Phân tích Vĩnh bit cửu trùng đài Ng văn 11
Dàn ý Phân tích Vĩnh biệt cửu trùng đài
Gii thiu chung
- "Vũ Như Tô" vở kch xut sc ca Nguyễn Huy Tưởng ca nn kch
Vit Nam hiện đại. Tác phẩm được sáng tác năm 1941, da trên mt s kin
lch s xy ra kinh thành Thăng Long vào thi Hu Lê.
- Trong đoạn trích đưc hc, y n tượng sâu sc nht là bi kch ca nhân vt
Vũ Như Tô.
Trình bày cảm nghĩ v bi kch nhân vật Vũ Như Tô
Nhng nét chính trong bi kch ca nhân vt Vũ Như Tô
Bi kịch Như bi kch của người ngh tài hoài bão lớn,
nhưng không giải quyết được nhng mi quan h phc tp gia ngh thut
đời sống, đặc bit không gii quyết được thc s đúng đắn vấn đề sáng to
ngh thuật cho ai và đ làm gì.
- Vũ Nhưmuốn xây dng mt công trình kiến trúc vĩ đi, tuyệt mĩ, tô đim
cho non sông mục đích đó hết sức cao đẹp, xut phát t thiên chc ca
người ngh sĩ, từ lòng yêu nước và tinh thn dân tc.
- Nhưng trên thc tế, Cửu Trùng Đài y trên tiền ca, m hôi, ơng máu
ca nhân dân nếu được hoàn thành, cũng ch nơi ăn chơi sa đa ca
vua chúa. Vũ Như đã sai lầm khí li dng quyn lc ca bạo chúa để thc
hin khát vng ngh thut ca mình, ch đứng trên lập trường ngh nên trở
thành k đối nghch vi nhân dân.
- Chínhvậy, nhân dân căm hn bạo chúa, đồng thời cũng oán trách, nguyền
rủa người kiến trúc sư và cuối cùng đã giết chết c Lê Tương Dực ln Vũ Như
Tô, đt cháy Cửu Trùng Đài.
Trình bày cảm ng
- Thương cảm người ngh tài, m, đam ngh thut, khao khát
sáng to, sn sàng hi sinh tt c cho cái đẹp, nhưng xa rời thc tế phi tr
giá đắt bng sinh mnh và c công trình ngh thut ca mình.
- Không có cái đp tách ri cái chân, cái thin. Tác phm ngh thut không th
ch mang cái đẹp thun y, phảỉ mục đích phục v nhân n. Ngưi
ngh phải hoài bão ln, khát vng sáng to những công trình đi
cho muôn đời, nhưng cũng phải biết x đung đn mi quan h gia khát
vọng đó với điu kin thc tế ca cuc sng, vi đòi hi ca muôn dân.
- hi phi biết tạo điều kin sáng tạo cho các tài năng, vun đắp tài năng
quý trng nâng niu nhng sn phm ngh thut đích thc.
Kết lun
Qua bi kch ca nhân vật NTô, Nguyễn Huy Tưởng gi những suy
sâu sc v mi quan h giữa người ngh với hoạt động sáng to ngh thut
và hin thc đi sng ca nhân dân.
Văn mẫu lp 11: Phân tích Vĩnh biệt cửu trùng đài
Nguyễn Huy ng (1912 - 1960) xut thân trong mt gia đình Nho giáo
làng Dc Tú, huyn T Sơn, tỉnh Bc Ninh (nay Dc Tú, huyện Đông
Anh, Nội). m 1943, ông tham gia Hội Văn hoá cu quốc do Đảng lãnh
đạo và là đại biu tham d Quốc dân Đại hi Tận Trào tháng Tám năm 1945.
Trong sáng tác, Nguyn Huy Tưởngthiên hướng khai thác đề tài lch s
có đóng góp nổi bt các th loi tiu thuyết và kịch. Văn phong của ông gin
d, trong sáng và thâm trm, sâu sắc. Năm 1996, ông được Nhà nưc tng Gii
thưng H Chí Minh v văn học ngh thut.
Tác phm chính: Các v kịch Như (1941), Bắc Sơn (1946), Những
người li (1948), kch bản phim y hoa (1960); các tiểu thuyết Đêm hội
Long Trì (1942), An (1945), Sng mãi vi Th đổ (1961); kí: s Cao -
Lạng (1951),… Vũ Như Tô là vở kịch đặc sc ca Nguyễn Huy Tưởng.
