Phân tích Thương vợ - Văn học dân gian | Trường Đại học Hùng Vương

Phân tích Thương vợ - Văn học dân gian | Trường Đại học Hùng Vương được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Phân tích Th ng v - Tú X ngươ ươ
Hình ảnh người phụ nữ luôn là đề tài muôn thuở trong nền thi ca Việt Nam.
Tuy nhiên, thơ văn viết về người vợ bằng tình cảm của người chồng đã ít, nay lại
viết “tế sống” người vợ còn hiếm hoi hơn. Và Trần Tế Xương là người đàn ông đã
đưa hình ảnh người vợ của mình vào những dòng thơ trữ tình nhưng cũng không
kém phần trào phúng. Trần Tế Xương hay còn gọi là Tú Xương là người thông minh
ham học có tài làm thơ nhưng lại lận đận trong thi cử, từng được mệnh danh là nhà
thơ trào phúng xuất sắc nhất của văn học Việt Nam cuối thể kỷ XIX. Những tác
phẩm ông để lại chủ yếu là thơ Nôm và có nhiều bài rất đặc sắc, có thể nói là tuyệt
mỹ cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Minh chứng rõ nhất là bài thơ Thương vợ. Tú
Xương đã bộc lộ tình yêu thương, sự trân trọng và cả nỗi ăn năn trước sự hi sinh
của vợ trong bài thơ này.
Thương vợ nằm trong những sáng tác của Tú Xương về bà Tú cũng là một
trong những bài thơ hay, cảm động nhất của ông về vợ mình. Bài thơ được viết
bằng chữ Nôm với những ngôn từ bình dị và hình ảnh đẹp đẽ. Nó không chỉ đề cập
đến nhiều khía cạnh trong xã hội mà còn là tiếng lòng tha thiết đầy xót xa của Tú
Xương – nạn nhân của xã hội bấy giờ, đã biến con người trở nên vô tích sự với
chính bản thân và gia đình. Đồng thời bài thơ cũng giúp người đọc thấy được đức hi
sinh to lớn của người phụ nữ xưa đối với gia đình.
Mở đầu tác phẩm Tú Xương giới thiệu về hoàn cảnh và công việc mưu sinh của bà
Tú:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.”
Mạch cảm xúc của thi phẩm dần được mở ra với bức tranh toàn cảnh về nỗi k
nhọc lo toan của bà Tú với hoàn cảnh lam lũ vất vả qua cách nêu thời gian, địa
điểm. Tác giả sử dụng từ “quanh năm” – cụm từ chỉ một khoảng thời gian rất dài, lặp
đi lặp lại như một vòng tuần hoàn khép kín của tự nhiên, để diễn tả được nỗi vất vả
triền miên của bà Tú trải hết ngày này qua tháng khác, mặc kệ nắng mưa. Chỉ có thế
cũng đã đủ để lại trong lòng độc giả một hình ảnh tần tảo, đầu tắt mặt tối của bà Tú.
Thế nhưng chưa dừng lại ở đó, cách cân đo đong đếm thời gian như thế còn góp
phần làm bật lên cái không gian buôn bán của bà thông qua hình ảnh “mom sông”.
Địa thế “mom sông” đầy trắc trở hiểm nguy khôn lường lại là chỗ làm ăn buôn bán
hàng ngày của người phụ nữ. Thời gian dài đằng đặng kết hợp với địa điểm trắc trở
càng tôn lên hình ảnh bà Tú tảo tần, hết lòng hết sức vì miếng cơm manh áo cho cả
gia đình. Với giọng thơ hỏm hỉnh cùng tài năng trong nghệ thuật thơ trào phúng,
Xương đã làm nên một câu thơ thứ hai như lời lên án gay gắt xã hội phong kiến đã
biến những người đàn ông vốn là trụ cột trong gia đình thành kẻ vô tích sự, sống
dựa dẫm và cả đời “ăn lương vợ”.
