Phân tích Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu | Văn mẫu 11 Chân trời sáng tạo

Văn mẫu lớp 11: Phân tích Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu tuyển chọn 2 bài văn mẫu cực hay, giúp cho các em học sinh lớp 11 tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng về văn phân tích đánh giá truyện thơ ngày một tốt hơn.

Phân tích bài Th Kính nuôi con cho Th Mu
Thơ Nôm kho báu văn hóa ca dân tc Vit Nam giá tr cùng cao. Kho
tàng này bao gm kinh nghim sng, phong tc tập quán cũng như những kiến thc
lch s v cộng đồng địa phương. Sử dng hình thc câu thơ 6-8 đin hình, Truyện thơ
nôm truyn ti s diễn đạt cm xúc phong phú bng nhng câu văn đơn giản ging
điệu giàu cảm xúc. Điu này mang lại cho tnôm một nét dân tộc độc đáo. Trong
kho báu y n cha mt câu chuyện kinh điển vn còn khc sâu trong lòng độc gi,
cùng vi những suy nghĩ sâu sắc truyn tải. Đây một đon trích trong tác
phẩm ‘Quan âm Thị kính’ nội dung: ‘Thị kính nuôi con cho Th mầu’. Trong đoạn
trích trên, chúng ta thấy đưc tm lòng nhân hu ca Th kính khi b buc ti v mt
ti mình không phm ti b buc phi nuôi con cho Th mầu. rơi vào hoàn
cảnh khó khăn nhưng Thị kính vn quyết định bo v chăm sóc mạng sng của đứa
bé này như chính mạng sng ca mình.
mt ngôi làng n, có một ngưi ph n tên Th mu, vn là một người hi ht
ngu di. rt yêu chú tiu Kính Tâm, thc ra nàng Th nh gi trai. Th mu vô
tình thai vi người hầu trong nhà. Khi n làng đưa cô ra xét x, lp tức đổ li
cho Kính tâm. Thế là ngưi ph n ti nghip Th Kính li phi chịu đựng s bt công
Sau khi sinh con, Th mầu “trả” đa bé cho Kính tâm.
‘Tiểu đường tng nim khn nguyn
Trân trân rằng giá con đây mà về.’
Kính tâm mt chú tiểu đi tu suốt đêm ngày, nhưng y giờ li s hãi trưc tiếng tr
khóc. v như v tu thực s đã bị cun vào vòng xoáy ca s phn. Kính m bi
ri và gặp khó khăn trong việc đưa ra quyết định. Không th b rơi đứa bé nhưng vic
chp nhận và chăm sóc đứa bé cũng không hề d dàng. Nếu để đứa bé đi, s không th
t an i mình, nhưng nếu ôm chăm sóc nó, mi th s biến thành một ”tình yêu
bt lợi”. Điều đáng tiếc Th mu không h t ra thương xót, “vô liêm sỉ” không
chu trách nhim với đứa tr do mình sinh ra. Kính m biết rng vic nhận nuôi đứa
s dẫn đến nhng lời đàm tiếu ch trích nhưng vẫn quyết tâm nhận nuôi đứa
bé.
‘Cơ thiển k đã khắt khe
Xót tình măng sữa tăng vào trong tay’
Tâm hn Kính m vn xut phát t cõi ‘cơ thiển’ đã trở nên bn chn nghiêm
khắc. “Thiền” đây ám ch mt trng thái tâm trí trong đó ngưi ta không b ràng
buc bi bt c điều gì và đã đạt đến mt mc đ thanh tnh nhất định. Nhưng giờ đây
Kính tâm phi chu oan ức i tay Th mu, k đã m phạm danh d ca chàng.
