-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Phân Tích Trao Duyên - Biên tập sách văn học | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
MB: Nguyễn Du là nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa tiêu biểu của văn học Việt Nam. Ông có đóng góp to lớn đối với văn học dân tộc, đặc biệt nhất là kiệt tác Truyện Kiều. Đoạn trích "Trao duyên" từ câu 723 đến câu 756 trong phần "Gia biến và lưu lạc", tái hiện lại cuộc trò chuyện của chị em Thúy Vân Thúy Kiều. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !
Biên tập sách văn học 5 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.3 K tài liệu
Phân Tích Trao Duyên - Biên tập sách văn học | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
MB: Nguyễn Du là nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa tiêu biểu của văn học Việt Nam. Ông có đóng góp to lớn đối với văn học dân tộc, đặc biệt nhất là kiệt tác Truyện Kiều. Đoạn trích "Trao duyên" từ câu 723 đến câu 756 trong phần "Gia biến và lưu lạc", tái hiện lại cuộc trò chuyện của chị em Thúy Vân Thúy Kiều. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !
Môn: Biên tập sách văn học 5 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
Phân tích Trao duyên
MB: Nguyễn Du là nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa tiêu biểu của văn học Việt Nam. Ông có
đóng góp to lớn đối với văn học dân tộc, đặc biệt nhất là kiệt tác Truyện Kiều. Đoạn trích
"Trao duyên" từ câu 723 đến câu 756 trong phần "Gia biến và lưu lạc", tái hiện lại cuộc
trò chuyện của chị em Thúy Vân Thúy Kiều. Gia đình gặp hoạn nạn, Thúy Kiều đành bán
mình chuộc cha, trong tình cảnh đó, biết mình không thể giữ trọn lời thề thủy chung với
Kim Trọng, nàng Kiều đành phải trao lại tấm chân tình cho Thúy Vân, nhờ em làm tròn
bổn phận, giữ trọn lời hứa của mình với người yêu. TB:
Lời nhờ cậy và thuyết phục Thúy Vân của Thúy Kiều ( 12 câu thơ đầu )
Mở đầu cho chuỗi ngày bất hạnh, lưu lạc của cuộc đời Thúy Kiều sau gia biến. Kiều nghĩ
mình không giữ trọn lời đính ước với người yêu nên đã nhờ cậy em là Thúy Vân thay
mình trả nghĩa cho chàng Kim. 12 câu đầu đoạn trích thể hiện hoàn cảnh trao duyên, bi
kịch tình yêu, thân phận bất hạnh cùng nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều.
Hai câu thơ đầu là lời Thúy Kiều nhờ cậy Thúy Vân bằng lời lẽ thỉnh cầu:
“… Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. “
Từ “em” được nhắc đi nhắc lại hai lần, đi liền với từ “cậy”, “chịu” và cử chỉ kì lạ là
“ngồi lên”, “lạy”, “thưa” khiến cho lời nhờ cậy trở nên tha thiết, đưa Thúy Vân đến với
không gian trang trọng, thiêng liêng của buổi trao duyên. Thúy Kiều đã dùng chữ “cậy”
thay cho chữ “nhờ” khiến cho lời lẽ trở nên tha thiết và có sức nặng đồng thời thể hiện sự
tin tưởng tuyệt đối của nàng dành cho em. Chữ “ chịu ” giống chữ “nhận” nghĩa là đồng
ý, nhưng từ “ chịu “ mà Thúy Kiều đã sử dụng hết sức tinh tế, thanh điệu nặng nề vừa
thuyết phục vừa tin cậy gửi gắm với thái độ tình cảm khẩn thiết, van nài, đặt người được
nhờ vào tình thế không thể từ chối. Với hành động “ ngồi lên “_” lạy “_” thưa “ của Thúy
Kiều thể hiện sự nghịch lí bất thường kính cẩn, chỉ thái độ kính trọng của người dưới là
Thúy Kiều đối với người trên là Thúy Vân, nhằm tỏ lòng biết ơn trước sự hi sinh to lớn
và cao quý của em gái mình. Đồng ý thay Kiều trả nghĩa và để đền đáp tình cảm cho Kim Trọng.
