lOMoARcPSD| 59780317
See discussions, stats, and author proles for this publicaon at: hps://www.researchgate.net/publicaon/355483377
PHÂN TÍCH TIỀM NĂNG, XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM DU LỊCH VÀ ĐỀ XUT CÁC GIẢI
PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH CÁC HUYỆN MIỀN NÚI PHÍA TÂY QUẢNG NAM THEO ỚNG BỀN
VỮNG
Conference Paper · October 2021
CITATIONS READS
0 1,146
4 authors, including:
Anh Trần Văn
Dong A University
15 PUBLICATIONS 0 CITATIONS
SEE PROFILE
Some of the authors of this publicaon are also working on these related projects:
hp://stdb.hnue.edu.vn/portal/journals.php?arcleid=6801 View project
Xác định điểm tuyến du lịch tỉnh Quảng Nam View project
PHÂN TÍCH TIỀM NĂNG, XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM DU LỊCH VÀ ĐỀ XUẤT CÁC
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH CÁC HUYỆN MIỀN NÚI PHÍAY QUẢNG
NAM THEO HƯỚNG BỀN VỮNG
TS. Trần Văn Anh
1
Trường Đại học Quảng Nam
Tóm tắt : Trên cơ sở kết quả khảo sát thực tế và nghiên cứu tư liệu, bài viết tập trung
phân tích làm các tiềm năng, lợi thế phát triển du lịch các huyện miền núi phía Tây
Quảng Nam, từ đó, xác định các nhóm sản phẩm chủ lực định hướng xây dựng phát triển
trong thời gian tới. Đồng thời, bài viết đề xuất các giải pháp để khai thác hợp lý, hiệu quả
và bền vững các tài nguyên du lịch của khu vực này góp phần xóa đói, giảm nghèo, bảo tồn
các giá trị văn hóa các dân tộc ít người và các cảnh quan thiên nhiên.
Từ khóa: Du lịch, cộng đồng, Quảng Nam, miền núi
1. ĐẶT VẤT ĐỀ
Quảng Nam một trong những địa phương tiềm năng vượt trội cho phát triển du
lịch (có hai di sản văn hóa thế giới phố cổ Hội An và di tích Mỹ Sơn, khu dự trữ sinh quyển
Cù Lao Chàm, các bãi biển, các di tích lịch sử cấp quốc gia,..). Bên cạnh các di sản giá trị
quốc tế, các huyện miền núi phía Tây còn có những giá trị văn hóa, lịch sử, tự nhiên hết sức
độc đáo, đặc sắc, có sức cuốn hút rất lớn đối với du khách mỗi lần đặt chân đến tham quan,
khám phá trải nghiệm vùng đất này. Quảng Nam tỉnh tốc độ phát triển du lịch
nhanh hiệu quvới ng triệu du khách đến tham quan, nghỉ dưỡng hàng năm mang lại
nguồn thu hàng ngàn tỷ đồng, tạo việc làm cho hàng chục ngàn lao động. Tuy nhiên, các
huyện miền núi phía Tây hoạt động du lịch chưa phát triển, số lượng khách tham quan chưa
nhiều, sản phẩm du lịch chưa phong phú, hoàn chỉnh, tài nguyên vẫn chưa được khai thác
hiệu quả. Việc phân tích làm các tiềm năng, chỉ ra các sản phẩm thế mạnh của khu vực
này đề xuất các giải pháp phát triển phù hợp, bền vững (về tài nguyên, về sinh kế và
hội) là rất cần thiết và cấp thiết.
2. DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Dữ liệu nghiên cứu
Nguồn dữ liệu được từ quá trình khảo sát, điền giã thực tế tại địa bàn các huyện
Nông Sơn, Phước Sơn, Nam Giang, Đông Giang, Tiên Phước, Bắc Nam Trà My. Bên
cạnh đó, tác giả còn sử dụng nguồn dữ liệu từ các báo cáo hàng năm của ngành du lịch Quảng
Nam, báo cáo hoạt động kinh tế - xã hội của các huyện, Niên giám thống kê Quảng Nam các
năm; kết quả tham vấn cộng đồng tại các điểm du lịch, các làng văn hóa các dân tộc ít
người,...
1
TS. Trần Văn Anh, ĐT: 0912801079
Mail: tranvanvhdl@gmail.com
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, phương pháp khảo sát thực tế, tham vấn cộng đồng là một trong
những phương pháp nghiên cứu chủ yếu cùng với phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp
dữ liệu nghiên cứu. Ngoài ra, sự dụng các phương pháp dự báo phát triển.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
3.1. Khái quát địa bàn nghiên cứu
Vùng phía Tây Quảng Nam gồm các huyện Đông Giang, Tây Giang, Nam Giang,
Phước Sơn, Bắc Trà My, Nam Trà My, Nông Sơn, Hiệp Đức, Tiên Phước. Đây là khu vực có
địa hình núi cao hiểm trở và trung du thuộc một phần của dãy Trường Sơn Nam. đây nhiều
khu vực còn rừng nguyên sinh với nhiều khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia, nhiều
loài động thực vật có giá trị bảo tồn và khai thác phát triển kinh tế.
Đây cũng địa bàn sinh sống của nhiều dân tộc ít người như Tu, Cor, Giẻ
Triêng,...Các dân tộc nơi đây vẫn bảo tồn và lưu giữ nhiều nét văn hóa, phong tục tập quán
bản địa của dân tộc mình như nhà rông, nhà sàn, lễ hội đâm trâu, ẩm thực,.. Đây những
chất liệu quan trọng để hình thành nên những sản phẩm du lịch riêng có, độc đáo, hấp dẫn
khách phương xa.
3.2. Tiềm năng phát triển du lịch
Với đặc điểm địa hình vùng núi cao hiểm trở, vùng trung du có điều kiện giao thông
liên lạc, kinh tế - xã hội còn hạn chế nên việc khai thác phát triển du lịch còn khó khăn. Vùng
đất còn ẩn chứa trong nh nhiều giá trị, tài nguyên thể khai thác phát triển du lịch với
sản phẩm du lịch đa dạng, độc đáo, tiêu biểu như:
- Tài nguyên du lịch sinh thái, tự nhiên
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa vùng Nam Hải Vân và vùng Đông dãy
Trường Sơn, với độ ẩm không khí khoảng 90%, nhiệt độ trung bình các tháng trong năm là
24
0
C, lượng mưa khoảng 2.800mm, riêng vùng núi Ngọc Linh, huyện Nam TMy lượng
mưa thể lên đến 4000mm [5]. đây nhiều đỉnh núi cao trên 2000m như đỉnh Ngọc
Linh (2598), A Tuất 2500m, Núi Mang 1467m, Lum Heo 2045m, Tion 2032m; có hệ thống
sông ngòi ngắn, dốc bắt nguồn từ các dãy núi cao nên sông dốc, hùng như sông Tranh,
sông Bung, sông Đắc Mi,.. ; hệ thống các thác nước cao nước đổ trắng xóa như thác 5 tầng,
thác Grăng, suối nước Lang, Đắc Gà,... ; hệ thống các hồ thủy điện được hình thành các hệ
thống sông. Bên cạnh đó hệ thống rừng nguyên sinh với hệ động thực vật phong phú đa
dạng góp phần hình thành các khu bảo tồn thiên nhiên lớn, có khung cảnh thiên nhiên hoang
như khu Bảo tồn thiên nhiên Sông Thanh, khu bảo tồn sâm Ngọc Linh, hệ thống rừng
nguyên sinh Đông Trường Sơn,... Đây chính những nguyên liệu để phát triển các sản phẩm,
loại hình du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, trải nghiệm, khám phá thiên nhiên.
- Tài nguyên du lịch nhân văn.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, vùng phía Tây Quảng Nam địa bàn chiến
lược của các mạng, nơi đây có nhiều căn cứ cách mạng quan trọng như khu ủy khu V, căn cứ
Phước Trà, làng Rô, Đồi E, cứ điểm Ngok Ta Vak, địa đạo A Nông, chiến thắng Khâm Đức,
Bến Giằng, Cầu Xơi,… Các địa điểm này hiện nay đã được công nhận là di tích lịch sử cấp
quốc gia, cấp tỉnh hoặc đang được đầu tư bảo tồn tôn tạo, lập hồ sơ để công nhận di tích các
cấp.
Quảng Nam là nơi định cư lâu đời của nhiều dân tộc ít người. Theo thống kê, hiện nay
11 dân tộc ít người, chiếm gần 9 % dân số toàn tỉnh [5]. Các dân tộc nơi đây sống đoàn
kết, góp phần rất lớn trong công cuộc giải phóng bảo vệ tổ quốc. Nhiều dân tộc nền
văn hóa đời sống, phong tục tập quán phong pđa dạng, mang bản sắc riêng. Đặc biệt
các giá trị văn hóa này vẫn được cộng đồng gìn giữ, bảo tồn, trao truyền và phổ biến đến các
thế hệ sau ra với cộng đồng như người Cơ tu sinh sống thành các làng, bản, nóc (là Bhươl,
Cr’noon, hay vêêl) trên các sườn đồi, ven các khe suối các huyện Đông, Nam Tây Giang.