Tuy nhiên, Kính tâm coi trng tm quan trng ca cuc sng và lòng hiếu tho nên
pht l mi li ch trích, bàn tán. Cho ngưi khác nói xấu đến đâu, Kính tâm
vn tin rằng “hạnh phúc nm vic m những điu tốt đẹp”. Tuy nhiên, hành vi của
Kính tâm cũng không tránh khỏi làm dy lên s nghi ng sư thầy
‘Bữa sau sư phụ mi hay
Dy rằng: “Như thế thì thầy cũng nghi
Phỏng như khác máu ru thì
Sư nghe thưa lại mấy điều,
Khen rằng: “Cũng có ít nhiều t tâm”
Rõ là nưc lã mà nhm
Cũng đem giọt máu tình thâm hòa vào’
Thc tế, nhìn vào hoàn cnh ca Kính m, chúng ta th hiểu và đng cm vi s
phn của anh. Nhưng đi vi những người không biết s thật chính xác, rõ ràng là đứa
tr “không quan h huyết thống”, bản thân mình không sinh nó ra, ti sao Kính tâm
lại đồng ý nhn con của người đã gây ra s bt công xu h cho bn thân mình?
Tuy nhiên, thầy cm động trước lòng hiếu tho của Kính tâm ý nghĩa cao quý
trong hành động ca chàng. Kính m cho biết ngay c vic y dng mt tòa tháp
chín tầng cũng không sánh được với công ơn cứu mng. Vic v c ngưỡng m trái
tim thánh thiện và cao thưng này chng t Kính tâm là người có lòng nhân hu. Kính
tâm bng c trái tim và tâm hn, vi s tôn trng dịu dàng đã coi đa ca
mình, yêu thương và chăm sóc nó bng c trái tim, như một ngưi m nuôi con.
‘M vò thì sa khát khao
Lo nuôi con nhn làm sao cho tuyn
Biết chăng mt đứa thương đâu
Mình là hai vi Th Mu là ba’
Kính m biết “nuôi nhệnkhông phải là nuôi con của mình nhưng vẫn băn
khoăn không biết con mình thiếu th không. Kính tâm ngày đêm chăm sóc con,
yêu thương tìm mọi cách để nuôi dy, mong đứa tr s lớn lên thành người tt.
Cuc sng qu nhiên tàn khc. Vẫn còn tin đn rng vic m y Kính tâm
không th đạt được qu báo. Nhưng hiện ti, s tht vn b chôn vùi, ch đứa bé,
Kính tâm và Th Mu là biết s tht. Nuôi dy một đứa tr không phải điều d dàng
nhưng khi được nghe tiếng i trong tro ca mi ngày, nhng lo lng ca Kính
tâm dường như tan biến.
Phân tích Th Kính nuôi con cho Th Mu
Truyện thơ Nôm kho tàng văn hc ca dân tc Vit Nam có giá tr to ln. Kho tàng
này chứa đựng, ct gi biết bao kinh nghim sng, phong tc tp quán c kiến thc
lch s v cộng đng. Vi th thơ lục bát giàu biu cm, ca t gin d âm hưởng tha
thiết, truyện thơ Nôm mang đậm đà bản sc dân tộc. Trong đó có một câu chuyn kinh
điển cho đến nay vẫn luôn đọng li trong m trí của người đọc v chiều sâu
ng tác phm gi gắm. Đó đoạn trích “Thị Kính nuôi con cho Th Mầu” trích
“Quan Âm Thị Kính”.
Đon trích trên nói v tm lòng nhân t ca Th Kính khi b Th Mầu vu oan đùn
đẩy đứa con cho mình nhưng sinh mạng nh bé, Th Kính vn gi lại đứa đ
nuôi nng.
Vy c li dẫn đến sự nghiệp duyên đó, ta cùng bắt đầu xâu chui li t đầu
câu chuyn. Th Kính xut thân con gái nhà nghèo, ly chng tên Thin S, con ca
phú ông. Vào một đêm n, khi Thin S ngồi đọc sách ng quên mt. Th Kính
thấy dưới cm chng mình râu mọc ngưc, nàng biết điềm g nên ly kéo mun
cắt đi. Đúng lúc Thiện S bng tnh thì hiu lm rng Th Kính mun sát hi mình
nên hoán làm to chuyn. Cha m Thiện sĩ Sùng ông, Sùng nổi giận đuổi Th
Kính v quê vi cha m đẻ. Th Kính ôm ni oan trong lòng bun tủi định qun
sinh, nhưng lại thương cha mẹ già không ai o hiếu, ph ng, nàng ci trang thành
nam nhi và đi tu ở chùa Vân Tự, đổi c tên thành Kính Tâm.