Qua tn bi kch của Như Tô, tác gi đặt ra nhng vấn đề sâu sc, ý
nghĩa muôn thuở v mi quan h gia ngh thut vi cuc sng, giữa tưởng
ngh thut cao siêu, thun y của muôn đời vi li ích thiết thân trc tiếp
ca nhân dân.
Như - mt kiến trúc thiên tài bị vua Tương Dc bt xây dng
Cửu Trùng Đài để m nơi hưởng lạc, vui chơi với các cung n. vn mt
ngh chân chính gn vi nhân dân, cho nên mc b Tương Dực
da giết, Như vẫn ngang nhiên chi mng tên hôn quân y kiên
quyết t chi xây Cửu Trùng Đài (hồi I).
Đan Thiềm, mt cung n đã thuyết phục Như chấp nhn yêu Cu ca
Lê Tương Dực, li dng quyn thế và tin bc ca hn, tr hết tài năng để xây
dựng cho đất nước mt tòa lâu đài đi bền như trăng sao, thể tranh tinh
xo với hóa công đ cho dân ta nghìn thu còn hãnh din.
Theo lời khuyên, Như đã thay đổi thái độ, chp nhn y cu Trùng
Đài. Từ đó, ông dn hết tâm trí bng mi giá y dựng tòa đài sao cho thật
hùng vĩ, tráng lệ. Tuy nhiên, ông đã vô tình y biết bao tai hoa cho nhân dân.
Để xây dng Cửu Trùng Đài, triều đình ra lệnh tăng thêm sưu thuế, bt thêm
th gii, tróc , hành h những người chống đối. Dân m phẫn vua vua
làm cho dân cùng, c kit; th oán Như bởi nhiều người đã chết
tai nạn, ông cho chém đầu nhng k chy trn. Công cuc y dng càng
gn thành công thì mâu thun gia tập đoàn thống tr xa hoa try lc vi dân
chúng nghèo kh, gia Như với những người th lành ngh ngưi
lao đng mà ông hng yêu mến càng căng thẳng, gay gt (hi II, III, IV).
Li dng tình hình ri ren mâu thun y, Qun công Trnh Duy Sn - k
cầm đầu phe đối lp trong triều đình đã dấy binh ni lon, lôi kéo th m
phn, giết vua Tương Dực, NTô, Đan Thim. Cửu Trùng Đài bị
chính những người th đập phá và thiêu hy (hi V).
Đoạn Vĩnh biệt Cữu Trùng Đài là hồi V ca v kch, th hin hiu biết sâu sc
v ngh thut kch ca Nguyễn Huy Tưởng: ngôn ng kịch điêu luyện, có tính
tng hp cao; dùng ngôn ngữ, hành động ca nhân vật đ khc ha tính cách,
miêu t tâm trng, dn dt và đy xung đột kịch đến cao trào.
Trong cung cấm, Đan Thiềm đột ngt hớt hớt hi chy vào, mt ct không
còn ht máu, gic giã Như hãy trn mau bi loạn đến nơi ri. Dân gian
đói kém nổi lên, qun công Trnh Duy Sn mượn tiếng đi dẹp gic ri quay
binh vm loạn. Nhưng Vũ Như Tô kiên quyết không chu ri CửuTrùng Đài
một bước. Vừa lúc đó, Nguyễn lật đật chy vào hi tình hình lo lng cho
tính mng ca nhà vua. Trung Mi xut hin thông báo Duy Sản đã đốt la
hiu gi báo gic, nhà vua ln ra ca Bo Khánh chy gic thì b Ngô Hch
của Duy Sản đâm chết. Khâm Đức hoàng hậu hay tin cũng nhy vào la
t thiêu. Nguyễn khóc lóc rút dao t t. Mt bn ni gián khác thông
báo thêm sau khi giết vua Tương Dc, triều đình đã lập vua khác lên ngôi.
T Hầu Phùng Mai đứng lên mng quân phn nghịch đã bị chém đu
ngay lp tc. An Hòa Hu bến B Đề kéo quân v đốt phá kinh thành. Th
xy Cửu Trùng Đài quá na theo v quân phn nghịch. Đan Thiềm tiếp tc
giục Như đi trốn nhưng ông vẫn kiên quyết li. Quân khi lon kéo
vào. Đan Thiềm không th xin tha được cho Vũ Như Tô, nàng bị chúng kéo đi
nên chi còn biết Xin cùng ông vĩnh biệt Cửu Trùng Đài. Như khăng
khăng cho mình không tội, xin vào thưa với ch ng ý nguyn tốt đẹp
khi xây Cửu Trùng Đài nhưng quân lính không nghe và cho biết chính An Hòa
Hầu đã ra lệnh đốt sch Cửu Trùng Đài. Như đau đớn, v mng, chua
chát chp nhn cái chết bi thm.
