-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Phân tích tính tất yếu và đặc trưng của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Liên hệ với Việt Nam | Bài tập lớn môn Chủ nghĩa xã hội Neu
Phân tích tính tất yếu và đặc trưng của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Liên hệ với Việt Nam | Tiểu luận môn Chủ nghĩa xã hội Neu được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học (LLNL1107)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45740413
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO & POHE --------------------- ---------------------- BÀI TẬP LỚN
MÔN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: Phân tích tính tất yếu và đặc trưng của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Liên hệ với Việt Nam.
Họ tên sinh viên: Phạm Tố Uyên
Mã sinh viên: 11207411 Khóa: 62
Lớp: Kinh doanh quốc tế TT 62B
Hà Nội, tháng 5 năm 2021 lOMoAR cPSD| 45740413 LỜI MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một đề tài lý
luận và thực tiễn rất cơ bản, quan trọng, nội dung rất rộng lớn, phong phú và phức
tạp, có nhiều cách tiếp cận khác nhau, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu rất công phu,
nghiêm túc, tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc, khoa học. Thời kỳ quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, từ quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác
- Lênin đến thực tiễn thế giới hiện nay, đã, đang và sẽ tiếp tục là vấn đề thu hút sự
quan tâm của các chính đảng, các nhà nghiên cứu thuộc những xu hướng chính trị
khác nhau. Với Việt Nam, khẳng định tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở nước ta hiện nay.
Như chúng ta đã biết, chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách: chủ nghĩa
xã hội là một học thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là
một chế độ. Mỗi tư cách ấy lại có nhiều biểu hiện khác nhau, tùy theo thế giới quan
và trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Chủ nghĩa xã hội đề cập ở đây
là chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên học thuyết Mác - Lênin trong thời đại ngày
nay. Vậy thì chúng ta phải định hình chủ nghĩa xã hội thế nào, và định hướng đi lên
chủ nghĩa xã hội thế nào cho phù hợp với hoàn cảnh, đặc điểm cụ thể ở Việt Nam?
Bài tiểu luận của em sẽ trình bày tính tất yếu và đặc trưng của thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Qua đó, liên hệ với thực tiễn Việt Nam, cho thấy thực tiễn công cuộc
đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua có ý nghĩa gì và đặt
ra vấn đề gì?. Do nhận thức và tầm hiểu biết còn non kém nên bài tiểu luận không
tránh khỏi những sai sót. Em hy vọng rằng sẽ nhận được những đóng góp và nhận
xét của cô giáo để bài được hoàn thiện hơn. Em chân thành cảm ơn ! lOMoAR cPSD| 45740413 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU
PHẦN 1: TÍNH TẤT YẾU CỦA THỜI KÌ QUÁ ĐỘ ............................................... 4
PHẦN 2: ĐẶC TRƯNG CỦA THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH ............................ 5
PHẦN 3: LIÊN HỆ VỚI VIỆT NAM ....................................................................... 8
3.1. Thực tiễn nước ta ................................................................................................ 8
3.2. Phương hướng phát triển .................................................................................... 9 KẾT LUẬN 3 lOMoAR cPSD| 45740413
PHẦN 1: TÍNH TẤT YẾU CỦA THỜI KÌ QUÁ ĐỘ
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được lý giải từ các căn cứ sau đây:
Một là, bất kỳ quá trình chuyển biến từ một xã hội này lên một xã hội khác đều nhất
định phải trải qua một hời kỳ gọi là thời kỳ quá độ. Đó là thời kỹ còn có sự đan xen
lẫn nhau giữa các yếu tố mới và cũ trong cuộc đấu tranh với nhau. Có thể nói đây là
thời kỳ của cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa cái cũ và cái mới mà nói chung theo
tính tất yếu phát triển lịch sử thì cái mới thường chiến thắng cái cũ, cái lạc hậu. Từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội không là ngoại lệ lịch sử. Hơn nữa, từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là một bước nhảy lớn và căn bản về chất so với
các quá trình thay thế từ xã hội cũ lên xã hội mới đã từng diễn ra trong lịch sử thì
thời kỳ quá độ lại càng là một tất yếu, thậm chí có thể kéo dài. Nhất là đối với những
nước còn ở trình độ tiền tư bản thực hiện thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì
“những cơn đau đẻ” này còn có thể rất dài với nhiều bước quanh co.