Đôi vai của bà Tú đã nặng nay lại càng nhân lên những nỗi gian truân khi phải “bất
đắc dĩ” trở thành trụ cột trong gia đình. Từ “đủ” vừa biểu thị chất lượng vừa biểu thị số
lượng. Bên cạnh đó cách đặt hai từ số đếm “năm” và “một” tưởng chừng khập khiễng
nhưng lại hóa độc đáo và mới lạ. Tú Xương tự chế giễu mình khi so sánh bản thân với năm
người con. Ông tự cho mình là “đứa con đặc biệt”, ngầm nâng cao vị thế của người vợ lên
một thứ bậc thiêng liêng. Hơn thế nữa, cấu trúc năm-một cùng từ “với” chất chứa bao nỗi hổ
thẹn của người chồng phải sống dựa vào vợ. Hai câu mở đầu đã thể hiện được tất cả
những đức tính cao đẹp của bà Tú: chịu thương, chịu khó để nuôi đủ gia đình. Qua đó
Xương cũng khéo léo thể hiện sự biết ơn của mình, đồng thời còn là sự hổ thẹn khi phải đặt
mình tương đồng với những đứa con thơ. Thật xót xa, ngậm ngùi biết bao!
Thấu hiểu được những nỗi lo toan, vất vả của người vợ, Tú Xương liên tưởng đến
hình ảnh con cò trong ca dao:
“Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”
để cực tả nỗi khổ tâm của bà Tú trong hai câu thực:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”
Tú Xương sử dụng từ “thân cò” vừa thể hiện cái tính riêng, sự sáng tạo mang tính
thời đại trong phong cách thơ của mình, vừa đồng nhất thân phận của bà Tú nói riêng và
hình ảnh của người phụ nữ nói chung với hình ảnh mỏng manh của “cái cò”. Tiếp đó chữ
“thân” tuy đơn giản nhưng nghe thật cay đắng, nó gợi cho người đọc về một thứ gì đó nhỏ
bé tội nghiệp đến vô cùng. “khi quãng vắng” là một cụm từ rất đặc biệt, nó không chỉ gợi lên
cái không gian rợn ngợp, cảm giác đầy nguy hiểm rình rập nơi mom sông heo hút mà còn
diễn tả nỗi khắc khoải của thời gian. Cùng với nghệ thuật đảo ngữ, từ láy “lặn lội” đã nhấn
mạnh hình ảnh vất vả mưu sinh đến xót xa, gầy guộc của người phụ nữ. Nếu câu thơ thứ
ba gợi lên nỗi cực nhọc đơn chiếc thì câu thứ tư lại là sự vật lộn với cuộc sống bán mua
đông đúc. Một lần nữa Tú Xương lại dùng biện pháp đảo ngữ với từ láy tượng thanh “eo
sèo” gợi sự tấp nập ồn ã để nhấn mạnh cảnh tượng thường tình nơi chợ búa gắn liền với
người phụ nữ có “năm con với một chồng”. Hình ảnh “buổi đò đông” cũng góp phần làm bật
lên một bà Tú cần mẫn, tất bật. Buổi đò đông cùng với “khi quãng vắng” đã tạo nên sự nguy
hiểm, gian lao gấp nhiều lần. Ông cha ta có câu “ sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua” nhưng
vì cuộc sống, vì cơm áo gạo tiền cho chồng con mà bà Tú đã phải dấn thân vào chốn hiểm
nguy đó. Hai câu thực dù đối nhau về từ ngữ “buổi đò đông”- “khi quãng vắng” nhưng lại
tiếp nhau về ý làm nổi lên sự lam lũ gian truân của người phụ nữ nhỏ bé này.
Đến với hai câu thơ tiếp theo, Tú Xương như nhập vai vào chủ thể trữ tình nhằm mượn lời
vợ để ngầm ca ngợi những hi sinh âm thầm mà bà dành cho chồng con:
“Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản công.”