Vũ Như Tô và Đan Thim coi Cửu Trùng Đài là cả phn xác ln phn hn ca
cuộc đời mình. Như chấp nhn làm vic cho hôn quân bo
chúa. b thương trên công trường, ông vn tiếp tc ch đạo công
việc. Cũng nó, để gi gìn k lut, ông buc phi tr ti những người th b
trốn. Cũng lại mà ông quyết li trong cung cm, giữa cơn biến loạn để
bo v không phi mng sng ca mình bo v Cửu Trùng Đài - sinh
mng ngh thut ca c đời ông.
Tính cách ni bt nht Như tính cách của người ngh tài hoa
hin thân cho nim khao khát đam sáng tạo Cái Đẹp. Nhưng trong mội
hoàn cnh lch s c thể, thì Cái Đẹp y thành ra phù phiếm. sang trng,
siêu đẳng, thm chí cao c đẫm máu như một bông hoa ác. thế, đi đến
tn cùng niềm đam mê, khao khát ấy, Như tất phải đối mt vi bi kch
đau đn của đời mình: ông tr thành k thù ca dân chúng, th thuyn
không hay biết.
Tài ba của Như được nói đến ch yếu các hi kch trưc, thông qua
hành động ca ông nht qua li ca c nhân vt khác nói v ông. Tài
ngh của ông đạt đến mức siêu phàm, được Đan Thiềm ca ngi mt thiên
tài ngàn m chưa d mt, th sai khiến gạch đá như viên tưởng cm
quân. Trong hi th V, nhng lo lắng, toan tính thái đ của Đan Thiềm khi
nói v Vũ Như đủ cho thy cái tài y qu hiếm hoi: tài kia không nên đ
ung..; Ông mà có mnh h nào thì nước ta không còn ai đim tô nữa… Đừng
để phi tài tri. Hi V không nói nhiều đến tài năng ca nhân vt (ch Đan
Thim nhắc đến) đặt Như vào vic tìm kiếm mt câu tr li: Vic
mình nhn xây Cửu Trùng Đài đúng hay sai? công hay có tội? Nhưng
Vũ Như không trả tời được thỏa đáng câu hỏi đó bi ông ch đứng trên lp
trưng của người ngh mà không đứng trên lập trường của nhân dân, đứng
trên lập trường Cái Đẹp mà không đng trên lập trường Cái Thiện. Hành động
của ông không hướng đến s hòa gii mà thách thc và chp nhn s hy dit.
Vũ Nhưđã từng tranh tinh xo vôi hóa công, gi li bướng bnh tranh phi
trái vi s phn vi cuộc đời. Hành động kịch hướng vào cuộc đua tranh
này và th hin tp trung qua din biến tâm trng của Vũ Như Tô.
Nhự vì chìm đắm trong khao khát, đam Cái Đẹp tr nên
mng và ảo tưởng. Gic mng y bắt đầu t khi ông quyết định nhn li xây
Cửu Trùng Đài cho Tương Dực, mượn tay bạo chúa để y mt công trình
điểm cho đi. Càng sáng sut trong sáng to thiết kế, thi công Cu Trùng
Đài bao nhiêu, Vũ Như Tô càng xa ri thc tế by nhiêu.
Ngay c khi s thật phũ phàng của Cơn biến lon di đến, Đan Thiềm c gng
kéo ông ra khi gic mng bng thông tin kinh hoàng loạn đến nơi rồi
bng phn ng d di của dân chúng đối với ông: Ai ai cũng cho ông th
phm. Vua xa x ông, công kh hao ht vì ông, dân gian lm than là
ông, man di oán gin là ông, thần nhân trách móc ông:., Như
Tô vn không tnh, vn cho là h hiu nhm.