Sau đó, Thúy Kiều bắt đầu giãi bày lí do cho những hành động trước đó của mình cho em
hiểu và nàng tâm sự cùng em:
“ Giữa đường dứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em. CHEESEbeo : > 1
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề. “
Hình ảnh ẩn dụ với câu thành ngữ " giữa đường đứt gánh tương tư " tức là chuyện tình
yêu dù mới chớm nở nhưng không thể đơm hoa kết trái bởi sóng gió ập đến đầy dang dở,
đầy bất hạnh của Thúy Kiều và Kim Trọng. Nàng đã mượn điển tích “ keo loan ” để nói
lên ý định muốn nhờ Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng. Hình ảnh “mối tơ
thừa ” là cách nói nhún mình của Thúy Kiều bởi nàng cảm thấy có lỗi, day dứt vô cùng
khi đẩy Vân vào thế bị động như mình ép duyên “ mặc em ” phải nhận. Ở câu thơ tiếp
theo, Kiều đã liệt kê ra những kỉ niệm của Thúy Kiều và Kim Trọng từ gặp gỡ_đính
ước_thề nguyền, những hành động “quạt nước “, “ chén thề “ và phép đối “ ngày>< đêm
“ đã nói lên được mối tình trong sáng, đẹp đẽ, cảnh tượng vô cùng lãng mạn, sắt son như
vừa mới hôm qua của hai người.
Ở 6 câu thơ tiếp theo, Kiều đã nói lên những lí do khiến nàng phải trao duyên cho em:
“ Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai. “
Hạnh phúc không được bao lâu thì gia đình Kiều gặp biến cố lớn “ sóng gió bất kì “ khiến
Kiều đau khổ, xót xa cho bi kịch tình yêu. Kiều buộc phải chọn 1 trong 2 con đường là “
hiếu ” và “tình” nhưng không thể làm khác được vì Kiểu chọn chữ hiếu nên phải dứt tình,
đành trao lại mối duyên này cho em. Trong đoạn thơ này, Kiều đã gợi ra tình cảnh ngang
trái, khó xử của mình để Vân thấu hiểu:
“ Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non. “
Kiều đã an ủi Vân bởi lí do Vân còn trẻ, tuổi xuân còn dài, còn cả tương lai phía trước,
đồng thời lay động ở Vân tình cảm chị em máu mủ, ruột thịt, giúp đỡ nhau là chuyện nên
làm khiến Vân khó lòng chối từ. Và Kiều đã cố gắng dùng mọi lí lẽ để thuyết phục em:
“ Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây. “
Nàng thậm chí còn viện cả cái chết của mình ra để nói lên sự toại nguyện, Kiều đã sử
dụng câu thành ngữ “thịt nát xương mòn ” và “ Ngậm cười chín suối ” để nói về cái chết
đầy mãn nguyện nếu Vân nhận lời thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Mặc cho sang thế
giới bên kia không còn nguyên vẹn thì Kiều cũng cảm thấy “ thơm lây “ cái sự hi sinh của
em gái cho mình. Lời thỉnh cầu của Kiều vừa chân thành, vừa thuyết phục, vừa thiết tha, CHEESEbeo : > 2
vừa ràng buộc, đưa Vân đến tình thế mặc nhiên phải chấp nhận. Cách lập luận hết sức
chặt chẽ, thấu tình cho thấy Thúy Kiều là người sắc sảo tinh tế, có đức hi sinh, một người
con hiếu thảo, trọng tình nghĩa cả trong bi kịch đau đớn nhất của mình. Tiểu kết:
- Nghệ thuật: Sử dụng các điển tích, điển cố, các thành ngữ dân gian, ngôn ngữ tinh tế,
chính xác giàu sức thuyết phục, lập luận chặt chẽ.
- Nô ̣i dung: là diễn biến tâm trạng phức tạp của Kiều trong lúc nói lời trao duyên
Kiều trao kỉ vật và dặn dò Vân ( 14 câu thơ tiếp theo )
Đoạn trích "Trao Duyên" trong Truyện kiều là một đoạn trích thể hiện bi kịch tan vỡ,
dang dở tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng. Nếu như ở 12 câu đầu Thúy Kiều nhờ
cậy em gái Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng thì ở 14 câu tiếp theo, Thúy Kiều đầy xót
xa đau đớn mà trao kỉ vật cho Thúy Vân và nhờ cậy em chuyện mai sau.