Theo quan niệm phong kiến xưa, “duyên” và “nợ” là hai định nghĩa hết sức thiêng
liêng về mối quan hệ vợ chồng do ông trời định sẵn, xuất phát từ sợi chỉ hồng của
ông tơ bà nguyệt. Thế nhưng khi đưa vào lời thơ Tú Xương, hai thứ đó trở nên nặng
nề như một lời than thở khi duyên chỉ có một mà nợ lại tới hai. Bên cạnh đó việc sử
dụng hai thành ngữ song song với nhau “một duyên hai nợ” – “năm nắng mười
mưa” vừa đối nhau về từ, vừa đối nhau về ý đã khiến cho câu thơ trầm lắng trước
nỗi khổ tâm của bà Tú. Không những thế sự đối lập này còn thể hiện rất rõ tài năng
văn chương điêu luyện của thi sĩ. Đức hi sinh cao cả của bà Tú còn được nhắc đến
qua hai cụm từ “âu đành phận” và “dám quản công”. Nguyên nhân dẫn đến sự lam
lũ hi sinh âm thầm đầy cam chịu của bà tuy giản đơn mà cao quý. Đó là vì mối nhân
duyên với người chồng và đàn con thơ. Từ việc pha trộn lời thơ đan xen với những
thành ngữ và biện pháp đảo ngữ cực kì tinh tế, nhà thơ Tú Xương đã khắc họa
thành công tấm chân tình của người vợ với đầy đủ đức hi sinh, tần tảo như một
người phụ nữ Việt Nam truyền thống.
Vì thương vợ, thương cho thân phận đời nữ nhi mà lại sắm vai trụ cột trong gia đình,
Tú Xương đã tự trách bản thân mình. Hai câu thơ cuối cũng vì thế giống như tiếng chửi vừa
cay đắng vừa phẫn nộ cho những định kiến khắt khe:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không!”
Mạch cảm xúc của thi phẩm dường như có sự chuyển biến đột ngột. Tú Xương
không còn ẩn mình sau những dòng thơ để tán dương vợ mà đã xuất hiện để nói thay, để
trách ông chồng, để trách phận mình của bà Tú. “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc” là một cách nói
rất phù hợp với phong cách thơ trào phúng đó là sự giận đời vì cái xã hội thối nát lúc bấy
giờ. Thêm vào đó ít ai biết được rằng đằng sau tiếng chửi đời đầy dứt khoát ấy lại là một bi
kịch của con người chất chứa bao nỗi đau xót. Tú Xương chửi cái “thói đời” nhưng cũng là
sự chửi mình, tự chửi một đống nam nhi đang trên đường công danh mà không giúp được
vợ lại thành kẻ ăn bám. Tú Xương coi mình là một người “hờ hững” trong trách nhiệm của
một kẻ làm cha, làm chồng. Thế nhưng nếu nhìn nhận lại sự việc thì Tú Xương quả là đáng
thương hơn đáng trách. Bởi, suy cho cùng chính xã hội kia đã đẩy ông vào đường cùng. Hai
câu thơ khép lại tác phẩm là lời tự rủa mình, rủa đời của Tú Xương nhưng lại mang đậm ý
nghĩa lên án xã hội sâu sắc, góp phần khẳng định tình cảm của ông với vợ mình. Người ấy
tuy “ăn lương vợ” nhưng rất chu đáo luôn dõi theo bà, đặc biệt luôn tỏ lòng biết ơn của mình
đối với người phụ nữ ông yêu thương. Thi phẩm kết thúc thật bất ngờ vừa thấm đượm
được cái bi, cái bất hạnh trong nỗi niềm riêng của tác giả, vừa dí dỏm hài hước.
Tấm lòng thương vợ của Tú Xương đối với cả thời quá khứ và hiện tại vẫn là tấm
gương sáng cho bao người. Bài thơ giữ nguyên giá trị cùng với ý nghĩa nhân văn sâu sắc
về sự yêu thương, trân trọng và thấu hiểu những nỗi đau, sự hi sinh của người phụ nữ cho
gia đình. Đồng thời đó cũng là tiếng nói phê phán sự bất công của xã hội phong kiến thối
nát, mục ruỗng.
Như vậy, bài thơ Thương vợ là một thi phẩm mang đậm tính nhân văn sâu
sắc. Với chất thơ bình dị mà trữ tình mang chút trào phúng, Tú Xương đã thành
công trong việc khắc họa một bức chân dung về người phụ nữ Việt Nam lúc bấy giờ,
vừa mộc mạc chất phác, vừa cứng rắn mạnh mẽ. Vì vậy quả thật Tú Xương chính là
thi nhân viết thơ về vợ hay và cảm động nhất. Ông đã để lại cho đời những áng văn
chân thành xúc động và đầy giá trị.
| 1/3

Preview text:

Phân tích Th ng v ươ - T ú X ng ươ
Hình ảnh người phụ nữ luôn là đề tài muôn thuở trong nền thi ca Việt Nam.
