1. Tổng quan về Netflix
1.1 Thông tin công ty
Netflix một công ty truyền thông giải trí trực tuyến đa quốc gia trụ sở tại Los
Gatos, California, Mỹ. Công ty chuyên cung cấp các dịch vụ phát trực tuyến các
chương trình truyền hình, phim truyền hình, phim ảnh tài liệu điện ảnh trên
internet.
Netflix được thành lập vào năm 1997 bởi Reed Hastings Marc Randolph. Ban đầu,
công ty một dịch vụ gửi đĩa DVD cho khách hàng qua thư tín, trước khi chuyển
sang phát trực tuyến vào năm 2007. Với hình kinh doanh đó, Netflix đã đạt được
thành công vang dội trở thành nhà cung cấp dịch vụ phát trực tuyến hàng đầu trong
Hiện nay, Netflix đã mở rộng hoạt động sang nhiều quốc gia trên thế giới, cung cấp
nội dung giải trí đa dạng, với hơn 200 triệu người dùng toàn cầu. Netflix cũng sản
xuất nội dung riêng của mình - các phim, chương trình truyền hình nội dung gốc
được sản xuất (cụ thể tính đến cuối năm 2021, Netflix đã tạo ra hơn 2.400 tựa phim
gốc) phát hành trên nền tảng của họ để thu hút người dùng trên toàn thế giới.
1.2 Thị trường của Netflix
- Với sự phát triển mạnh mẽ tại thị trường Hoa Kỳ, Netflix đã từng bước thực
hiện các chiến lược của mình để tiến vào các thị trường khác.
- Đầu tiền, Netflix đã tiến hành mở rộng thị trường quốc tế bằng cách mở rộng
dịch vụ của mình sang Canada vào năm 2010. Sau đó, o năm 2011, họ đã mở
rộng sang các quốc gia như Brazil, Anh, Ba Lan Ireland.
- Trong những m tiếp theo, Netflix đã mở rộng đến các thị trường mới Châu
Âu, Châu Á Châu Đại Dương. Nhật Bản quốc gia châu Á đầu tiên
Netflix thâm nhập vào.
- Netflix hiện đã mặt hơn 190 quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, s hiện
diện của Netflix trong mỗi quốc gia thể khác nhau do các quy định giấy
phép địa phương. Một số quốc gia nội dung phong phú đa dạng, trong khi
các quốc gia khác giới hạn nội dung hơn. Ngoài ra, giá cả các tính năng
cũng thể khác nhau tùy thuộc vào quốc gia.
Trên mỗi thị trường, Netflix sử dụng chiến lược riêng để tăng độ phổ biến thu hút
khách hàng. Điều này bao gồm cung cấp nội dung khác nhau tùy thuộc vào địa
phương, tìm kiếm các quan hệ địa phương để sản xuất nội dung chất lượng coi
trọng việc cung cấp các tính năng phù hợp với từng khách hàng.
1.3 Netflix tại thị trường Nhật Bản
- Netflix đã ra mắt dịch vụ tại Nhật Bản o tháng 9 năm 2015. Đây địa điểm
đầu tiên của công ty châu Á, một thị trường họ đặt nhiều kỳ vọng. Gói
thuê bao của bắt đầu mức 650 yên (5,36 đô la) một tháng. Các thành viên
thể xem phim, chương trình TV các video giải trí khác trên máy tính,
điện thoại thông minh, máy tính bảng, TV—gần như bất kỳ thứ kết nối
với internet.
- Vào thời điểm Netflix gia nhập Nhật Bản, thị trường phát trực tuyến video đã
đông đúc thương hiệu Netflix vẫn chưa được nhiều người Nhật biết đến.
vậy, trọng tâm ban đầu của công ty trở nên được công nhận về giải trí chất
lượng cao bởi càng nhiều khán giả càng tốt.
- Đến năm 2019, Netflix Nhật Bản đã hơn 3 triệu người đăng ký. Khi đại dịch
COVID-19 ập đến khiến người tiêu dùng phải nhà nhiều hơn bình thường, số
lượng người đăng Netflix đã tăng vọt: lên hơn 5 triệu vào cuối năm 2020,
hơn 6 triệu vào cuối năm 2021.
Các mốc thời gian thành tựu kinh doanh:
- Năm 1997, Netflix được thành lập dưới dạng dịch vụ cho thuê DVD (Reed
Hastings Marc Randolph nảy ra ý tưởng kinh doanh cho thuê đĩa DVD qua
đường bưu điện. Họ đã thử nghiệm khái niệm này bằng cách gửi cho mình một
đĩa DVD; vẫn còn nguyên vẹn một năm sau Netflix.com, trang web bán
cho thuê DVD đầu tiên của Mỹ, đã được ra mắt)
- Năm 1999, Netflix bắt đầu dịch vụ đăng ký, cung cấp cho các thành viên thuê
DVD không giới hạn không ngày đến hạn hoặc phí trả lại trễ. Người
đăng thể chọn phim hoặc TV loạt từ trang web; những thứ này sau đó
được gửi đến khách hàng, người này sẽ gửi lại chúng trong một phong được
cung cấp.
- Năm 2000, Netflix đã giới thiệu một hệ thống đề xuất phim được nhân hóa,
sử dụng xếp hạng của các thành viên đối với các tựa phim trước đây để dự
đoán các lựa chọn trong tương lai của họ.
- Năm 2006, công ty đã phát động cuộc thi Giải thưởng Netflix trị giá 1 triệu đô
la, thách thức những người tham gia chứng minh thuật toán nằm trong hệ thống
đề xuất phim của mình. Ba năm 40.000 bài nộp sau đó, giải thưởng đã được
trao cho một nhóm gồm các nhà toán học, nhà khoa học máy tính kỹ đến
từ Hoa Kỳ, Canada, Áo Israel, những người đã cải thiện độ chính xác của
các đề xuất lên 10%.
- Vào năm 2007, Netflix đã bắt đầu công việc công ty được biết đến nhiều
nhất hiện nay: phát trực tuyến phim chương trình truyền hình trực tiếp tới
người đăng thông qua internet.
- Năm 2010: Netflix bắt đầu mở rộng ra quốc tế: đến Canada vào năm 2010, Mỹ
Latinh vào năm 2011, Vương quốc Anh, Ireland Scandinavia vào năm 2012.
Đến năm 2016, dịch vụ phát trực tuyến của Netflix đã mặt 190 quốc gia
- Vào năm 2012, Netflix bắt đầu sản xuất nội dung của riêng mình, bắt đầu với
các chương trình hài độc thoại đặc biệt, ra mắt loạt phim gốc đầu tiên của mình,
Lillehammer
- Vào năm 2013, Chương trình ban đầu của Netflix nhận được 14 đề cử Emmy,
cho các chương trình như House of Cards, Arrested Development Hemlock
Grove; bộ phim chính trị House of Cards của Netflix đã giành được ba giải
Primetime Emmy, giải đầu tiên dành cho một công ty phát trực tuyến trên
internet. Đây giải thưởng đầu tiên trong số nhiều giải thưởng công ty sẽ
giành được cho nội dung được sản xuất ban đầu, bao gồm nhiều giải Emmy
Giải Oscar.
- 2014: Netflix nhận đề cử giải Oscar đầu tiên cho The Square
- 2015: Netflix gia nhập thị trường Nhật Bản
- Tính đến cuối năm 2021, Netflix đã tạo ra hơn 2.400 tựa phim gốc. Thành viên
Netflix đã vượt qua 25 triệu trong 2012, 50 triệu vào năm 2014, 100 triệu vào
năm 2017 200 triệu vào năm 2021.
2. Phân tích thị trường kinh doanh Nhật Bản của Netflix theo hình PESTLE
Tìm kiếm thêm những thông tin định lượng để minh chứng cho những mình nói
lquan tới sp dv mình làm, phải định lượng hóa, data hóa phần PESTLE này.
2.1. Môi trường chính trị (P) - nhìu chỉ số đánh giá môi trường chính trị của 1
quốc gia: chỉ số dân chủ, chỉ số tự do bầu cử,....của tạp chí, tổ chức phi chính phủ,
WB,....
+ Theo quan phân tích kinh tế "Economist Intelligence Unit" (EIU) thuộc tạp
chí The Economist (Anh) đã công bố "Chỉ số dân chủ năm 2014" cho thấy Nhật
Bản một “nền dân chủ đầy đủ”. Cụ thể thì Chỉ số Dân chủ dựa trên năm hạng
mục:
- chế bầu cử chủ nghĩa đa nguyên;
- quyền tự do của người dân;
- chức năng của chính phủ;
- tham gia chính trị;
- văn hóa chính trị.