Khi đã trao duyên xong nàng như cảm thấy được những tâm trạng đang bủa vây đến
nàng. Nàng đã hoàn thành xong cái đền đáp ơn nghĩa với Kim Trọng nhưng lòng lại thấy
buồn vì vừa trao đi, mất đi một tình yêu đầu êm đềm, vừa mới chớm nở. Khi thấy Vân đã
cảm thông, Kiều lấy kỉ vật tình yêu giữa mình và Kim Trọng ra trao cho em gái:
"Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa"
Thúy Kiều từ từ trao lại những kỉ vật đơn sơ mà thiêng liêng của tình yêu hai người là "
chiếc vành ", ' bức tờ mây '' rồi đến ' phím đàn'', ''mảnh hương nguyền'' cho Thúy Vân,
Kiều vừa trao vừa ngập ngừng ngắm nghía lại từng kỉ vật, làm gợi lại từng kỉ niệm với
nỗi lòng nuối tiếc khôn nguôi cho một mối tình tươi thắm ngày nào. Mỗi món đều gắn
với một kỉ niệm, ý nghĩa, là nhân chứng cho một tình yêu hạnh phúc, là lời thề nguyền
gắn bó trăm năm..., gắn liền với những ngày đẹp nhất đời Kiều đều gửi gắm tất cả lại cho
Thúy Vân với mong muốn ''Duyên này thì giữ vật này của chung'' thể hiện tâm trạng rối
bời, sự giằng xé, mâu thuẫn giữa tình cảm và lí trí trong Thúy Kiều khi trao kỉ vật nhưng
vẫn luyến tiếc và mong rằng nó sẽ là “ của chung “ không muốn rời xa. Nguyễn Du đã
cho chúng ta thấy được cảm xúc đau buồn của nàng Kiều khi phải trao lại những kỉ vật ấy
một cách đầy luyến tiếc cho em gái mình.
Nàng nhắn nhủ với Vân bằng hình ảnh đối lập “ nên vợ nên chồng >< người mệnh bạc “.
Kiều tự cho mình là “ người bạc mệnh “ đã làm tăng thêm nỗi xót xa, thổn thức đầy nuối CHEESEbeo : > 3
tiếc, đau đớn não nề của Kiều. ''Mất người còn chút của tin'' Kiều chỉ có thể trao duyên
còn tình nàng vẫn không thể trao, đau đớn, mâu thuẫn đến nỗi nghĩ tới cái chết.
Sau khi trao kỉ vật cho Thúy Vân, tâm trạng của Kiều sau khi trao duyên là quá đắng cay
cho số phận của mình. Thúy Kiều đã trốn chạy khỏi thực tại đau buồn, phũ phàng, hướng
tới tương lai, một tương lai đen tối, thảm thương, mù mịt trong dự cảm và tưởng tượng rằng mình đã chết:
“ Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai. ”
Đối thoại với Vân, Kiều đã sử dụng hàng loạt các từ ngữ, hình ảnh gợi đến cái chết với
âm điệu chập chờn, hư ảo. Thời điểm không xác định ''mai sau'', ''bao giờ''. Khoảng khắc
linh thiêng ''đốt lò hương'', ''so tơ phím''. Hình ảnh phất phơ, ma mị ''ngọn cỏ lá cây'', từ
láy ''hiu hiu '' gợi ra viễn cảnh tương lai u tối, ảm đạm của Kiều, tạo không khí u buồn, bi
thương,. Thể hiện một dự cảm không lành về tương lai, sự tuyệt vọng tột cùng. Kiều
tưởng tượng ra cảnh mình chết oan, chết hâ ̣n. Hồn không sao siêu thoát được bởi trong
lòng đang “ mang nặng lời thề “ vẫn mong muốn, khát khao được theo làn gió nhẹ ''hiu
hiu'' trên ''ngọn cỏ lá cây'' để trở về cõi thế gặp lại và “ đền nghì trúc mai ” ý là sự đền
ơn đáp nghĩa về tình yêu đôi lứa đối với Kim Tro ̣ng , cho thấy được sự đau đớn, đầy
tuyệt vọng của Kiều, đồng thời thể hiện tấm lòng thủy chung một lòng hướng về Kim
trọng của Kiều. Nàng trở nên cô đơn, tuyệt vọng, dự cảm được tương lai đầy bất hạnh của
chính mình. Nghĩ đến đấy, Thúy Kiều tha thiết dặn dò em:
“ Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rưới xin giọt nước cho người thác oan. “
''Dạ Đài" là nơi âm phủ tăm tối, trong cảnh ngộ ''cách mặt khuất lời'' linh hồn Thúy
Kiều vẫn khao khát nhận được sự cảm thông, tưởng nhớ của những người mình yêu
thương nên chỉ xin Thúy Vân “ Rưới xin giọt nước “ để làm phép tẩy oan cho Kiều. Điều
đó chứng tỏ Thúy Kiều vẫn khao khát muốn được trở về cõi thế để chứng minh tình yêu
bất diệt của mình cho Kim Trọng. Hồn của nàng còn ‘mang nặng lời thề’ nên dù có chết
đi cũng chẳng thể siêu thoát. Nàng đau đớn, sợ hãi trước tương lai mù mịt trước sự giằng
xé đầy bi kịch trong cuộc đời mình.