Người tu nhiều phong tục tập quán, kiến trúc nhà ở, trang phục, lễ hội đặc trưng
riêng và vẫn còn được bảo tồn khá tốt như phong tục trong sản xuất nông nghiệp nương rẫy
(lễ chọn rẫy, thu hoạch, cúng cơm mới, khai thác rừng, săn bắn), nhà ở (nhà sàn), nhà gươl;
trang phục (gồm váy, áo, khố với 3 màu chủ đạo là đen, đỏ trắng); tập tục răng, căng
tai, tục thành đinh (lễ trưởng thành), cưới hỏi, tang ma (bỏ mã, nhà mồ); các lễ - tết (lễ hội
Đắh t’ri - lễ ăn trâu hay đâm trâu), mừng lúa mới, ăn tết (Prơ gie râm),…Người tu
nghề dệt thổ cẩm và điệu múa Tung tung ya yá là 2 giá trị đặc trưng đã được công nhận là di
sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Người Cor (ở huyện Bắc Nam Trà My) các tập
tục hôn nhân, làm rẫy, mừng lúa mới, lễ hội các pư rác (hiến sinh trâu), cây Nêu bộ Gu
của dân tộc Cor (đã được công nhận di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia). Người
Đăng có lễ hội cúng máng nước (On dro hneng tea), tết Ding nơ na sơ năm nêo, tục thượng
điền bằng lễ ăn a giống (Prịa cheng), mừng lúa mới. Người Ca doong tết p’lei. Người
Giẻ triêng có phong tục tết Cha Kcha, lễ hội Cho óc đăil (Đinh út),…
Các lễ hội trên đều ẩn chứa những giá trị văn hoá, quan niệm, tín ngưỡng, tôn giáo; là
một bảo tàng sống về những hoạt động tín ngưỡng, tâm linh của cộng đồng, sự kết tinh
những giá trị văn hóa truyền thống đặc trưng nhất của tộc người. Bên cạnh đó, cộng đồng
các dân tộc nơi đây cũng những sản phẩm ẩm thực độc đáo như rượu vak, rượu Ba
Kích, rượu cần, các món ăn dân giã nhưng rất ngon hấp dẫn như cơm lam, rượu cần, măng
rừng, rau lủi, cá niêng, ếch núi, các món ẩm thực lấy từ rừng, [6]....
Hiện nay, nhiều làng (Bhươl, Cr’noon, hay vêêl) đồng thời cũng là các làng nghề đang
được đầu tư khôi phục, bảo tồn và khai thác du lịch (Bhờ Hôồng, Đhrồng, Zara, Đắc Ốc, Rô,
Pring,..). Đây tiền đề để xác định khai thác thành các điểm du lịch chuyên đề, du lịch
cộng đồng.
Bảng 1. Danh sách các làng văn hóa các dân tộc
T
T
Loại hình
Dân tộc
Đơn vị
1
Làng Bhờ
hôồng
Cơ tu
Đông
T
T
Loại hình
Dân tộc
Đơn vị
2
Làng Đhrôồng
Cơ tu
Giang
3
Làng Zara
Cơ tu
Nam
Giang
4
Làng Đắc Ốc
Cơ tu
5
Làng Rô
Cơ tu
6
Làng Pr’ning
Cơ tu
Tây
Giang
Việc khai thác các tiềm năng phục vụ phát triển du lịch đang từng bước được hiện thực
nhờ hệ thống sở vật chất hạ tầng đang được quan tâm đầu xây dựng hoàn thiện,
trong đó, đường Hồ Chí Minh đã trở thành nhân tố quan trọng, quyết định góp phần đánh
thức tiềm năng kinh tế, du lịch miền núi phía Tây Quảng Nam phát triển, góp phần giảm bớt
khoảng cách phát triển giữa miền núi và đồng bằng. Đặc biệt tuyến đường Hồ Chí Minh trở
thành “kênh dẫn khách” quan trọng bậc nhất đến với tài nguyên các điểm du lịch trên
địa bàn các huyện phía Tây. Bên cạnh đó các tuyến đường 14D, 14E, 601, 606,…QL1A
với trung tâm các huyện được nâng cấp mở rộng. Du lịch và kinh tế xã hội sẽ tăng trưởng và
phát triển cùng với sự sôi động ngày càng tăng của hoạt động vận tải du lịch trên các tuyến
đường kết nối khu vực phía Đông khu vực phía Tây. Các sở dịch vụ du lịch như hệ
thống khách sạn, nhà ng, nhà nghĩ, quán ăn đã bắt đầu được hình thành dọc theo tuyến
đường Hồ Chí Minh, trong đó, tập trung chính ở khu vực thị trấn Khâm Đức, Phước Sơn với
các nhà hàng khách sạn như Bé Châu Giang, Lan Trinh,...đã góp phần tích cực thúc đẩy cho
du lịch phát triển.
3.3. Những sản phẩm du lịch độc đáo hấp dẫn
Trên sở nguồn tài nguyên được phân tích trên, trong thời gian tới việc phát triển
du lịch khu vực này cần tập trung xác định, xây dựng phát triển một số sản phẩm du lịch
tiêu biểu dựa trên những lợi thế so sánh sau:
Sản phẩm du lịch cộng đồng: với hình thức nghiên cứu, thưởng thức, trải nghiệm văn
hoá bản địa. Đây loại hình - sản phẩm du lịch đã rất phổ biến một số nước như Pháp,
Mỹ, Thái Lan, Malaysia, Singapo... và đang có xu hướng phát triển nhanh ở nước ta như một
số làng văn hoá dân tộc ở phía Bắc như Mai Châu - Hoà Bình, Bắc Hà – Lào Cai,… Du lịch
cộng đồng dịch vụ homestay hình thức khách du lịch lưu trú trong nhà dân, ăn ở,
sinh hoạt cùng với người dân bản địa, khám phá các giá trị của văn hoá địa phương các
sản phẩm, hoạt động du lịch do người dân, cộng đồng địa phương khách chi trả mọi chi
phí cho người dân trực tiếp làm các dịch vụ ăn ở, sinh hoạt,... Khách thường là những người
thích và luôn quan tâm khám phá các giá trị văn hoá bản địa còn nguyên sơ, mộc mạc, gần
gủi, giá trị mang tính cộng đồng....Thu nhập từ hoạt động du lịch sẽ mang lại lợi nhuận trực
tiếp cho các hộ dân tham gia tổ chức dịch vụ cũng như làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội
của bản làng cộng đồng địa phương. Với tiềm năng về các giá trị văn hoá cộng đồng bản
địa đặc sắc, còn có tính nguyên sơ và từ thực tế phát triển của loại hình homestay và du lịch
cộng đồng một số tỉnh, vùng phía Tây Quảng Nam hoàn toàn khả năng hình thành
phát triển sản phẩm du lịch độc đáo này. Trong thời gian tới thể nghiên cứu đầu phát
triển sản phẩm du lịch Homestay du lịch cộng đồng một số làng như Aró Lăng, huyện
Tây Giang; làng T
ghêy xã A vương, huyện Tây Giang ; làng Vàng (xã A Tiêng, Tây
Giang) ; làng Za Ra (xã TàBhing, huyện Nam Giang); làng Bhờ Hồông (xã sông Kôn, Đông
Giang)... Biến những làng này trở thành những ngôi nhà, công đồng khi đến đây khách
luôn cảm thấy ấm cúng, hấp dẫn, như ngôi nhà thứ hai của họ.
Khi đi dọc tuyến đường Hồ Chí Minh du khách sẽ được khám phá, chìm đắm trong một
không gian văn hoá bản địa đặc sắc, độc đáo, đa dạng nhưng vẫn còn giữ được giá trị nguyên
sơ. Những giá trị văn hoá ghi dấu những chiến tích lịch sử, những dấu ấn huy hoàng của
nhân dân đồng bào các dân tộc nơi đây, từ những sinh hoạt văn hoá cộng đồng như lễ hội,
phong tục tập quán đến kiến trúc, ẩm thực, âm nhạc,... Khám phá các địa danh nỗi tiểng như
làng Rô, Đồi E, cứ điểm Ngok Ta Vak, địa đạo A Nông, chiến thắng Khâm Đức, Bến Giằng,
Cầu Xơi, [4].. chứa đựng những giá trị về lòng yêu nước, về tinh thần quật cường của người
dân xứ Quảng. Đến với các làng văn hóa du khách còn được tham gia, chiêm ngưỡng khám
phá, sống trong những lễ hội, những điệu múa độc đáo, đặc sắc của cộng đồng các dân tộc
như Cơ tu, Gỉe triêng, Cadong... như lễ xin phép giàng, lễ chọn đất phát rẫy, lễ hội mừng lúa
mới, lễ chọn đất dựng làng, lễ xin đất dựng nhà, lễ khánh thành Gươl, lễ cưới, lễ hội đâm
trâu... Được khám phá, trải nghiệm những giá trị văn hoá, quan niệm, tín ngưỡng, tôn giáo,
tâm linh của cộng đồng được truyền tải và biểu hiện qua các điệu múa, cử chỉ, trang phục,...