+ Dựa trên điểm số của họ qua chỉ số trên, mỗi quốc gia sau đó được phân loại
thành một trong bốn loại chế độ: “dân chủ đầy đủ”; “dân chủ khiếm khuyết”;
"thể chế hỗn hợp"; “thể chế chuyên chế”
+ Nhật Bản xếp thứ 20 trong số 167 nước trên thế giới thuộc nhóm “dân chủ
đầy đủ” với số điểm đạt được 8,08 trên 10 điểm. Nhật Bản đạt 9,17 điểm
tiêu chí "cơ chế bầu cử chủ nghĩa đa nguyên"; 8,21 điểm về "chức năng
Chính phủ", 6,11 điểm "sự tham gia chính trị", 7,05 điểm về "văn hóa chính
trị", 9,41 điểm về "tự do của người dân".
=> Từ đây thể thấy số điểm về chế bầu cử, mức độ tự do của người dân
rất cao nghĩa quyền tự do dân chủ sự tự do trong bầu cử rất được tôn
trọng quốc gia này.
+ Chỉ số Hòa bình Toàn cầu (Global Peace Index) xếp hạng Nhật Bản một
trong những quốc gia hòa bình đứng thứ 8 trên thế giới.
Từ 2 yếu tố trên, thể thấy rằng nền chính trị của Nhật Bản khá ổn định từ đó
thể tạo điều kiện tốt cho các doanh nghiệp phát triển, bao gồm cả Netflix. Sự ổn định
chính trị giúp tạo ra một môi trường kinh doanh ổn định, dự báo được, giúp các doanh
nghiệp thể đưa ra các quyết định chiến lược dài hạn.
2.2. Môi trường kinh tế (E)
Môi trường kinh tế cũng mối quan tâm lớn của Netflix khi gia nhập vào thị
trường Nhật Bản, yếu tố này ảnh hưởng đến hoạt động công ty kinh
doanh. Netflix bước đầu thâm nhập vào thị trường Nhật Bản vào 9/2015:
GDP:
Theo dữ liệu của Ngân hàng Thế giới, GDP (tính theo giá trị thị trường) của
Nhật Bản vào năm 2014 4.850 tỷ USD, sang năm 2015, GDP của Nhật Bản
giảm nhẹ xuống tỷ USD, cụ thể tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nước4,445
này trong quý II/2015 giảm 1,6% sau khi tăng trưởng liên tiếp trong hai quý
trước đó (Báo cáo bộ của Văn phòng Nội các Nhật Bản công bố ngày 17/8)
=> Mặc sự giảm sút so với các năm, tuy nhiên con số giảm sút vẫn mức
chấp nhận được, vẫn khả quan hơn các con số dự đoán trước đó Nhật Bản
thời điểm đó vẫn một trong những nước GDP cao nhất thế giới một
nền kinh tế phát triển.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế một chỉ số khác để
đánh giá sức khỏe của nền kinh tế của Nhật Bản ng từ 0,3% năm 2014 lên 1,6%
năm 2015.
Tốc độ tăng trưởng GDP tăng lên của Nhật Bản trong m 2015 so với năm 2014
thể được xem như một tín hiệu tích cực cho nền kinh tế Nhật Bản, bởi cho
thấy rằng nền kinh tế đang phục hồi phát triển sau nhiều năm suy thoái kinh tế, cho
thấy người dân thể nhiều tiền hơn để tiêu dùng cho các dịch vụ giải trí, bao gồm
dịch vụ xem phim trực tuyến.
Tỉ lệ lạm phát:
Theo Worldbank.org cho hay tỉ lệ lạm phát của Nhật Bản năm 2014 2,8%.
Đây mức ng giá cao nhất tại Nhật Bản trong 23 năm trở về trước, kể từ 1992. Sự
tăng giá trong năm 2014 chủ yếu được giải thích bởi s tăng giá của các sản phẩm
năng lượng do giá dầu thô tăng đột ngột vào cuối năm 2013 đầu năm 2014, cùng
với một số yếu tố khác như sự tăng giá của thuế tiêu thụ thuế giá trị gia tăng. Mức
lạm phát này tuy không được coi đáng báo động nhưng vẫn thể tác động nhỏ đến
thời điểm Netflix muốn thâm nhập vào thị trường Nhật Bản. Mức lạm phát tăng làm
giá trị của đồng Yên Nhật giảm giá cả nội địa tăng lên, bao gồm cả chi phí vận
hành, chi phí sản xuất chi phí marketing tuy nhiên điều này sẽ chỉ ảnh hưởng rất
nhỏ đến chi phí hoạt động của Netflix tại Nhật Bản.
Theo số liệu từ Worldbank, tỷ lệ lạm phát của Nhật Bản trong năm 2015 giảm
mạnh từ 2,8% xuống 0.8%. Số liệu này cho thấy rằng, trong năm đó, giá cả của các
sản phẩm dịch vụ tiêu dùng Nhật Bản đã giảm so với cùng kỳ năm trước. Điều
này thể được giải thích bằng việc giá năng lượng giảm yên Nhật Bản mạnh n
so với một số đồng tiền khác.
=> Giảm lạm phát cũng làm giảm chi phí cho người tiêu dùng Nhật Bản. Người
dân Nhật Bản thể sử dụng tiền của mình để tiêu dùng nhiều hơn dụ như
họ thể sử dụng các dịch vụ xem phim trực tuyến nhiều hơn.
Tỉ lệ thất nghiệp:
Tỷ lệ thất nghiệp của Nhật Bản từ năm 2010 - 2015 xu hướng giảm. Sự
giảm tỷ lệ thất nghiệp thể đồng nghĩa với sự tăng trưởng kinh tế tạo ra thêm
việc làm, đồng thời giúp cải thiện đời sống tăng khả năng tiêu dùng của người
dân. Đây cũng một dấu hiệu tích cực cho nền kinh tế của đất nước này => người
dân Nhật Bản nhiều tiền hơn để tiêu dùng cho các dịch vụ giải trí
=> Từ các số liệu về chỉ số kinh tế trong giai đoạn 2010 - trước khi Netflix tiến hành
thâm nhập vào thị trường Nhật Bản, thể thấy đây một thị trường tiềm năng, đáng
vọng có thể làm bước đệm tốt cho Netflix mở rộng thị trường của mình một cách
thuận lợi khu vực Châu Á.
2.3. Môi trường văn hóa - hội (S) - xem xét những chỉ số, cần minh họa ra: vd dân
số già già bao nhiêu, đứng thứ mấy thế giới, mức độ sinh qua các năm, phân tầng
hội thành mấy tầng lớp, sự dịch chuyển giữa các tầng lớp dễ dàng hay k ( bao
nhiêu % dân số thuộc tầng lớp trung lưu chẳng hạn, sự thay đổi các tầng lớp qua các
năm ntn?....)
Tình hình dân số
Biểu đồ thể hiện phân bố độ tuổi Nhật Bản từ 2011-2021 (Statista.com)
Tỉ lệ dân số 65 tuổi trở lên trên tổng dân số Nhật Bản (Worldbank.org)
Tỉ lệ sinh Nhật Bản từ 2010-2020 (Worldbank.org)
+ Tỷ lệ già hóa của Nhật Bản từ năm 2010 đến nay xu hướng tăng dần (năm
2010 đã đạt trên 20%). vậy, thời điểm Netflix thâm nhập vào thị trường
Nhật Bản trong năm 2015, dân số Nhật Bản vẫn đang trong giai đoạn gia tăng
vấn đề già hóa. Con số này đã tăng lên đáng kể khi người già chiếm tỷ lệ
27,33% trong tổng số dân số độ tuổi trung bình đã tăng lên 46,4 tuổi. Bên
cạnh đó, tỉ lệ sinh của Nhật Bản cũng rất thấp, cụ thể vào năm 2014 2015
khoảng 8% trên 1000 người. Điều này đem đến những hội thách thức
như:
+ hội: Netflix cũng thể tìm thấy các hội trong xu hướng già hóa của
Nhật Bản bằng cách cung cấp các nội dung phù hợp với nhóm đối tượng này, bao gồm
các bộ phim chương trình truyền hình cho người già.
+ Thách thức: Với tỷ lệ người cao tuổi ngày càng tăng, các chương trình giải trí
như phim chương trình truyền hình thể không còn ưu tiên hàng đầu cho nhóm
đối tượng này. Thay vào đó, các dịch vụ giáo dục dịch vụ chăm sóc sức khỏe thể
trở thành ưu tiên hơn. Ngoài ra, người cao tuổi khả năng tiếp cận công nghệ chậm
hơn cũng rào cản với việc phổ biến Netflix đến đối tượng này. Đặc biệt hơn, khi
dân số già hóa, số lượng người lao động giảm đi, sẽ gây khó khăn cho Netflix trong
việc tuyển dụng duy trì nhân lực.
Văn hóa ngôn ngữ:
- Người dân Nhật Bản rất tôn trọng n hóa truyền thống, ưa thích các sản
phẩm giải trí tính cách địa phương, vậy Netflix cần phải tìm hiểu kỹ về văn
hóa đặc điểm thị trường trước khi phát triển các nội dung mới tại Nhật Bản.
dụ, các chương trình anime, manga, phim hành động những bộ phim yếu tố
cổ trang thường rất được ưa chuộng tại Nhật Bản, do đó Netflix thể tập trung
vào phát triển các nội dung tương tự để thu hút khách hàng tại địa phương.