Nhịp điệu thơ chậm, dằn vặt về tâm trạng day dứt thê thảm, nửa tỉnh nửa mê của Thúy Kiều. CHEESEbeo : > 4 Tiểu kết:
- Nghê ̣ thuâ ̣t: Cách sử du ̣ng từ ngữ, hình ảnh giàu giá tri ̣ biểu cảm, đô ̣c thoa ̣i nô ̣i tâm.
- Nô ̣i dung: Đoạn trích là những dòng thơ thể hiện bi kịch tình yêu trong Truyện Kiều.
Qua đó, bộc lộ phẩm chất cao quý của Thúy Kiều trong tình yêu. Trước sự tan vỡ của
tình yêu mà nàng đã làm tất cả những gì có thể để người mình yêu được hạnh phúc nhưng
người đau khổ nhất vẫn là nàng khi mô ̣t khối mâu thuẫn lớn trong tâm tra ̣ng Thúy Kiều
lúc trao kỉ vâ ̣t cho em mà lời gửi trao chất chứa bao đau đớn, giằng xé và chua chát của nàng.
Kiều trở về thực tại đau xót khi nhớ tới Kim Trọng ( 8 câu cuối )
Sau giây phút trao duyên cho em gái Thúy Vân vô cùng đau đớn, Kiều rơi vào nỗi tuyệt
vọng đến cùng cực, nàng nghĩ về Kim Trọng và càng đau xót hơn. Nỗi đau đó được thể
hiện sâu sắc qua 8 câu thơ cuối trong đoạn trích “Trao duyên”.
Trong sự tột cùng của nỗi đau khổ và tuyệt vọng, Kiều trở về với thực tại đau xót khi nhớ
tới Kim Trọng. Với nàng, Kim Trọng là tất cả, là niềm tin, hi vọng, là niềm an ủi, chia sẻ
với nàng mọi điều. Tuy nhiên, Kim Trọng lại đang ở cách nàng rất xa, bởi thế cuộc đối
thoại này với Kim Trọng chỉ là độc thoại trong tưởng tượng của Kiều. Nàng cất lên lời
than vô cùng chua xót, đau đớn trước thực tại phũ phàng, đau đớn, xót xa cho tình yêu
dang dở, tan vỡ, mãi mãi không thể hàn gắn của mình:
“ Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân ! “
“Bây giờ” của Kiều là “trâm gãy gương tan “. Hình ảnh ước lệ với câu thành ngữ “Trâm
gãy gương tan” thể hiện nỗi đau đột ngột, sự tan vỡ của tình yêu, càng nhấn mạnh sâu sắc
về cuộc đời đầy bi kịch hiện tại của Thuý Kiều. Thực tại đó hoàn toàn đối lập với quá
khứ hạnh phúc, đẹp đẽ không sao kể xiết mà nàng đã có "muôn vàn ái ân". Quá khứ giờ
đây đã trở thành niềm khát khao mãnh liệt của Kiều. Tình yêu của nàng với Kim Trọng
ngày càng tha thiết thì nỗi đau, sự dằn vặt trong trái tim nàng càng mạnh mẽ, càng đớn
đau hơn. Lời tạ tội của Kiều đầy thương tâm:
“ Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi !
Phận sao phận bạc như vôi !
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng. "
Câu thơ “Trăm nghìn gửi lại tình quân” thể hiện sự day dứt, giày vò, biểu hiện tình yêu
cao đẹp Kiều dành cho Kim Trọng và sự biết ơn sâu nặng, lời vĩnh biệt nghẹn ngào tức
tưởi của Kiều. Nàng gọi Kim Trọng là “ tình quân “ ý là để gọi người yêu, nhưng như CHEESEbeo : > 5
một lời than thở của nàng cho “ phận bạc như vôi “, nàng phải cam chịu số phận đớn đau
xót xa cho “tơ duyên ngắn ngủi” của mình.Ở câu ” nước chảy hoa trôi lỡ làng " đã cho
thấy hiện tại thảm khóc, mất mát, không thể hàn gắn của Kiều đối với Kim Trọng.
Cuối đoạn thơ, mặc dù Kiều đã giãi bày hết nỗi khổ tâm riêng của mình với Thúy Vân và
đã nhờ em trả nghĩa cho Kim Trọng nhưng những đau khổ vì tình duyên tan vỡ trong tâm
trí nàng vẫn không nguôi, vẫn còn mang nặng nợ tình với Kim Trọng. Nỗi đau dâng trào,
bao nhiêu tình cảm dồn nén khiến nàng phái thốt lên lời xin lỗi đầy đau đớn của mình đến Kim Trọng:
“ Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây! “
Câu thơ trên được ngắt nhịp 3/3, đọc lên như tiếng nấc, để rồi đến câu thơ dưới nhịp thơ
dài ra như một lời than. Nếu như trong đoạn trên Kiều gọi Kim Trọng là người yêu, thì
đến đây lại chuyển cách xưng hô là “Kim lang” nghĩa là chồng. Kiều đối với Kim Trọng
gắn bó, thương yêu sâu đậm như chồng. Tình cảm của nàng bộc lộ theo mức độ tăng dần
cùng đó là nỗi đau xót ngày một lớn, không thể dồn nén thêm nữa. Những từ cảm than "
ôi “, ” hỡi " là tiếng kêu xé lòng, đầy khắc khoải và tuyệt vọng của Kiều, thể hiện đỉnh
điểm cuả nỗi đau, sự nghẹn ngào của Kiều trong lời độc thoại mang theo lời trăn trối cuối
cùng gửi đến chàng Kim trước lúc đi xa. “Thiếp đã phụ chàng” cho ta thấy Kiều tự nhận
lỗi về mình, cho rằng mình đã “ phụ “ Kim Trọng nên vô cùng day dứt. Tiểu kết
- Nghê ̣ thuâ ̣t: Sử du ̣ng từ ngữ biểu cảm, thành ngữ, câu cảm thán để tăng tính gợi cảm
- Nô ̣i dung: Tâm tra ̣ng đau đớn đến cùng cực của Thúy Kiều khi hường về tình yêu của
mình và Kim Tro ̣ng. Đã khắc họa hình ảnh Thúy Kiều nhỏ bé, đầy bất hạnh trước thực tại
và sự sắp đặt trớ trêu của số phận.
KB:-NT: Qua nghệ thuật miêu tả nội tâm tài tình của Nguyễn Du thông qua lời đối
thoại và độc thoại nô ̣i tâm, cách sử du ̣ng từ ngữ, hình ảnh giàu giá tri ̣ biểu cảm được thể
hiện tinh tế, khắc họa sinh động, sâu sắc và đầy xúc cảm tâm trạng, nỗi đau và tâm hồn của Thúy Kiều.
-ND: Đoạn trích thể hiện bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp
của Thúy Kiều. Và đã khắc họa một nỗi đau mà khó ai có thể thấu hiểu cua Thúy Kiều,
bằng tài năng miêu tả tài tình của Nguyễn Du, đã gián tiếp tố cáo XH phong kiến đã chà
đạp nhân phẩm của người con gái thong qua nhân vật Kiều. Qua đoạn trích chúng ta cũng
thấy được một giá trị nhân văn sâu sắc, thể hiện một niệm khát khao có được hạnh phúc của con người. CHEESEbeo : > 6