lOMoARcPSD| 59256994
lOMoARcPSD| 59256994
DẪN LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, là sự hòa quyện của các giá trị truyền
thống dân tộc Việt Nam và tinh hoa văn hóa nhân loại. Trong hệ thống quan điểm triết luận
và sâu sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh, "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" là một luận
điểm mang tính chân lý, có giá trị về cả mặt lý luận và thực tiễn. Nó đã được khắc sâu, in
đậm vào con tim, khối óc của mọi người dân Việt Nam, trở thành niềm tin, lẽ sống, mục
tiêu và động lực chiến đấu của toàn thể nhân dân Việt Nam, đồng thời tư tưởng đó còn là
nguồn cổ vũ, động viên to lớn đối với nhân loại tiến bộ, đặc biệt đối với các dân tộc bị áp
bức trên toàn thế giới.
Ngày nay, khi xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển đang là xu thế chủ đạo, nước ta
đã lặng tiếng súng nhưng cùng lúc đó, cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp trên thế
giới có nhiều diễn biến phức tạp, càng đòi hỏi chúng ta cần phải chiêm nghiệm
tìm hiểu kỹ hơn tưởng "Không quý hơn độc lập, tự do" của Người. Trong khuôn
khổ bài luận này, xin được … về Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, từ đó phân tích
về luận điểm "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" và liên hệ với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam hiện nay.
lOMoARcPSD| 59256994
3
NỘI DUNG
CHƯƠNG I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
Theo triết học Mác Lênin, dân tộc sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của
lịch sử. Từ sớm, những hình thức cộng đồng người như thị tộc, bộ tộc, bộ lạc,... đã xuất hiện
nhưng chỉ khi chủ nghĩa bản ra đời thì “dân tộc” mới được hình thành theo đúng nghĩa
của nó. Khi chủ nghĩa tư bản phát triển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa thì vấn đề dân tộc thuộc địa sản sinh phát triển gay gắt đòi hỏi phải được giải
quyết. Lênin cho rằng chỉ cách mạng sản và chủ nghĩa xã hội trên sở thủ tiêu ách
áp bức giai cấp và áp bức dân tộc mới tạo điều kiện để giải phóng cho các dân tộc thuộc địa,
giúp cho các dân tộc thuộc địa thực hiện quyền dân tộc tự quyết và các quyền thiêng liêng
khác.
Đối với Hồ Chí Minh, dân tộc Người đề cập có nội hàm: Dân tộc quốc gia. Người
thường dùng khái niệm: Đồng bào Việt Nam (con cùng một mẹ, theo sự tích Lạc Long Quân
Âu Cơ) để nói rằng, các dân tộc trên đất nước Việt Nam đều chung một nguồn cội:
“Con Rồng, cháu Tiên; con Lạc cháu Hồng” đều anh em một nhà, con cháu của các vua
Hùng. Trên cơ sở quan điểm của các nhà kinh điển Mác - Lênin về vấn đề dân tộc, cũng như
căn cứ vào nh hình thực tiễn Việt Nam các thuộc địa khác, HChí Minh đã xây dựng
nên một hệ thống luận điểm phổ quát về vấn đề dân tộc thuộc địa như sau:
1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc
tưởng Hồ Chí Minh về quyền tự do độc lập cội nguồn trước hết từ truyền
thống từ lịch sử hàng ngàn năm dựng và giữ nước của dân tộc Việt Nam ta, vốn gắn liền với
truyền thống yêu nước, đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Tất cả thhiện một khát khao to
lớn của dân tộc ta là về nền độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân.
Cách đây một thế kỷ, ngày 18/6/1919, nhân hội các nước đồng minh thắng trận
trong Chiến tranh thế giới thứ nhất họp Hội Nghị Vécxây (Pháp), Tổng thống Mỹ V.Wilson
đã kêu gọi trao quyền tự quyết cho các n tộc tn thế giới. Thay mặt nhóm những người
yêu nước Việt Nam tại Pháp, Hồ Chí Minh đã gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân
An Nam. Tuy không được đưa vào chương trình nghị sự, nhưng đây là lần đầu tiên, Nguyễn
Ái Quốc đã lần đầu công khai, trực diện thỉnh nguyện tới những nhà lãnh đạo trong hệ thống
bản thế giới về quyền tự do, dân chủ, quyền sống, quyền làm người tôn trọng dân tộc
đối với người An Nam.
lOMoARcPSD| 59256994
4
Về sau, trong Chánh cương vắn tắt của Đảng năm 1930, Hồ Chí Minh cũng đã xác
định mục tiêu chính trị của Đảng là:
“ a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. b)
Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”.
Khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, trong Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí
Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng tuyên bố trước quốc n đồng bào thế giới
rằng: “Nước Việt Nam quyền hưởng tự do độc lập, sự thực đã thành một nước tự
do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và
của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Ý chí và quyết tâm trên còn được thể hiện trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ. Trong thư gửi Liên hợp quốc năm 1946, một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng định:
“Nhân dân chúng tôi thành thật mong nuốn hoà bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên
quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho
Tổ quốc và độc lập cho đất nước”.
Khi thực dân Pháp tiến hành xâm ợc Việt Nam lần thứ hai, trong Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến ngày 19-12-1946, Người ra lời hiệu triệu, thể hiện quyết tâm sắt đá, bảo
vệ cho bằng được nền độc lập dân tộc - giá trị thiêng liêng mà nhân dân Việt Nam mới giành
được: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chnhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ”.
Năm 1965, đế quốc Mỹ tăng cường mở rộng chiến tranh Việt Nam: ồ ạt đưa quân
viễn chinh Mỹ, chư hầu vào miền Nam tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục bộ” gây
chiến tranh phá hoại miền Bắc. Trong hoàn cảnh khó khăn, chiến tranh ác liệt đó, Hồ Chí
Minh đã nêu lên một chân lý thời đại, một tuyên ngôn bất hủ của các dân tộc khao khát nền
độc lập, tự do trên thế giới “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Với tư tưởng trên của Hồ
Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã anh dũng chiến đấu, đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược,
buộc chúng phải kết Hiệp định Paris, cam kết tôn trọng các quyền dân tộc bản của
nhân dân Việt Nam, rút quân Mỹ về nước.
2. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc của nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tự do của nhân dân. Bằng lý lẽ đầy
thuyết phục, trong khi viện dẫn bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng
Pháp năm 1791 “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn được tự do
và bình đẳng về quyền lợi”, Hồ Chí Minh khẳng định dân tộc Việt Nam đương nhiên cũng
phải được tự do và bình đẳng về quyền lợi: “Đó là lẽ phải không ai chối cãi được”.
lOMoARcPSD| 59256994
5
Cụ thể hơn cả, độc lập cũng phải gắn với cơm no, áo ấm và hạnh phúc của nhân dân.
Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trong hoàn cảnh nhân dân đói rét,
mù chữ, Hồ Chí Minh yêu cầu: “Chúng ta phải….
Làm cho dân có ăn.
Làm cho dân có mặc.
Làm cho dân có chỗ ở.
Làm cho dân có học hành”.
Có thể thấy rằng, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, Người
luôn coi độc lập gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm cho nhân dân, như Người từng bộc bạch
đầy tâm huyết: “Tôi chỉ một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, làm sao cho nước ta
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành”.
Cũng như Tôn Trung Sơn, Hồ Chí Minh đã lấy dân tộc độc lập” làm ởng cho
hành động của Người. Nhưng hơn thế, Hồ Chí Minh lại phấn đấu xây dựng một nnước
của dân, do dân, vì dân, mọi quyền lợi hạnh phúc đều thuộc về nhân dân. Người quan niệm
nhà nước ấy mới thực hiện được sự phát triển hài hoà giữa cá nhân hội, giữa độc lâp
dân tộc với tự do và hạnh phúc của con người. Hồ Chí Minh nói: “Độc lập dân không
được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không nghĩa gì”. Do đó, giành độc lập
rồi phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa hội chnghĩa hội “là làm sao cho dân giàu,
nước mạnh”, mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng tự do. Sự phát triển đất nước
theo con đường xã hội chủ nghĩa là một đảm bảo vững chắc cho nền độc lập của dân tộc.
3. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
Khi chủ nghĩa đế quốc thực hiện chính sách xâm lược, biến nhiều quốc gia châu Á,
châu Phi khu vực MLa-tin, chúng đã tự cho mình dân tộc “thượng đẳng”, mẫu
quốc”, “đi khai hóa văn minh” cho các dân tộc “lạc hậu” để rồi tuyên truyền cái gọi là “độc
lập tự do” giả hiệu cho nhân dân các nước thuộc địa. Nhưng thực chất, tất cả nhằm che đậy
bản chất “ăn cướp” và “giết người” của chúng.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để trên
tất cả c lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, ngoại giao, về chủ quyền quốc gia và
toàn vẹn lãnh thổ. Nền độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn phải được thực hiện một cách triệt
để theo nguyên tắc: Nước Việt Nam của người Việt Nam, mọi vấn đề thuộc về chủ quyền
quốc gia phải do nhân dân Việt Nam tự giải quyết, không có sự can thiệp của nước ngoài.
Trên tinh thần đó, trong hoàn cảnh đất nước ta sau Cách mạng Tháng Tám còn gặp
nhiều khó khăn, để bảo vnền độc lập thật sự mới giành được, Người đã thay mặt Chính phủ
lOMoARcPSD| 59256994
6
ký với đại diện Chính phủ Pháp Hiệp định bộ ngày 6-3-1946. Theo đó: “Chính phủ Pháp
công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một quốc gia tự do có Chính phủ của mình,
Nghị viện của mình, quân đội của mình, tài chính của mình”.
4. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Tính thống nhất lâu đời bền vững của dân tộc Việt Nam đã ăn sâu trong máu thịt
của Hồ Chí Minh, được thể hiện rõ ràng, nhất quán trong các tuyên bố của Người trước thế
giới. Người đã từng nói rõ: “Trung, Nam, Bắc đều là đất nước Việt Nam. Chúng ta đều chung
một tổ tiên, dòng họ, đều là ruột thịt, anh em… Cũng như nước Pháp có Noóc-măngđi, Prô-
văng-xơ, Bô-xơ. Không ai có thể chia rẽ con một nhà, không ai có thể chia rẽ nước Pháp thì
không ai có thể chia rẽ nước Việt Nam”.
Bất cứ cuộc phân ly nào của đất nước cũng để lại những vết thương lâu dài cho dân
tộc đó. Chính ý thức độc lập dân tộc, sự vẹn toàn của một đất nước thống nhất đã giúp cho
Người tỉnh táo, sáng suốt lãnh đạo Đảng ta, khơi dậy tư tưởng, tình cảm, ý thức dân tộc của
nhân dân ta, vượt qua các cuộc trường chinh gian khổ, giành độc lập dân tộc và thống nhất
Tổ quốc.
Khi thực dân Pháp khi xâm lược đã chia đất nước ta ra ba kỳ, mỗi kỳ có chế độ cai trị
riêng. Sau Cách mạng Tháng Tám, miền Bắc ớc ta thì bị quân Tưởng Giới Thạch chiếm
đóng, miền Nam thì thực dân Pháp xâm lược và sau khi độc chiếm hoàn toàn Việt Nam, một
lần nữa thực dân Pháp lại bày ra cái gọi “Nam Kỳ tự trị” hòng chia cắt nước ta một lần
nữa. Khi tiếng súng kháng chiến của nhân dân Nam Bộ vang lên, trái tim của vị lãnh tụ,
người cha đẻ của cách mạng Việt Nam đầy âu lo, trăn trở. Để động viên nhân dân miền Nam
tỏ quan điểm của Chính phủ cách mạng, Người đã viết trong Thư gửi đồng bào Nam
Bộ (1946): “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song
chân lý đó không bao giờ thay đổi”. Hiệp định Giơnevơ năm 1954 được ký kết, đất nước tạm
thời bị chia cắt làm hai miền, Hồ Chí Minh tiếp tục kiên trì đấu tranh để thống nhất Tổ quốc.
Tháng 2 năm 1958, Người khẳng định: “Nước Việt Nam một, dân tộc Việt Nam là một”.
Trong Di chúc, Người cũng đã thể hiện niềm tin tuyệt đối vào thắng lợi của cách mạng, vào
sự thống nhất nước nhà: “Dù kkhăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn
thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất.
Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”.
Hơn thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh Đảng ta với tầm nhìn chiến lược đã có nhiều quyết
sách quan trọng nhằm giữ vững chủ quyền, lãnh thổ đất nước và giữ hòa hiếu với các nước
láng giềng. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: Biên giới quốc gia địa bàn chiến lược quan
trọng của cách mạng Việt Nam, gắn liền với sự nghiệp đấu tranh, giải phóng dân tộc, bảo vệ
lOMoARcPSD| 59256994
7
Tổ quốc, bảo vệ chế độ hội chủ nghĩa. Ngày nay, trong xu thế mở cửa, hội nhập, cùng
phát triển, biên giới vừa là vị trí hiểm yếu, phên dậu bảo vệ của một quốc gia, vừa bảo đảm
lưu thông hàng hóa, phát triển kinh tế, thắt chặt mối quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước
bạn. Tuy nhiên, biên giới luôn là nơi mà kẻ thù thường xuyên để mắt nhòm ngó. Vì vậy, Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn coi việc chỉ đạo bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới nhiệm vụ
thường xuyên, quan trọng của công cuc xây dựng đất nước. Nhiều lần Người căn dặn, nhắc
nhở các địa phương, các lực lượng quân đội, công an phải luôn coi trọng và làm tốt công tác
bảo vệ biên giới, chủ quyền lãnh thổ quốc gia.
CHƯƠNG II. BÀN VỀ CÂU NÓI “KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO”
1. Bối cảnh
Cuối năm 1964 đầu năm 1965, trước sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của cách mạng
miền Nam và sự phá sản của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ vẫn không chịu
từ bỏ âm mưu xâm lược nước ta. Chúng thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ” - một
“cuộc chiến tranh tàn bạo nhất trong lịch sử loài người”, đưa hàng chục vạn lính viễn chinh
Mỹ và chư hầu đổ bộ vào miền Nam Việt Nam, đẩy cuộc chiến tranh xâm ợc Việt Nam leo
lên nấc thang cao nhất. miền Bắc, đế quốc Mgây ra sự kiện “Vịnh Bắc Bộ(tháng
8/1964), để dùng không quân hải quân đánh phá ra miền Bắc, phá hoại công cuộc xây
dựng chủ nghĩahội, ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến
lớn miền Nam, làm lung lay quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. Cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam bước vào giai đoạn mới với nhiều
thách thức hết sức quyết liệt. Nhân dân hai miền Nam - Bắc tiếp tục vượt qua những khó
khăn lớn thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Miền Bắc tiếp tục bước vào thời kỳ
quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm nhiệm vụ hậu phương lớn cho cuộc chiến tranh
chống Mỹ, cứu ớc của đồng bào miền Nam, đồng thời chiến đấu chống lại cuộc chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Miền Nam tiếp tục thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân, là tiền tuyến lớn trong cuộc đấu tranh thống nhất đất nước.
Trước khả năng cuộc kháng chiến chng Mỹ, cứu nước có thể còn lâu dài và vô cùng
ác liệt, để khẳng định quyết tâm sắt đá bảo vệ nền độc lập dân tộc, thống nhất, toàn vẹn chủ
quyền, lãnh thổ của đất nước, đồng thời để thống nhất về nhận thức tưởng, củng cố
niềm tin cho toàn Đảng, toàn quân toàn dân ta trong giai đoạn chiến đấu mới quyết liệt
hơn, khó khăn, gian khổ và hy sinh nhiều hơn để giành thắng lợi hoàn toàn, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã soạn thảo: Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước.
Ngày 17/7/1966, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh bằng không quân đánh phá miền
Bắc, trên Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, lời kêu gọi nhân dân cả nước quyết tâm đánh
lOMoARcPSD| 59256994
8
thắng giặc Mỹ xâm lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vang lên: "Không có gì quý hơn độc
lập, tự do..."