Bên cạnh đó, khách còn được thưởng thức những món ẩm thực đặc sản của cộng đồng các
dân tộc nơi đây như rượu Tà vak, rượu Ba Kích, rượu cần, các món ăn dân giã, [6]....
Đến với vùng đất này du khách không chỉ được khám phá, đắm mình trong những giá
trị văn hoá bản địa mang tính cộng đồng sâu sắc còn những sản phẩm làm quà lưu
niệm hết sức hấp dẫn như các sản phẩm dệt thổ cẩm (tấm đắp (tuốc), khố (cha lan), váy
(doóh)...với nhiều họa tiết, màu sắc sặc sỡ, hoa văn độc đáo) sản phẩm đan lát, mật ong rừng,
rượu Tà vạt, Tr’đin của người Cơtu, các loại nhạc cụ dân tộc [6]... của các dân tộc thiểu số
miền núi Quảng Nam. Đó không chỉ là những món quà từ miền núi mang về miền xuôi, khi
du khách trực tiếp quan sát, tham gia vào các công đoạn chế biến, tạo sản phẩm sẽ là một trãi
nghiệm thú vị không dễ gì quên sau chuyến hành trình kết thúc.
Sản phẩm du lịch sinh thái nghĩ ỡng leo núi - thể thao mạo hiểm. Phát triển các loại
hình du lịch thể thao leo núi mạo hiểm các đỉnh núi như Pôl Tăm Heo (Ngok Lum Heo)
2.045 mét, Ngok-Ti-On 2.032 mét, Pôl Gơlê Zang (núi Xuân Mãi) 1.834m, khám phám đỉnh
Ngọc Linh và thưởng thức các giá trị văn hóa – sinh thái sâm Ngọc Linh [5]. Hình thành các
điểm du lịch tham quan – sinh thái - thể thao – nghĩ dưỡng tại Thác Grăng, danh thắng nước
Lang, Đèo Lò Xo, thác Nước (thác Mô Ních), thác 5 tầng, Hòn Kẻm – Đá Dừng, suối nước
nóng Đắk Gà, Hồ Ban Mai, Đỉnh Quế;…; tham quan sinh thái tại các hồ thuỷ điện trên sông
Cái, sông Vàng, sông A Vương, sông Kôn, sông Bung, Sông Đăk My, Sông Trường, sông
Đắk Mét, suối Đăk Glon, Đăk Xa Oa, Đăk Xe...; loại hình tham quan nghiên cứu sinh thái
tại khu Bảo tồn thiên nhiên Sông Thanh, khu bảo tồn voi Quế Lâm, khu bảo tồn sao la Sông
Thanh. Đặc biệt, cần xây dựng hồ thuỷ điện Đăkmi 4C trở thành một điểm du lịch sinh thái
nghĩ dưỡng chính cho cả khu vực trên tuyến đường Hồ Chí Minh.
Sản phẩm ẩm thực phục vụ du lịch: thưởng thức hương vị vùng núi. Thưởng thực ẩm thực
được xem một nhu cầu quan trọng xếp hàng thứ hai đối với mục đích đi du lịch của du
khách. Miền Tây Quảng Nam có cơ sở, điều kiện, tiềm năng để hình thành những sản phẩm
ẩm thực đặc trưng vùng núi cung cấp phục vụ nhu cầu ca du khách trong thời gian tới. Vùng
này có các đặc ản nổi tiếng như món rau lủi (xào thịt bò, tỏi, luộc, nấu canh..), măng (măng
khô, xào, luộc, nấu canh..). Bên cạnh đó, vùng này cần phải nghiên cứu chuyển đổi mô hình
sản xuất theo hướng trang trại chăn nuôi các loại động vật hoang dã đã được nhân giống, lai
tạo và cho phép nuôi như heo rừng, heo thả rông,thả đồi, nuôi nhím, nuôi thỏ, nuôi ếch,
kỳ nhông, nuôi rắn, baba để hình thành các món chỉ, thỏ chỉ, rắn chỉ, heo chỉ...” . Cùng
với các sản phẩm có thể thưởng thức tại chỗ, cũng cần nghiên cứu tạo các sản phẩm để khách
có thể mang về làm quà như các loại rượu (rượu cần, ba kích, tàvak,..), cơm lam, măng khô,
thịt khô xông khói (treo giàn bếp), rau lủi,.... Điều đặc biệt hơn, trong tương lai không xa,
khi hoạt động giao thông vận tải trên đường Hồ Chí Minh trở nên tấp nập nhộn nhịp hơn,
Khâm Đức hoàn toàn đủ điều kiện để trở thành trạm dừng nghĩ (ăn và nghĩ trưa - tối
khuya..) của hành khách, của các hãng vận tải trên hành trình Bắc Nam. Khi đó, hệ thống
khách sạn, nhà hàng, quán ăn sẽ rất phát triển nên việc định hướng sản phẩm ẩm thực phục
vụ đối tượng khách này là hết sức quan trọng.
Nếu một lần đi du lịch trên tuyến đường Hồ Chí Minh, du khách có thể dừng chân ở
Khâm Đức, Thạnh Mỹ, suối nước khoáng Đắk Gà, thác Găng...và trong bữa ăn, du khách
được thưởng thức thực đơn với các món ăn như rau lủi, măng rừng, bắp chuối, “gà chỉ, heo
chỉ, rắn chỉ, thỏ chỉ”,.., được ăn cơm lam, uống rượu đặc sản (rượu cần, ba kích, tàvak,..) và
sau bữa ăn còn có những món ăn mang về làm quà cho người thân thì chuyến du lịch sẽ trở
nên trọn vẹn, tuyệt vời.
3.4.Một số giải pháp phát triển du lịch
a. Giải pháp về cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng
+ Trước hết, cần xây dựng hệ thống các tuyến giao thông kết nối các điểm du lịch như
các làng truyền thống các dân tộc, hồ - thác nước, khu rừng, đỉnh núi, các trang trại, khu nghĩ
dưỡng, các điểm tham quan....với tuyến đường Hồ Chí Minh và các tuyến tỉnh lộ, kết nối với
các khu vực (Tây Nguyên, Đà Nẵng, Huế, Hội An, Lào qua cửa khẩu Đắk Ốc...) nhằm làm
tăng khả năng tiếp cận, tăng tính tiện lợi, an toàn, nhanh chóng khi khách muốn di chuyển,
tham quan, nghỉ dưỡng. Phát triển hệ thống các phương tiện vận chuyển phù hợp, đặc thù
miền núi như hệ thống xe buýt, xe du lịch (tự lái), mô tô cho thuê (cá nhân, du lịch “bụi”, du
lịch “phượt”), các loại thuyền (du lịch sông, hồ,..) và phát triển hệ thống các trạm tiếp nhiên
liệu, sửa chữa phương tiện, ứng cứu khẩn cấp cho khách...
+ Xây dựng hệ thống các cơ sở lưu trú dọc theo tuyến đường Hồ Chí Minh gắn liền với
các điểm tham quan, nghdưỡng theo hình thức dạng trạm dừng nghỉ Motel, camping,..
quy vừa phải, được thiết kế theo kiến trúc truyền thống địa phương, trên khoảng cách
khoảng 50-70km/trạm nhằm phục vụ theo kiểu nhóm khách qua đêm trên hành trình (bao
gồm nghỉ ngơi, ăn uống ẩm thực địa phương). Đồng thời, phát triển hệ thống các trung tâm
lưu trú quy mô, hiện đại, đạt tiêu chuẩn tại các trung tâm các huyện như Khâm Đức, Thạnh
Mỹ, Brao,.. Các cơ sở lưu trú cần gắn liền với hệ thống nhà hàng, quán ăn phục vụ các món
ẩm thực truyền thống mang hương vị đặc trưng địa phương. Hệ thống thông tin liên lạc, viễn
thông cần được đảm bảo thông suốt, thường xuyên, cập nhật, tiện lợi đến tận các điểm du
lịch bởi khách du lịch luôn luôn muốn duy trì, kết nối liên lạc với người thân, quan làm
việc, nắm được diễn biến các sự kiện chính trị, kinh tế - xã hội diễn ra trên thế giới hàng giờ,
hàng ngày,...
b. Phát triển nhân lực du lịch và năng lực của cộng đồng
+ Trước hết, những huyện tiềm năng điều kiện, cần tách, thành lập các bộ
phận, phòng, trung tâm chuyên trách vấn đề quản lý, quy hoạch, c tiến, phát triển, thống
kê về du lịch và biên chế đội ngũ cán bộ phụ trách hoạt động du lịch ở địa phương.
+ Đối với người dân khu vực cần tổ chức các lớp tập huấn, huấn luyện kỹ năng,
nghiệp vụ theo kiểu “cầm tay chỉ việc, làm theo, làm thật” mang tính cụ thể, trực quan,
thường xuyên liên tục cho người dân các địa điểm phát triển du lịch. Việc huấn luyện người
dân tập trung vào những kiến thức, kỹ năng để làm được những việc cụ thể như hướng dẫn
viên, đón khách, phục vụ ăn uống, buồng, phòng; giao tiếp với khách, bán hàng lưu niệm,...