- Tiếng Nhật ngôn ngữ chính được sử dụng rộng rãi Nhật Bản, người Nhật họ
sẽ cảm thấy thú vị nếu mình sử dụng ngôn ngữ của họ, ngược lại họ sẽ cảm thấy khó
chịu nếu chúng ta phát âm không đúng, do đó muốn phát triển nội dung địa phương,
Netflix cần phải chú ý đến việc sử dụng ngôn ngữ cho phù hợp, Netflix thể tìm các
đối tác địa phương để hợp tác hỗ trợ cho họ. Ngoài ra, Netflix cũng phải đưa ra các
dịch vụ, chương trình phù hợp với văn hóa địa phương tại Nhật Bản để thu hút khách
hàng tăng độ phủ sóng của mình.
2.4. Môi trường công nghệ (T) - xem thử em muốn nghiên cứu cái về công nghệ
nhật bản, ví dụ: thái độ đối với công nghệ (coi những cái chỉ số), thái độ sẵn sàng với
công nghệ, mức độ áp dụng công nghệ 4.0, mức độ tiên tiến về công nghệ, tốc độ
internet, mức độ phụ thuộc vào mạng,....
- Nhật Bản được xem một trong những quốc gia công nghệ tiên tiến nhất
thế giới. Nhật Bản quốc gia nền công nghiệp điện tử công nghệ thông
tin phát triển mạnh mẽ.
dụ, công nghệ mạng siêu tốc các thiết bị thông minh (smart devices) đã
được phổ biến Nhật Bản Điều này giúp cho Netflix thể sử dụng các
công nghệ mới nhất để phát triển dịch vụ của mình tại đây.
Tốc độ Internet trung bình
- Theo tài liệu của Akamai, tốc độ Internet trung bình của Nhật Bản Q3 năm
2015 khoảng 15 Mbps (Megabit trên giây), đứng thứ 7 thế giới. thời điểm
đó, đây một con số khá cao, vượt trội so với nhiều quốc gia khác trên thế
giới. Chỉ số này cũng giúp giải thích tại sao người dân Nhật Bản thể sử dụng
các dịch vụ trực tuyến như xem phim, chơi game, làm việc từ xa một cách
nhanh chóng, liên tục không bị gián đoạn.
Tỷ lệ người dùng Internet
- Theo thống của Statista, khoảng 91,08% người dân Nhật Bản sử dụng
internet, đây con số rất cao so với nhiều nước khác trên thế giới. Việc sử
dụng internet tại Nhật Bản được xem phổ biến, đặc biệt trong các thành phố
lớn các khu dân đông đúc. Người Nhật Bản được biết đến những người
tiên tiến trong lĩnh vực công nghệ, điều này giúp họ cái nhìn tích cực về việc
sử dụng internet các dịch vụ công nghệ kỹ thuật số.
=> Tạo điều kiện thuận lợi cho Netflix thâm nhập vào thị trường Nhật Bản, giúp cho
người tiêu dùng dễ dàng tiếp cận sử dụng dịch vụ của Netflix hơn.
- Tuy nhiên, việc sử dụng công nghệ phải tuân thủ các quy định điều kiện của
chính phủ Nhật Bản chính phủ Nhật Bản có các quy định nghiêm ngặt về
việc sử dụng công nghệ các hoạt động kinh doanh liên quan đến công nghệ,
Netflix cần phải tìm hiểu kỹ càng những điều này để tránh gặp những trường
hợp không đáng có.
2.5. Môi trường pháp luật (L) - tỉ lệ bảo vệ sở hữu trí tuệ ( nếu mình kdoanh nước
này thì nhận diện thương hiệu của mình dễ dàng bị đánh cắp không, mức độ PL
bve quyền shtt đến đâu, bve tài sản hình-trí tuệ của mình đến đâu, lquan tới nhãn
hiệu, bản quyền, thương hiệu,.... => tỉ lệ tự tin về đầu
Nhật Bản hệ thống pháp tốt, chỉ số bảo vệ tài sản trí tuệ khá cao
Dựa vào biểu đồ bảng trên cho thấy, chỉ số về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ Nhật
Bản khá cao cụ thể đạt 7.8 điểm vào năm 2014 xếp thứ 5 khu vực Châu Á
Châu ĐB, đạt 7,977 năm 2015, tăng 3 bậc cả khu vực thế giới.
=> Điều này lợi cho Netflix, giúp Netflix chống lại được sự sao chép vi phạm
bản quyền, bảo vệ sự sáng tạo Netflix thường xây dựng kho nội dung gốc chất
lượng cao độc đáo.
- Bên cạnh đó cũng một số điểm pháp quan trọng Netflix cần phải tuân thủ
bao gồm: Bản quyền quyền tác giả, quảng cáo, quy định về trẻ em, quy định về bảo
vệ thông tin nhân của khách hàng, quy định về giá cả quy định về chứng nhận
phép đăng kinh doanh tại Nhật Bản,...
+ Bản quyền quyền tác giả (Bộ Luật Bản quyền NB): Các nội dung trên
Netflix phải được giấy phép sử dụng từ các chủ sở hữu bản quyền, đặc biệt
các chương trình phim truyền hình. Netflix cũng phải đảm bảo rằng nội
dung của họ không vi phạm bất kỳ quyền tác giả nào.
+ Quảng cáo (Bộ Luật Quảng o Nhật Bản (Advertising Act) các quảng cáo :
của Netflix phải đáp ứng các yêu cầu về tính trung thực công bằng, đạo
đức.
+ Quy định về trẻ em: Netflix phải tuân thủ quy định về trẻ em tại Nhật Bản.
Theo đó, các chương trình nội dung của Netflix phải tuân thủ các quy định
về độ tuổi cho phép xem, tránh các nội dung tính chất bạo lực hoặc khiêu
dâm không phù hợp với trẻ em.
+ Ngoài ra, Netflix cũng phải tuân thủ các quy định về bảo vệ thông tin nhân
của khách hàng, quy định về giá cả quy định về chứng nhận phép đăng
kinh doanh tại Nhật Bản. Các quy định này thể nh hưởng đến hoạt động
kinh doanh của Netflix tại Nhật Bản, do đó, Netflix phải tuân thủ các quy định
pháp luật này để đảm bảo hoạt động kinh doanh của mình hợp pháp bền
vững.
2.6. Môi trường (E)
Nhật Bản một quốc gia nằm trong Vành đai Thái Bình Dương, nơi thường
xuyên xảy ra các thảm họa tự nhiên như động đất, sóng thần, bão, lụt, băng
tuyết. Những thảm họa này thể gây ra sự gián đoạn hoạt động của Netflix tại Nhật
Bản bởi việc mất điện, gián đoạn hệ thống mạng Internet, làm cho khách hàng
không thể sử dụng dịch vụ trực tuyến của Netflix gây ảnh hưởng xấu đến trải nghiệm
của người tiêu dùng.
Do đó, Netflix cần phải đưa ra các biện pháp đối phó với các thảm họa tự nhiên
sự thay đổi khí hậu tại Nhật Bản. dụ, Netflix thể xây dựng các trung tâm dữ liệu
dự phòng tại các khu vực an toàn để đảm bảo sự liên tục của dịch vụ trực tuyến của
mình trong trường hợp thảm họa.
3. Phân tích Entry Mode
3.2 Cách thức thâm nhập
Phương thức Netflix đã sử dụng để thâm nhập vào thị trường Nhật Bản, là:
Liên minh chiến lược: Netflix đã hợp tác với các công ty địa phương như
SoftBank, Bic Camera, Fuji Media Holdings, Yoshimoto Kogyo để phát triển
nội dung tiếp cận khách hàng.
Tại sao lại lựa chọn phương thức liên minh chiến lược?
Nhật Bản thị trường đầu tiên Netflix thâm nhập trong khu vực Châu Á.
một thị trường hoàn toàn mới, do đó Netflix phải đối diện với ng hoạt
thách thức như:
- Netflix phải đối mặt với những khác biệt về văn hóa khi gia nhập vào một thị
trường mới, thách thức ngôn ngữ khi cung cấp dịch vụ Nhật Bản. Chính
thế, Netflix phải chịu Áp lực thích nghi địa phương cao, Khi gia nhập vào
Nhật Bản cũng đồng nghĩa doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh gay
gắt từ các công ty địa phương đã sẵn trên thị trường đang hoạt động trong
lĩnh vực này . Trong khi đó thương hiệu Netflix vẫn chưa được nhiều người
Nhật biết đến. Để cạnh tranh với rất nhiều đối thủ đáp ứng nhu cầu của
khách hàng Nhật Bản, Netflix cần phải tập trung vào chiến lược bản địa hoá nội
dung khi tung ra sản phẩm trong khu vực này. Bản địa hoá nội dung, nội dung
khác biệt những yếu tố cần thiết để Netflix tiếp cận nhiều người dùng hơn tại
khu vực châu Á. Tuy nhiên, Netflix người Không bị áp lực chi phí thấp
Nhật chuộng các sản phẩm chất lượng, giá cao. Bên cạnh đó, sức mua của
người Nhật Bản khá cao, họ sẵn sàng trả mức giá đắt để sở hữu những sản
phẩm chất lượng tốt. Nên trọng tâm ban đầu của công ty trở nên được
công nhận về giải trí chất lượng cao, một thương hiệu đáng tin cậy càng
nhiều khách hàng càng tốt.