Làng nàng Th Mu vn tính lẳng lơ, m say mê c pht t là Kính m. Nàng ta
l d cha với đầy t. Khi b hào trong làng tra hỏi, nàng ta đổi ti ngay cho
Kính Tâm. C thế người ph n ti nghip li phi chu ni oan c ln th hai. Sau
khi sinh con, Th Mầu đem “trả” cho Kính Tâm:
Tiểu đường tng nim khn nguyn
Bng nghe tiếng tr tá lên git mình
Ngoảnh đi thị d chẳng đành
Nhn ra thì hóa là tình chng ngay.
Gm thay mt dn mày dày
Trân trân rằng giá con đây mà về.
Vn chú tiểu đi tu ngày đêm nghe tiếng “tng nim khn nguyền” nay lại git
mình nghe tiếng khóc “tá” lên của tr em. Đường đường nhà chân chính nay
vướng phi nghit duyên, Kính Tâm ri bi khó s, b rơi đứa thì cũng “chẳng
đành”, nếu nhận đa tr v chăm sóc thì lại hóa tình chẳng ngay”. Thật gm thay
nàng Th Mầu trơ trẽn, “trân trận” không biết h thn chi b con mình. Biết rng
khi nhận đứa v nuôi s b lời đàm tiếu d ngh nhưng thương cho trái tim nh bé,
Kính Tâm vn nht quyết nhn nuôi:
Cơ thiển k đã khắt khe
Khéo xui, ra đứa làm rê riếu mình
Nhưng mà trong d hiếu sinh
Phúc làm thì phúc, dơ thì đành d
Cá trong chậu nước sn sơ
Thì nay chng cu, còn ch khi nao
Chẳng sinh cũng chu cù lao
Xót tình măng sa nâng vào trong tay
Tâm hn Kính m t cõi “sơ thiền” nay cũng tr nên kht khe, dy sóng. “Cơ thiền”
đây tức ch tâm hồn đã đạt đến cnh gii, tâm thanh tịnh không vướng bn chi.
Vy nay phi chu oan Th Mầu “khéo xui ra đứa” làm tổn hại đến thanh danh ca
mình. Thế nhưng quý trng sinh mệnh “trong dạ hiếu sinh” mà Kính Tâm gt b đi
hết lời gièm pha, cho người đời n tán ra sao thì “phúc vẫn làm phúc”.
chẳng mang công sinh thành như vn chịu “cù lao”, tức chịu công ơn nuôi dưỡng.
Thế nhưng việc làm đó của Kính Tâm cũng khiến Sư Cụ không khi sinh nghi:
Bữa sau sư phụ mi hay
Dy rằng: “Như thế thì thầy cũng nghi
Phng như khác máu ru thì
Con ai mc nấy can gì đa mang
Qu tht trong mt nhìn ca ta thì hiểu và xót thương cho thân phn Kính m,
nhưng người không s tình, đứa con “khác máu” không phi do mình sinh ra
thì c Kính m li nhn nuôi con ca người đã làm n ni oan c ti h cho
mình suốt đời. y thế mà sư ph cũng bị cm hóa với nghĩa tử cao đp, tm lòng t bi
ca Kính Tâm:
Bch rằng: Muôn đi thầy thương
Xưa nay thầy dy mọi đường nh to
Dẫu xây chín đợt phù đồ
Sao bng làm phúc cu cho một ngưi
...
Sư nghe thưa lại mấy điều,
Khen rằng: “Cũng có ít nhiều t tâm”
Rõ là nưc lã mà nhm
Cũng đem giọt máu tình thâm hòa vào
Kính Tâm thưa rằng cho y chín tháp “phù đồ” cũng không thể bng cu mt
sinh mnh. Tm lòng thiêng liêng cao đp đó đã nhận được li khen t Cụ, qu tht
là ngưi lòng t bi. T tình người nhân hu như “nước lã”, Kính Tâm đã dâng trn
tấm lòng để hòa o “giọt máu tình thâm”, Kính Tâm coi đứa như con đẻ ca
mình, hết mực yêu thương, nuôi nấng:
M vò thì sa khát khao
Lo nuôi con nhn làm sao cho tuyn
Nâng niu xiết ni truân chuyên
Nhai cơm mớm sữa để nên con người
Đến dân ai cũng chê cười
Tiu bao t có trót đời được đâu
Biết chăng mt đứa thương đâu
Mình là hai vi Th Mu là ba
Ca dao xưa câu nói ám ch vic nuôi con của người khác nhưng khi con lớn
lên s b đi:
Tò vò mà nuôi con nhn
Đến khi nó ln nó qun nhau đi
Tò vò ngi khóc t ti
Nhện ơi nhện hi nhện đi đằng nào?”