Hai là, sự ra đời của một xã hội mới bao giờ cũng có những sự kế thừa nhất định từ
những nhân tố do xã hội cũ tạo ra. Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là sự kế thừa đối
với chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là trên phương diện kế thừa cơ sở vật chất kỹ thuật đã
được tạo ra bởi sự phát triển của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên,
cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội mặc dù cũng là nền sản xuất đại công nghiệp
nhưng đó là nền sản xuất đại công nghiệp xã hội chủ nghĩa chứ không phải là nền
đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Do đó nó cũng cần phải có thời kỳ quá độ của
bước cải tạo, kế thừa và tái cấu trúc nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa.
Đối với những nước chưa từng trải qua quá trình công nghiệp hóa tiến lên chủ nghĩa
xã hội, thời kỳ quá độ cho việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội càng có thể kéo dài với nhiệm vụ trọng tâm của nó là tiến hành công nghiệp hóa 4 lOMoAR cPSD| 45740413
xã hội chủ nghĩa. Đó là một nhiệm vụ vô cùng to lớn và đầy khó khăn, không thể
“đốt cháy giai đoạn” được.
Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh trong lòng chủ
nghĩa tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, dù đã ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo ra những
điều kiện, tiền đề cho sự hình thành các quan hệ xã hội mới xã hội chủ nghĩa, đo vậy
cũng cần phải có thời gian nhất định để xây dựng và phát triển những quan hệ đó.
Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công việc mới mẻ, khó khăn và
phức tạp. Với tư cách là người chủ của xã hội mới, giai cấp công nhân và nhân dân
lao động không thể ngay lập tức có thể đảm đương được công việc ấy, nó cần phải
có thời gian nhất dịnh.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước có trình độ phát triển kinh tế - xã
hội khác nhau có thể diễn ra khoảng thời gian dài, ngắn khác nhau. Đối với những
nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển ở trình độ cao khi tiến lên chủ nghĩa xã
hội thì thời kỳ quá độ có thể tương đối ngắn. Những nước đã trải qua giai đoạn phát
triển chĩ nghĩa tư bản ở trình độ trung bình, đặc biệt là những nước còn ở trình độ
phát triển tiền tư bản, có nền kinh tế lạc hậu thì thời kỳ quá độ thường kéo dài với
rất nhiều khó khăn, phức tạp.
PHẦN 2: ĐẶC TRƯNG CỦA THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH
Đặc trưng nổi bật của thời kỳ quá dộ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là sự
tồn tại những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội
trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống kinh tế - xã hội. 5 lOMoAR cPSD| 45740413
* Trên lĩnh vực kinh tế
Thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần trong
một hệ thống kinh tế quốc dân thông nhất. Đây là bước quá độ trung gian tất yếu
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, không thể dùng ý chí để xóa bỏ ngay kết
cấu nhiều thành phần của nền kinh tế, nhất là đối với những nước còn ở trình độ
chưa trải qua sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được xác lập
trên cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất với
những hình thức tổ chức kinh tế đa dạng, đan xen hỗn hợp và tương ứng với nó là
những hình thức phân phối khác nhau, trong đó hình thức phân phối theo lao động
tất yếu ngày càng giữ vai trò là hình thức phân phối chủ đạo.
* Trên lĩnh vực chính trị
Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đa dạng, phức tạp, nên
kết cấu giai cấp của xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng phức tạp. Nói chung, thời
kỳ này thường bao gồm: giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức, những
người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản và một số tầng lớp xã hội khác tuỳ theo từng
điều kiện cụ thể của mỗi nước. Các giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau.
* Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều yếu tố tư tưởng và văn
hoá khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn tồn tại tư tưởng tư sản, tiểu
tư sản, tâm lý tiểu nông, V.V.. Theo V.I. Lênin, tính tự phát tiểu tư sản là “kẻ thù giấu
mặt hết sức nguy hiểm, nguy hiểm hơn so với nhiều bọn phản cách mạng công khai”. 6 lOMoAR cPSD| 45740413
Trên lĩnh vực văn hoá cũng tồn tại các yếu tố văn hoá cũ và mới, chúng thường
xuyên đấu tranh với nhau.