Tuy nhiên, thơ văn viết về người vợ bằng tình cảm của người chồng đã ít, nay lại
viết “tế sống” người vợ còn hiếm hoi hơn. Và Trần Tế Xương là người đàn ông đã
đưa hình ảnh người vợ của mình vào những dòng thơ trữ tình nhưng cũng không
kém phần trào phúng. Trần Tế Xương hay còn gọi là Tú Xương là người thông minh
ham học có tài làm thơ nhưng lại lận đận trong thi cử, từng được mệnh danh là nhà
thơ trào phúng xuất sắc nhất của văn học Việt Nam cuối thể kỷ XIX. Những tác
phẩm ông để lại chủ yếu là thơ Nôm và có nhiều bài rất đặc sắc, có thể nói là tuyệt
mỹ cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Minh chứng rõ nhất là bài thơ Thương vợ. Tú
Xương đã bộc lộ tình yêu thương, sự trân trọng và cả nỗi ăn năn trước sự hi sinh
của vợ trong bài thơ này.
Thương vợ nằm trong những sáng tác của Tú Xương về bà Tú cũng là một
trong những bài thơ hay, cảm động nhất của ông về vợ mình. Bài thơ được viết
bằng chữ Nôm với những ngôn từ bình dị và hình ảnh đẹp đẽ. Nó không chỉ đề cập
đến nhiều khía cạnh trong xã hội mà còn là tiếng lòng tha thiết đầy xót xa của Tú
Xương – nạn nhân của xã hội bấy giờ, đã biến con người trở nên vô tích sự với
chính bản thân và gia đình. Đồng thời bài thơ cũng giúp người đọc thấy được đức hi
sinh to lớn của người phụ nữ xưa đối với gia đình.
Mở đầu tác phẩm Tú Xương giới thiệu về hoàn cảnh và công việc mưu sinh của bà Tú:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.”
Mạch cảm xúc của thi phẩm dần được mở ra với bức tranh toàn cảnh về nỗi khó
nhọc lo toan của bà Tú với hoàn cảnh lam lũ vất vả qua cách nêu thời gian, địa
điểm. Tác giả sử dụng từ “quanh năm” – cụm từ chỉ một khoảng thời gian rất dài, lặp
đi lặp lại như một vòng tuần hoàn khép kín của tự nhiên, để diễn tả được nỗi vất vả
triền miên của bà Tú trải hết ngày này qua tháng khác, mặc kệ nắng mưa. Chỉ có thế
cũng đã đủ để lại trong lòng độc giả một hình ảnh tần tảo, đầu tắt mặt tối của bà Tú.
Thế nhưng chưa dừng lại ở đó, cách cân đo đong đếm thời gian như thế còn góp
phần làm bật lên cái không gian buôn bán của bà thông qua hình ảnh “mom sông”.
Địa thế “mom sông” đầy trắc trở hiểm nguy khôn lường lại là chỗ làm ăn buôn bán
hàng ngày của người phụ nữ. Thời gian dài đằng đặng kết hợp với địa điểm trắc trở
càng tôn lên hình ảnh bà Tú tảo tần, hết lòng hết sức vì miếng cơm manh áo cho cả
gia đình. Với giọng thơ hỏm hỉnh cùng tài năng trong nghệ thuật thơ trào phúng, Tú
Xương đã làm nên một câu thơ thứ hai như lời lên án gay gắt xã hội phong kiến đã
biến những người đàn ông vốn là trụ cột trong gia đình thành kẻ vô tích sự, sống
dựa dẫm và cả đời “ăn lương vợ”.