“M vò” đây cũng vy, du biết “nuôi con nhện” không phải con ca mình,
không có “sữa khát khao” nhưng Kính Tâm vẫn lo cho đứa nh không thiếu ba nào.
Kính m ngày đêm chăm m, nâng niu, xin sữa để nuôi con, mong con khôn ln
thành người. Đúng miệng đời tht tàn ác, h vn không ngừng đồn thi rng Kính
Tâm tu thành chính qu được đâu. Nhưng đến lúc y thì s tht vn b chôn vùi,
thc gi ra sao thì ch đứa ở, mình và “Thị Mầu là ba” biết rõ. Nuôi dưỡng một đứa
tr tht không d dàng, nhưng dường như ngày ngày nghe tiếng tr thơ tíu tít, bao ni
lo âu, trăn tr hóa hư vô:
Ra công nuôi b thc là
Nhưng buồn có tr hóa ra đỡ bun
Khi trng tàn, lúc chuông dn
Tiếng chuông ln tiếng ru con ti ngày
...
Không gian tĩnh mịch, thanh tịnh nơi chùa linh thiêng nay xen ln c “tiếng ru” con
ca Kính m. Ta th cm nhn được, tình mu t không ch tn ti chính cha
m sinh ra mình, nó còn hòa tan vào nhau khi gp tm lòng t bi giáng thế. Tuy không
phải con mình nhưng Kính m vẫn tròn đạo cha mẹ, đứa tr đưc nuôi nng
đầy đủ điều kin, có c “l phương hoạt ấu”, “l thy bảo anh”, hai thứ đó tượng trưng
cho v thy thuc bo v sc khe ca tr thơ. Thấm thoát đã ba năm trôi đi, đứa
nay đã lớn, ging với “cha nuôi” của mình. “Cha nuôi” đó chính Kính Tâm, ngưi
đã ỉa trai để đi tu trn chùa thanh tnh. Bc cha m ai không muốn con cái trưởng
thành vi ng danh rng rỡ. Kính Tâm cũng vậy, người mong ưc con ca mình mai
này trưởng thành “cơ cầu” giỏi giang để ni nghiệp ông cha, người còn mong cho
“tiến trình” tương lai dẫn bước con càng thành công rng r hơn lớp ông cha con y
gi.
Đoạn trích Thị nh nuôi con Th Mầu” với ca t bình d không kém phn sc so
ca th thơ lục bát cùng vi lời thơ điêu luyện đã làm nổi bt nhân vt Th Kính là mt
điển hình cho s phn của người ph n trong xã hi xưa phải gánh chu bt công, oan
nghit. Thông qua s phn cuộc đời Th Kính, tác gi cho người đc thấy được bc
tranh hi phong kiến đy ry mâu thun. Đó như một li cnh tnh cho nhng con
người đang suy nghĩ lui về ca Phật. Đ th chn con đường đắc đạo, ta phi
chịu được kh hnh, oan ức cũng giống như Th Kính, dù có oan uổng đến mấy nhưng
cái tâm t bi, thiện lành đã quật ngã được cnh ng.
| 1/8

Preview text:


Phân tích bài Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu
Thơ Nôm là kho báu văn hóa của dân tộc Việt Nam và có giá trị vô cùng cao. Kho
tàng này bao gồm kinh nghiệm sống, phong tục tập quán cũng như những kiến thức
lịch sử về cộng đồng địa phương. Sử dụng hình thức câu thơ 6-8 điển hình, Truyện thơ
nôm truyền tải sự diễn đạt cảm xúc phong phú bằng những câu văn đơn giản và giọng
điệu giàu cảm xúc. Điều này mang lại cho thơ nôm một nét dân tộc độc đáo. Trong
kho báu này ẩn chứa một câu chuyện kinh điển vẫn còn khắc sâu trong lòng độc giả,
cùng với những suy nghĩ sâu sắc mà nó truyền tải. Đây là một đoạn trích trong tác
phẩm ‘Quan âm Thị kính’ có nội dung: ‘Thị kính nuôi con cho Thị mầu’. Trong đoạn
trích trên, chúng ta thấy được tấm lòng nhân hậu của Thị kính khi bị buộc tội về một
tội mà mình không phạm tội và bị buộc phải nuôi con cho Thị mầu. Dù rơi vào hoàn
cảnh khó khăn nhưng Thị kính vẫn quyết định bảo vệ và chăm sóc mạng sống của đứa
bé này như chính mạng sống của mình.