Thực chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ diễn
ra cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại không còn là giai cấp
thống trị và những thế lực chống phá chủ nghĩa xã hội với giai cấp công nhân và
quần chúng nhân dân lao động. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong điều kiện mới
là giai cấp công nhân đã nắm được chính quyền nhà nước, quản lý tất cả các lĩnh
vực đời sống xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp với những nội dung, hình thức mới,
diễn ra trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng - văn hóa, bằng tuyên truyền vận
động là chủ yếu, bằng hành chính và luật pháp.
Từ đó, có thể nói, thời kì quá độ là thời kì, xét trên mọi phương diện, còn tồn tại
nhiều yếu tố khác nhau, đối lập nhau, thâm nhập vào nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Tuy
nhiên, xét về xu hướng tất yếu, các yếu tố mang tính chất xã hội chủ nghĩa sẽ ngày
càng phát triển, nhưng không loại trừ khả năng ở những lúc, những nơi nhất định,
cái cũ tạm thời lấn át cái mới; trong đó tính tự phát TBCN còn có cơ sở rộng lớn.
Trình độ thấp trong sự phát triển kinh tế-xã hội của thời kỳ quá độ lên CNXH quy
định tính khó khăn, lâu dài của thời kỳ này. Trong quá trình đó, sự phát triển tiến bộ
có thể đan xen với những sự thoái lui tạm thời , những thử nghiệm, tìm tòi nhiều khi
phải làm đi, làm lại mới xác định được giá trị chân thật của nó trong quá trình xây dựng XH mới. 7 lOMoAR cPSD| 45740413
PHẦN 3: LIÊN HỆ VỚI VIỆT NAM
3.1. Thực tiễn nước ta
Từ Hội nghị Trung ương 1 Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 10-1930) đến Hội
nghị Trung ương 9 khóa VI Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 8-1990), TKQĐ luôn
được xác định là: “do được các nước XHCN giúp đỡ, nên bỏ qua giai đoạn phát triển
TBCN”, tức là nửa trực tiếp. Đại hội II Đảng Lao động Việt Nam (tháng 021951)
nêu rõ: TKQĐ ở Việt Nam có điểm xuất phát thấp hơn, cho nên lâu dài, khó khăn
hơn. Đại hội VI của Đảng (năm 1986) mở ra thời kỳ đổi mới, bắt đầu thực hiện đa
dạng hóa sở hữu - một trong những nội dung quan trọng nhất của NEP, nhưng vẫn
nêu TKQĐ ở nước ta là “bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.
Từ Đại hội VII của Đảng (năm 1991) đến nay, đường lối thực hiện TKQĐ được xác
định là “bỏ qua chế độ TBCN”, tức là TKQĐ gián tiếp, và được xây dựng, phát triển
ngày càng hoàn thiện. Hội nghị Trung ương 8 khóa VII (tháng 1-1995) khẳng định:
trong điều kiện không còn sự giúp đỡ của các nước XHCN, nhưng có thể tranh thủ
được nguồn lực từ hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế; bỏ qua chế độ TBCN, nhưng
kế thừa mọi thành tựu và kinh nghiệm của nhân loại, kể cả của CNTB. Đại hội IX
của Đảng nêu rõ, bỏ qua sự thống trị của QHSX TBCN, nhưng tiếp thu thành tựu
khoa học và công nghệ trong CNTB...
Hiện nay, để tiếp tục giữ vững, thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn với CNXH,
Việt Nam cần đẩy mạnh vận dụng sáng tạo, phát triển tư tưởng, đường lối của V. I.