2. Phân tích
2.1. “Không có gì quý hơn độc lập, tự do" – Cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh
Câu nói “Không có gì quý hơn độc lập, tự do" của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tư tưởng
mang tầm chân lý, một chân bất hủ giá trị dân tộc, thời đại thực tiễn sâu sắc. Câu
nói ấy được Người đúc kết thời khắc quan trọng mang tính bước ngoặc của cách mạng Việt
Nam. đã thành công gợi nhớ cho nhân dân về tinh thần, ý c được hun đúc qua hàng
nghìn năm dựng nước và giữ nước, đồng thời nhắc nhở về cuộc kháng chiến trường kỳ trước
mắt như một lời hịch hiệu triệu toàn dân tộc đồng tâm, nhất trí, vượt qua mọi khó khăn, thách
thức tiến lên giành chiến thắng. đó chứa đựng sự nhất quán về tưởng của Người, tạo
nên một cuộc vận động lớn để toàn Đảng, toàn quân và toàn dân tộc đoàn kết, thống nhất ý
chí và hành động, củng cố niềm tin, xiết chặt đội ngũ để đi vào giai đoạn quyết liệt nhất của
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập, tự do quyền dân tộc, quyền con người, xuất phát
điểm đối với mọi dân tộc trên con đường đi tới phồn vinh và hạnh phúc. Dân tộc không thể
phát triển, đất nước không thể phồn vinh, nhân n không thcơm no, áo ấm cuộc
sống hạnh phúc nếu không được độc lập, tự do. Do đó, khi độc lập, tự do bị xâm phạm,
cả dân tộc phải kiên quyết đứng lên chiến đấu đến cùng để giữ vững và bảo vệ nền độc lập
và tự do ấy. Một dân tộc không thể có được và không xứng đáng được hưởng độc lập, tự do
nếu dân tộc ấy không tự đứng lên để giải phóng cho chính mình. Không thể bị động chờ đợi
sự giúp đỡ của các lực lượng bên ngoài, càng không thể ngồi yên chờ đợi vào sự “ban ơn”
của các nước đế quốc, thực dân.
Hơn thế, nền độc lập tự do ta giành lấy được nhất quyết phải nền độc lập thật sự,
không phải nền độc lập nửa vời, độc lập hình thức. Độc lập trên tất cả các mặt của đời
sống hội, người dân có quyền quyết định con đường phát triển của dân tộc mình, không
bị lệ thuộc vào bên ngoài. Nền độc lập ấy nhất định phải gắn với thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ, mà cụ thlà “để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất nước nhà”.
Tất cả đã tạo nên mục tiêu đấu tranh, nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của
nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh đại vì độc lập tự do, sự sinh tồn và phát triển
của dân tộc. Đồng thờitưởng đó cũng là nguồn cổ vũ, động viên to lớn đối với nhân loại
tiến bộ, đặc biệt đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới trong cuộc đấu tranh vì hòa bình,
tự do, hạnh phúc.
2.2. “Không có gì quý hơn độc lập, tự do" - Mục tiêu và động lực phát triển của đất
nước
lOMoARcPSD| 59256994
9
Được sự cổ tinh thần của Người, nhân dân ta hai miền Nam Bắc đã kiên cường
chiến đấu, hi sinh, buộc Mỹ phải ký hiệp định Pari, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở
Việt Nam. Không quý hơn độc lập tự do, không chỉ là tư tưởng n là lẽ sống,
nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Nhưng hơn thế, khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không bao giờ
coi đó là mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành
độc lập để đi tới hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập
dân tộc mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ, mục tiêu trước hết
của quá trình cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đồng thời là điều kiện hàng
đầu, quyết định để cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang giai đoạn kế tiếp - cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, cách mạng dân tộc dân chủ càng triệt để thì những điều kiện
tiến lên chủ nghĩa xã hội càng được tạo ra đầy đủ. Bên cạnh đó, mối quan hệ dân tộc và giai
cấp mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với nhau. Giải phóng dân tộc là giải phóng giai cấp; độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội. Giữ vững độc lập dân tộc mình, góp phần giữ
vững sự ổn định chính trị và nền hòa bình trên thế giới, tôn trọng các dân tộc khác.
CHƯƠNG III. VỀ SỰ NGHIỆP BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Tình hình hiện nay
Tổ quốc Việt Nam hiện nay đã tiến vào giai đoạn ổn định về các yếu tố lãnh thổ, dân
cư, các giá trị văn hóa, lịch sử, quyền dân tộc chế độ xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, công
cuộc bảo vệ Tổ quốc không chcòn dừng lại bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa mà còn trên nhiều phương diện khác.
Trong 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 và đặc biệt là hơn 10 năm thực hiện Cương
lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011), đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, ý
nghĩa lịch sử trên nhiều lĩnh vực. Tình hình đất nước cơ bản ổn định, nhưng vẫn còn không
ít khó khăn, thử thách đan xen. Đại hội XIII của Đảng nhận định “tình hình thế giới khu
vực tiếp tục có nhiều thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác và phát triển
vẫn là xu thế lớn, song cũng đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn, thách thức. Toàn cầu hóa
hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển, nhưng cũng đang bị đe dọa bởi sự trỗi dậy của chủ
nghĩa dân tộc cực đoan, cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại
diễn ra gay gắt. Do tác động của đại dịch COVID-19, thế giới rơi vào khủng hoảng nghiêm
trọng nhiều mặt. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá
trên nhiều lĩnh vực, mang đến cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia. Các nước điều
chỉnh chiến lược và phương thức phát triển nhằm thích ứng với tình hình mới. Khu vực châu
Á - Thái Bình ơng tiếp tục vị trí chiến lược ngày càng quan trọng. Tại Đông Nam Á,
lOMoARcPSD| 59256994
10
môi trường an ninh, tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông còn diễn biến phức tạp. Biến đổi
khí hậu, thiên tai, dịch bệnh các vấn đề an ninh phi truyền thống khác, nhất an ninh
mạng, ngày ng tác động mạnh mẽ, nhiều mặt, đe dọa nghiêm trọng đến sự phát triển ổn
định, bền vững của thế giới, khu vực và đất nước ta”.
Bên cạnh đó, sự nghiệp ch mạng của Đảng nhân dân ta vẫn đứng trước nhiều
khó khăn, thách thức; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch với các âm mưu, thủ
đoạn hết sức tinh vi, thâm độc, như “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, can thiệp từ bên
ngoài kết hợp gây mất n định từ bên trong, lợi dụng, kích động vấn đề dân tộc, nhân quyền,
tôn giáo hòng chống pta trên c lĩnh vực, tạo dựng lực lượng chống đối nhằm thủ tiêu
chế độ, hạ thấp vai trò lãnh đạo, uy tín của Đảng,... Đứng trước những khó khăn, thách thức
nêu trên, việc bổ sung rõ hơn, rộng hơn, toàn diện hơn về định hướng bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới là vấn đề hệ trọng và cấp thiết.
2. Định hướng
Để hoàn thiện định hướng bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, các cấp ủy, chính
quyền, hệ thống chính trị toàn Đảng, toàn dân toàn quân cần nhận thức thực hiện
một số giải pháp cơ bản, trọng yếu sau:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, kiên quyết, kiên trì thực hiện đường lối,
quan điểm, tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc, lấy đó làm kim chỉ nam cho việc hoàn
thiện định hướng bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội
chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định
chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng hội trật tự, kcương, an toàn,
lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng hội chủ nghĩa”. Như vậy, mục tiêu, yêu
cầu nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh tiếp tục được Đảng ta khẳng định nhất quán, xuyên
suốt, nhưng sự bổ sung hơn, toàn diện hơn cả về nội hàm phạm vi bảo vệ. Điểm
nhấn đây được Văn kiện lần này chỉ rõ: Mục tiêu bảo vệ Tổ quốc không đơn thuần để
ứng phó với chiến tranh; vấn đề quan trọng và thiết yếu hơn là, tạo ra sức mạnh để giữ
vững ổn định chính trị môi trường hòa bình, nhằm xây dựng phát triển đất nước theo
định hướng hội chủ nghĩa; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát
triển, thu nhập cao. Đây vấn đđặc biệt quan trọng, sự vận dụng nhuần nhuyễn
luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về xây dựng bảo vệ Tổ quốc; bảo vệ phải gắn với xây
dựng Tổ quốc, xây dựng phải đi đôi với bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, bổ sung nhận thức mới về phương châm bảo vệ Tổ quốc.
lOMoARcPSD| 59256994
11
Đảng ta xác định, “chủ động phòng ngừa” chính. Ứng phó kịp thời, hiệu quả với
các đe dọa an ninh phi truyền thống, nhất là nhiệm vụ cứu nạn, cứu hộ, phòng, chống thiên
tai, dịch bệnh. kế sách ngăn ngừa các nguy chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Nỗ
lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng các biện
pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế”. Đây là sự kế thừa, vận dụng sáng tạo bài học
kinh nghiệm “ginước t lúc chưa nguy”, phát triển tưởng bảo vệ Tổ quốc “tsớm, từ
xa” để xác định rõ phương thức, giải pháp chủ động phòng ngừa”chính. Điu đó thể hiện
tầm nhìn chiến lược của Đảng về quốc phòng, an ninh trong tình hình mới, nhằm chủ động
ngăn ngừa, đẩy lùi, giải tỏa các “điểm nóng”, các nguy dẫn đến xung đột trang; nhất
việc chủ động ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống đang ngày càng gia
tăng đe dọa trực tiếp đối với an ninh quốc gia toàn cầu hiện nay. Đồng thời, nghiên
cứu, bổ sung, hoàn thiện nội dung, hình thức, biện pháp kết hợp đấu tranh quốc phòng, an
ninh và đối ngoại trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Chủ động phát hiện, kiên quyết đấu tranh
với những tư tưởng, hành động sai trái, thù địch, xuyên tạc, mưu toan hạ thấp, phủ nhận vai
trò lãnh đạo của Đảng đối với việc giải quyết mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh đối
ngoại. Tích cực, chủ động hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả với các
nước, các tchức quốc tế. Tiếp tục nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trong việc giải quyết
những vấn đchung, xây dựng lòng tin chiến lược, hướng đến hòa bình n định trong khu
vực và trên thế giới.