Ở một ngôi làng nọ, có một người phụ nữ tên là Thị mầu, vốn là một người hời hợt và
ngu dại. Cô rất yêu chú tiểu Kính Tâm, thực ra là nàng Thị kính giả trai. Thị mầu vô
tình có thai với người hầu trong nhà. Khi dân làng đưa cô ra xét xử, cô lập tức đổ lỗi
cho Kính tâm. Thế là người phụ nữ tội nghiệp Thị Kính lại phải chịu đựng sự bất công
Sau khi sinh con, Thị mầu “trả” đứa bé cho Kính tâm.
‘Tiểu đường tụng niệm khấn nguyền
Trân trân rằng giá con đây mà về.’
Kính tâm là một chú tiểu đi tu suốt đêm ngày, nhưng bây giờ lại sợ hãi trước tiếng trẻ
khóc. Có vẻ như vị tu sĩ thực sự đã bị cuốn vào vòng xoáy của số phận. Kính tâm bối
rối và gặp khó khăn trong việc đưa ra quyết định. Không thể bỏ rơi đứa bé nhưng việc
chấp nhận và chăm sóc đứa bé cũng không hề dễ dàng. Nếu để đứa bé đi, sẽ không thể
tự an ủi mình, nhưng nếu ôm nó và chăm sóc nó, mọi thứ sẽ biến thành một ”tình yêu
bất lợi”. Điều đáng tiếc là Thị mầu không hề tỏ ra thương xót, “vô liêm sỉ” và không
chịu trách nhiệm với đứa trẻ do mình sinh ra. Kính tâm biết rằng việc nhận nuôi đứa
bé sẽ dẫn đến những lời đàm tiếu và chỉ trích nhưng cô vẫn quyết tâm nhận nuôi đứa bé.
‘Cơ thiển kể đã khắt khe
Xót tình măng sữa tăng vào trong tay’
Tâm hồn Kính tâm vốn xuất phát từ cõi ‘cơ thiển’ đã trở nên bồn chồn và nghiêm
khắc. “Thiền” ở đây ám chỉ một trạng thái tâm trí trong đó người ta không bị ràng
buộc bởi bất cứ điều gì và đã đạt đến một mức độ thanh tịnh nhất định. Nhưng giờ đây
Kính tâm phải chịu oan ức dưới tay Thị mầu, kẻ đã xâm phạm danh dự của chàng.
Tuy nhiên, Kính tâm coi trọng tầm quan trọng của cuộc sống và lòng hiếu thảo nên
phớt lờ mọi lời chỉ trích, bàn tán. Cho dù người khác có nói xấu đến đâu, Kính tâm
vẫn tin rằng “hạnh phúc nằm ở việc làm những điều tốt đẹp”. Tuy nhiên, hành vi của
Kính tâm cũng không tránh khỏi làm dấy lên sự nghi ngờ ở sư thầy
‘Bữa sau sư phụ mới hay
Dạy rằng: “Như thế thì thầy cũng nghi
Phỏng như khác máu ru thì
Sư nghe thưa lại mấy điều,
Khen rằng: “Cũng có ít nhiều từ tâm”
Rõ là nước lã mà nhầm
Cũng đem giọt máu tình thâm hòa vào’
Thực tế, nhìn vào hoàn cảnh của Kính tâm, chúng ta có thể hiểu và đồng cảm với số
phận của anh. Nhưng đối với những người không biết sự thật chính xác, rõ ràng là đứa
trẻ “không có quan hệ huyết thống”, bản thân mình không sinh nó ra, tại sao Kính tâm
lại đồng ý nhận con của người đã gây ra sự bất công và xấu hổ cho bản thân mình?