Tn mt chng kiến Nguyễn tự sát, nghe tên ni giám thông báo k phá,
người đốt cửu Trùng Đài, Như vẫn cho điu Ií. Nghe tiếng quân
lính reo hò truy tìm mình đ phanh thây, Vũ Như Tô vẫn c đấu lí vi s phn
cuộc đời: để h giết tôi? Đứng trước quân khi loạn gươm giáo
sáng lòe, Vũ Như Tô t trn an: Đi ta chưa tn, mệnh ta chưa cùng. Ta sẽy
một tòa đài đại để t lòng tri k. B ra lnh dn v trình ch ớng, Như
vn hi vng s th phân trn ging giải cho người đi biết rõ nguyn
vng của ta. Ông ờng như không hề nghe thy tiếng i ầm ĩ lời quát
tháo ca quân lính. y không biết mấy nghìn người chết Cửu Trùng Đài,
m mt con, v mt chồng y đó ư? Người ta oán mày còn hơn oán quỷ.
Ông vẫn say sưa trong giấc mng Cửu Trùng Đài: Vài m nữa, đài Cửu
Trùng hoàn thành, cao c, huy hoàng, gia cõi trn lao lc, mt cnh Bng
Lai…
Ch đến khi kinh thành phát hỏa, quân lính cho hay đó lệnh ca An Hòa
Hu và tn mt chng kiến ánh la sáng rc, c tàn than, bụi khói bay vào, Vũ
Như mới lên kinh hoàng, tuyt vọng: Đốt thc rồi! Đốt thc ri ôi
đảng ác ! Ôi muôn phn căm giận! Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì? Ôi mng
lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài! Rơi xuống t mt cửu Trùng Đài vời
vợi độ cao của màng o vng, nỗi đau vỡ mộng trong Như hoá
thành tiếng kêu bi thiết, não nùng, khc khoi. Cửu Trùng Đài đã biến thành
một đài lửa rng rc trong kinh thành Thăng Long đầy biến động, Như
đã chết trước khi ra pháp trường. Mng ln, Đan Thiềm, Cửu Trùng Đài Tất
c ni tiếp nhau di xung nhng âm thanh của đau thương tang tóc. Nỗi đau
mất mát đã hòa vào làm một, tr nên tt cùng. Âm thanh y tr thành âm
thánh ch đạo dội ngược lên toàn b các hồi trước ca v kch.
Khc khoải trong lòng người đọc vn nhng du chm hi, nhng câu cm
thán tht ra t đỉnh điểm ca cm xúc, t cao trào của xung đột trong Như
Tô: Ta ti gì? Ta không ti! ôi mng ln ôi Đan Thim Ôi Cu Trùng
Đài! Cảm giác ngt ngt, bc bối ởng như còn nguyên vn khi Nguyn Huy
ng viết lời đề ta: ôi khô khan! ôi gay gt! Bi kịch Như đã thc
tnh ý thc ca chúng ta v vấn đề muôn thu: mi quan h hữu giữa ngh
thut và cuc sng.
Ngưc li vi nhn thc của Như Tô, trong mắt dân chúng, Cu Trùng
Đài là hiện thân của thói ăn chơi xa x, hin thân ca ti ác. Cửu Trùng Đài
cha đẻ ca - Như - chính k thù ca họ. Như , Cửu Trùng
Đài, cung nữ… b quân phn nghch xếp chung vào mt hng cn phi tr
ti. Bi vy Cửu Trùng Đài bị thiêu cháy, Như bị gii ra pháp trưng
và dân chúng reo hò, ăn mừng như ăn mừng chiến thng ln.
Điểu đã tạo nên s khác biệt đến đối lp khi nhìn nhận đánh giá về công
trình cửu Trùng Đài kiến trúc Như từng vng: móng phải đào
sâu xuống dưi âm ti, nóc phi vờn mây?Vũ Như Tô xây dng Cu Trùng Đài
với ao ước điểm cho đất nước, để li cho dân tc mt công trình hin
thân của cái đp cao cả, huy hoàng, đem hết tài ra xây cho nòi ging mt tòa
đài hoa l, thách thc c những công trình sau trưc, tranh tinh xo vi Hóa
công. Ao ước, khao khát y là cao c, là chân chính, bi xuất phát đim ca nó
t mt cái Tâm tha thiết vi dân tc. Cho nên ngay t đầu, nhiều người đã
hiu và ng h Vũ Như Tô. Nhưng đài càng xây cao, mạng người càng r mt,
dân chúng càng điêu đng, bn hôn quân bo chúa càng ra tay vét. Cửu
Trùng Đài đã tr thành đại ho, gây ra bao khn kh điêu linh, thành một đóa
hoa ác, thành hiện thân cho thói xa hoa ng lạc trên xương máu của nhân
dân. tt nhiên, trong mắt nhân dân, Như tr thành k thù phải đền
ti.