Bên cạnh đó, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng xác định: “xây dựng và phát huy
mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân nền an ninh nhân dân; xây
dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân. Kết
hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và
giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội đối ngoại”. Thường xuyên làm tốt
công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho toàn dân về đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; nhận thức
rõ và vạch trần những âm mưu, thủ đoạn chống phá, hoạt động nguy hại của các thế lực thù
địch. Tăng cường bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho đội ngũ cán bộ, chiến
trong lực lượng vũ trang và cho toàn dân. Lựa chọn nội dung và đa dạng hóa các hình thức
tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chính sách, pháp luật phù hợp với từng đối tượng, từng địa
bàn. Chủ động trong cuộc đấu tranh tư tưởng làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực
thù địch và hoạt động lợi dụng vấn đtôn giáo, dân tộc để chống phá, i kéo người dân tham
gia.
Ba là, bổ sung về định hướng bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
lOMoARcPSD| 59256994
12
Đại hội XIII của Đảng xác định: “kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định để phát triển”. Để bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, cần đẩy mạnh tuyên
truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao về
tưởng, hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị trong việc
bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Các đơn vị hải quân, cảnh sát biển, biên phòng cần
có sự kết hợp chặt chẽ với địa phương và các tầng lớp nhân dân, nhất cư dân sinh sống
ven biển, trên đảo, ngư dân làm ăn trên biển, kiều bào tanước ngoài. Đặc biệt, cần thông
tin kịp thời, minh bạch, chính xác để mọi người dân trong nước, người Việt Nam nước
ngoài và nhân dân thế giới hiểu cơ sở pháp lý, chứng cứ lịch sử và sự chiếm hữu thực tế của
Việt Nam trên các vùng biển, đảo Biển Đông; hiểu quan điểm, lập trường của Đảng,
Nhà nước ta về giải quyết vấn đề chủ quyền trên Biển Đông; từ đó, xây dựng niềm tin, ý chí
quyết tâm, đồng thuận của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ
của nhân dân thế giới để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo c hoạt động kinh tế
biển.
3. Trách nhiệm sinh viên trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay
Đảng ta nhấn mạnh rằng: “Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai
của đất nước, lực lượng xung kích trong xây dựng bảo vệ tổ quốc, một trong những
nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, hội
nhập quốc tế xây dựng chủ nghĩa hội”. Với vai trò quan trọng ấy, lớp người trẻ hay
sinh viên Việt Nam cần có trách nhiệm không chỉ trong việc bảo vệ mà còn cần kết hợp với
xây dựng, phát triển đất nước theo các định hướng của Đảng và Nhà nước ta đưa ra. Cụ thể
bằng các hành động:
Thứ nhất, để xây dựng hình hội chủ nghĩa nhân dân ta đang hướng đến,
một trong những nhiệm vụ đặt ra là “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn
với phát triển kinh tế tri thức”. Vậy nên, sinh viên cần phấn đấu học tập nghiên cứu, sáng
tạo, tiếp thu các công nghệ mới, trang bị các kỹ ng cần thiết để tạo nên nguồn nhân lực
chất lượng cao, thích ứng với thị trường lao động trong ngoài nước; từ đó, điều kiện
tạo ra nhiều cơ hội việc làm, khởi nghiệp vì cộng đồng, nâng cao nâng lực hội nhập của đất
nước.
Thứ hai, cần có ý thức giữ gìn đạo đức, tác phong, thực hành lối sống lành mạnh, rèn
luyện trí lực, bài trừ tệ nạn xã hội; luyện tinh thần cầu tiến, thọc tập, thoàn thiện bản thân
trở thành lớp người “vừa hồng vừa chuyên” giúp ích cho cuộc đời. Hơn thế, ở vị trí là những
người được kế thừa nền hòa bình, độc lập dân tộc, được thụ hưởng những sản phẩm của quá
trình phát triển đất nước, người trẻ Việt Namtrọng trách tôn trọng lịch sử, văn hóa; kế tục
lOMoARcPSD| 59256994
13
phát triển bản sắc dân tộc theo những phương cách phù hợp với thời đại mới; đón nhận sản
phẩm, văn hóa nước ngoài một cách có chọn lọc.
Thứ ba, đẩy mạnh học tập chủ nghĩa Mác Lênin, làm theo tưởng, đạo đức Hồ Chí
Minh cũng như nâng cao nhận thức chính trị. Cthể hơn hiểu sâu về chủ trương, đường
lối, mục tiêu lý tưởng của Đảng; bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Từ đó, sinh viên có cơ
sở để củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng ch cực thực hiện các chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, sự phát
triển của mạng hội đã tạo hội cho các thế lực thù địch trong, ngoài nước truyền
những thông tin xuyên tạc đến người dân và bạn bè quốc tế. Với nền tảng nhận thức rõ ràng,
người trẻ có trách nhiệm phản bác các quan điểm sai trái cũng như bảo vệ chủ quyền, lợi ích
quốc gia cũng như tuyên truyền đến người thân, bạn bè thông tin đúng đắn.
lOMoARcPSD| 59256994
14
KẾT LUẬN
Nhìn chung, vấn đề n tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh thực chất là vấn đề đấu tranh
giải phóng của các dân tộc thuộc địa, mà cụ thể nhất là dân tộc Việt Nam, nhằm đánh tan sự
thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân dộc, xóa bỏ ách áp bức, bóc lột của thực dân,
thực hiện quyền n tộc tự quyết, thành lập nhà nước dân tộc độc lập. Trong tưởng Hồ
Chí Minh, “Không quý hơn độc lập, tdo" là tư tưởng mang tính cách mạng sâu sắc
triệt để. gắn bó chặt chẽ với cuộc đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp giải phóng con người-sự nghiệp đại Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phấn đấu,
hy sinh cả cuộc đời để thực hiện. Đồng thời, ởng đó cũng nguồn động viên đối với
các dân tộc bị áp bức trên thế giới đấu tranh giành lấy độc lập, tự do. Vì vậy, Hồ Chí Minh
không chỉ được tôn vinh “Anh hùng giải phóng dân tộc” mà Người còn được thừa nhận
là “Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỉ XX”.
Nhìn lại hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới và hướng tới chặng đường phát triển
với tầm cao phía trước, thấy rõ những điều kiện mới, thời cơ và thuận lợi mới chen lẫn nhiều
chông gai, khó khăn, thách thức. Nhưng tinh thần “Không quý hơn độc lập, tự do” sẽ
tiếp tục động lực to lớn cổ toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đồng tâm nhất trí, triệu người
như một kiên định, kiên trì đi trên con đường Bác Hđã lựa chọn, quyết tâm thực hiện
thắng lợi mục tiêu chiến lược dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững
bước đi lên chủ nghĩa xã hội.Trong bối cảnh thế giới và trong nước hiện nay, chân lý “Không
có gì quý hơn độc lập, tự do” tiếp tục là động lực tinh thần to lớn và là tư tưởng dẫn dắt nhân
dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh để bảo vệ, giữ vững nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ, bảo vệ tdo, hạnh phúc thực sự của dân tộc và giữ vững chế độ hội chủ nghĩa
trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, văn hóa, tưởng, quân sự, ngoại giao... với những nội
dung mới, hình thức mới và sắc thái, biểu hiện mới.
lOMoARcPSD| 59256994
15
MỤC LỤC
Dẫn luận ......................................................................................................................... 2
Nội dung .................................................................................................................... 3-12
Chương I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc .................................................. 3
1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc ..........
3
2. Độc lập dân tộc phải gắn liền tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc của nhân dân .......
4
3. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để ..............................