Tuy nhiên, sư thầy cảm động trước lòng hiếu thảo của Kính tâm và ý nghĩa cao quý
trong hành động của chàng. Kính tâm cho biết ngay cả việc xây dựng một tòa tháp
chín tầng cũng không sánh được với công ơn cứu mạng. Việc vị sư cụ ngưỡng mộ trái
tim thánh thiện và cao thượng này chứng tỏ Kính tâm là người có lòng nhân hậu. Kính
tâm bằng cả trái tim và tâm hồn, với sự tôn trọng và dịu dàng đã coi đứa bé là của
mình, yêu thương và chăm sóc nó bằng cả trái tim, như một người mẹ nuôi con.
‘Mẹ vò thì sữa khát khao
Lo nuôi con nhện làm sao cho tuyền
Biết chăng một đứa thương đâu
Mình là hai với Thị Mầu là ba’
Kính tâm dù biết “nuôi nhện” không phải là nuôi con của mình nhưng cô vẫn băn
khoăn không biết con mình có thiếu thứ gì không. Kính tâm ngày đêm chăm sóc con,
yêu thương và tìm mọi cách để nuôi dạy, mong đứa trẻ sẽ lớn lên thành người tốt.
Cuộc sống quả nhiên là tàn khốc. Vẫn còn có tin đồn rằng việc làm này ở Kính tâm
không thể đạt được quả báo. Nhưng hiện tại, sự thật vẫn bị chôn vùi, chỉ có đứa bé,
Kính tâm và Thị Mầu là biết sự thật. Nuôi dạy một đứa trẻ không phải là điều dễ dàng
nhưng khi được nghe tiếng cười trong trẻo của bé mỗi ngày, những lo lắng của Kính
tâm dường như tan biến.
Phân tích Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu
Truyện thơ Nôm là kho tàng văn học của dân tộc Việt Nam có giá trị to lớn. Kho tàng
này chứa đựng, cất giữ biết bao kinh nghiệm sống, phong tục tập quán và cả kiến thức
lịch sử về cộng đồng. Với thể thơ lục bát giàu biểu cảm, ca từ giản dị và âm hưởng tha
thiết, truyện thơ Nôm mang đậm đà bản sắc dân tộc. Trong đó có một câu chuyện kinh
điển mà cho đến nay nó vẫn luôn đọng lại trong tâm trí của người đọc về chiều sâu tư
tưởng mà tác phẩm gửi gắm. Đó là đoạn trích “Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu” trích “Quan Âm Thị Kính”.
Đoạn trích trên nói về tấm lòng nhân từ của Thị Kính khi bị Thị Mầu vu oan và đùn
đẩy đứa con cho mình nhưng vì sinh mạng nhỏ bé, Thị Kính vẫn giữ lại đứa bé để nuôi nấng.
Vậy hà cớ gì lại dẫn đến cơ sự nghiệp duyên đó, ta cùng bắt đầu xâu chuỗi lại từ đầu
câu chuyện. Thị Kính xuất thân là con gái nhà nghèo, lấy chồng tên Thiện Sỹ, con của
phú ông. Vào một đêm nọ, khi Thiện Sỹ ngồi đọc sách mà ngủ quên mất. Thị Kính
thấy dưới cằm chồng mình có râu mọc ngược, nàng biết là điềm gở nên lấy kéo muốn
cắt nó đi. Đúng lúc Thiện Sỹ bừng tỉnh thì hiểu lầm rằng Thị Kính muốn sát hại mình
nên hô hoán làm to chuyện. Cha mẹ Thiện sĩ là Sùng ông, Sùng bà nổi giận đuổi Thị
Kính về quê với cha mẹ đẻ. Thị Kính ôm nỗi oan trong lòng mà buồn tủi định quyên
sinh, nhưng lại thương cha mẹ già không ai báo hiếu, phụ dưỡng, nàng cải trang thành
nam nhi và đi tu ở chùa Vân Tự, đổi cả tên thành Kính Tâm.