=> Để giải quyết vấn đề này, Netflix đã sử dụng phương thức liên minh chiến
lược để thể nhận được sự hỗ trợ, hợp tác từ các công ty địa phương. Đây
thể phương thức phù hợp nhất để thâm nhập vào thị trường mới này. Từ đó,
tiếp cận được người tiêu dùng nhanh hơn, giải quyết được các vấn đề vừa nêu
trên.
Netflix đã thực hiện liên minh chiến lược như thế nào?
Netflix đã thực hiện một bước đi thông minh hơn để hòa nhập nhanh hơn. Công
ty đã thực hiện một thỏa thuận với SoftBank, một công ty cung cấp dịch vụ di
động công nghệ hàng đầu của Nhật Bản. Bằng sự liên kết này, Softbank
đồng ý bán các gói đăng Netflix thông qua các cửa hàng của Softbank cũng
như trang web của Softbank, Netflix trở thành một phần trong dịch vụ, khách
hàng sẽ cởi mở hơn khi dùng thử dịch vụ này được cung cấp thông qua
Softbank. Softbank sẽ i đặt sẵn ứng dụng của Netflix trên điện thoại mới.
Điều đó khiến Netflix trở thành một phần của đội chủ nhà về dịch vụ.
Hai seri gốc do Fuji Television Network sản xuất sẽ được chiếu độc quyền trên
Netflix, bao gồm phiên bản mới của Terrace House, một chương trình thực tế
nổi tiếng về những người trẻ Nhật Bản chung một nhà lần đầu tiên được phát
sóng bởi Fuji TV.
Netflix đã liên kết với Bic Camera, một nhà bán lẻ đồ điện tử lớn của Nhật
Bản, đã thiết lập TV liên kết với Netflix tại một số cửa hàng của mình bán
thẻ Netflix trả trước.
Netflix cũng đã hợp đồng với tập đoàn giải trí Nhật Bản Yoshimoto Kogyo
để sản xuất một bộ phim truyền hình dựa trên Hibana (tiếng Nhật nghĩa
tia lửa), một cuốn tiểu thuyết của diễn viên hài nổi tiếng Nhật Bản Naoki
Matayoshi gần đây đã giành được giải thưởng Akutagawa danh giá.
Ngoài ra, Netflix cũng đã đầu vào việc bản địa hóa nội dung và nỗ lực tiếp
thị để điều chỉnh các sản phẩm của mình cho phù hợp với khán giả Nhật Bản.
dụ: Netflix đã thêm phụ đề lồng tiếng Nhật vào thư viện nội dung quốc tế
của mình, đồng thời thuê các diễn viên Nhật Bản để quảng nền tảng của
mình.
- Người đứng đầu Netflix Nhật Bản, nói rằng khoảng một nửa nội dung
của dịch vụ phát trực tuyến sẽ chương trình của Nhật Bản.
- Khi Netflix ra mắt tại Nhật Bản vào cuối năm 2015, động thái đầu tiên
của họ để giành được người đăng địa phương mua tài trợ cho
càng nhiều nội dung anime được yêu thích càng tốt.
- Ngoài việc đảm bảo nội dung địa phương, Netflix đã đầu hợp tác để
tạo nội dung gốc dành riêng cho thị trường Nhật Bản.
Một số ưu điểm của phương thức thâm nhập thị trường Nhật Bản của Netflix thể kể
đến như sau:
Netflix đã hợp tác với SoftBank, một đối tác địa phương uy tín khả năng
phân phối rộng rãi dịch vụ của Netflix thông qua các cửa hàng n lẻ các
thiết bị di động của SoftBank, mạng lưới 37 triệu khách hàng vào thời điểm
đó. Điều này giúp Netflix tiếp cận được nhiều khách hàng tiềm năng Nhật
Bản không cần phải đầu nhiều vào việc xây dựng hệ thống phân phối
riêng. Giúp Netflix giảm chi phí tiếp thị tăng khả năng tiếp cận khách hàng.
Netflix đã đầu vào việc sản xuất mua bản quyền các nội dung địa phương
như anime phim truyền hình để thu hút khách hàng Nhật Bản. hợp tác với
các nhà sản xuất, đạo diễn diễn viên nổi tiếng của Nhật Bản để tạo ra các
chương trình độc quyền cho thị trường này. Điều này giúp Netflix tạo ra sự
khác biệt cạnh tranh với các đối thủ khác cũng cung cấp dịch vụ xem phim
trực tuyến Nhật Bản, đồng thời tận dụng được tiềm năng xuất khẩu các nội
dung này sang các thị trường khác.
Hợp tác với các công ty địa phương, áp lực khác biệt văn hóa của doanh nghiệp
Netflix giảm đi sự hỗ trợ tiếp thị quảng dịch vụ từ các công ty công
nghệ nổi tiếng tại Nhật Bản. Từ đó, hiểu được người tiêu dùng nhanh hơn
triển khai các chiến lược tiếp thị phù hợp với văn hóa Nhật Bản.
Nhược điểm
Một snhược điểm của phương thức liên minh chiến lược của Netflix khi thâm nhập
vào thị trường Nhật Bản thể kể đến như sau:
Không kiểm soát được hoàn toàn các yếu tố marketing bán hàng, phụ thuộc
vào khả năng uy tín của các đối tác.
thể xảy ra xung đột lợi ích hoặc mâu thuẫn văn hoá giữa các bên liên minh,
ảnh hưởng đến sự hài hòa hiệu quả của liên minh.
thể bị rỉ thông tin hoặc bị sao chép nội dung bởi các đối tác hoặc đối thủ
cạnh tranh.
thể gặp khó khăn trong việc điều chỉnh chiến lược hoặc thoát khỏi liên minh
khi sự thay đổi trong môi trường kinh doanh hoặc nhu cầu của khách hàng.
4. Which ( if any) Porter generic strategies did company follow in that market?
thị trường Nhật Bản, Netflix chủ yếu sử dụng chiến lược cạnh tranh khác biệt hóa
thị trường này, chiến lược tạo lợi thế cạnh tranh bằng cách tạo ra sản phẩm hàng hóa
dịch vụ sự khác biệt so với đối thủ cạnh tranh. Netflix sử dụng chiến lược này
thị trường Nhật Bản bởi các do sau:
Đặc thù văn hóa: Nhật Bản một quốc gia văn hóa đa dạng độc đáo.
Khách hàng tại Nhật Bản nhu cầu tìm kiếm các sản phẩm giải trí phù hợp
với văn hóa sở thích của họ. Chiến lược khác biệt hóa (product
differentiation strategy) của Netflix Nhật Bản tập trung o việc sản xuất các
chương trình phim chương trình truyền hình độc quyền dành riêng cho thị
trường Nhật Bản, cũng như mua lại các bản quyền của các chương trình phổ
biến trong địa phương. Chiến lược này giúp Netflix tạo ra sự khác biệt đáng kể
với các đối thủ cạnh tranh trong thị trường Nhật Bản, tăng độ thu hút của nội
dung, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh của mình.
Cạnh tranh với các đối thủ địa phương: Tại Nhật Bản, Netflix phải đối mặt
với sự cạnh tranh từ nhiều đối thủ địa phương như Hulu, Amazon Prime Video
Niconico. Để đối phó với sự cạnh tranh này, Netflix tập trung vào chiến
lược khác biệt hóa. Netflix đã tạo ra các nội dung độc quyền chất lượng cao
như các bộ phim, chương trình truyền hình anime để thu hút khách hàng.
Ngoài ra, Netflix cũng tập trung vào chiến lược phân phối bằng cách đưa ra các
chương trình phù hợp với ngôn ngữ văn hóa địa phương. Những điều này
giúp Netflix tạo ra lợi thế cạnh tranh về sản phẩm thương hiệu của mình, thu
hút khách ng đến với dịch vụ của mình. Một số chương trình trên Netflix của
Nhật Bản khác biệt so với các đối thủ cạnh tranh còn lại bao gồm:Terrace
House, Atelier, Midnight Diner, Rilakkuma Kaoru,....

Preview text:

1. Tổng quan về Netflix 1.1 Thông tin công ty
Netflix là một công ty truyền thông và giải trí trực tuyến đa quốc gia có trụ sở tại Los
Gatos, California, Mỹ. Công ty chuyên cung cấp các dịch vụ phát trực tuyến các
chương trình truyền hình, phim truyền hình, phim ảnh và tài liệu điện ảnh trên internet.