5 4. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ .................................... 6
Chương II. Bàn về câu nói “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.. ............................. 7
1. Bối cảnh ................................................................................................................... 7
2. Phân tích .................................................................................................................. 8
2.1. “Không có gì quý hơn độc lập, tự do" – Cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh ...... 8
2.2. “Không có gì quý hơn độc lập, tự do" - Mục tiêu, động lực phát triển đất nước .. 9
Chương III. Liên hệ về sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay ........................ 9
1. Tình hình hiện nay ............................................................................................. 9
2. Định hướng ...................................................................................................... 10
3. Trách nhiệm sinh viên trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay .......... 12
Kết luận ........................................................................................................................ 14 Tài
liệu tham khảo ....................................................................................................... 15
lOMoARcPSD| 59256994
16
NGUỒN TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu học tập môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
2. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
3. Tạp chí Ban Tuyên giáo Trung Uơng

Preview text:

lOMoAR cPSD| 59256994 lOMoAR cPSD| 59256994 DẪN LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, là sự hòa quyện của các giá trị truyền
thống dân tộc Việt Nam và tinh hoa văn hóa nhân loại. Trong hệ thống quan điểm triết luận
và sâu sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh, "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" là một luận
điểm mang tính chân lý, có giá trị về cả mặt lý luận và thực tiễn. Nó đã được khắc sâu, in
đậm vào con tim, khối óc của mọi người dân Việt Nam, trở thành niềm tin, lẽ sống, mục
tiêu và động lực chiến đấu của toàn thể nhân dân Việt Nam, đồng thời tư tưởng đó còn là
nguồn cổ vũ, động viên to lớn đối với nhân loại tiến bộ, đặc biệt đối với các dân tộc bị áp
bức trên toàn thế giới.
Ngày nay, khi xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển đang là xu thế chủ đạo, nước ta
đã lặng tiếng súng nhưng cùng lúc đó, cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp trên thế
giới có nhiều diễn biến phức tạp, càng đòi hỏi chúng ta cần phải chiêm nghiệm và
tìm hiểu kỹ hơn tư tưởng "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" của Người. Trong khuôn
khổ bài luận này, xin được … về Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, từ đó phân tích
về luận điểm "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" và liên hệ với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay. lOMoAR cPSD| 59256994 NỘI DUNG
CHƯƠNG I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
Theo triết học Mác – Lênin, dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của
lịch sử. Từ sớm, những hình thức cộng đồng người như thị tộc, bộ tộc, bộ lạc,... đã xuất hiện
nhưng chỉ khi chủ nghĩa tư bản ra đời thì “dân tộc” mới được hình thành theo đúng nghĩa
của nó. Khi chủ nghĩa tư bản phát triển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa thì vấn đề dân tộc thuộc địa sản sinh và phát triển gay gắt đòi hỏi phải được giải
quyết. Lênin cho rằng chỉ có cách mạng vô sản và chủ nghĩa xã hội trên cơ sở thủ tiêu ách
áp bức giai cấp và áp bức dân tộc mới tạo điều kiện để giải phóng cho các dân tộc thuộc địa,
giúp cho các dân tộc thuộc địa thực hiện quyền dân tộc tự quyết và các quyền thiêng liêng khác.
Đối với Hồ Chí Minh, dân tộc mà Người đề cập có nội hàm: Dân tộc quốc gia. Người
thường dùng khái niệm: Đồng bào Việt Nam (con cùng một mẹ, theo sự tích Lạc Long Quân
và Âu Cơ) để nói rằng, các dân tộc trên đất nước Việt Nam đều có chung một nguồn cội:
“Con Rồng, cháu Tiên; con Lạc cháu Hồng” đều là anh em một nhà, con cháu của các vua
Hùng. Trên cơ sở quan điểm của các nhà kinh điển Mác - Lênin về vấn đề dân tộc, cũng như
căn cứ vào tình hình thực tiễn Việt Nam và các thuộc địa khác, Hồ Chí Minh đã xây dựng
nên một hệ thống luận điểm phổ quát về vấn đề dân tộc thuộc địa như sau:
1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền tự do và độc lập có cội nguồn trước hết từ truyền
thống từ lịch sử hàng ngàn năm dựng và giữ nước của dân tộc Việt Nam ta, vốn gắn liền với
truyền thống yêu nước, đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Tất cả thể hiện một khát khao to
lớn của dân tộc ta là về nền độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân.
Cách đây một thế kỷ, ngày 18/6/1919, nhân cơ hội các nước đồng minh thắng trận
trong Chiến tranh thế giới thứ nhất họp Hội Nghị ở Vécxây (Pháp), Tổng thống Mỹ V.Wilson
đã kêu gọi trao quyền tự quyết cho các dân tộc trên thế giới. Thay mặt nhóm những người
yêu nước Việt Nam tại Pháp, Hồ Chí Minh đã gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân
An Nam. Tuy không được đưa vào chương trình nghị sự, nhưng đây là lần đầu tiên, Nguyễn
Ái Quốc đã lần đầu công khai, trực diện thỉnh nguyện tới những nhà lãnh đạo trong hệ thống
tư bản thế giới về quyền tự do, dân chủ, quyền sống, quyền làm người và tôn trọng dân tộc đối với người An Nam. 3 lOMoAR cPSD| 59256994
Về sau, trong Chánh cương vắn tắt của Đảng năm 1930, Hồ Chí Minh cũng đã xác
định mục tiêu chính trị của Đảng là:
“ a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. b)
Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”.
Khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, trong Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí
Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới
rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự
do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và
của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Ý chí và quyết tâm trên còn được thể hiện trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ. Trong thư gửi Liên hợp quốc năm 1946, một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng định:
“Nhân dân chúng tôi thành thật mong nuốn hoà bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên
quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho
Tổ quốc và độc lập cho đất nước”.
Khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam lần thứ hai, trong Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến ngày 19-12-1946, Người ra lời hiệu triệu, thể hiện quyết tâm sắt đá, bảo
vệ cho bằng được nền độc lập dân tộc - giá trị thiêng liêng mà nhân dân Việt Nam mới giành
được: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ”.
Năm 1965, đế quốc Mỹ tăng cường mở rộng chiến tranh ở Việt Nam: ồ ạt đưa quân
viễn chinh Mỹ, chư hầu vào miền Nam tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và gây
chiến tranh phá hoại miền Bắc. Trong hoàn cảnh khó khăn, chiến tranh ác liệt đó, Hồ Chí
Minh đã nêu lên một chân lý thời đại, một tuyên ngôn bất hủ của các dân tộc khao khát nền
độc lập, tự do trên thế giới “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Với tư tưởng trên của Hồ
Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã anh dũng chiến đấu, đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược,
buộc chúng phải ký kết Hiệp định Paris, cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của
nhân dân Việt Nam, rút quân Mỹ về nước.
2. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc của nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tự do của nhân dân. Bằng lý lẽ đầy
thuyết phục, trong khi viện dẫn bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng
Pháp năm 1791 “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn được tự do
và bình đẳng về quyền lợi”, Hồ Chí Minh khẳng định dân tộc Việt Nam đương nhiên cũng
phải được tự do và bình đẳng về quyền lợi: “Đó là lẽ phải không ai chối cãi được”. 4 lOMoAR cPSD| 59256994
Cụ thể hơn cả, độc lập cũng phải gắn với cơm no, áo ấm và hạnh phúc của nhân dân.
Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trong hoàn cảnh nhân dân đói rét,
mù chữ, Hồ Chí Minh yêu cầu: “Chúng ta phải…. Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở.
Làm cho dân có học hành”.
Có thể thấy rằng, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, Người
luôn coi độc lập gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm cho nhân dân, như Người từng bộc bạch
đầy tâm huyết: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Cũng như Tôn Trung Sơn, Hồ Chí Minh đã lấy “dân tộc độc lập” làm lý tưởng cho
hành động của Người. Nhưng hơn thế, Hồ Chí Minh lại phấn đấu xây dựng một nhà nước
của dân, do dân, vì dân, mọi quyền lợi hạnh phúc đều thuộc về nhân dân. Người quan niệm
nhà nước ấy mới thực hiện được sự phát triển hài hoà giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lâp
dân tộc với tự do và hạnh phúc của con người. Hồ Chí Minh nói: “Độc lập mà dân không
được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì”. Do đó, giành độc lập
rồi phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội vì chủ nghĩa xã hội “là làm sao cho dân giàu,
nước mạnh”, là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng tự do. Sự phát triển đất nước
theo con đường xã hội chủ nghĩa là một đảm bảo vững chắc cho nền độc lập của dân tộc.
3. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
Khi chủ nghĩa đế quốc thực hiện chính sách xâm lược, biến nhiều quốc gia châu Á,
châu Phi và khu vực Mỹ La-tin, chúng đã tự cho mình là dân tộc “thượng đẳng”, là “mẫu
quốc”, “đi khai hóa văn minh” cho các dân tộc “lạc hậu” để rồi tuyên truyền cái gọi là “độc
lập tự do” giả hiệu cho nhân dân các nước thuộc địa. Nhưng thực chất, tất cả nhằm che đậy
bản chất “ăn cướp” và “giết người” của chúng.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để trên
tất cả các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, ngoại giao, về chủ quyền quốc gia và
toàn vẹn lãnh thổ. Nền độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn phải được thực hiện một cách triệt
để theo nguyên tắc: Nước Việt Nam của người Việt Nam, mọi vấn đề thuộc về chủ quyền
quốc gia phải do nhân dân Việt Nam tự giải quyết, không có sự can thiệp của nước ngoài.
Trên tinh thần đó, trong hoàn cảnh đất nước ta sau Cách mạng Tháng Tám còn gặp
nhiều khó khăn, để bảo vệ nền độc lập thật sự mới giành được, Người đã thay mặt Chính phủ 5 lOMoAR cPSD| 59256994
ký với đại diện Chính phủ Pháp Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946. Theo đó: “Chính phủ Pháp
công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một quốc gia tự do có Chính phủ của mình,
Nghị viện của mình, quân đội của mình, tài chính của mình”.
4. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Tính thống nhất lâu đời và bền vững của dân tộc Việt Nam đã ăn sâu trong máu thịt
của Hồ Chí Minh, được thể hiện rõ ràng, nhất quán trong các tuyên bố của Người trước thế
giới. Người đã từng nói rõ: “Trung, Nam, Bắc đều là đất nước Việt Nam. Chúng ta đều chung
một tổ tiên, dòng họ, đều là ruột thịt, anh em… Cũng như nước Pháp có Noóc-măngđi, Prô-
văng-xơ, Bô-xơ. Không ai có thể chia rẽ con một nhà, không ai có thể chia rẽ nước Pháp thì
không ai có thể chia rẽ nước Việt Nam”.
Bất cứ cuộc phân ly nào của đất nước cũng để lại những vết thương lâu dài cho dân
tộc đó. Chính ý thức độc lập dân tộc, sự vẹn toàn của một đất nước thống nhất đã giúp cho
Người tỉnh táo, sáng suốt lãnh đạo Đảng ta, khơi dậy tư tưởng, tình cảm, ý thức dân tộc của
nhân dân ta, vượt qua các cuộc trường chinh gian khổ, giành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc.
Khi thực dân Pháp khi xâm lược đã chia đất nước ta ra ba kỳ, mỗi kỳ có chế độ cai trị
riêng. Sau Cách mạng Tháng Tám, miền Bắc nước ta thì bị quân Tưởng Giới Thạch chiếm
đóng, miền Nam thì thực dân Pháp xâm lược và sau khi độc chiếm hoàn toàn Việt Nam, một
lần nữa thực dân Pháp lại bày ra cái gọi là “Nam Kỳ tự trị” hòng chia cắt nước ta một lần
nữa. Khi tiếng súng kháng chiến của nhân dân Nam Bộ vang lên, trái tim của vị lãnh tụ,
người cha đẻ của cách mạng Việt Nam đầy âu lo, trăn trở. Để động viên nhân dân miền Nam
và tỏ rõ quan điểm của Chính phủ cách mạng, Người đã viết trong Thư gửi đồng bào Nam
Bộ (1946): “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song
chân lý đó không bao giờ thay đổi”. Hiệp định Giơnevơ năm 1954 được ký kết, đất nước tạm
thời bị chia cắt làm hai miền, Hồ Chí Minh tiếp tục kiên trì đấu tranh để thống nhất Tổ quốc.
Tháng 2 năm 1958, Người khẳng định: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”.
Trong Di chúc, Người cũng đã thể hiện niềm tin tuyệt đối vào thắng lợi của cách mạng, vào
sự thống nhất nước nhà: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn
thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất.
Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”.
Hơn thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta với tầm nhìn chiến lược đã có nhiều quyết
sách quan trọng nhằm giữ vững chủ quyền, lãnh thổ đất nước và giữ hòa hiếu với các nước
láng giềng. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: Biên giới quốc gia là địa bàn chiến lược quan
trọng của cách mạng Việt Nam, gắn liền với sự nghiệp đấu tranh, giải phóng dân tộc, bảo vệ 6 lOMoAR cPSD| 59256994
Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, trong xu thế mở cửa, hội nhập, cùng
phát triển, biên giới vừa là vị trí hiểm yếu, phên dậu bảo vệ của một quốc gia, vừa bảo đảm
lưu thông hàng hóa, phát triển kinh tế, thắt chặt mối quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước
bạn. Tuy nhiên, biên giới luôn là nơi mà kẻ thù thường xuyên để mắt nhòm ngó. Vì vậy, Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn coi việc chỉ đạo bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới là nhiệm vụ
thường xuyên, quan trọng của công cuộc xây dựng đất nước. Nhiều lần Người căn dặn, nhắc
nhở các địa phương, các lực lượng quân đội, công an phải luôn coi trọng và làm tốt công tác
bảo vệ biên giới, chủ quyền lãnh thổ quốc gia.
CHƯƠNG II. BÀN VỀ CÂU NÓI “KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO” 1. Bối cảnh
Cuối năm 1964 đầu năm 1965, trước sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của cách mạng
miền Nam và sự phá sản của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ vẫn không chịu
từ bỏ âm mưu xâm lược nước ta. Chúng thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ” - một
“cuộc chiến tranh tàn bạo nhất trong lịch sử loài người”, đưa hàng chục vạn lính viễn chinh
Mỹ và chư hầu đổ bộ vào miền Nam Việt Nam, đẩy cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam leo
lên nấc thang cao nhất. Ở miền Bắc, đế quốc Mỹ gây ra sự kiện “Vịnh Bắc Bộ” (tháng
8/1964), để dùng không quân và hải quân đánh phá ra miền Bắc, phá hoại công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội, ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến
lớn miền Nam, làm lung lay quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. Cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam bước vào giai đoạn mới với nhiều
thách thức hết sức quyết liệt. Nhân dân hai miền Nam - Bắc tiếp tục vượt qua những khó
khăn lớn thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Miền Bắc tiếp tục bước vào thời kỳ
quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm nhiệm vụ hậu phương lớn cho cuộc chiến tranh
chống Mỹ, cứu nước của đồng bào miền Nam, đồng thời chiến đấu chống lại cuộc chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Miền Nam tiếp tục thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân, là tiền tuyến lớn trong cuộc đấu tranh thống nhất đất nước.
Trước khả năng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước có thể còn lâu dài và vô cùng
ác liệt, để khẳng định quyết tâm sắt đá bảo vệ nền độc lập dân tộc, thống nhất, toàn vẹn chủ
quyền, lãnh thổ của đất nước, đồng thời để thống nhất về nhận thức và tư tưởng, củng cố
niềm tin cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong giai đoạn chiến đấu mới quyết liệt
hơn, khó khăn, gian khổ và hy sinh nhiều hơn để giành thắng lợi hoàn toàn, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã soạn thảo: Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước.
Ngày 17/7/1966, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh bằng không quân đánh phá miền
Bắc, trên Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, lời kêu gọi nhân dân cả nước quyết tâm đánh 7 lOMoAR cPSD| 59256994
thắng giặc Mỹ xâm lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vang lên: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do..." 2. Phân tích
2.1. “Không có gì quý hơn độc lập, tự do" – Cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh
Câu nói “Không có gì quý hơn độc lập, tự do" của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tư tưởng
mang tầm chân lý, một chân lý bất hủ có giá trị dân tộc, thời đại và thực tiễn sâu sắc. Câu
nói ấy được Người đúc kết ở thời khắc quan trọng mang tính bước ngoặc của cách mạng Việt
Nam. Nó đã thành công gợi nhớ cho nhân dân về tinh thần, ý chí được hun đúc qua hàng
nghìn năm dựng nước và giữ nước, đồng thời nhắc nhở về cuộc kháng chiến trường kỳ trước
mắt như một lời hịch hiệu triệu toàn dân tộc đồng tâm, nhất trí, vượt qua mọi khó khăn, thách
thức tiến lên giành chiến thắng. Ở đó chứa đựng sự nhất quán về tư tưởng của Người, tạo
nên một cuộc vận động lớn để toàn Đảng, toàn quân và toàn dân tộc đoàn kết, thống nhất ý
chí và hành động, củng cố niềm tin, xiết chặt đội ngũ để đi vào giai đoạn quyết liệt nhất của
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập, tự do là quyền dân tộc, quyền con người, là xuất phát
điểm đối với mọi dân tộc trên con đường đi tới phồn vinh và hạnh phúc. Dân tộc không thể
phát triển, đất nước không thể phồn vinh, nhân dân không thể có cơm no, áo ấm và cuộc
sống hạnh phúc nếu không có được độc lập, tự do. Do đó, khi độc lập, tự do bị xâm phạm,
cả dân tộc phải kiên quyết đứng lên chiến đấu đến cùng để giữ vững và bảo vệ nền độc lập
và tự do ấy. Một dân tộc không thể có được và không xứng đáng được hưởng độc lập, tự do
nếu dân tộc ấy không tự đứng lên để giải phóng cho chính mình. Không thể bị động chờ đợi
sự giúp đỡ của các lực lượng bên ngoài, càng không thể ngồi yên chờ đợi vào sự “ban ơn”
của các nước đế quốc, thực dân.