Trong đào tạo, bước đầu đào tạo ngoại ngữ giao tiếp cơ bản cho cho đội ngũ cán bộ quản lý,
nhân viên hoạt động kinh doanh du lịch, dịch vụ du lịch. Chú trọng đào tạo đội ngũ hướng
dẫn viên, thuyết minh viên kiến thức sâu rộng về văn hóa truyền thống các dân tộc qua
những lớp đào tạo ngắn hạn, đưa các chuyên gia lên các huyện miền núi để bồi dưỡng kiến
thức, kỹ năng nghiệp vụ du lịch, sử dụng máy nh, tổ chức biểu diễn chương trình, xây dựng
văn hóa giao tiếp cho cán bộ của địa phương.
+ Việc đào tạo nguồn nhân lực cho vùng này cần tận dụng các chương trình mục tiêu
quốc gia như xây dựng nông thôn mới, chương trình phát triển 62 huyện nghèo nhất cả nước,
chương trình 134, 135, chương trình đào tạo 1 triệu lao động nông thôn và các dự án của các
tổ chức phi chính phủ như tổ chức Tầm nhìn thế giới, Ngân hàng thế giới, các quỹ phát triển
của châu Âu, Bỉ, Đan Mạch, Hà Lan, Lugxămbua,... hỗ trợ giảm nghèo các địa phương.
Đây sẽ là một nguồn lực tài chính quan trọng, những kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng
ở nhiều địa phương, nhiều nước nên phải tranh thủ và sử dụng một cách triệt để.
c. Đẩy mạnh xây dựng và quảng bá thương hiệu các sản phẩm du lịch
+ Việc xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm du cần thuê các chuyên gia, nhà
vấn chuyên nghiệp, các hãng truyền thông lớn để định hình các thương hiệu gắn với sản
phẩm cụ thể của vùng này như du lịch cộng đồng Homestay Bờhoòng, Zara, Ating,... du
lịch sinh thái sông Thanh, du lịch văn hoá bản địa, lễ hội, ẩm thực núi rừng,.. Các thương
hiệu sản phẩm phải gắn liền với các chỉ dẫn địa lý (tên đất, tên làng, tên sông, suối,...) cụ thể
để khách có thể kiểm tra và giới thiệu.
+ Việc quảng các sản phẩm du lịch cụ thể cần thực hiện qua nhiều kênh khác nhau.
Trước hết, thực hiện quảng thông qua xuất bản các ấn phẩm du lịch (tờ rơi, sách hướng
dẫn, bản đồ, video giới thiệu, website…). Bên cạnh đó, cần tận dụng triệt để các nh năng
của internet, truyền hình cho công tác tiếp thị quảng các sản phẩm du lịch khu vực phía
Tây. Đây được xem công cụ quảng hình ảnh không biên giới hiệu quả nhất nhưng giá
thành rẻ nhất hiện nay phần lớn (trên 80%) khách du lịch tìm hiểu điểm đến trước khi đi
du lịch thông qua internet. Các hình ảnh về điểm đến cần liên tục được cập nhật, làm mới,
các cam kết chất lượng và giá thành cần được tôn trọng, hình ảnh quảng bá và sản phẩm thật
phải có sự thống nhất.
+ Tham gia hội chợ, hội thảo, tuần lễ, tổ chức các sự kiện nh khu vực quốc tế,
tổ chức cho các đơn vị lữ hành khảo sát và mở các tuyến du lịch mới, hấp dẫn. Qua đó, giới
thiệu những sản phẩm du lịch đặc thù của vùng miền núi Quảng Nam dọc theo tuyến đường
cho các hãng lữ hành quốc tế và trong nước để cùng hợp tác đầu tư và phát triển. Một kênh
quảng cáo được xem quan trọng nhất, chí phí rẻ nhất, tác dụng lan tolớn, lâu dài đó
chính là khách du lịch. Xem khách một kênh quan trọng để chuyển tải các thông tin, thông
điệp, các hình ảnh, các sản phẩm du lịch đến mọi miền thế giới theo dạng “thông tin truyền
miệng, thông tin lan toả”.
d. Liên kết phát triển du lịch
Việc liên kết trong phát triển du lịch cần tập trung vào các phương thức và đối tượng
liên kết sau: liên kết giữa các quốc gia (Việt Nam – Lào – Campuchia – Thái Lan), các vùng
(Miền núi - đồng bằng ven biển, Tây Nguyên Duyên hải Nam Trung bộ), các địa phương
trên tuyến (Đông Giang Tây Giang Nam Giang Phước Sơn), liên kết với các doanh
nghiệp lữ hànhngười dân địa phương nhằm tạo ra những sản phẩm du lịch đặc sắc nhất,
phục vụ nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch. Việc liên kết với các quốc gia, vùng miền,
địa phương sẽ tạo ra tính liên hoàn, sự đa dạng của các sản phẩm du lịch, làm cho chuyến đi
của du khách trở nên hấp dẫn hơn, thoả mãn được nhiều nhu cầu khác nhau của khách. Liên
kết với các đơn vị lữ hành Đà Nẵng, Huế, Hội An là vô cùng quan trọng bởi đây chính
kênh dẫn, nguồn cung cấp khách du lịch cho tuyến du lịch này. Chính quyền địa phương và
các đơn vị lữ hàng cần phải có sự liên kết – cam kết một cách chặt chẽ trên các quan hệ lợi
ích nhất định nhằm đưa du lịch phía Tây phát triển.
Ngoài những giải pháp đã được đề cập trên, trong thời gian tới cần nghiên cứu áp
dụng một số giải pháp phát triển du lịch cho khu vực này như tiến hành xây dựng các tuyến
điểm du lịch hấp dẫn, xây dựng hệ thống bản đồ tuyến điểm (kết nối các điểm tuyến du lịch
trong ngoài vùng, trong ngoài tỉnh với nước ngoài), công tác tổ chức, quản nhà
nước, phát triển sản phẩm du lịch đa dạng (tự nhiên, văn hoá, sinh thái, cộng đồng...), đảm
bảo vấn đề an ninh, an toàn cho khách, bảo vệ môi trường, tài nguyên du lịch …
4. KẾT LUẬN
Việc phân tích đã chỉ ra khu vực các huyện miền núi phía Tây Quảng Nam địa bàn
nhiều tiềm năng và sản phẩm du lịch có giá trị, có khả năng đáp ứng được xư hướng nhu cầu
đi du lịch của hội. Các tài nguyên tiềm năng nguyên liệu để hình thành các nhóm
sản phẩm du lịch độc đáo gắn với các điều kiện tự nhiên và giá trị văn hóa của các đồng bào
dân tộc ít người. Việc khai thác các tài tiềm năng chưa được thực hiện đồng bộ và chưa hiệu
quả. Để khai thác hiệu quả, phát triển bền vững hoạt động du lịch khu vực này cần
các giải pháp đồng bộ và sự tham gia của nhiều bên trong suốt quá trình dài hạn.
Investigate the potentials, identify some tourism products and suggest some solutions
to develop the sustainable tourism in moutainous districts in the West of
Quang Nam Province
Tran Van Anh, PhD.
Quang Nam University
Abstract: This article focus on investigating some potentials, products and solutions
to develop the tourism in the Western regions of Quang Nam. Based on the result of field
research and documentary study, this article clearly analyzes some potentials, advantages
to promote the tourism in mountainous districts in the West of Quang Nam ; therefore, we
have identified main product groups, the development orientation in the future. The paper
also proposes solutions for rational, efficient and sustainable exploitation of tourism
resources in this region in order to contribution in poverty reduction, preservation of
cultural values and natural landscapes of ethnic minorities.
Keywords : Tourism, Community, Sustainable, Quang Nam, Moutainous.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Văn Anh, (2018), Xác định điểm, tuyến du lịch ở tỉnh Quảng Nam, Luận án Tiến
Đại học sư phạm Hà Nội
2. Lê Bá Thảo (1977), Thiên nhiên Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội
3. Nguyễn Minh Tuệ (2010), Địa lý du lịch Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội
4. Di tích danh thắng Quảng Nam, 2001
5. Quảng Nam – Thế và lực trong thế kỷ XXI, nhà xuất bản Lao động 2004.
6. Phong tục lễ Hội Quảng Nam, Nhà xuất bản Lao động, 2011.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 59780317
See discussions, stats, and author profiles for this publication at: https://www.researchgate.net/publication/355483377
PHÂN TÍCH TIỀM NĂNG, XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM DU LỊCH VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI
PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH CÁC HUYỆN MIỀN NÚI PHÍA TÂY QUẢNG NAM THEO HƯỚNG BỀN VỮNG
Conference Paper · October 2021 CITATIONS READS 0 1,146 4 authors, including: Anh Trần Văn Dong A University
15 PUBLICATIONS 0 CITATIONS SEE PROFILE
Some of the authors of this publication are also working on these related projects:
http://stdb.hnue.edu.vn/portal/journals.php?articleid=6801 View project
Xác định điểm tuyến du lịch tỉnh Quảng Nam View project
PHÂN TÍCH TIỀM NĂNG, XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM DU LỊCH VÀ ĐỀ XUẤT CÁC
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH CÁC HUYỆN MIỀN NÚI PHÍA TÂY QUẢNG
NAM THEO HƯỚNG BỀN VỮNG TS. Trần Văn Anh1
Trường Đại học Quảng Nam
Tóm tắt : Trên cơ sở kết quả khảo sát thực tế và nghiên cứu tư liệu, bài viết tập trung
phân tích làm rõ các tiềm năng, lợi thế phát triển du lịch ở các huyện miền núi phía Tây
Quảng Nam, từ đó, xác định các nhóm sản phẩm chủ lực định hướng xây dựng và phát triển
trong thời gian tới. Đồng thời, bài viết đề xuất các giải pháp để khai thác hợp lý, hiệu quả
và bền vững các tài nguyên du lịch của khu vực này góp phần xóa đói, giảm nghèo, bảo tồn
các giá trị văn hóa các dân tộc ít người và các cảnh quan thiên nhiên.