Đôi vai của bà Tú đã nặng nay lại càng nhân lên những nỗi gian truân khi phải “bất
đắc dĩ” trở thành trụ cột trong gia đình. Từ “đủ” vừa biểu thị chất lượng vừa biểu thị số
lượng. Bên cạnh đó cách đặt hai từ số đếm “năm” và “một” tưởng chừng khập khiễng
nhưng lại hóa độc đáo và mới lạ. Tú Xương tự chế giễu mình khi so sánh bản thân với năm
người con. Ông tự cho mình là “đứa con đặc biệt”, ngầm nâng cao vị thế của người vợ lên
một thứ bậc thiêng liêng. Hơn thế nữa, cấu trúc năm-một cùng từ “với” chất chứa bao nỗi hổ
thẹn của người chồng phải sống dựa vào vợ. Hai câu mở đầu đã thể hiện được tất cả
những đức tính cao đẹp của bà Tú: chịu thương, chịu khó để nuôi đủ gia đình. Qua đó Tú
Xương cũng khéo léo thể hiện sự biết ơn của mình, đồng thời còn là sự hổ thẹn khi phải đặt
mình tương đồng với những đứa con thơ. Thật xót xa, ngậm ngùi biết bao!
Thấu hiểu được những nỗi lo toan, vất vả của người vợ, Tú Xương liên tưởng đến
hình ảnh con cò trong ca dao:
“Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”
để cực tả nỗi khổ tâm của bà Tú trong hai câu thực:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”
Tú Xương sử dụng từ “thân cò” vừa thể hiện cái tính riêng, sự sáng tạo mang tính
thời đại trong phong cách thơ của mình, vừa đồng nhất thân phận của bà Tú nói riêng và
hình ảnh của người phụ nữ nói chung với hình ảnh mỏng manh của “cái cò”. Tiếp đó chữ
“thân” tuy đơn giản nhưng nghe thật cay đắng, nó gợi cho người đọc về một thứ gì đó nhỏ
bé tội nghiệp đến vô cùng. “khi quãng vắng” là một cụm từ rất đặc biệt, nó không chỉ gợi lên
cái không gian rợn ngợp, cảm giác đầy nguy hiểm rình rập nơi mom sông heo hút mà còn
diễn tả nỗi khắc khoải của thời gian. Cùng với nghệ thuật đảo ngữ, từ láy “lặn lội” đã nhấn
mạnh hình ảnh vất vả mưu sinh đến xót xa, gầy guộc của người phụ nữ. Nếu câu thơ thứ
ba gợi lên nỗi cực nhọc đơn chiếc thì câu thứ tư lại là sự vật lộn với cuộc sống bán mua
đông đúc. Một lần nữa Tú Xương lại dùng biện pháp đảo ngữ với từ láy tượng thanh “eo
sèo” gợi sự tấp nập ồn ã để nhấn mạnh cảnh tượng thường tình nơi chợ búa gắn liền với
người phụ nữ có “năm con với một chồng”. Hình ảnh “buổi đò đông” cũng góp phần làm bật
lên một bà Tú cần mẫn, tất bật. Buổi đò đông cùng với “khi quãng vắng” đã tạo nên sự nguy
hiểm, gian lao gấp nhiều lần. Ông cha ta có câu “ sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua” nhưng
vì cuộc sống, vì cơm áo gạo tiền cho chồng con mà bà Tú đã phải dấn thân vào chốn hiểm
nguy đó. Hai câu thực dù đối nhau về từ ngữ “buổi đò đông”- “khi quãng vắng” nhưng lại
tiếp nhau về ý làm nổi lên sự lam lũ gian truân của người phụ nữ nhỏ bé này.
Đến với hai câu thơ tiếp theo, Tú Xương như nhập vai vào chủ thể trữ tình nhằm mượn lời
vợ để ngầm ca ngợi những hi sinh âm thầm mà bà dành cho chồng con:
“Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản công.”