Làng có nàng Thị Mầu vốn tính lẳng lơ, dám say mê cả phật tử là Kính Tâm. Nàng ta
lỡ dở có chửa với đầy tớ. Khi bị hào lí trong làng tra hỏi, nàng ta đổi tội ngay cho
Kính Tâm. Cứ thế người phụ nữ tội nghiệp lại phải chịu nỗi oan ức lần thứ hai. Sau
khi sinh con, Thị Mầu đem “trả” cho Kính Tâm:
Tiểu đường tụng niệm khấn nguyền
Bỗng nghe tiếng trẻ tá lên giật mình
Ngoảnh đi thị dạ chẳng đành
Nhận ra thì hóa là tình chẳng ngay.
Gớm thay mặt dạn mày dày
Trân trân rằng giá con đây mà về.
Vốn là chú tiểu đi tu ngày đêm nghe tiếng “tụng niệm khấn nguyền” mà nay lại giật
mình nghe tiếng khóc “tá” lên của trẻ em. Đường đường là nhà sư chân chính nay
vướng phải nghiệt duyên, Kính Tâm rối bời khó sử, bỏ rơi đứa bé thì cũng “chẳng
đành”, mà nếu nhận đứa trẻ về chăm sóc thì lại hóa “tình chẳng ngay”. Thật gớm thay
nàng Thị Mầu trơ trẽn, “trân trận” không biết hổ thẹn mà chối bỏ con mình. Biết rằng
khi nhận đứa bé về nuôi sẽ bị lời đàm tiếu dị nghị nhưng thương cho trái tim nhỏ bé,
Kính Tâm vẫn nhất quyết nhận nuôi:
Cơ thiển kể đã khắt khe
Khéo xui, ra đứa làm rê riếu mình
Nhưng mà trong dạ hiếu sinh
Phúc làm thì phúc, dơ thì đành dở
Cá trong chậu nước sởn sơ
Thì nay chẳng cứu, còn chờ khi nao
Chẳng sinh cũng chịu cù lao
Xót tình măng sữa nâng vào trong tay
Tâm hồn Kính Tâm từ cõi “sơ thiền” nay cũng trở nên khắt khe, dậy sóng. “Cơ thiền”
ở đây tức là chỉ tâm hồn đã đạt đến cảnh giới, tâm thanh tịnh không vướng bận chi.
Vậy mà nay phải chịu oan Thị Mầu “khéo xui ra đứa” làm tổn hại đến thanh danh của
mình. Thế nhưng vì quý trọng sinh mệnh “trong dạ hiếu sinh” mà Kính Tâm gạt bỏ đi
hết lời gièm pha, cho dù người đời có bàn tán ra sao thì “phúc vẫn là làm phúc”. Dù
chẳng mang công sinh thành như vẫn chịu “cù lao”, tức là chịu công ơn nuôi dưỡng.
Thế nhưng việc làm đó của Kính Tâm cũng khiến Sư Cụ không khỏi sinh nghi:
Bữa sau sư phụ mới hay
Dạy rằng: “Như thế thì thầy cũng nghi
Phỏng như khác máu ru thì
Con ai mặc nấy can gì đa mang
Quả thật trong mắt nhìn của ta thì có hiểu và xót thương cho thân phận Kính Tâm,
nhưng là người không rõ sự tình, là đứa con “khác máu” không phải do mình sinh ra
thì hà cớ gì Kính Tâm lại nhận nuôi con của người đã làm nên nỗi oan ức tủi hổ cho
mình suốt đời. Ấy thế mà sư phụ cũng bị cảm hóa với nghĩa tử cao đẹp, tấm lòng từ bi của Kính Tâm:
Bạch rằng: Muôn đội thầy thương
Xưa nay thầy dạy mọi đường nhỏ to
Dẫu xây chín đợt phù đồ
Sao bằng làm phúc cứu cho một người ...