Từ khóa: Du lịch, cộng đồng, Quảng Nam, miền núi 1. ĐẶT VẤT ĐỀ
Quảng Nam là một trong những địa phương có tiềm năng vượt trội cho phát triển du
lịch (có hai di sản văn hóa thế giới phố cổ Hội An và di tích Mỹ Sơn, khu dự trữ sinh quyển
Cù Lao Chàm, các bãi biển, các di tích lịch sử cấp quốc gia,..). Bên cạnh các di sản có giá trị
quốc tế, các huyện miền núi phía Tây còn có những giá trị văn hóa, lịch sử, tự nhiên hết sức
độc đáo, đặc sắc, có sức cuốn hút rất lớn đối với du khách mỗi lần đặt chân đến tham quan,
khám phá và trải nghiệm ở vùng đất này. Quảng Nam là tỉnh có tốc độ phát triển du lịch
nhanh và hiệu quả với hàng triệu du khách đến tham quan, nghỉ dưỡng hàng năm mang lại
nguồn thu hàng ngàn tỷ đồng, tạo việc làm cho hàng chục ngàn lao động. Tuy nhiên, các
huyện miền núi phía Tây hoạt động du lịch chưa phát triển, số lượng khách tham quan chưa
nhiều, sản phẩm du lịch chưa phong phú, hoàn chỉnh, tài nguyên vẫn chưa được khai thác có
hiệu quả. Việc phân tích làm rõ các tiềm năng, chỉ ra các sản phẩm thế mạnh của khu vực
này và đề xuất các giải pháp phát triển phù hợp, bền vững (về tài nguyên, về sinh kế và xã
hội) là rất cần thiết và cấp thiết.
2. DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Dữ liệu nghiên cứu
Nguồn dữ liệu có được từ quá trình khảo sát, điền giã thực tế tại địa bàn các huyện
Nông Sơn, Phước Sơn, Nam Giang, Đông Giang, Tiên Phước, Bắc và Nam Trà My. Bên
cạnh đó, tác giả còn sử dụng nguồn dữ liệu từ các báo cáo hàng năm của ngành du lịch Quảng
Nam, báo cáo hoạt động kinh tế - xã hội của các huyện, Niên giám thống kê Quảng Nam các
năm; kết quả tham vấn cộng đồng tại các điểm du lịch, các làng văn hóa các dân tộc ít người,...
1 TS. Trần Văn Anh, ĐT: 0912801079 Mail: tranvanvhdl@gmail.com
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, phương pháp khảo sát thực tế, tham vấn cộng đồng là một trong
những phương pháp nghiên cứu chủ yếu cùng với phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp
dữ liệu nghiên cứu. Ngoài ra, sự dụng các phương pháp dự báo phát triển.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
3.1. Khái quát địa bàn nghiên cứu
Vùng phía Tây Quảng Nam gồm các huyện Đông Giang, Tây Giang, Nam Giang,
Phước Sơn, Bắc Trà My, Nam Trà My, Nông Sơn, Hiệp Đức, Tiên Phước. Đây là khu vực có
địa hình núi cao hiểm trở và trung du thuộc một phần của dãy Trường Sơn Nam. Ở đây nhiều
khu vực còn rừng nguyên sinh với nhiều khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia, có nhiều
loài động thực vật có giá trị bảo tồn và khai thác phát triển kinh tế.
Đây cũng là địa bàn sinh sống của nhiều dân tộc ít người như Cơ Tu, Cor, Giẻ
Triêng,...Các dân tộc nơi đây vẫn bảo tồn và lưu giữ nhiều nét văn hóa, phong tục tập quán
bản địa của dân tộc mình như nhà rông, nhà sàn, lễ hội đâm trâu, ẩm thực,.. Đây là những
chất liệu quan trọng để hình thành nên những sản phẩm du lịch riêng có, độc đáo, hấp dẫn khách phương xa.
3.2. Tiềm năng phát triển du lịch
Với đặc điểm địa hình vùng núi cao hiểm trở, vùng trung du và có điều kiện giao thông
liên lạc, kinh tế - xã hội còn hạn chế nên việc khai thác phát triển du lịch còn khó khăn. Vùng
đất còn ẩn chứa trong mình nhiều giá trị, tài nguyên có thể khai thác phát triển du lịch với
sản phẩm du lịch đa dạng, độc đáo, tiêu biểu như:
- Tài nguyên du lịch sinh thái, tự nhiên
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa vùng Nam Hải Vân và vùng Đông dãy
Trường Sơn, với độ ẩm không khí khoảng 90%, nhiệt độ trung bình các tháng trong năm là
240C, lượng mưa khoảng 2.800mm, riêng vùng núi Ngọc Linh, huyện Nam Trà My lượng
mưa có thể lên đến 4000mm [5]. Ở đây có nhiều đỉnh núi cao trên 2000m như đỉnh Ngọc
Linh (2598), A Tuất 2500m, Núi Mang 1467m, Lum Heo 2045m, Tion 2032m; có hệ thống
sông ngòi ngắn, dốc bắt nguồn từ các dãy núi cao nên sông dốc, hùng vĩ như sông Tranh,
sông Bung, sông Đắc Mi,.. ; hệ thống các thác nước cao nước đổ trắng xóa như thác 5 tầng,
thác Grăng, suối nước Lang, Đắc Gà,... ; hệ thống các hồ thủy điện được hình thành các hệ
thống sông. Bên cạnh đó là hệ thống rừng nguyên sinh với hệ động thực vật phong phú đa
dạng góp phần hình thành các khu bảo tồn thiên nhiên lớn, có khung cảnh thiên nhiên hoang
sơ như khu Bảo tồn thiên nhiên Sông Thanh, khu bảo tồn sâm Ngọc Linh, hệ thống rừng
nguyên sinh Đông Trường Sơn,... Đây chính là những nguyên liệu để phát triển các sản phẩm,
loại hình du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, trải nghiệm, khám phá thiên nhiên.
- Tài nguyên du lịch nhân văn.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, vùng phía Tây Quảng Nam là địa bàn chiến
lược của các mạng, nơi đây có nhiều căn cứ cách mạng quan trọng như khu ủy khu V, căn cứ
Phước Trà, làng Rô, Đồi E, cứ điểm Ngok Ta Vak, địa đạo A Nông, chiến thắng Khâm Đức,
Bến Giằng, Cầu Xơi,… Các địa điểm này hiện nay đã được công nhận là di tích lịch sử cấp
quốc gia, cấp tỉnh hoặc đang được đầu tư bảo tồn tôn tạo, lập hồ sơ để công nhận di tích các cấp.
Quảng Nam là nơi định cư lâu đời của nhiều dân tộc ít người. Theo thống kê, hiện nay
có 11 dân tộc ít người, chiếm gần 9 % dân số toàn tỉnh [5]. Các dân tộc nơi đây sống đoàn
kết, góp phần rất lớn trong công cuộc giải phóng và bảo vệ tổ quốc. Nhiều dân tộc có nền
văn hóa và đời sống, phong tục tập quán phong phú đa dạng, mang bản sắc riêng. Đặc biệt
các giá trị văn hóa này vẫn được cộng đồng gìn giữ, bảo tồn, trao truyền và phổ biến đến các
thế hệ sau và ra với cộng đồng như người Cơ tu sinh sống thành các làng, bản, nóc (là Bhươl,
Cr’noon, hay vêêl) trên các sườn đồi, ven các khe suối ở các huyện Đông, Nam và Tây Giang.