Netflix được thành lập vào năm 1997 bởi Reed Hastings và Marc Randolph. Ban đầu,
công ty là một dịch vụ gửi đĩa DVD cho khách hàng qua thư tín, trước khi chuyển
sang phát trực tuyến vào năm 2007. Với mô hình kinh doanh đó, Netflix đã đạt được
thành công vang dội và trở thành nhà cung cấp dịch vụ phát trực tuyến hàng đầu trong
ngành công nghiệp truyền thông và giải trí.
Hiện nay, Netflix đã mở rộng hoạt động sang nhiều quốc gia trên thế giới, cung cấp
nội dung giải trí đa dạng, với hơn 200 triệu người dùng toàn cầu. Netflix cũng sản
xuất nội dung riêng của mình - các phim, chương trình truyền hình và nội dung gốc
được sản xuất (cụ thể là tính đến cuối năm 2021, Netflix đã tạo ra hơn 2.400 tựa phim
gốc) và phát hành trên nền tảng của họ để thu hút người dùng trên toàn thế giới.
1.2 Thị trường của Netflix
- Với sự phát triển mạnh mẽ tại thị trường Hoa Kỳ, Netflix đã từng bước thực
hiện các chiến lược của mình để tiến vào các thị trường khác.
- Đầu tiền, Netflix đã tiến hành mở rộng thị trường quốc tế bằng cách mở rộng
dịch vụ của mình sang Canada vào năm 2010. Sau đó, vào năm 2011, họ đã mở
rộng sang các quốc gia như Brazil, Anh, Ba Lan và Ireland.
- Trong những năm tiếp theo, Netflix đã mở rộng đến các thị trường mới ở Châu
Âu, Châu Á và Châu Đại Dương. Nhật Bản là quốc gia châu Á đầu tiên mà Netflix thâm nhập vào.
- Netflix hiện đã có mặt ở hơn 190 quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, sự hiện
diện của Netflix trong mỗi quốc gia có thể khác nhau do các quy định và giấy
phép địa phương. Một số quốc gia có nội dung phong phú và đa dạng, trong khi
các quốc gia khác có giới hạn nội dung hơn. Ngoài ra, giá cả và các tính năng
cũng có thể khác nhau tùy thuộc vào quốc gia.
Trên mỗi thị trường, Netflix sử dụng chiến lược riêng để tăng độ phổ biến và thu hút
khách hàng. Điều này bao gồm cung cấp nội dung khác nhau tùy thuộc vào địa
phương, tìm kiếm các quan hệ địa phương để sản xuất nội dung chất lượng và coi
trọng việc cung cấp các tính năng phù hợp với từng khách hàng.
1.3 Netflix tại thị trường Nhật Bản
- Netflix đã ra mắt dịch vụ tại Nhật Bản vào tháng 9 năm 2015. Đây là địa điểm
đầu tiên của công ty ở châu Á, một thị trường mà họ đặt nhiều kỳ vọng. Gói
thuê bao của nó bắt đầu ở mức 650 yên (5,36 đô la) một tháng. Các thành viên
có thể xem phim, chương trình TV và các video giải trí khác trên máy tính,
điện thoại thông minh, máy tính bảng, TV—gần như bất kỳ thứ gì có kết nối với internet.
- Vào thời điểm Netflix gia nhập Nhật Bản, thị trường phát trực tuyến video đã
đông đúc và thương hiệu Netflix vẫn chưa được nhiều người Nhật biết đến. Vì
vậy, trọng tâm ban đầu của công ty là trở nên được công nhận về giải trí chất
lượng cao bởi càng nhiều khán giả càng tốt.
- Đến năm 2019, Netflix Nhật Bản đã có hơn 3 triệu người đăng ký. Khi đại dịch
COVID-19 ập đến khiến người tiêu dùng phải ở nhà nhiều hơn bình thường, số
lượng người đăng ký Netflix đã tăng vọt: lên hơn 5 triệu vào cuối năm 2020,
và hơn 6 triệu vào cuối năm 2021.
Các mốc thời gian và thành tựu kinh doanh:
- Năm 1997, Netflix được thành lập dưới dạng dịch vụ cho thuê DVD (Reed
Hastings và Marc Randolph nảy ra ý tưởng kinh doanh cho thuê đĩa DVD qua
đường bưu điện. Họ đã thử nghiệm khái niệm này bằng cách gửi cho mình một
đĩa DVD; nó vẫn còn nguyên vẹn và một năm sau Netflix.com, trang web bán
và cho thuê DVD đầu tiên của Mỹ, đã được ra mắt)
- Năm 1999, Netflix bắt đầu dịch vụ đăng ký, cung cấp cho các thành viên thuê
DVD không giới hạn mà không có ngày đến hạn hoặc phí trả lại trễ. Người
đăng ký có thể chọn phim hoặc TV loạt từ trang web; những thứ này sau đó
được gửi đến khách hàng, người này sẽ gửi lại chúng trong một phong bì được cung cấp.
- Năm 2000, Netflix đã giới thiệu một hệ thống đề xuất phim được cá nhân hóa,
sử dụng xếp hạng của các thành viên đối với các tựa phim trước đây để dự
đoán các lựa chọn trong tương lai của họ.
- Năm 2006, công ty đã phát động cuộc thi Giải thưởng Netflix trị giá 1 triệu đô
la, thách thức những người tham gia chứng minh thuật toán nằm trong hệ thống
đề xuất phim của mình. Ba năm và 40.000 bài nộp sau đó, giải thưởng đã được
trao cho một nhóm gồm các nhà toán học, nhà khoa học máy tính và kỹ sư đến
từ Hoa Kỳ, Canada, Áo và Israel, những người đã cải thiện độ chính xác của các đề xuất lên 10%.
- Vào năm 2007, Netflix đã bắt đầu công việc mà công ty được biết đến nhiều
nhất hiện nay: phát trực tuyến phim và chương trình truyền hình trực tiếp tới
người đăng ký thông qua internet.
- Năm 2010: Netflix bắt đầu mở rộng ra quốc tế: đến Canada vào năm 2010, Mỹ
Latinh vào năm 2011, Vương quốc Anh, Ireland và Scandinavia vào năm 2012.
Đến năm 2016, dịch vụ phát trực tuyến của Netflix đã có mặt ở 190 quốc gia
- Vào năm 2012, Netflix bắt đầu sản xuất nội dung của riêng mình, bắt đầu với
các chương trình hài độc thoại đặc biệt, ra mắt loạt phim gốc đầu tiên của mình, Lillehammer
- Vào năm 2013, Chương trình ban đầu của Netflix nhận được 14 đề cử Emmy,
cho các chương trình như House of Cards, Arrested Development và Hemlock
Grove; bộ phim chính trị House of Cards của Netflix đã giành được ba giải
Primetime Emmy, giải đầu tiên dành cho một công ty phát trực tuyến trên
internet. Đây là giải thưởng đầu tiên trong số nhiều giải thưởng mà công ty sẽ
giành được cho nội dung được sản xuất ban đầu, bao gồm nhiều giải Emmy và Giải Oscar.
- 2014: Netflix nhận đề cử giải Oscar đầu tiên cho The Square
- 2015: Netflix gia nhập thị trường Nhật Bản
- Tính đến cuối năm 2021, Netflix đã tạo ra hơn 2.400 tựa phim gốc. Thành viên
Netflix đã vượt qua 25 triệu trong 2012, 50 triệu vào năm 2014, 100 triệu vào
năm 2017 và 200 triệu vào năm 2021.
2. Phân tích thị trường kinh doanh Nhật Bản của Netflix theo mô hình PESTLE
Tìm kiếm thêm những thông tin định lượng để minh chứng cho những gì mình nói và
lquan tới sp dv mình làm, phải định lượng hóa, data hóa phần PESTLE này.
2.1. Môi trường chính trị (P) - có nhìu chỉ số đánh giá môi trường chính trị của 1
quốc gia: chỉ số dân chủ, chỉ số tự do bầu cử,....của tạp chí, tổ chức phi chính phủ, WB,....
+ Theo Cơ quan phân tích kinh tế "Economist Intelligence Unit" (EIU) thuộc tạp
chí The Economist (Anh) đã công bố "Chỉ số dân chủ năm 2014" cho thấy Nhật
Bản là một “nền dân chủ đầy đủ”. Cụ thể thì Chỉ số Dân chủ dựa trên năm hạng mục:
- cơ chế bầu cử và chủ nghĩa đa nguyên;
- quyền tự do của người dân;
- chức năng của chính phủ; - tham gia chính trị; - văn hóa chính trị.
+ Dựa trên điểm số của họ qua chỉ số trên, mỗi quốc gia sau đó được phân loại
thành một trong bốn loại chế độ: “dân chủ đầy đủ”; “dân chủ khiếm khuyết”;
"thể chế hỗn hợp"; và “thể chế chuyên chế”
+ Nhật Bản xếp thứ 20 trong số 167 nước trên thế giới và thuộc nhóm “dân chủ
đầy đủ” với số điểm đạt được là 8,08 trên 10 điểm. Nhật Bản đạt 9,17 điểm ở
tiêu chí "cơ chế bầu cử và chủ nghĩa đa nguyên"; 8,21 điểm về "chức năng
Chính phủ", 6,11 điểm ở "sự tham gia chính trị", 7,05 điểm về "văn hóa chính
trị", 9,41 điểm về "tự do của người dân".