Bài tham kho 2
Như của Nguyễn Huy Tưởng, cũng như những nhân vt chính, còn gi
nhân vt anh hùng (héros) ca bi kch, một con người quá kh, ta mun
nhn biết nó thì phi đo nó bằng cái thước ca nó, ch không phi ca ta.
Vũ Như Tô, cũng như Hamlet, như Coriolanus, như vua Lia (Lear), không phi
người tốt theo nghĩa thông thường. Con ngưi tt bụng, con ngưi hin t
hay mm yếu, mà s mm yếu "phn ch định" đối vi nhân vt bi kch. Con
người hin t yếu đui, th động hng chu, qun qui rên xiết dưới nhng đòn
đánh không hiu ni ca s phn đối tượng ca kch mêlô (mélodrame)
châu Âu, kch cải ơng ta. Như Tô, nhân vật bi kch, ch động vùng dy
chng li s phận, không đợi đánh mình, thách thc s phn y Cu Trùng
Ðài.
Nguyên nhân, lực đẩy ca tính ch động cao độ y nhân vt bi kch nim
say (passion), trong trưng hợp Như say sáng to. Nim say
ấy như thuốc súng, như ét-xăng nằm sn bên trong nhân vt bi kch,
ch ch được châm để n cháy. Trong kch ca Nguyễn Huy Tưởng, ngưi
châm cho say nơi Như bc la Ðan Thiềm (điểm tht nút ca
kch). Không phi Ðan Thiềm đã thuyết phc hay d d h y Cửu Trùng
Ðài, khát vng y Cu Trùng Ðài sc i sẵn trong Như Tô, ch cn mt
li khích l t bên ngoài là nó chuyển hóa thành hành động. Bản đồ Cu Trùng
Ðài đã được v sn, mi tính toán kinh tế - k thuật đã được hoàn tất trước khi
nhà kiến trúc thiên tài gặp m n tâm hn. Mối băn khoăn xut phát t
lương tâm k sĩ (y gi ta gọi là lương tâm công dân) về vic phc v cho hôn
quân bạo chúa, đi ngưc li quyn li ca qun chúng nhân dân, chính h
với v con bạn đồng nghip thành phần, đưc tháo g rt d dàng
không làm gim sc thuyết phc ngh thut ca nhân vt ca c tác
phm. T giây phút y, ngn lửa đam c thế cháy, càng gp tr ngi
càng cháy cao. Vũ Như Tô, mượn tay Lê Tương Dực cung bạo, hành động hi
h quyết lit, lo s công trình ca mình s không hoàn thành. Trong s liu,
Cu Trùng Ðài xây t năm y sang năm khác, thi gian ca bi kịch được thu
rút lại trong vòng 10 tháng. Ngưi th c đôn hậu trong đời thường không ngn
ngi giết hết tt c nhng ai chng li công trình ca y. Trong y, không ch
cho những băn khoăn trăn tr v cái giá nhân n phi tr cho tác phm
ngh thut tuyệt ca y. Bao nhiêu công ca phải đổ vào, bao nhiêu tính
mng phải hy sinh cũng đều là hợp đích trong con mắt người ngh bị ám nh
bởi đồ án tưởng ca mình. Mt trong nhng lp kch hay nht (hi 4, lp 1):
Như gặp v ln cui ng, Th Nhiên k cho chng v cảnh đói kém,
mt mùa, gic nổi lên như châu chấu quê nhà, con cái ốm đau quặt quo
không được cha chăm nom... H Vũ, đã què chân ngã t nóc xung, nghe
không nghe thy, toàn b tâm trí b cun hút bi cnh quan tráng l ca
Cửu Trùng Ðài. "Khi con người trong ngh thut, vng mt trong cuc
sống, ngược li"(6) - đó trạng thái bi kịch (theo nghĩa triết hc) muôn
thu của nhân sinh, đưc phn ánh c trong v kch ca Nguyễn Huy Tưng.
Ði với Như Tô, Cửu Trùng Ðài quý hơn tính mạng của chàng, cái đó thật
đáng yêu đáng phục. Nhưng Cửu Trùng Ðài còn quý hơn hạnh phúc s
sng của hàng trăm, hàng ngàn con người khác, cái đó thì lại đáng sợ ri. Theo
đuổi cái đẹp thun túy, biến nó không nhng thành giá tr t thân, mà còn thành
thần tượng độc n, ngưi ngh thiên tài đã phạm tội trước nhân dân, trước
nhân loại, trước s sng. Cái chết của Như Tô, xét từ một góc đ xác đnh,
là hp lý, là xng đáng. Ðó là cái chết chuc ti, mc dù nhân vt kch không ý
thc đưc điều đó.