Người Cơ tu có nhiều phong tục tập quán, kiến trúc nhà ở, trang phục, lễ hội có đặc trưng
riêng và vẫn còn được bảo tồn khá tốt như phong tục trong sản xuất nông nghiệp nương rẫy
(lễ chọn rẫy, thu hoạch, cúng cơm mới, khai thác rừng, săn bắn), nhà ở (nhà sàn), nhà gươl;
trang phục (gồm váy, áo, khố với 3 màu chủ đạo là đen, đỏ và trắng); tập tục cà răng, căng
tai, tục thành đinh (lễ trưởng thành), cưới hỏi, tang ma (bỏ mã, nhà mồ); các lễ - tết (lễ hội
Đắh t’ri - lễ ăn trâu hay đâm trâu), mừng lúa mới, ăn tết (Prơ gie râm),…Người Cơ tu có
nghề dệt thổ cẩm và điệu múa Tung tung ya yá là 2 giá trị đặc trưng đã được công nhận là di
sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Người Cor (ở huyện Bắc và Nam Trà My) có các tập
tục hôn nhân, làm rẫy, mừng lúa mới, lễ hội các pư rác (hiến sinh trâu), cây Nêu và bộ Gu
của dân tộc Cor (đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia). Người Xê
Đăng có lễ hội cúng máng nước (On dro hneng tea), tết Ding nơ na sơ năm nêo, tục thượng
điền bằng lễ ăn lúa giống (Prịa cheng), mừng lúa mới. Người Ca doong có tết Kă p’lei. Người
Giẻ triêng có phong tục tết Cha Kcha, lễ hội Cho óc đăil (Đinh út),…
Các lễ hội trên đều ẩn chứa những giá trị văn hoá, quan niệm, tín ngưỡng, tôn giáo; là
một bảo tàng sống về những hoạt động tín ngưỡng, tâm linh của cộng đồng, là sự kết tinh
những giá trị văn hóa truyền thống đặc trưng nhất của tộc người. Bên cạnh đó, cộng đồng
các dân tộc nơi đây cũng có những sản phẩm ẩm thực độc đáo như rượu Tà vak, rượu Ba
Kích, rượu cần, các món ăn dân giã nhưng rất ngon và hấp dẫn như cơm lam, rượu cần, măng
rừng, rau lủi, cá niêng, ếch núi, các món ẩm thực lấy từ rừng, [6]....
Hiện nay, nhiều làng (Bhươl, Cr’noon, hay vêêl) đồng thời cũng là các làng nghề đang
được đầu tư khôi phục, bảo tồn và khai thác du lịch (Bhờ Hôồng, Đhrồng, Zara, Đắc Ốc, Rô,
Pring,..). Đây là tiền đề để xác định và khai thác thành các điểm du lịch chuyên đề, du lịch cộng đồng.
Bảng 1. Danh sách các làng văn hóa các dân tộc Dân tộc Đơn vị T Loại hình Sản phẩm DL T
Tham quan không gian VH làng, kiến trúc nhà
Rông, gươl, moong, trải nghiệm VH cộng đồng, Làng Bhờ Cơ tu 1
mua sản phẩm dệt thổi cẩm, LH (cồng chiêng, hôồng Đông
đâm trâu), thưởng thức ẩm thực, lưu trú homestay Dân tộc Đơn vị T Loại hình Sản phẩm DL T
Tham quan không gian VH làng, kiến trúc nhà Giang
Rông, gươl, moong, trải nghiệm VH cộng đồng, 2 Làng Đhrôồng
Cơ tu mua sản phẩm dệt thổi cẩm, thưởng thức ẩm thực
Tham quan không gian VH làng, kiến trúc nhà 3 Làng Zara
Cơ tu Rông, gươl, trải nghiệm VH cộng đồng, thưởng thức ẩm thực
Cơ tu Tham quan không gian VH làng, kiến trúc nhà Nam 4 Làng Đắc Ốc
Rông, gươl, moong, trải nghiệm VH cộng đồng, Giang thưởng thức ẩm thực
Tham quan không gian VH làng, kiến trúc nhà 5 Làng Rô
Cơ tu Rông, gươl, moong, trải nghiệm VH cộng đồng, thưởng thức ẩm thực
Tham quan không gian VH làng, kiến trúc nhà Tây 6 Làng Pr’ning
Cơ tu Rông, gươl, moong, trải nghiệm VH cộng đồng, Giang thưởng thức ẩm thực
Việc khai thác các tiềm năng phục vụ phát triển du lịch đang từng bước được hiện thực
nhờ hệ thống cơ sở vật chất hạ tầng đang được quan tâm đầu tư xây dựng và hoàn thiện,
trong đó, đường Hồ Chí Minh đã trở thành nhân tố quan trọng, quyết định góp phần đánh
thức tiềm năng kinh tế, du lịch miền núi phía Tây Quảng Nam phát triển, góp phần giảm bớt
khoảng cách phát triển giữa miền núi và đồng bằng. Đặc biệt tuyến đường Hồ Chí Minh trở
thành “kênh dẫn khách” quan trọng bậc nhất đến với tài nguyên và các điểm du lịch trên
địa bàn các huyện phía Tây. Bên cạnh đó là các tuyến đường 14D, 14E, 601, 606,…QL1A
với trung tâm các huyện được nâng cấp mở rộng. Du lịch và kinh tế xã hội sẽ tăng trưởng và
phát triển cùng với sự sôi động ngày càng tăng của hoạt động vận tải và du lịch trên các tuyến
đường kết nối khu vực phía Đông và khu vực phía Tây. Các cơ sở dịch vụ du lịch như hệ
thống khách sạn, nhà hàng, nhà nghĩ, quán ăn đã bắt đầu được hình thành dọc theo tuyến
đường Hồ Chí Minh, trong đó, tập trung chính ở khu vực thị trấn Khâm Đức, Phước Sơn với
các nhà hàng khách sạn như Bé Châu Giang, Lan Trinh,...đã góp phần tích cực thúc đẩy cho du lịch phát triển.
3.3. Những sản phẩm du lịch độc đáo hấp dẫn
Trên cơ sở nguồn tài nguyên được phân tích ở trên, trong thời gian tới việc phát triển
du lịch ở khu vực này cần tập trung xác định, xây dựng phát triển một số sản phẩm du lịch
tiêu biểu dựa trên những lợi thế so sánh sau:
Sản phẩm du lịch cộng đồng: với hình thức nghiên cứu, thưởng thức, trải nghiệm văn
hoá bản địa. Đây là loại hình - sản phẩm du lịch đã rất phổ biến ở một số nước như Pháp,
Mỹ, Thái Lan, Malaysia, Singapo... và đang có xu hướng phát triển nhanh ở nước ta như một
số làng văn hoá dân tộc ở phía Bắc như Mai Châu - Hoà Bình, Bắc Hà – Lào Cai,… Du lịch
cộng đồng có dịch vụ homestay là hình thức mà khách du lịch lưu trú trong nhà dân, ăn ở,
sinh hoạt cùng với người dân bản địa, khám phá các giá trị của văn hoá địa phương và các
sản phẩm, hoạt động du lịch do người dân, cộng đồng địa phương và khách chi trả mọi chi
phí cho người dân trực tiếp làm các dịch vụ ăn ở, sinh hoạt,... Khách thường là những người
thích và luôn quan tâm khám phá các giá trị văn hoá bản địa còn nguyên sơ, mộc mạc, gần
gủi, giá trị mang tính cộng đồng....Thu nhập từ hoạt động du lịch sẽ mang lại lợi nhuận trực
tiếp cho các hộ dân tham gia tổ chức dịch vụ cũng như làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội
của bản – làng cộng đồng địa phương. Với tiềm năng về các giá trị văn hoá cộng đồng bản
địa đặc sắc, còn có tính nguyên sơ và từ thực tế phát triển của loại hình homestay và du lịch
cộng đồng ở một số tỉnh, vùng phía Tây Quảng Nam hoàn toàn có khả năng hình thành và
phát triển sản phẩm du lịch độc đáo này. Trong thời gian tới có thể nghiên cứu đầu tư phát
triển sản phẩm du lịch Homestay và du lịch cộng đồng ở một số làng như Aró xã Lăng, huyện
Tây Giang; làng T’ghêy xã A vương, huyện Tây Giang ; làng Tà Vàng (xã A Tiêng, Tây
Giang) ; làng Za Ra (xã TàBhing, huyện Nam Giang); làng Bhờ Hồông (xã sông Kôn, Đông
Giang)... Biến những làng này trở thành những ngôi nhà, công đồng mà khi đến đây khách
luôn cảm thấy ấm cúng, hấp dẫn, như ngôi nhà thứ hai của họ.
Khi đi dọc tuyến đường Hồ Chí Minh du khách sẽ được khám phá, chìm đắm trong một
không gian văn hoá bản địa đặc sắc, độc đáo, đa dạng nhưng vẫn còn giữ được giá trị nguyên
sơ. Những giá trị văn hoá ghi dấu những chiến tích lịch sử, những dấu ấn huy hoàng của
nhân dân đồng bào các dân tộc nơi đây, từ những sinh hoạt văn hoá cộng đồng như lễ hội,
phong tục tập quán đến kiến trúc, ẩm thực, âm nhạc,... Khám phá các địa danh nỗi tiểng như
làng Rô, Đồi E, cứ điểm Ngok Ta Vak, địa đạo A Nông, chiến thắng Khâm Đức, Bến Giằng,
Cầu Xơi, [4].. chứa đựng những giá trị về lòng yêu nước, về tinh thần quật cường của người
dân xứ Quảng. Đến với các làng văn hóa du khách còn được tham gia, chiêm ngưỡng khám
phá, sống trong những lễ hội, những điệu múa độc đáo, đặc sắc của cộng đồng các dân tộc
như Cơ tu, Gỉe triêng, Cadong... như lễ xin phép giàng, lễ chọn đất phát rẫy, lễ hội mừng lúa
mới, lễ chọn đất dựng làng, lễ xin đất dựng nhà, lễ khánh thành Gươl, lễ cưới, lễ hội đâm
trâu... Được khám phá, trải nghiệm những giá trị văn hoá, quan niệm, tín ngưỡng, tôn giáo,
tâm linh của cộng đồng được truyền tải và biểu hiện qua các điệu múa, cử chỉ, trang phục,...