=> Từ đây có thể thấy số điểm về cơ chế bầu cử, mức độ tự do của người dân
rất cao nghĩa là quyền tự do dân chủ và sự tự do trong bầu cử rất được tôn trọng ở quốc gia này.
+ Chỉ số Hòa bình Toàn cầu (Global Peace Index) xếp hạng Nhật Bản là một
trong những quốc gia hòa bình đứng thứ 8 trên thế giới.
Từ 2 yếu tố trên, có thể thấy rằng nền chính trị của Nhật Bản khá ổn định và từ đó có
thể tạo điều kiện tốt cho các doanh nghiệp phát triển, bao gồm cả Netflix. Sự ổn định
chính trị giúp tạo ra một môi trường kinh doanh ổn định, dự báo được, giúp các doanh
nghiệp có thể đưa ra các quyết định chiến lược dài hạn.
2.2. Môi trường kinh tế (E)
Môi trường kinh tế cũng là mối quan tâm lớn của Netflix khi gia nhập vào thị
trường Nhật Bản, vì yếu tố này ảnh hưởng đến hoạt động mà công ty kinh
doanh. Netflix bước đầu thâm nhập vào thị trường Nhật Bản vào 9/2015: ● GDP:
Theo dữ liệu của Ngân hàng Thế giới, GDP (tính theo giá trị thị trường) của
Nhật Bản vào năm 2014 là 4.850 tỷ USD, sang năm 2015, GDP của Nhật Bản
giảm nhẹ xuống 4,445 tỷ USD, cụ thể tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nước
này trong quý II/2015 giảm 1,6% sau khi tăng trưởng liên tiếp trong hai quý
trước đó (Báo cáo sơ bộ của Văn phòng Nội các Nhật Bản công bố ngày 17/8)
=> Mặc dù có sự giảm sút so với các năm, tuy nhiên con số giảm sút vẫn ở mức
chấp nhận được, vẫn khả quan hơn các con số dự đoán trước đó và Nhật Bản ở
thời điểm đó vẫn là một trong những nước có GDP cao nhất thế giới và có một
nền kinh tế phát triển.
● Tốc độ tăng trưởng kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế là một chỉ số khác để
đánh giá sức khỏe của nền kinh tế của Nhật Bản tăng từ 0,3% năm 2014 lên 1,6% năm 2015.
Tốc độ tăng trưởng GDP tăng lên của Nhật Bản trong năm 2015 so với năm 2014
có thể được xem như một tín hiệu tích cực cho nền kinh tế Nhật Bản, bởi vì nó cho
thấy rằng nền kinh tế đang phục hồi và phát triển sau nhiều năm suy thoái kinh tế, cho
thấy người dân có thể có nhiều tiền hơn để tiêu dùng cho các dịch vụ giải trí, bao gồm
dịch vụ xem phim trực tuyến. ● Tỉ lệ lạm phát:
Theo Worldbank.org cho hay tỉ lệ lạm phát của Nhật Bản năm 2014 là 2,8%.
Đây là mức tăng giá cao nhất tại Nhật Bản trong 23 năm trở về trước, kể từ 1992. Sự
tăng giá trong năm 2014 chủ yếu được giải thích bởi sự tăng giá của các sản phẩm
năng lượng do giá dầu thô tăng đột ngột vào cuối năm 2013 và đầu năm 2014, cùng
với một số yếu tố khác như sự tăng giá của thuế tiêu thụ và thuế giá trị gia tăng. Mức
lạm phát này tuy không được coi là đáng báo động nhưng vẫn có thể tác động nhỏ đến
thời điểm Netflix muốn thâm nhập vào thị trường Nhật Bản. Mức lạm phát tăng làm
giá trị của đồng Yên Nhật giảm và giá cả nội địa tăng lên, bao gồm cả chi phí vận
hành, chi phí sản xuất và chi phí marketing tuy nhiên điều này sẽ chỉ ảnh hưởng rất
nhỏ đến chi phí hoạt động của Netflix tại Nhật Bản.
Theo số liệu từ Worldbank, tỷ lệ lạm phát của Nhật Bản trong năm 2015 là giảm
mạnh từ 2,8% xuống 0.8%. Số liệu này cho thấy rằng, trong năm đó, giá cả của các
sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng ở Nhật Bản đã giảm so với cùng kỳ năm trước. Điều
này có thể được giải thích bằng việc giá năng lượng giảm và yên Nhật Bản mạnh hơn
so với một số đồng tiền khác.
=> Giảm lạm phát cũng làm giảm chi phí cho người tiêu dùng Nhật Bản. Người
dân Nhật Bản có thể sử dụng tiền của mình để tiêu dùng nhiều hơn ví dụ như
họ có thể sử dụng các dịch vụ xem phim trực tuyến nhiều hơn.
● Tỉ lệ thất nghiệp:
Tỷ lệ thất nghiệp của Nhật Bản từ năm 2010 - 2015 có xu hướng giảm. Sự
giảm tỷ lệ thất nghiệp có thể đồng nghĩa với sự tăng trưởng kinh tế và tạo ra thêm
việc làm, đồng thời giúp cải thiện đời sống và tăng khả năng tiêu dùng của người
dân. Đây cũng một dấu hiệu tích cực cho nền kinh tế của đất nước này => người
dân Nhật Bản có nhiều tiền hơn để tiêu dùng cho các dịch vụ giải trí
=> Từ các số liệu về chỉ số kinh tế trong giai đoạn 2010 - trước khi Netflix tiến hành
thâm nhập vào thị trường Nhật Bản, có thể thấy đây là một thị trường tiềm năng, đáng
kì vọng có thể làm bước đệm tốt cho Netflix mở rộng thị trường của mình một cách
thuận lợi ở khu vực Châu Á.
2.3. Môi trường văn hóa - xã hội (S) - xem xét những chỉ số, cần minh họa ra: vd dân
số già là già bao nhiêu, đứng thứ mấy thế giới, mức độ sinh qua các năm, phân tầng
xã hội thành mấy tầng lớp, sự dịch chuyển giữa các tầng lớp là dễ dàng hay k ( bao
nhiêu % dân số thuộc tầng lớp trung lưu chẳng hạn, sự thay đổi các tầng lớp qua các năm ntn?....) ● Tình hình dân số
Biểu đồ thể hiện phân bố độ tuổi ở Nhật Bản từ 2011-2021 (Statista.com)
Tỉ lệ dân số 65 tuổi trở lên trên tổng dân số ở Nhật Bản (Worldbank.org)
Tỉ lệ sinh ở Nhật Bản từ 2010-2020 (Worldbank.org)
+ Tỷ lệ già hóa của Nhật Bản từ năm 2010 đến nay có xu hướng tăng dần (năm
2010 đã đạt trên 20%). Vì vậy, thời điểm Netflix thâm nhập vào thị trường
Nhật Bản trong năm 2015, dân số Nhật Bản vẫn đang trong giai đoạn gia tăng
vấn đề già hóa. Con số này đã tăng lên đáng kể khi mà người già chiếm tỷ lệ
27,33% trong tổng số dân số và độ tuổi trung bình đã tăng lên 46,4 tuổi. Bên
cạnh đó, tỉ lệ sinh của Nhật Bản cũng rất thấp, cụ thể là vào năm 2014 và 2015
là khoảng 8% trên 1000 người. Điều này đem đến những cơ hội và thách thức như:
+ Cơ hội: Netflix cũng có thể tìm thấy các cơ hội trong xu hướng già hóa của
Nhật Bản bằng cách cung cấp các nội dung phù hợp với nhóm đối tượng này, bao gồm
các bộ phim và chương trình truyền hình cho người già.
+ Thách thức: Với tỷ lệ người cao tuổi ngày càng tăng, các chương trình giải trí
như phim và chương trình truyền hình có thể không còn là ưu tiên hàng đầu cho nhóm
đối tượng này. Thay vào đó, các dịch vụ giáo dục và dịch vụ chăm sóc sức khỏe có thể
trở thành ưu tiên hơn. Ngoài ra, người cao tuổi có khả năng tiếp cận công nghệ chậm
hơn cũng là rào cản với việc phổ biến Netflix đến đối tượng này. Đặc biệt hơn, khi
dân số già hóa, số lượng người lao động giảm đi, sẽ gây khó khăn cho Netflix trong
việc tuyển dụng và duy trì nhân lực. ● Văn hóa và ngôn ngữ: -
Người dân Nhật Bản rất tôn trọng văn hóa truyền thống, ưa thích các sản
phẩm giải trí có tính cách địa phương, vì vậy Netflix cần phải tìm hiểu kỹ về văn
hóa và đặc điểm thị trường trước khi phát triển các nội dung mới tại Nhật Bản. Ví
dụ, các chương trình anime, manga, phim hành động và những bộ phim có yếu tố
cổ trang thường rất được ưa chuộng tại Nhật Bản, do đó Netflix có thể tập trung
vào phát triển các nội dung tương tự để thu hút khách hàng tại địa phương.
