm hồn bỗng “Òa thức”, xáo động không
ngừng. “Òa thức” là sự sáng tạo từ rất riêng của Đỗ Phấn diễn tả trạng thái bừng tỉnh
đầy bất ngờ và mạnh mẽ. Tác giả ngắt câu văn một cách đột ngột, để động từ “Òa
thức” ở đầu câu càng nhấn mạnh sự khoan khoái, tràn đầy sức sống của con người và thiên nhiên.
Mùa xuân, chẳng phải là đề tài hiếm gặp của văn chương từ cổ chí kim. Xuân Hà Nội
cũng đã được nhiều cây bút miêu tả. Nhưng với Đỗ Phấn, cảm thức về xuân gắn chặt
với những màu lá. Tác giả quan sát chín cây bồ đề trên đường Trần Nhân Tông và
chìm đắm vào “khoảng trời trong veo màu thạch lựu” mà hàng cây tạo nên. Dường
như đứng dưới những tán cây ấy, con người được bước vào một không gian riêng,
tách biệt với thế giới bên ngoài. Thạch lựu chính là màu đỏ nhưng trong trẻo và lấp
lánh tựa những viên ngọc quý. Tác giả dùng màu thạch lựu để miêu tả sắc đỏ của lá,
gợi ra khung cảnh những cành lá đỏ đan cài vào nhau san sát, được ánh nắng chiếu
vào bỗng trở nên lung linh huyền diệu. Từ cái nhìn bao quát, tác giả ngắm nghía kĩ
càng hơn từng chiếc lá và nhận ra sự chuyển động nhẹ nhàng của những chiếc lá non.
Chúng “đu đưa trong gió tưởng như có tiếng chuông chùa huyền hoặc vọng về từ cõi
thanh cao u tịch”. Câu văn vừa tả cảnh lại vừa tả âm thanh. Phải là con người yêu Hà
Nội, có trái tim nhạy cảm trước thiên nhiên mới có thể viết nên những câu văn tinh tế
như vậy! Chỉ một tiếng xao động nhẹ nhàng mà nay gợi cảm, nên thơ đến thế! Cách
miêu tả “thanh cao u tịch” còn gợi ra chiều cao chót vót của những hàng cây. Con
người nhỏ bé đứng từ mặt đất ngước nhìn lên chỉ thấy một vùng trời đỏ xa xăm vời
vợi. Những gốc cây ấy đã gắn bó mật thiết với đời sống con người Hà Nội nên mới có
khung cảnh “Những đứa trẻ tan trường ríu rít dưới gốc cây như những thiên thần bước
ra từ lá”. Hàng bồ đề khiến người ta yêu thương, nhung nhớ, xuyến xao đến mức
nhiều người chẳng có việc gì cũng vòng xe qua đoạn phố đông mà chật chội [..] này
chỉ để ngắm nhìn một chút sắc lá ngọt ngào như mật chảy tháng Giêng.” Cách so sánh
“như mật chảy tháng Giêng” thật độc đáo, khiến đoạn văn mang đậm chất trữ tình
mượt mà như thi ca. Màu thạch lựu óng ánh chảy tràn trên hè phố, bao trùm lấy không
gian, khiến người ta đê mê say đắm đến mức muốn “nếm” thử sắc hương. Đó chính là
món quà quý giá mà tháng Giêng đã ban tặng cho Hà Nội.
Sau hình ảnh về hàng cây bồ đề trên đường Trần Nhân Tông, nhà văn bày tỏ những
chiêm nghiệm sâu sắc: “Nhìn chung thì vòng đời của một chiếc lá bồ đề dù được mọc
ra từ Hà Nội hay ở nơi Phật tổ Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp cũng chỉ kéo dài không
đến một năm. Có rất nhiều loài cây trong phố có một vòng đời như vậy. Và hình như
đó cũng là một đặc trưng của cây Hà Nội. Làm nên mùa lá rụng kéo dài suốt từ thu
sang đông”. Đoạn văn tả thực một đặc trưng rất riêng của Hà Nội - quanh năm lá rụng.