Bên cạnh đó, khách còn được thưởng thức những món ẩm thực đặc sản của cộng đồng các
dân tộc nơi đây như rượu Tà vak, rượu Ba Kích, rượu cần, các món ăn dân giã, [6]....
Đến với vùng đất này du khách không chỉ được khám phá, đắm mình trong những giá
trị văn hoá bản địa mang tính cộng đồng sâu sắc mà còn có những sản phẩm làm quà lưu
niệm hết sức hấp dẫn như các sản phẩm dệt thổ cẩm (tấm đắp (tuốc), khố (cha lan), váy
(doóh)...với nhiều họa tiết, màu sắc sặc sỡ, hoa văn độc đáo) sản phẩm đan lát, mật ong rừng,
rượu Tà vạt, Tr’đin của người Cơtu, các loại nhạc cụ dân tộc [6]... của các dân tộc thiểu số
miền núi Quảng Nam. Đó không chỉ là những món quà từ miền núi mang về miền xuôi, khi
du khách trực tiếp quan sát, tham gia vào các công đoạn chế biến, tạo sản phẩm sẽ là một trãi
nghiệm thú vị không dễ gì quên sau chuyến hành trình kết thúc.
Sản phẩm du lịch sinh thái nghĩ dưỡng – leo núi - thể thao mạo hiểm. Phát triển các loại
hình du lịch thể thao leo núi mạo hiểm ở các đỉnh núi như Pôl Tăm Heo (Ngok Lum Heo)
2.045 mét, Ngok-Ti-On 2.032 mét, Pôl Gơlê Zang (núi Xuân Mãi) 1.834m, khám phám đỉnh
Ngọc Linh và thưởng thức các giá trị văn hóa – sinh thái sâm Ngọc Linh [5]. Hình thành các
điểm du lịch tham quan – sinh thái - thể thao – nghĩ dưỡng tại Thác Grăng, danh thắng nước
Lang, Đèo Lò Xo, thác Nước (thác Mô Ních), thác 5 tầng, Hòn Kẻm – Đá Dừng, suối nước
nóng Đắk Gà, Hồ Ban Mai, Đỉnh Quế;…; tham quan sinh thái tại các hồ thuỷ điện trên sông
Cái, sông Vàng, sông A Vương, sông Kôn, sông Bung, Sông Đăk My, Sông Trường, sông
Đắk Mét, suối Đăk Glon, Đăk Xa Oa, Đăk Xe...; loại hình tham quan nghiên cứu sinh thái
tại khu Bảo tồn thiên nhiên Sông Thanh, khu bảo tồn voi Quế Lâm, khu bảo tồn sao la Sông
Thanh. Đặc biệt, cần xây dựng hồ thuỷ điện Đăkmi 4C trở thành một điểm du lịch sinh thái
nghĩ dưỡng chính cho cả khu vực trên tuyến đường Hồ Chí Minh.
Sản phẩm ẩm thực phục vụ du lịch: thưởng thức hương vị vùng núi. Thưởng thực ẩm thực
được xem là một nhu cầu quan trọng xếp hàng thứ hai đối với mục đích đi du lịch của du
khách. Miền Tây Quảng Nam có cơ sở, điều kiện, tiềm năng để hình thành những sản phẩm
ẩm thực đặc trưng vùng núi cung cấp phục vụ nhu cầu của du khách trong thời gian tới. Vùng
này có các đặc ản nổi tiếng như món rau lủi (xào thịt bò, tỏi, luộc, nấu canh..), măng (măng
khô, xào, luộc, nấu canh..). Bên cạnh đó, vùng này cần phải nghiên cứu chuyển đổi mô hình
sản xuất theo hướng trang trại chăn nuôi các loại động vật hoang dã đã được nhân giống, lai
tạo và cho phép nuôi như heo rừng, heo thả rông, gà thả đồi, nuôi nhím, nuôi thỏ, nuôi ếch,
kỳ nhông, nuôi rắn, baba để hình thành các món “gà chỉ, thỏ chỉ, rắn chỉ, heo chỉ...” . Cùng
với các sản phẩm có thể thưởng thức tại chỗ, cũng cần nghiên cứu tạo các sản phẩm để khách
có thể mang về làm quà như các loại rượu (rượu cần, ba kích, tàvak,..), cơm lam, măng khô,
thịt khô xông khói (treo giàn bếp), rau lủi,.... Điều đặc biệt hơn, trong tương lai không xa,
khi hoạt động giao thông vận tải trên đường Hồ Chí Minh trở nên tấp nập nhộn nhịp hơn,
Khâm Đức hoàn toàn đủ điều kiện để trở thành trạm dừng nghĩ (ăn và nghĩ trưa - tối –
khuya..) của hành khách, của các hãng vận tải trên hành trình Bắc – Nam. Khi đó, hệ thống
khách sạn, nhà hàng, quán ăn sẽ rất phát triển nên việc định hướng sản phẩm ẩm thực phục
vụ đối tượng khách này là hết sức quan trọng.
Nếu một lần đi du lịch trên tuyến đường Hồ Chí Minh, du khách có thể dừng chân ở
Khâm Đức, Thạnh Mỹ, suối nước khoáng Đắk Gà, thác Găng...và trong bữa ăn, du khách
được thưởng thức thực đơn với các món ăn như rau lủi, măng rừng, bắp chuối, “gà chỉ, heo
chỉ, rắn chỉ, thỏ chỉ”,.., được ăn cơm lam, uống rượu đặc sản (rượu cần, ba kích, tàvak,..) và
sau bữa ăn còn có những món ăn mang về làm quà cho người thân thì chuyến du lịch sẽ trở
nên trọn vẹn, tuyệt vời.
3.4.Một số giải pháp phát triển du lịch
a. Giải pháp về cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng
+ Trước hết, cần xây dựng hệ thống các tuyến giao thông kết nối các điểm du lịch như
các làng truyền thống các dân tộc, hồ - thác nước, khu rừng, đỉnh núi, các trang trại, khu nghĩ
dưỡng, các điểm tham quan....với tuyến đường Hồ Chí Minh và các tuyến tỉnh lộ, kết nối với
các khu vực (Tây Nguyên, Đà Nẵng, Huế, Hội An, Lào qua cửa khẩu Đắk Ốc...) nhằm làm
tăng khả năng tiếp cận, tăng tính tiện lợi, an toàn, nhanh chóng khi khách muốn di chuyển,
tham quan, nghỉ dưỡng. Phát triển hệ thống các phương tiện vận chuyển phù hợp, đặc thù
miền núi như hệ thống xe buýt, xe du lịch (tự lái), mô tô cho thuê (cá nhân, du lịch “bụi”, du
lịch “phượt”), các loại thuyền (du lịch sông, hồ,..) và phát triển hệ thống các trạm tiếp nhiên
liệu, sửa chữa phương tiện, ứng cứu khẩn cấp cho khách...
+ Xây dựng hệ thống các cơ sở lưu trú dọc theo tuyến đường Hồ Chí Minh gắn liền với
các điểm tham quan, nghỉ dưỡng theo hình thức dạng trạm dừng nghỉ Motel, camping,.. có
quy mô vừa phải, được thiết kế theo kiến trúc truyền thống địa phương, trên khoảng cách
khoảng 50-70km/trạm nhằm phục vụ theo kiểu nhóm khách qua đêm trên hành trình (bao
gồm nghỉ ngơi, ăn uống ẩm thực địa phương). Đồng thời, phát triển hệ thống các trung tâm
lưu trú quy mô, hiện đại, đạt tiêu chuẩn tại các trung tâm các huyện như Khâm Đức, Thạnh
Mỹ, Brao,.. Các cơ sở lưu trú cần gắn liền với hệ thống nhà hàng, quán ăn phục vụ các món
ẩm thực truyền thống mang hương vị đặc trưng địa phương. Hệ thống thông tin liên lạc, viễn
thông cần được đảm bảo thông suốt, thường xuyên, cập nhật, tiện lợi đến tận các điểm du
lịch bởi khách du lịch luôn luôn muốn duy trì, kết nối liên lạc với người thân, cơ quan làm
việc, nắm được diễn biến các sự kiện chính trị, kinh tế - xã hội diễn ra trên thế giới hàng giờ, hàng ngày,...
b. Phát triển nhân lực du lịch và năng lực của cộng đồng
+ Trước hết, ở những huyện có tiềm năng và điều kiện, cần tách, thành lập các bộ
phận, phòng, trung tâm chuyên trách vấn đề quản lý, quy hoạch, xúc tiến, phát triển, thống
kê về du lịch và biên chế đội ngũ cán bộ phụ trách hoạt động du lịch ở địa phương.