- Tiếng Nhật là ngôn ngữ chính được sử dụng rộng rãi ở Nhật Bản, người Nhật họ
sẽ cảm thấy thú vị nếu mình sử dụng ngôn ngữ của họ, ngược lại họ sẽ cảm thấy khó
chịu nếu chúng ta phát âm không đúng, do đó muốn phát triển nội dung địa phương,
Netflix cần phải chú ý đến việc sử dụng ngôn ngữ cho phù hợp, Netflix có thể tìm các
đối tác địa phương để hợp tác và hỗ trợ cho họ. Ngoài ra, Netflix cũng phải đưa ra các
dịch vụ, chương trình phù hợp với văn hóa địa phương tại Nhật Bản để thu hút khách hàng và tăng độ phủ sóng của mình.
2.4. Môi trường công nghệ (T) - xem thử em muốn nghiên cứu cái gì về công nghệ
nhật bản, ví dụ: thái độ đối với công nghệ (coi những cái chỉ số), thái độ sẵn sàng với
công nghệ, mức độ áp dụng công nghệ 4.0, mức độ tiên tiến về công nghệ, tốc độ
internet, mức độ phụ thuộc vào mạng,....
- Nhật Bản được xem một trong những quốc gia có công nghệ tiên tiến nhất
thế giới. Nhật Bản là quốc gia có nền công nghiệp điện tử và công nghệ thông
tin phát triển mạnh mẽ.
Ví dụ, công nghệ mạng siêu tốc và các thiết bị thông minh (smart devices) đã
được phổ biến ở Nhật Bản → Điều này giúp cho Netflix có thể sử dụng các
công nghệ mới nhất để phát triển dịch vụ của mình tại đây.
Tốc độ Internet trung bình
- Theo tài liệu của Akamai, tốc độ Internet trung bình của Nhật Bản ở Q3 năm
2015 là khoảng 15 Mbps (Megabit trên giây), đứng thứ 7 thế giới. Ở thời điểm
đó, đây là một con số khá cao, vượt trội so với nhiều quốc gia khác trên thế
giới. Chỉ số này cũng giúp giải thích tại sao người dân Nhật Bản có thể sử dụng
các dịch vụ trực tuyến như xem phim, chơi game, làm việc từ xa một cách
nhanh chóng, liên tục mà không bị gián đoạn.
Tỷ lệ người dùng Internet
- Theo thống kê của Statista, có khoảng 91,08% người dân Nhật Bản sử dụng
internet, đây là con số rất cao so với nhiều nước khác trên thế giới. Việc sử
dụng internet tại Nhật Bản được xem là phổ biến, đặc biệt trong các thành phố
lớn và các khu dân cư đông đúc. Người Nhật Bản được biết đến là những người
tiên tiến trong lĩnh vực công nghệ, điều này giúp họ có cái nhìn tích cực về việc
sử dụng internet và các dịch vụ công nghệ kỹ thuật số.
=> Tạo điều kiện thuận lợi cho Netflix thâm nhập vào thị trường Nhật Bản, giúp cho
người tiêu dùng dễ dàng tiếp cận và sử dụng dịch vụ của Netflix hơn.
- Tuy nhiên, việc sử dụng công nghệ phải tuân thủ các quy định và điều kiện của
chính phủ Nhật Bản vì chính phủ Nhật Bản có các quy định nghiêm ngặt về
việc sử dụng công nghệ và các hoạt động kinh doanh liên quan đến công nghệ,
Netflix cần phải tìm hiểu kỹ càng những điều này để tránh gặp những trường hợp không đáng có.
2.5. Môi trường pháp luật (L) - tỉ lệ bảo vệ sở hữu trí tuệ ( nếu mình kdoanh ở nước
này thì nhận diện thương hiệu của mình có dễ dàng bị đánh cắp không, mức độ PL
bve quyền shtt đến đâu, bve tài sản vô hình-trí tuệ của mình đến đâu, lquan tới nhãn
hiệu, bản quyền, thương hiệu,.... => tỉ lệ tự tin về đầu tư
Nhật Bản có hệ thống pháp lý tốt, có chỉ số bảo vệ tài sản trí tuệ khá cao
Dựa vào biểu đồ và bảng trên cho thấy, chỉ số về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ở Nhật
Bản khá cao cụ thể là đạt 7.8 điểm vào năm 2014 xếp thứ 5 khu vực và Châu Á và
Châu ĐB, và đạt 7,977 năm 2015, tăng 3 bậc ở cả khu vực và thế giới.
=> Điều này có lợi cho Netflix, giúp Netflix chống lại được sự sao chép và vi phạm
bản quyền, bảo vệ sự sáng tạo vì Netflix thường xây dựng kho nội dung gốc chất
lượng cao và độc đáo.
- Bên cạnh đó cũng có một số điểm pháp lý quan trọng mà Netflix cần phải tuân thủ
bao gồm: Bản quyền và quyền tác giả, quảng cáo, quy định về trẻ em, quy định về bảo
vệ thông tin cá nhân của khách hàng, quy định về giá cả và quy định về chứng nhận và
phép đăng ký kinh doanh tại Nhật Bản,...
+ Bản quyền và quyền tác giả (Bộ Luật Bản quyền NB): Các nội dung trên
Netflix phải được giấy phép sử dụng từ các chủ sở hữu bản quyền, đặc biệt là
các chương trình phim và truyền hình. Netflix cũng phải đảm bảo rằng nội
dung của họ không vi phạm bất kỳ quyền tác giả nào.
+ Quảng cáo (Bộ Luật Quảng cáo Nhật Bản (Advertising Act): các quảng cáo và
của Netflix phải đáp ứng các yêu cầu về tính trung thực và công bằng, có đạo đức.
+ Quy định về trẻ em: Netflix phải tuân thủ quy định về trẻ em tại Nhật Bản.
Theo đó, các chương trình và nội dung của Netflix phải tuân thủ các quy định
về độ tuổi cho phép xem, tránh các nội dung có tính chất bạo lực hoặc khiêu
dâm không phù hợp với trẻ em.
+ Ngoài ra, Netflix cũng phải tuân thủ các quy định về bảo vệ thông tin cá nhân
của khách hàng, quy định về giá cả và quy định về chứng nhận và phép đăng
ký kinh doanh tại Nhật Bản. Các quy định này có thể ảnh hưởng đến hoạt động
kinh doanh của Netflix tại Nhật Bản, do đó, Netflix phải tuân thủ các quy định
pháp luật này để đảm bảo hoạt động kinh doanh của mình là hợp pháp và bền vững. 2.6. Môi trường (E)
Nhật Bản là một quốc gia nằm trong Vành đai Thái Bình Dương, nơi thường
xuyên xảy ra các thảm họa tự nhiên như động đất, sóng thần, bão, lũ lụt, và băng
tuyết. Những thảm họa này có thể gây ra sự gián đoạn hoạt động của Netflix tại Nhật
Bản bởi việc mất điện, gián đoạn hệ thống mạng và Internet, làm cho khách hàng
không thể sử dụng dịch vụ trực tuyến của Netflix gây ảnh hưởng xấu đến trải nghiệm của người tiêu dùng.
Do đó, Netflix cần phải đưa ra các biện pháp đối phó với các thảm họa tự nhiên và
sự thay đổi khí hậu tại Nhật Bản. Ví dụ, Netflix có thể xây dựng các trung tâm dữ liệu
dự phòng tại các khu vực an toàn để đảm bảo sự liên tục của dịch vụ trực tuyến của
mình trong trường hợp có thảm họa. 3. Phân tích Entry Mode 3.2 Cách thức thâm nhập
Phương thức mà Netflix đã sử dụng để thâm nhập vào thị trường Nhật Bản, là:
● Liên minh chiến lược: Netflix đã hợp tác với các công ty địa phương như
SoftBank, Bic Camera, Fuji Media Holdings, Yoshimoto Kogyo để phát triển
nội dung và tiếp cận khách hàng.
● Tại vì sao lại lựa chọn phương thức liên minh chiến lược?
Nhật Bản là thị trường đầu tiên mà Netflix thâm nhập trong khu vực Châu Á.
Là một thị trường hoàn toàn mới, do đó Netflix phải đối diện với hàng hoạt thách thức như:
- Netflix phải đối mặt với những khác biệt về văn hóa khi gia nhập vào một thị
trường mới, thách thức ngôn ngữ khi cung cấp dịch vụ ở Nhật Bản. Chính vì
thế, Netflix phải chịu Áp lực thích nghi địa phương cao, Khi gia nhập vào
Nhật Bản cũng đồng nghĩa doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh gay
gắt từ các công ty địa phương đã có sẵn trên thị trường và đang hoạt động trong
lĩnh vực này . Trong khi đó thương hiệu Netflix vẫn chưa được nhiều người
Nhật biết đến. Để cạnh tranh với rất nhiều đối thủ và đáp ứng nhu cầu của
khách hàng Nhật Bản, Netflix cần phải tập trung vào chiến lược bản địa hoá nội
dung khi tung ra sản phẩm trong khu vực này. Bản địa hoá nội dung, nội dung
khác biệt là những yếu tố cần thiết để Netflix tiếp cận nhiều người dùng hơn tại
khu vực châu Á. Tuy nhiên, Netflix Không bị áp lực chi phí thấp vì người
Nhật chuộng các sản phẩm chất lượng, giá cao. Bên cạnh đó, sức mua của
người Nhật Bản khá cao, họ sẵn sàng trả mức giá đắt để sở hữu những sản
phẩm có chất lượng tốt. Nên trọng tâm ban đầu của công ty là trở nên được
công nhận về giải trí chất lượng cao, một thương hiệu đáng tin cậy và càng
nhiều khách hàng càng tốt.