Dù là mùa nào ở Thủ đô, ta cũng có thể bắt gặp khung cảnh những hàng cây đổ lá,
những góc phố xào xạc lá bay. Dắt xe dạo quanh Hà Nội một vòng, người du khách
bỗng cảm thấy lạ lùng và phải thốt lên: “Ồ, một ngày ở đây có tất cả các mùa?”. Với
nhà văn, lá rụng, lá mọc không còn là một hiện tượng tự nhiên thuần túy mà đã trở
thành một phần không thể thiếu trong trái tim những người con xa quê. Lá vỗ về, lá ủi
an tâm hồn con người giữa những bộn bề của đời sống. Chính vì thế mà tác giả nhắc
đến người em gái: “Cô em gái của tôi sống xa Tổ quốc đã hai chục năm có lẻ. Mỗi lần
gọi điện về, nó lại hỏi con đường ven Hồ Gươm mùa này lá đã rụng? Lạ thế! Mùa nào
cũng hỏi như vậy.” Đếm ngày đếm tháng, chi bằng đếm mùa lá rụng. Con số làm sao
hữu tình bằng sắc lá. Nhưng hình như muốn con người quên đi năm tháng nên lá cây
Hà Nội cũng… khó hiểu vô cùng. Đỗ Phấn chỉ biết trả lời “đang ngổn ngang vàng
rượi sắc lá ven hồ”. Nào lá của những cây sấu cổ thụ ở đường Đinh Tiên Hoàng, nào
lá bằng lăng, lá bàng đỏ chói trên đường Lê Thái Tổ chứ thực ra chúng chẳng bao giờ
rụng cùng một lúc với nhau. Bằng chứng là “Cây cơm nguội vàng và cây bàng lá đỏ...
nhiều khi rụng lá cách nhau cả đến... một mùa thu!”. Câu văn được ngắt ra thành
nhiều nhịp với các dấu “…” diễn tả sự kéo dài của thời gian và cảm xúc bất ngờ, lí thú của nhà văn.
Nhà văn miêu tả đến những cây xà cừ. Nói về loài cây này, nhà văn dành cho nó
những lời “giận hờn”: “Những tưởng vô duyên đến như cây xà cừ là cùng. Cứ như
người đàn bà phổng phao nhạt hoét. Chỉ được mỗi ưu điểm về kích thước. Và cũng lại
là nhược điểm. Mùa mưa bão rất mất công cắt tỉa bớt cành phòng khi bị đổ”. Lối so
sánh “như người đàn bà phổng phao nhạt hoét” khiến câu văn trở nên đậm tính khẩu
ngữ đời thường. Chi tiết này cho thấy sự am hiểu tường tận, vốn sống phong phú của
nhà văn về thiên nhiên và con người Hà Nội. Cây xà cừ đem lại cho Đỗ Phấn ấn tượng
về kích thước to lớn, khiến mùa mưa bão con người trở nên vất vả vì phải tỉa bớt cành
lá. Thế nhưng, “Thân hình cường tráng và lá cành rậm rạp đến thế của cây lại vô cùng
yếu mềm trước một heo may đến sớm. Ngập cả lối đi những lá xanh chen lẫn lá vàng
làm nên một mùa thu quyến rũ từng bước chân người”. Nhà văn dành cho thiên nhiên
cái nhìn trân trọng, yêu thương, tinh tế phát hiện những vẻ đẹp nên thơ ở cây cối như
người ta kĩ càng soi chiếu tâm hồn con người.
Cuối cùng, kết thúc tản văn, nhà văn nhấn mạnh tình cảm của mình dành cho “Cõi lá”
mộng mơ của Hà Nội: “Miên man trong cõi lá mùa xuân thành phố, gương mặt ai ai
cũng như có phần trẻ lại. Hay tự nhận rằng mình như thế?”. Quả thực, đối với nhà văn
cũng như rất nhiều người con Hà Nội, những hàng cây, vòm lá đã trở thành một nét
văn hóa mang đậm bản sắc của Thủ đô. Hà Nội luôn chộn rộn, luôn hối hả nhưng
ngay giữa những phố phường đông đúc, ta vẫn luôn có những “Cõi lá” để ghé vào
nghỉ ngơi, trẻ hóa tâm hồn.
Tản văn “Cõi lá” đậm chất trữ tình nên thơ, thể hiện rõ đặc trưng văn phong tài hoa,
nhẹ nhàng, thanh lịch, tinh tế cùng tình yêu thiên nhiên, con người Hà Nội tràn đầy
của Đỗ Phấn. Những từ láy giàu sức gợi hình, những lối so sánh và liên tưởng phong
phú, ngôn ngữ trong sáng mà gần gũi, giọng văn tràn đầy cảm xúc đã góp phần giúp
nhà văn miêu tả khung cảnh Hà Nội mùa xuân.
Cái tôi Đỗ Phấn thực sự là một cái tôi lãng mạn. Viết về Hà Nội có Thạch Lam, Vũ
Bằng và nay ta có thêm Đỗ Phấn - “người sống đầy, nhớ dai. Nhiều thứ người ta quên,
đọc văn Đỗ Phấn lập tức nhớ lại, nhớ tường tận và tỉ mỉ, thậm chí nhớ cả một quãng đời”.