Như chúng ta biết, ti li bi kch mt khái nim mu cht trong lý thuyết bi
kch. Không ti li bi kịch, ng như không xung đột bi kch thì không
tác phm bi kch. Nhưng ti li bi kch khác nhng kiu ti li khác ch
nào? Hơn hai ngàn năm sau Thi pháp hc ca Aristote, triết gia và nhà văn hin
sinh ch nghĩa tiền khu Kierkegaard khẳng định: "Nếu con người hoàn toàn vô
ti, bi kch mt hết thú, bi s mất đi sc mnh của xung đột bi kch; mt
khác, nếu nhân vt t li hoàn toàn, thì s không th khiến ta quan
tâm, xét t quan điểm bi kịch"(7). nghĩa nhân vật bi kch phi va ti,
li va không tội (đây điểm khu bit bi kch vi kch anh hùng, ta
kch tuồng, trong đó nhng nhân vt anh hùng chính trc một trăm phần trăm
đấu tranh vi nhng nhân vt gian ác hèn h cũng một trăm phần trăm). Các
nhân vt bi kịch điển hình trên kịch trường (và sau này c trong tiu thuyết) thế
giới đều như thế. Như của Nguyễn Huy Tưởng, như chúng tôi đã cố
gng chứng minh, cũng là nhân vật như thế, cũng vừa có ti, mà ti ln, li va
không tội, hay là, như một trong những nhà phê bình đầu tiên ta bình v
tác phm y nói theo lối nói điển hình Vit Nam, "có ch đáng giận, điều
đáng thương"(8). Cho nên, không đáng ngc nhiên là, sáng c xong v
kch, tác gi thy cn phi viết thêm my dòng Ð ta ni tiếng, trong đó nhắc
li hai ln: "Chng biết Như phải hay nhng k giết Nphải?" Câu
hi y, theo chúng tôi, không th hin s hn chế v tưởng ca tác gi,
nó chng t rng tác gi, có th ch bng trc giác sáng to, cm nhn rt rõ cái
bn cht bi kch của trưc tác ca mình. Bi kch, th loi ln của văn học
sân khu, bao gi cũng đặt độc gi khán gi trưc nhng câu rt phc tp,
hóc búa nhc nhi ca cuc sng. Nhng câu hi y không ch đợi nhng
giải đáp vội vã, d dãi, đơn giản. Cho nên thiết nghĩ cũng không nên cm
thông mến yêu Như gi ti ca nhân vt y "ti thiêng
liêng"(9). Như thế t "thiêng liêng" b mất nghĩa, tính chất ca cái ti
nhân vt vừa đáng yêu, vừa đáng sy lại không được thâu tóm.
Ð làm sáng t hơn i ti bi kch của Như Tô, xin được đi sâu một chút
vào lch s khái nim này. Bi kịch, như chúng ta biết, ra đời Hy Lp c đại và
liên quan mt thiết vi tôn giáo minh triết ca dân tộc y. Ngưi Hy Lp
th nhiu thn linh, mi thn hin thân cho mt sc mnh bn th nào đó.
Tôn giáo Hy Lạp đòi hỏi sùng kính tt c các thần, không được coi thường mt
thn nào. Trong bi kch rt ni tiếng Hippolyte ca Euripide, chàng trai th tiết
Hippolyte, ch tôn sùng thn trinh n Artémis khinh r n thn Aphrodite
đã bị Aphrodite trng pht, truyn cho Phèdre, m kế ca Hippolyte, tình
yêu điên r đối vi chàng; tình yêu y cuối cùng đã giết chết Hippolyte. Ti bi
kch của Hippolyte đã ái mộ ch mt Artémis (s trinh tiết) r rúng
Aphrodite (tình yêu). Nếu dch ra ngôn ng khái nim ca hi thế tc hóa
hiện đại, thì Hippolyte đã đề cao quá mc mt giá tr ca nhân sinh coi
thưng quá mc mt giá tr khác. Ðây mt trong nhng kiu lm lỗi bản
của con người và loài ngưi, trong văn học được thâu tóm bng phm trù ti li
bi kch(10). Mi say mê của con người, nht những say chính đáng, cao
thượng, giàu tính nhân văn, càng nồng cháy bao nhiêu thì càng tim n nhiu
nguy cơ này by nhiêu. Có th tranh lun cáiy có thuc v bn cht bt hoàn
hảo không thay đi của con người hay không (h qu ca "ti li t tông", theo
tư duy thần học), nhưng rõ ràng li lm bi kch có tính ph biến, tính toàn nhân
loi. Li lm của Như Tô trong kch Nguyễn Huy Tưởng là như thế. Chàng
rất cao thưng trong khát vng và ý chí sáng to của mình, nhưng chàng đã độc
tôn cái Ðp ngh thuật, đặt nó lên trên mi giá tr cơ bản khác, tuân th ch mt
mnh lnh ca cái Ðp dửng dưng với mnh lnh ca cái Thin. Ðây ct
lõi ca cái li bi kch nhân vt anh hùng này.