Lênin về TKQĐ gián tiếp với một số điểm chú ý sau:
Thực tế thành công lẫn thất bại của CNXH hiện thực trên thế giới một thế kỷ qua
đều chứng minh lý luận của V. I. Lênin về TKQĐ gián tiếp là đúng đắn. Để phát
triển, tiến bộ nhanh, mạnh, bền vững, mà không lặp lại những hạn chế của CNTB, 8 lOMoAR cPSD| 45740413
các nước đang phát triển vẫn có thể và cần phải thực hiện TKQĐ này. Điều đổi mới
nhận thức về TKQĐ đó là bỏ qua chính trị TBCN, mà vẫn sử dụng, khai thác kinh
tế CNTB để phục vụ cho CNXH, đặc biệt là phát triển LLSX, kinh nghiệm quản lý,
trình độ khoa học - công nghệ... đồng thời với vai trò của nhà nước pháp quyền
XHCN sẽ điều tiết sự phát triển nhân văn hơn.
3.2. Phương hướng phát triển
Để giữ được bản chất và định hướng XHCN trong thực hiện đường lối về TKQĐ
gián tiếp, thì phải bảo đảm: một là, khi thực hiện, QHSX TBCN và giai cấp tư sản
tuyệt nhiên không thể trở thành thống trị; hai là, người đại diện (nhà nước XHCN)
cho chủ sở hữu (quần chúng nhân dân) không thể thay thế hoàn toàn chính người
chủ sở hữu này, để trở thành một chủ sở hữu mới trên thực tế. Những điều này phụ
thuộc vào việc, Đảng phải luôn kiên định và sáng tạo trong lãnh đạo thực hiện mục
tiêu, con đường lên CNXH dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng lý luận, đường lối chính trị của V. I. Lênin về TKQĐ
gián tiếp, cần kết hợp thống nhất, chặt chẽ, chuyển đổi linh hoạt, hợp lý hai chính
sách chủ yếu trên. Đồng thời, phải đổi mới, phát triển chúng phù hợp với điều kiện trong nước.
Như vậy, có thể nói, việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến
rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất
được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện,
nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh
được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực
của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng
được củng cố. Từ đó, khẳng định rằng quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư 9 lOMoAR cPSD| 45740413
bản chủ nghĩa ở Việt Nam đã góp phần minh chứng một chân lý của thời đại: “Độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” và sự lựa chọn đó của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, của Đảng của nhân dân ta là hoàn toàn phù hợp và đúng đắn. KẾT LUẬN
Quá trình xây dựng đất nước quá độ lên CNXH, có lúc Đảng ta đã phạm sai lầm
nghiêm trọng về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, nhưng với bản lĩnh khoa
học, Đảng ta đã nhận thức rõ những sai lầm khuyết điểm do nguyên nhân thiếu kinh
nghiệm và nhất là do chủ quan duy ý chí, vi phạm những quy luật khách quan, dẫn
đến khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Qua kiểm điểm, Đảng đã rút ra những
bài học kinh nghiêm sâu sắc, đồng thời, tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước, từng bước xác định rõ hơn con đường quá độ lên CNXH; quá trình đổi mới tư
duy, trước hết là tư duy về kinh tế, Đảng đã xác định rõ hơn phát triển kinh tế là
nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt và đã thu được những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Như vậy, cả từ phương diện lý luận, cả từ phương diện thực tiễn vận động của lịch
sử nhân loại suốt thế kỷ XX, thập niên đầu thế kỷ XXI và đặc biệt từ thực tiễn lịch
sử đấu tranh giải phóng, xây dựng đất nước ở Việt Nam, việc nước ta quá độ lên
CNXH bỏ qua chế độ TBCN là một tất yếu khách quan, là hoàn toàn phù hợp với xu
thế của thời đại, với đặc điểm lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam, đáp ứng đúng
khát vọng của nhân dân ta.
Là một sinh viên trong Đại học Kinh tế quốc dân, được trang bị một nền tảng kiến
thức vững chắc và nhận biết được tầm quan trọng của việc đổi mới, những lợi ích
của TKQĐ đi lên CNXH, em vẫn luôn cố gắng rèn luyện và chau dồi kiến thức để
bản thân có những đóng góp tích cực trong tương lai, góp phần xây dựng đất nước.
Nhìn lại 30 năm đổi mới từ năm 1986 – 2016, Đảng ta đánh giá: “Đất nước ra khỏi 10 lOMoAR cPSD| 45740413
khủng hoảng kinh tế – xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát
triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. 11