Hơn thế, nền độc lập tự do ta giành lấy được nhất quyết phải là nền độc lập thật sự,
không phải là nền độc lập nửa vời, độc lập hình thức. Độc lập trên tất cả các mặt của đời
sống xã hội, người dân có quyền quyết định con đường phát triển của dân tộc mình, không
bị lệ thuộc vào bên ngoài. Nền độc lập ấy nhất định phải gắn với thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ, mà cụ thể là “để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất nước nhà”.
Tất cả đã tạo nên mục tiêu đấu tranh, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của
nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh vĩ đại vì độc lập tự do, vì sự sinh tồn và phát triển
của dân tộc. Đồng thời tư tưởng đó cũng là nguồn cổ vũ, động viên to lớn đối với nhân loại
tiến bộ, đặc biệt đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, tự do, hạnh phúc.
2.2. “Không có gì quý hơn độc lập, tự do" - Mục tiêu và động lực phát triển của đất nước 8 lOMoAR cPSD| 59256994
Được sự cổ vũ tinh thần của Người, nhân dân ta ở hai miền Nam Bắc đã kiên cường
chiến đấu, hi sinh, buộc Mỹ phải ký hiệp định Pari, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở
Việt Nam. Không có gì quý hơn độc lập tự do, không chỉ là tư tưởng mà còn là lẽ sống, là
nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Nhưng hơn thế, khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không bao giờ
coi đó là mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành
độc lập để đi tới xã hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập
dân tộc là mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ, là mục tiêu trước hết
của quá trình cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đồng thời là điều kiện hàng
đầu, quyết định để cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang giai đoạn kế tiếp - cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, cách mạng dân tộc dân chủ càng triệt để thì những điều kiện
tiến lên chủ nghĩa xã hội càng được tạo ra đầy đủ. Bên cạnh đó, mối quan hệ dân tộc và giai
cấp là mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với nhau. Giải phóng dân tộc là giải phóng giai cấp; độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Giữ vững độc lập dân tộc mình, là góp phần giữ
vững sự ổn định chính trị và nền hòa bình trên thế giới, tôn trọng các dân tộc khác.
CHƯƠNG III. VỀ SỰ NGHIỆP BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM HIỆN NAY 1. Tình hình hiện nay
Tổ quốc Việt Nam hiện nay đã tiến vào giai đoạn ổn định về các yếu tố lãnh thổ, dân
cư, các giá trị văn hóa, lịch sử, quyền dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, công
cuộc bảo vệ Tổ quốc không chỉ còn dừng lại ở bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa mà còn trên nhiều phương diện khác.
Trong 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 và đặc biệt là hơn 10 năm thực hiện Cương
lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011), đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử trên nhiều lĩnh vực. Tình hình đất nước cơ bản ổn định, nhưng vẫn còn không
ít khó khăn, thử thách đan xen. Đại hội XIII của Đảng nhận định “tình hình thế giới và khu
vực tiếp tục có nhiều thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác và phát triển
vẫn là xu thế lớn, song cũng đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn, thách thức. Toàn cầu hóa
và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển, nhưng cũng đang bị đe dọa bởi sự trỗi dậy của chủ
nghĩa dân tộc cực đoan, cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại
diễn ra gay gắt. Do tác động của đại dịch COVID-19, thế giới rơi vào khủng hoảng nghiêm
trọng nhiều mặt. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá
trên nhiều lĩnh vực, mang đến cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia. Các nước điều
chỉnh chiến lược và phương thức phát triển nhằm thích ứng với tình hình mới. Khu vực châu
Á - Thái Bình Dương tiếp tục có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng. Tại Đông Nam Á, 9 lOMoAR cPSD| 59256994
môi trường an ninh, tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông còn diễn biến phức tạp. Biến đổi
khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và các vấn đề an ninh phi truyền thống khác, nhất là an ninh
mạng, ngày càng tác động mạnh mẽ, nhiều mặt, đe dọa nghiêm trọng đến sự phát triển ổn
định, bền vững của thế giới, khu vực và đất nước ta”.
Bên cạnh đó, sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta vẫn đứng trước nhiều
khó khăn, thách thức; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch với các âm mưu, thủ
đoạn hết sức tinh vi, thâm độc, như “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, can thiệp từ bên
ngoài kết hợp gây mất ổn định từ bên trong, lợi dụng, kích động vấn đề dân tộc, nhân quyền,
tôn giáo hòng chống phá ta trên các lĩnh vực, tạo dựng lực lượng chống đối nhằm thủ tiêu
chế độ, hạ thấp vai trò lãnh đạo, uy tín của Đảng,... Đứng trước những khó khăn, thách thức
nêu trên, việc bổ sung rõ hơn, rộng hơn, toàn diện hơn về định hướng bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới là vấn đề hệ trọng và cấp thiết. 2. Định hướng
Để hoàn thiện định hướng bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, các cấp ủy, chính
quyền, hệ thống chính trị và toàn Đảng, toàn dân và toàn quân cần nhận thức và thực hiện
một số giải pháp cơ bản, trọng yếu sau:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, kiên quyết, kiên trì thực hiện đường lối,
quan điểm, tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc, lấy đó làm kim chỉ nam cho việc hoàn
thiện định hướng bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội
chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định
chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn,
lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Như vậy, mục tiêu, yêu
cầu và nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh tiếp tục được Đảng ta khẳng định nhất quán, xuyên
suốt, nhưng có sự bổ sung rõ hơn, toàn diện hơn cả về nội hàm và phạm vi bảo vệ. Điểm
nhấn ở đây được Văn kiện lần này chỉ rõ: Mục tiêu bảo vệ Tổ quốc không đơn thuần là để
ứng phó với chiến tranh; mà vấn đề quan trọng và thiết yếu hơn là, tạo ra sức mạnh để giữ
vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình, nhằm xây dựng và phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát
triển, có thu nhập cao. Đây là vấn đề đặc biệt quan trọng, là sự vận dụng nhuần nhuyễn lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; bảo vệ phải gắn với xây
dựng Tổ quốc, xây dựng phải đi đôi với bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, bổ sung nhận thức mới về phương châm bảo vệ Tổ quốc. 10 lOMoAR cPSD| 59256994
Đảng ta xác định, “chủ động phòng ngừa” là chính. Ứng phó kịp thời, hiệu quả với
các đe dọa an ninh phi truyền thống, nhất là nhiệm vụ cứu nạn, cứu hộ, phòng, chống thiên
tai, dịch bệnh. Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Nỗ
lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng các biện
pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế”. Đây là sự kế thừa, vận dụng sáng tạo bài học
kinh nghiệm “giữ nước từ lúc chưa nguy”, phát triển tư tưởng bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ
xa” để xác định rõ phương thức, giải pháp “chủ động phòng ngừa” là chính. Điều đó thể hiện
rõ tầm nhìn chiến lược của Đảng về quốc phòng, an ninh trong tình hình mới, nhằm chủ động
ngăn ngừa, đẩy lùi, giải tỏa các “điểm nóng”, các nguy cơ dẫn đến xung đột vũ trang; nhất
là việc chủ động ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống đang ngày càng gia
tăng và đe dọa trực tiếp đối với an ninh quốc gia và toàn cầu hiện nay. Đồng thời, nghiên
cứu, bổ sung, hoàn thiện nội dung, hình thức, biện pháp kết hợp đấu tranh quốc phòng, an
ninh và đối ngoại trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Chủ động phát hiện, kiên quyết đấu tranh
với những tư tưởng, hành động sai trái, thù địch, xuyên tạc, mưu toan hạ thấp, phủ nhận vai
trò lãnh đạo của Đảng đối với việc giải quyết mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối
ngoại. Tích cực, chủ động hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả với các
nước, các tổ chức quốc tế. Tiếp tục nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trong việc giải quyết
những vấn đề chung, xây dựng lòng tin chiến lược, hướng đến hòa bình và ổn định trong khu vực và trên thế giới.