Trong Nht tưởng ca Nguyn Huy Tưởng, ta bt gp mt ý k l, ghi
ngày 23-2-1932, lúc nhà văn tương lai chưa đy hai mươi tuổi; nó như o
trưc cái nút khó tháo ca nhng vấn đề triết lý ca kịch Vũ Như Tô: "Cái đp
do s giai cp bất bình đẳng, cái sướng do s giai cấp bình đẳng"(11). "Cái
ng" đây l ch hnh phúc, hnh phúc chung, hnh phúc y ch
th đạt được khi thc hiện bình đẳng giai cp - mt mnh lệnh cơ bản ca cái
Thiện. Nhưng được cái Thin thì li mt cái Ðp gn lin vi bt công hi,
bất bình đng giai cấp (tư tưởng y khá uyên thâm, xin tr li vi sau).
Phi chn một trong hai cái, Như Tô, nhân vật ra đời mười m sau
nhng dòng viết trên, đã dt khoát và quyết lit chn cái Ðp.
Cho đến gi, chúng tôi mi ch nói đến li lm ca nhân vt s mt
(protagoniste), nhưng trong bi kch còn nhân vt s hai, đối kháng
(antagoniste) - qun chúng nhân dân. Qun chúng nhân dân c th, ch không
trừu tượng y, trong lch s trong kch ca Nguyễn Huy ởng đã chọn
không suy nghĩ đắn đo chỉ mt cái Thiện như họ hiểu nó, chà đạp, h nhc
không thương tiếc cái Ðp. Nhân vật đối kháng tp thể, cũng hệt như nhân vật
nguyên khởi, đã phm ti li bi kch. Trong bi kch thc th không ngưi
chiến thng. Tính cao c đặc bit ca nó là ch y.
Ai ai cũng biết gii thuyết ca Aristote v hiu ng tâm ca bi kch: y
s hãi xót thương. Nhưng cái đó chưa đủ không phi cái chính. Hành
động bi kch phi dẫn đến s thanh ty (catharsis) nhng cm xúc y. S thanh
tẩy này đạt được bng và nh s giác ng cái l sâu kín ca nhng kh đau bất
hạnh đã đến vi các nhân vt kịch. Ðây cũng đim quan trng khu bit bi
kch vi kch mêlo hay kch cải lương. nhng th loi này, hiu ng xót
thương đến trào c mắt, đến ngt xu đặc trưng và t đủ. Như Tô, tác
phm bi kịch, không m ta rơi nước mắt, nhưng bắt ta suy ngm v cái l,
cái nghĩa sâu xa của những ta đã đọc hoặc đã thấy (trên sân khu). Ðó
hiu ng catharsis chm.
nhng bi kch có dụng ý giúp đỡ độc gi hay khán gi thc hin catharsis
bằng cách để cho các nhân vt, điểm tháo nút, t giác ng ý nghĩa ca nhng
gì đã xảy ra (thí dụ, Oedipe làm vua hay Othello). Nhưng đa số các tác phm bi
kch phó thác nhim v y cho người đọc, người xem. Như thuc loi
th hai. Cho đến phút b chém đầu, nhân vt anh hùng này vẫn đinh ninh: toàn
b chân l phi thuc v mt mình chàng vi Ðan Thim, toàn b ti ty
tri thuc v ảng ác" đã đt phá Cu Trùng Ðài. Mt khác, dân chúng, binh
nổi loạn cũng ch biết h hê đã loại tr được nguyên nhân trc tiếp ca
nhng tai ha ca họ. Nhưng toàn bộ hành động kch khiến chúng ta, sau
những phút giây xúc đng mạnh, suy nghĩ dai dng theo nhiều hướng, c m
ti cái catharsis không th thiếu đưc. Xin phác tho mt vài hướng suy nghĩ
ca cá nhân, mong đưc trao đi vi các đng nghip.