=> Để giải quyết vấn đề này, Netflix đã sử dụng phương thức liên minh chiến
lược để có thể nhận được sự hỗ trợ, hợp tác từ các công ty địa phương. Đây có
thể là phương thức phù hợp nhất để thâm nhập vào thị trường mới này. Từ đó,
tiếp cận được người tiêu dùng nhanh hơn, giải quyết được các vấn đề vừa nêu trên.
● Netflix đã thực hiện liên minh chiến lược như thế nào?
Netflix đã thực hiện một bước đi thông minh hơn để hòa nhập nhanh hơn. Công
ty đã thực hiện một thỏa thuận với SoftBank, một công ty cung cấp dịch vụ di
động và công nghệ hàng đầu của Nhật Bản. Bằng sự liên kết này, Softbank
đồng ý bán các gói đăng ký Netflix thông qua các cửa hàng của Softbank cũng
như trang web của Softbank, Netflix trở thành một phần trong dịch vụ, khách
hàng sẽ cởi mở hơn khi dùng thử vì dịch vụ này được cung cấp thông qua
Softbank. Softbank sẽ cài đặt sẵn ứng dụng của Netflix trên điện thoại mới.
Điều đó khiến Netflix trở thành một phần của đội chủ nhà về dịch vụ.
Hai seri gốc do Fuji Television Network sản xuất sẽ được chiếu độc quyền trên
Netflix, bao gồm phiên bản mới của Terrace House, một chương trình thực tế
nổi tiếng về những người trẻ Nhật Bản ở chung một nhà lần đầu tiên được phát sóng bởi Fuji TV.
Netflix đã liên kết với Bic Camera, một nhà bán lẻ đồ điện tử lớn của Nhật
Bản, đã thiết lập TV liên kết với Netflix tại một số cửa hàng của mình và bán thẻ Netflix trả trước.
Netflix cũng đã ký hợp đồng với tập đoàn giải trí Nhật Bản Yoshimoto Kogyo
để sản xuất một bộ phim truyền hình dựa trên Hibana (tiếng Nhật có nghĩa là
tia lửa), một cuốn tiểu thuyết của diễn viên hài nổi tiếng Nhật Bản Naoki
Matayoshi gần đây đã giành được giải thưởng Akutagawa danh giá.
Ngoài ra, Netflix cũng đã đầu tư vào việc bản địa hóa nội dung và nỗ lực tiếp
thị để điều chỉnh các sản phẩm của mình cho phù hợp với khán giả Nhật Bản.
Ví dụ: Netflix đã thêm phụ đề và lồng tiếng Nhật vào thư viện nội dung quốc tế
của mình, đồng thời thuê các diễn viên Nhật Bản để quảng bá nền tảng của mình.
- Người đứng đầu Netflix Nhật Bản, nói rằng khoảng một nửa nội dung
của dịch vụ phát trực tuyến sẽ là chương trình của Nhật Bản.
- Khi Netflix ra mắt tại Nhật Bản vào cuối năm 2015, động thái đầu tiên
của họ để giành được người đăng ký địa phương là mua và tài trợ cho
càng nhiều nội dung anime được yêu thích càng tốt.
- Ngoài việc đảm bảo nội dung địa phương, Netflix đã đầu tư hợp tác để
tạo nội dung gốc dành riêng cho thị trường Nhật Bản.
Một số ưu điểm của phương thức thâm nhập thị trường Nhật Bản của Netflix có thể kể đến như sau:
● Netflix đã hợp tác với SoftBank, một đối tác địa phương uy tín và có khả năng
phân phối rộng rãi dịch vụ của Netflix thông qua các cửa hàng bán lẻ và các
thiết bị di động của SoftBank, có mạng lưới 37 triệu khách hàng vào thời điểm
đó. Điều này giúp Netflix tiếp cận được nhiều khách hàng tiềm năng ở Nhật
Bản mà không cần phải đầu tư nhiều vào việc xây dựng hệ thống phân phối
riêng. Giúp Netflix giảm chi phí tiếp thị và tăng khả năng tiếp cận khách hàng.
● Netflix đã đầu tư vào việc sản xuất và mua bản quyền các nội dung địa phương
như anime và phim truyền hình để thu hút khách hàng Nhật Bản. hợp tác với
các nhà sản xuất, đạo diễn và diễn viên nổi tiếng của Nhật Bản để tạo ra các
chương trình độc quyền cho thị trường này. Điều này giúp Netflix tạo ra sự
khác biệt và cạnh tranh với các đối thủ khác cũng cung cấp dịch vụ xem phim
trực tuyến ở Nhật Bản, đồng thời tận dụng được tiềm năng xuất khẩu các nội
dung này sang các thị trường khác.
● Hợp tác với các công ty địa phương, áp lực khác biệt văn hóa của doanh nghiệp
Netflix giảm đi vì có sự hỗ trợ tiếp thị và quảng bá dịch vụ từ các công ty công
nghệ nổi tiếng tại Nhật Bản. Từ đó, hiểu được người tiêu dùng nhanh hơn và
triển khai các chiến lược tiếp thị phù hợp với văn hóa Nhật Bản. Nhược điểm
Một số nhược điểm của phương thức liên minh chiến lược của Netflix khi thâm nhập
vào thị trường Nhật Bản có thể kể đến như sau:
● Không kiểm soát được hoàn toàn các yếu tố marketing và bán hàng, phụ thuộc
vào khả năng và uy tín của các đối tác.
● Có thể xảy ra xung đột lợi ích hoặc mâu thuẫn văn hoá giữa các bên liên minh,
ảnh hưởng đến sự hài hòa và hiệu quả của liên minh.
● Có thể bị rò rỉ thông tin hoặc bị sao chép nội dung bởi các đối tác hoặc đối thủ cạnh tranh.
● Có thể gặp khó khăn trong việc điều chỉnh chiến lược hoặc thoát khỏi liên minh
khi có sự thay đổi trong môi trường kinh doanh hoặc nhu cầu của khách hàng.
4. Which ( if any) Porter generic strategies did company follow in that market?
Ở thị trường Nhật Bản, Netflix chủ yếu sử dụng chiến lược cạnh tranh khác biệt hóa ở
thị trường này, chiến lược tạo lợi thế cạnh tranh bằng cách tạo ra sản phẩm hàng hóa
dịch vụ có sự khác biệt rõ so với đối thủ cạnh tranh. Netflix sử dụng chiến lược này ở
thị trường Nhật Bản bởi vì các lí do sau:
● Đặc thù văn hóa: Nhật Bản là một quốc gia có văn hóa đa dạng và độc đáo.
Khách hàng tại Nhật Bản có nhu cầu tìm kiếm các sản phẩm giải trí phù hợp
với văn hóa và sở thích của họ. Chiến lược khác biệt hóa (product
differentiation strategy) của Netflix Nhật Bản tập trung vào việc sản xuất các
chương trình phim và chương trình truyền hình độc quyền dành riêng cho thị
trường Nhật Bản, cũng như mua lại các bản quyền của các chương trình phổ
biến trong địa phương. Chiến lược này giúp Netflix tạo ra sự khác biệt đáng kể
với các đối thủ cạnh tranh trong thị trường Nhật Bản, tăng độ thu hút của nội
dung, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh của mình.
● Cạnh tranh với các đối thủ địa phương: Tại Nhật Bản, Netflix phải đối mặt
với sự cạnh tranh từ nhiều đối thủ địa phương như Hulu, Amazon Prime Video
và Niconico. Để đối phó với sự cạnh tranh này, Netflix tập trung vào chiến
lược khác biệt hóa. Netflix đã tạo ra các nội dung độc quyền và chất lượng cao
như các bộ phim, chương trình truyền hình và anime để thu hút khách hàng.
Ngoài ra, Netflix cũng tập trung vào chiến lược phân phối bằng cách đưa ra các
chương trình phù hợp với ngôn ngữ và văn hóa địa phương. Những điều này
giúp Netflix tạo ra lợi thế cạnh tranh về sản phẩm và thương hiệu của mình, thu
hút khách hàng đến với dịch vụ của mình. Một số chương trình trên Netflix của
Nhật Bản khác biệt so với các đối thủ cạnh tranh còn lại bao gồm:Terrace
House, Atelier, Midnight Diner, Rilakkuma và Kaoru,....