Bên cạnh đó, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng xác định: “xây dựng và phát huy
mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây
dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân. Kết
hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và
giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại”. Thường xuyên làm tốt
công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho toàn dân về đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; nhận thức
rõ và vạch trần những âm mưu, thủ đoạn chống phá, hoạt động nguy hại của các thế lực thù
địch. Tăng cường bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho đội ngũ cán bộ, chiến sĩ
trong lực lượng vũ trang và cho toàn dân. Lựa chọn nội dung và đa dạng hóa các hình thức
tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chính sách, pháp luật phù hợp với từng đối tượng, từng địa
bàn. Chủ động trong cuộc đấu tranh tư tưởng làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực
thù địch và hoạt động lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để chống phá, lôi kéo người dân tham gia.
Ba là, bổ sung về định hướng bảo vệ chủ quyền biển, đảo. 11 lOMoAR cPSD| 59256994
Đại hội XIII của Đảng xác định: “kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định để phát triển”. Để bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, cần đẩy mạnh tuyên
truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao về tư
tưởng, hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị trong việc
bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Các đơn vị hải quân, cảnh sát biển, biên phòng cần
có sự kết hợp chặt chẽ với địa phương và các tầng lớp nhân dân, nhất là cư dân sinh sống ở
ven biển, trên đảo, ngư dân làm ăn trên biển, kiều bào ta ở nước ngoài. Đặc biệt, cần thông
tin kịp thời, minh bạch, chính xác để mọi người dân trong nước, người Việt Nam ở nước
ngoài và nhân dân thế giới hiểu cơ sở pháp lý, chứng cứ lịch sử và sự chiếm hữu thực tế của
Việt Nam trên các vùng biển, đảo ở Biển Đông; hiểu rõ quan điểm, lập trường của Đảng,
Nhà nước ta về giải quyết vấn đề chủ quyền trên Biển Đông; từ đó, xây dựng niềm tin, ý chí
quyết tâm, đồng thuận của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ
của nhân dân thế giới để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo và các hoạt động kinh tế biển.
3. Trách nhiệm sinh viên trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay
Đảng ta nhấn mạnh rằng: “Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai
của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc, một trong những
nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, hội
nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Với vai trò quan trọng ấy, lớp người trẻ hay
sinh viên Việt Nam cần có trách nhiệm không chỉ trong việc bảo vệ mà còn cần kết hợp với
xây dựng, phát triển đất nước theo các định hướng của Đảng và Nhà nước ta đưa ra. Cụ thể bằng các hành động:
Thứ nhất, để xây dựng mô hình xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang hướng đến,
một trong những nhiệm vụ đặt ra là “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn
với phát triển kinh tế tri thức”. Vậy nên, sinh viên cần phấn đấu học tập nghiên cứu, sáng
tạo, tiếp thu các công nghệ mới, trang bị các kỹ năng cần thiết để tạo nên nguồn nhân lực
chất lượng cao, thích ứng với thị trường lao động trong và ngoài nước; từ đó, có điều kiện
tạo ra nhiều cơ hội việc làm, khởi nghiệp vì cộng đồng, nâng cao nâng lực hội nhập của đất nước.
Thứ hai, cần có ý thức giữ gìn đạo đức, tác phong, thực hành lối sống lành mạnh, rèn
luyện trí lực, bài trừ tệ nạn xã hội; luyện tinh thần cầu tiến, tự học tập, tự hoàn thiện bản thân
trở thành lớp người “vừa hồng vừa chuyên” giúp ích cho cuộc đời. Hơn thế, ở vị trí là những
người được kế thừa nền hòa bình, độc lập dân tộc, được thụ hưởng những sản phẩm của quá
trình phát triển đất nước, người trẻ Việt Nam có trọng trách tôn trọng lịch sử, văn hóa; kế tục 12 lOMoAR cPSD| 59256994
phát triển bản sắc dân tộc theo những phương cách phù hợp với thời đại mới; đón nhận sản
phẩm, văn hóa nước ngoài một cách có chọn lọc.
Thứ ba, đẩy mạnh học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, làm theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí
Minh cũng như nâng cao nhận thức chính trị. Cụ thể hơn là hiểu sâu về chủ trương, đường
lối, mục tiêu lý tưởng của Đảng; bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Từ đó, sinh viên có cơ
sở để củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và tích cực thực hiện các chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, sự phát
triển của mạng xã hội đã tạo cơ hội cho các thế lực thù địch trong, ngoài nước truyền bá
những thông tin xuyên tạc đến người dân và bạn bè quốc tế. Với nền tảng nhận thức rõ ràng,
người trẻ có trách nhiệm phản bác các quan điểm sai trái cũng như bảo vệ chủ quyền, lợi ích
quốc gia cũng như tuyên truyền đến người thân, bạn bè thông tin đúng đắn. 13 lOMoAR cPSD| 59256994 KẾT LUẬN
Nhìn chung, vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh thực chất là vấn đề đấu tranh
giải phóng của các dân tộc thuộc địa, mà cụ thể nhất là dân tộc Việt Nam, nhằm đánh tan sự
thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân dộc, xóa bỏ ách áp bức, bóc lột của thực dân,
thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước dân tộc độc lập. Trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do" là tư tưởng mang tính cách mạng sâu sắc
và triệt để. Nó gắn bó chặt chẽ với cuộc đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và giải phóng con người-sự nghiệp vĩ đại mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phấn đấu,
hy sinh cả cuộc đời để thực hiện. Đồng thời, tư tưởng đó cũng là nguồn động viên đối với
các dân tộc bị áp bức trên ̣thế giới đấu tranh giành lấy độc lập, tự do. Vì vậy, Hồ Chí Minh
không chỉ được ̣tôn vinh là “Anh hùng giải phóng dân tộc” mà Người còn được thừa nhận
là ̣“Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế ̣kỉ XX”.
Nhìn lại hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới và hướng tới chặng đường phát triển
với tầm cao phía trước, thấy rõ những điều kiện mới, thời cơ và thuận lợi mới chen lẫn nhiều
chông gai, khó khăn, thách thức. Nhưng tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” sẽ
tiếp tục là động lực to lớn cổ vũ toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đồng tâm nhất trí, triệu người
như một kiên định, kiên trì đi trên con đường mà Bác Hồ đã lựa chọn, quyết tâm thực hiện
thắng lợi mục tiêu chiến lược dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững
bước đi lên chủ nghĩa xã hội.Trong bối cảnh thế giới và trong nước hiện nay, chân lý “Không
có gì quý hơn độc lập, tự do” tiếp tục là động lực tinh thần to lớn và là tư tưởng dẫn dắt nhân
dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh để bảo vệ, giữ vững nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ, bảo vệ tự do, hạnh phúc thực sự của dân tộc và giữ vững chế độ xã hội chủ nghĩa
trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, văn hóa, tư tưởng, quân sự, ngoại giao... với những nội
dung mới, hình thức mới và sắc thái, biểu hiện mới. 14 lOMoAR cPSD| 59256994 MỤC LỤC
Dẫn luận ......................................................................................................................... 2
Nội dung .................................................................................................................... 3-12
Chương I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc .................................................. 3 1.
Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc .......... 3 2.
Độc lập dân tộc phải gắn liền tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc của nhân dân ....... 4 3.
Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để ..............................
5 4. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ .................................... 6
Chương II. Bàn về câu nói “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.. ............................. 7
1. Bối cảnh ................................................................................................................... 7
2. Phân tích .................................................................................................................. 8
2.1. “Không có gì quý hơn độc lập, tự do" – Cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh ...... 8
2.2. “Không có gì quý hơn độc lập, tự do" - Mục tiêu, động lực phát triển đất nước .. 9
Chương III. Liên hệ về sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay ........................ 9
1. Tình hình hiện nay ............................................................................................. 9
2. Định hướng ...................................................................................................... 10
3. Trách nhiệm sinh viên trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay .......... 12
Kết luận ........................................................................................................................ 14 Tài
liệu tham khảo ....................................................................................................... 15 15 lOMoAR cPSD| 59256994
NGUỒN VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu học tập môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
2. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
3. Tạp chí Ban Tuyên giáo Trung Uơng 16