Theo quan niệm phong kiến xưa, “duyên” và “nợ” là hai định nghĩa hết sức thiêng
liêng về mối quan hệ vợ chồng do ông trời định sẵn, xuất phát từ sợi chỉ hồng của
ông tơ bà nguyệt. Thế nhưng khi đưa vào lời thơ Tú Xương, hai thứ đó trở nên nặng
nề như một lời than thở khi duyên chỉ có một mà nợ lại tới hai. Bên cạnh đó việc sử
dụng hai thành ngữ song song với nhau “một duyên hai nợ” – “năm nắng mười
mưa” vừa đối nhau về từ, vừa đối nhau về ý đã khiến cho câu thơ trầm lắng trước
nỗi khổ tâm của bà Tú. Không những thế sự đối lập này còn thể hiện rất rõ tài năng
văn chương điêu luyện của thi sĩ. Đức hi sinh cao cả của bà Tú còn được nhắc đến
qua hai cụm từ “âu đành phận” và “dám quản công”. Nguyên nhân dẫn đến sự lam
lũ hi sinh âm thầm đầy cam chịu của bà tuy giản đơn mà cao quý. Đó là vì mối nhân
duyên với người chồng và đàn con thơ. Từ việc pha trộn lời thơ đan xen với những
thành ngữ và biện pháp đảo ngữ cực kì tinh tế, nhà thơ Tú Xương đã khắc họa
thành công tấm chân tình của người vợ với đầy đủ đức hi sinh, tần tảo như một
người phụ nữ Việt Nam truyền thống.
Vì thương vợ, thương cho thân phận đời nữ nhi mà lại sắm vai trụ cột trong gia đình,
Tú Xương đã tự trách bản thân mình. Hai câu thơ cuối cũng vì thế giống như tiếng chửi vừa
cay đắng vừa phẫn nộ cho những định kiến khắt khe:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không!”
Mạch cảm xúc của thi phẩm dường như có sự chuyển biến đột ngột. Tú Xương
không còn ẩn mình sau những dòng thơ để tán dương vợ mà đã xuất hiện để nói thay, để
trách ông chồng, để trách phận mình của bà Tú. “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc” là một cách nói
rất phù hợp với phong cách thơ trào phúng đó là sự giận đời vì cái xã hội thối nát lúc bấy
giờ. Thêm vào đó ít ai biết được rằng đằng sau tiếng chửi đời đầy dứt khoát ấy lại là một bi
kịch của con người chất chứa bao nỗi đau xót. Tú Xương chửi cái “thói đời” nhưng cũng là
sự chửi mình, tự chửi một đống nam nhi đang trên đường công danh mà không giúp được
vợ lại thành kẻ ăn bám. Tú Xương coi mình là một người “hờ hững” trong trách nhiệm của
một kẻ làm cha, làm chồng. Thế nhưng nếu nhìn nhận lại sự việc thì Tú Xương quả là đáng
thương hơn đáng trách. Bởi, suy cho cùng chính xã hội kia đã đẩy ông vào đường cùng. Hai
câu thơ khép lại tác phẩm là lời tự rủa mình, rủa đời của Tú Xương nhưng lại mang đậm ý
nghĩa lên án xã hội sâu sắc, góp phần khẳng định tình cảm của ông với vợ mình. Người ấy
tuy “ăn lương vợ” nhưng rất chu đáo luôn dõi theo bà, đặc biệt luôn tỏ lòng biết ơn của mình
đối với người phụ nữ ông yêu thương. Thi phẩm kết thúc thật bất ngờ vừa thấm đượm
được cái bi, cái bất hạnh trong nỗi niềm riêng của tác giả, vừa dí dỏm hài hước.
Tấm lòng thương vợ của Tú Xương đối với cả thời quá khứ và hiện tại vẫn là tấm
gương sáng cho bao người. Bài thơ giữ nguyên giá trị cùng với ý nghĩa nhân văn sâu sắc
về sự yêu thương, trân trọng và thấu hiểu những nỗi đau, sự hi sinh của người phụ nữ cho
gia đình. Đồng thời đó cũng là tiếng nói phê phán sự bất công của xã hội phong kiến thối nát, mục ruỗng.
Như vậy, bài thơ Thương vợ là một thi phẩm mang đậm tính nhân văn sâu
sắc. Với chất thơ bình dị mà trữ tình mang chút trào phúng, Tú Xương đã thành
công trong việc khắc họa một bức chân dung về người phụ nữ Việt Nam lúc bấy giờ,
vừa mộc mạc chất phác, vừa cứng rắn mạnh mẽ. Vì vậy quả thật Tú Xương chính là
thi nhân viết thơ về vợ hay và cảm động nhất. Ông đã để lại cho đời những áng văn
chân thành xúc động và đầy giá trị.