Sư nghe thưa lại mấy điều,
Khen rằng: “Cũng có ít nhiều từ tâm”
Rõ là nước lã mà nhầm
Cũng đem giọt máu tình thâm hòa vào
Kính Tâm thưa rằng dù cho có xây chín tháp “phù đồ” cũng không thể bằng cứu một
sinh mệnh. Tấm lòng thiêng liêng cao đẹp đó đã nhận được lời khen từ sư Cụ, quả thật
là người có lòng từ bi. Từ tình người nhân hậu như “nước lã”, Kính Tâm đã dâng trọn
tấm lòng để hòa vào “giọt máu tình thâm”, Kính Tâm coi đứa bé như là con đẻ của
mình, hết mực yêu thương, nuôi nấng:
Mẹ vò thì sữa khát khao
Lo nuôi con nhện làm sao cho tuyền
Nâng niu xiết nỗi truân chuyên
Nhai cơm mớm sữa để nên con người
Đến dân ai cũng chê cười
Tiểu bao tử có trót đời được đâu
Biết chăng một đứa thương đâu
Mình là hai với Thị Mầu là ba
Ca dao xưa có câu nói ám chỉ việc tò vò nuôi con của người khác nhưng khi con lớn lên sẽ bỏ đi:
Tò vò mà nuôi con nhện
Đến khi nó lớn nó quện nhau đi
Tò vò ngồi khóc tỉ ti
Nhện ơi nhện hỡi nhện đi đằng nào?”
“Mẹ vò” ở đây cũng vậy, dẫu biết “nuôi con nhện” không phải là con của mình, dù
không có “sữa khát khao” nhưng Kính Tâm vẫn lo cho đứa nhỏ không thiếu bữa nào.
Kính Tâm ngày đêm chăm ẵm, nâng niu, xin sữa để nuôi con, mong con khôn lớn
thành người. Đúng là miệng đời thật tàn ác, họ vẫn không ngừng đồn thổi rằng Kính
Tâm có tu thành chính quả được đâu. Nhưng đến lúc này thì sự thật vẫn bị chôn vùi,
thực giả ra sao thì chỉ có đứa ở, mình và “Thị Mầu là ba” biết rõ. Nuôi dưỡng một đứa
trẻ thật không dễ dàng, nhưng dường như ngày ngày nghe tiếng trẻ thơ tíu tít, bao nỗi
lo âu, trăn trở hóa hư vô:
Ra công nuôi bộ thực là
Nhưng buồn có trẻ hóa ra đỡ buồn
Khi trống tàn, lúc chuông dồn
Tiếng chuông lẫn tiếng ru con tối ngày ...
Không gian tĩnh mịch, thanh tịnh nơi chùa linh thiêng nay xen lẫn cả “tiếng ru” con
của Kính Tâm. Ta có thể cảm nhận được, tình mẫu tử không chỉ tồn tại ở chính cha
mẹ sinh ra mình, nó còn hòa tan vào nhau khi gặp tấm lòng từ bi giáng thế. Tuy không
phải con mình nhưng Kính Tâm vẫn tròn đạo là cha mẹ, đứa trẻ được nuôi nấng có
đầy đủ điều kiện, có cả “lọ phương hoạt ấu”, “lọ thầy bảo anh”, hai thứ đó tượng trưng
cho vị thầy thuốc bảo vệ sức khỏe của trẻ thơ. Thấm thoát đã ba năm trôi đi, đứa bé
nay đã lớn, giống với “cha nuôi” của mình. “Cha nuôi” đó chính là Kính Tâm, người
đã ỉa trai để đi tu trốn chùa thanh tịnh. Bậc cha mẹ ai mà không muốn con cái trưởng
thành với công danh rạng rỡ. Kính Tâm cũng vậy, người mong ước con của mình mai
này trưởng thành “cơ cầu” giỏi giang để nối nghiệp ông cha, người còn mong cho
“tiến trình” tương lai dẫn bước con càng thành công rạng rỡ hơn lớp ông cha con bây giờ.
Đoạn trích “Thị Kính nuôi con Thị Mầu” với ca từ bình dị không kém phần sắc sảo
của thể thơ lục bát cùng với lời thơ điêu luyện đã làm nổi bật nhân vật Thị Kính là một
điển hình cho số phận của người phụ nữ trong xã hội xưa phải gánh chịu bất công, oan
nghiệt. Thông qua số phận cuộc đời Thị Kính, tác giả cho người đọc thấy được bức
tranh xã hội phong kiến đầy rẫy mâu thuẫn. Đó như một lời cảnh tỉnh cho những con
người đang có suy nghĩ lui về cửa Phật. Để có thể chọn con đường đắc đạo, ta phải
chịu được khổ hạnh, oan ức cũng giống như Thị Kính, dù có oan uổng đến mấy nhưng
cái tâm từ bi, thiện lành đã quật ngã được cảnh ngộ.