+ Đối với người dân ở khu vực cần tổ chức các lớp tập huấn, huấn luyện kỹ năng,
nghiệp vụ theo kiểu “cầm tay chỉ việc, làm theo, làm thật” mang tính cụ thể, trực quan,
thường xuyên liên tục cho người dân ở các địa điểm phát triển du lịch. Việc huấn luyện người
dân tập trung vào những kiến thức, kỹ năng để làm được những việc cụ thể như hướng dẫn
viên, đón khách, phục vụ ăn uống, buồng, phòng; giao tiếp với khách, bán hàng lưu niệm,...
Trong đào tạo, bước đầu đào tạo ngoại ngữ giao tiếp cơ bản cho cho đội ngũ cán bộ quản lý,
nhân viên hoạt động kinh doanh du lịch, dịch vụ du lịch. Chú trọng đào tạo đội ngũ hướng
dẫn viên, thuyết minh viên có kiến thức sâu rộng về văn hóa truyền thống các dân tộc qua
những lớp đào tạo ngắn hạn, đưa các chuyên gia lên các huyện miền núi để bồi dưỡng kiến
thức, kỹ năng nghiệp vụ du lịch, sử dụng máy tính, tổ chức biểu diễn chương trình, xây dựng
văn hóa giao tiếp cho cán bộ của địa phương.
+ Việc đào tạo nguồn nhân lực cho vùng này cần tận dụng các chương trình mục tiêu
quốc gia như xây dựng nông thôn mới, chương trình phát triển 62 huyện nghèo nhất cả nước,
chương trình 134, 135, chương trình đào tạo 1 triệu lao động nông thôn và các dự án của các
tổ chức phi chính phủ như tổ chức Tầm nhìn thế giới, Ngân hàng thế giới, các quỹ phát triển
của châu Âu, Bỉ, Đan Mạch, Hà Lan, Lugxămbua,... hỗ trợ giảm nghèo ở các địa phương.
Đây sẽ là một nguồn lực tài chính quan trọng, những kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng
ở nhiều địa phương, nhiều nước nên phải tranh thủ và sử dụng một cách triệt để.
c. Đẩy mạnh xây dựng và quảng bá thương hiệu các sản phẩm du lịch
+ Việc xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm du cần thuê các chuyên gia, nhà tư
vấn chuyên nghiệp, các hãng truyền thông lớn để định hình các thương hiệu gắn với sản
phẩm cụ thể của vùng này như du lịch cộng đồng – Homestay Bờhoòng, Zara, Ating,... du
lịch sinh thái sông Thanh, du lịch văn hoá bản địa, lễ hội, ẩm thực núi rừng,.. Các thương
hiệu sản phẩm phải gắn liền với các chỉ dẫn địa lý (tên đất, tên làng, tên sông, suối,...) cụ thể
để khách có thể kiểm tra và giới thiệu.
+ Việc quảng bá các sản phẩm du lịch cụ thể cần thực hiện qua nhiều kênh khác nhau.
Trước hết, thực hiện quảng bá thông qua xuất bản các ấn phẩm du lịch (tờ rơi, sách hướng
dẫn, bản đồ, video giới thiệu, website…). Bên cạnh đó, cần tận dụng triệt để các tính năng
của internet, truyền hình cho công tác tiếp thị quảng bá các sản phẩm du lịch khu vực phía
Tây. Đây được xem là công cụ quảng bá hình ảnh không biên giới hiệu quả nhất nhưng giá
thành rẻ nhất hiện nay vì phần lớn (trên 80%) khách du lịch tìm hiểu điểm đến trước khi đi
du lịch thông qua internet. Các hình ảnh về điểm đến cần liên tục được cập nhật, làm mới,
các cam kết chất lượng và giá thành cần được tôn trọng, hình ảnh quảng bá và sản phẩm thật
phải có sự thống nhất.
+ Tham gia hội chợ, hội thảo, tuần lễ, tổ chức các sự kiện có tính khu vực và quốc tế,
tổ chức cho các đơn vị lữ hành khảo sát và mở các tuyến du lịch mới, hấp dẫn. Qua đó, giới
thiệu những sản phẩm du lịch đặc thù của vùng miền núi Quảng Nam dọc theo tuyến đường
cho các hãng lữ hành quốc tế và trong nước để cùng hợp tác đầu tư và phát triển. Một kênh
quảng cáo được xem là quan trọng nhất, chí phí rẻ nhất, có tác dụng lan toả lớn, lâu dài đó
chính là khách du lịch. Xem khách là một kênh quan trọng để chuyển tải các thông tin, thông
điệp, các hình ảnh, các sản phẩm du lịch đến mọi miền thế giới theo dạng “thông tin truyền
miệng, thông tin lan toả”.
d. Liên kết phát triển du lịch
Việc liên kết trong phát triển du lịch cần tập trung vào các phương thức và đối tượng
liên kết sau: liên kết giữa các quốc gia (Việt Nam – Lào – Campuchia – Thái Lan), các vùng
(Miền núi - đồng bằng ven biển, Tây Nguyên – Duyên hải Nam Trung bộ), các địa phương
trên tuyến (Đông Giang – Tây Giang – Nam Giang – Phước Sơn), liên kết với các doanh
nghiệp lữ hành và người dân địa phương nhằm tạo ra những sản phẩm du lịch đặc sắc nhất,
phục vụ nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch. Việc liên kết với các quốc gia, vùng miền,
địa phương sẽ tạo ra tính liên hoàn, sự đa dạng của các sản phẩm du lịch, làm cho chuyến đi
của du khách trở nên hấp dẫn hơn, thoả mãn được nhiều nhu cầu khác nhau của khách. Liên
kết với các đơn vị lữ hành ở Đà Nẵng, Huế, Hội An là vô cùng quan trọng bởi đây chính là
kênh dẫn, nguồn cung cấp khách du lịch cho tuyến du lịch này. Chính quyền địa phương và
các đơn vị lữ hàng cần phải có sự liên kết – cam kết một cách chặt chẽ trên các quan hệ lợi
ích nhất định nhằm đưa du lịch phía Tây phát triển.
Ngoài những giải pháp đã được đề cập ở trên, trong thời gian tới cần nghiên cứu áp
dụng một số giải pháp phát triển du lịch cho khu vực này như tiến hành xây dựng các tuyến
điểm du lịch hấp dẫn, xây dựng hệ thống bản đồ tuyến điểm (kết nối các điểm tuyến du lịch
trong và ngoài vùng, trong và ngoài tỉnh và với nước ngoài), công tác tổ chức, quản lý nhà
nước, phát triển sản phẩm du lịch đa dạng (tự nhiên, văn hoá, sinh thái, cộng đồng...), đảm
bảo vấn đề an ninh, an toàn cho khách, bảo vệ môi trường, tài nguyên du lịch … 4. KẾT LUẬN
Việc phân tích đã chỉ ra khu vực các huyện miền núi phía Tây Quảng Nam là địa bàn có
nhiều tiềm năng và sản phẩm du lịch có giá trị, có khả năng đáp ứng được xư hướng nhu cầu
đi du lịch của xã hội. Các tài nguyên và tiềm năng là nguyên liệu để hình thành các nhóm
sản phẩm du lịch độc đáo gắn với các điều kiện tự nhiên và giá trị văn hóa của các đồng bào
dân tộc ít người. Việc khai thác các tài tiềm năng chưa được thực hiện đồng bộ và chưa hiệu
quả. Để khai thác có hiệu quả, phát triển bền vững hoạt động du lịch ở khu vực này cần có
các giải pháp đồng bộ và sự tham gia của nhiều bên trong suốt quá trình dài hạn.
Investigate the potentials, identify some tourism products and suggest some solutions
to develop the sustainable tourism in moutainous districts in the West of Quang Nam Province Tran Van Anh, PhD. Quang Nam University
Abstract: This article focus on investigating some potentials, products and solutions
to develop the tourism in the Western regions of Quang Nam. Based on the result of field
research and documentary study, this article clearly analyzes some potentials, advantages
to promote the tourism in mountainous districts in the West of Quang Nam ; therefore, we
have identified main product groups, the development orientation in the future. The paper
also proposes solutions for rational, efficient and sustainable exploitation of tourism
resources in this region in order to contribution in poverty reduction, preservation of
cultural values and natural landscapes of ethnic minorities.

Keywords : Tourism, Community, Sustainable, Quang Nam, Moutainous.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Văn Anh, (2018), Xác định điểm, tuyến du lịch ở tỉnh Quảng Nam, Luận án Tiến sĩ
Đại học sư phạm Hà Nội
2. Lê Bá Thảo (1977), Thiên nhiên Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội
3. Nguyễn Minh Tuệ (2010), Địa lý du lịch Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội
4. Di tích danh thắng Quảng Nam, 2001
5. Quảng Nam – Thế và lực trong thế kỷ XXI, nhà xuất bản Lao động 2004.
6. Phong tục lễ Hội Quảng Nam, Nhà xuất bản Lao động, 2011.