Chúng ta, những con người, luôn luôn lm lc trong hành động lẫn duy. Ð
cao cái Chân, cái Thin, cái Ðẹp như những giá tr cao nht ca nhân sinh (thc
ra, còn nhiu giá tr tuyệt đối khác: cái Thiêng, Tình yêu, T do...), chúng ta, b
câu thúc bi thc tin xã hi và b chi phi bi kiểu duy trừu tượng hóa, ch
bit ch không ch toàn ngày càng thng ng đời sng tinh thn của loài người,
rt d xem chúng như nhng giá tr độc lp, th tn ti riêng bit, cái này
không cái kia vẫn được. T đấy ta li càng d hy sinh, d thí giá tr này
cho giá tr kia. Trong khi y trong cuc sống ng, tc cuc sng duy
nht xứng đáng với con ngưi, mi giá tr phi tn ti viên mãn, không ln át
nâng đỡ, b sung hài hòa cho nhau. Bi kch ca Nguyễn Huy Tưởng nhc
nh chúng ta v mi ha ln ca s tách rời đối nghch hóa các giá tr.
chứng minh đầy thuyết phc rng cái Ðp t sát, khi nó nhy múa trên thân th
qun qui ca cái Thiện, nhưng giết cái Ðp cái Thin cũng giết luôn c
cái Thin.
Trên đây chúng tôi va dn một tưởng tng kết rất đúc của Nguyn Huy
ởng: "Cái đẹp do s giai cp bất bình đẳng..." Như chúng tôi hiu, ý nhà
văn muốn nói, cái đp nhân to (không phải cái đẹp thiên tạo) ra đi trong
hi bất bình đẳng luôn luôn phc v cho nhng giai cp thng tr, b nhng
giai cp y chiếm hu. Ðây qu mâu thuẫn bản bi kch ca c văn
minh loài người, chính kịch Như phản ánh mt cách ni bt mâu
thun y. Mâu thun này nhiu khi tr nên gay cấn đến ni mt thiên tài sáng
tạo đúng là "ngàn năm chưa dễ một" như L. Tolstoi (mà Nguyễn Huy Tưởng
rt ái mộ), đã cương quyết chi t c cái Ðp ln toàn b văn hóa, văn minh,
kêu gi loài người tr li và t ông cũng c tr li vi cuc sng t nhiên, mc
mc ca những con người làm rung chân lm tay bùn - cái cuc sng mà trong
kch ca Nguyễn Huy ng, Th Nhiên (ch mt cái tên ca n nhân vt y
đã mt sáng tạo đáng phục!) kêu gi Như trở về. Nhưng nhân loại đã
không nghe theo mt trong những người thy đáng kính đáng yêu nhất ca nó.
(Có th mt phn bi l ông thyy, cũng như nhiều ông thy ln khác, mun
tr thành v thy duy nhất). đã không chối t nhng giá tr siêu đng, ch
chúng đương bị mt thiu s không xứng đáng chiếm gi, để tha mãn vi ch
nhng giá tr đẳng, va tm vi tuyệt đại đa số. Bởi hàng trăm hàng ngàn
đình làng Th Nhiên nhắc đến không thay thế được mt Cu Trùng Ðài.
Nhưng quan hệ giữa cái siêu đẳng cái đẳng trong văn hóa tương hỗ,
nuôi dưỡng lẫn nhau. Không cái siêu đẳng, cái đẳng càng qung càng
tr nên thô kệch. Nhưng cắt đứt quan h với cái đẳng ("cái t nhiên" hay
t" của văn hóa), cái siêu đng t làm cho mình mất đi nha sng. Bnh Ðan
Thim trong kch ca Nguyễn Huy Tưởng (không phi trong li Ð ta!)
bnh khát khao và quý giá ch một cái đẹp siêu đẳng. Cái đó có thể châm chước
cho nàng, nhưng nếu h chỉ say đắm Ðan Thim quên hn Th Nhiên,
thiên tài ca chàng s cn kit.
Mt trong nhng hiu ng m quan trng na ca bi kịch ưu bi
kch(12). Bi kịch được viết không phải để truyn cho ta nim vui sng hay an
i ta trong nhng kh đau, những th loi khác phc v nhng nhu cu y.
Bi kch khiến chúng ta lo lng cho vn mnh ca nhng giá tr ln ca hi
con người. Vũ Như mt tác phm như thế. Trong thuyết giá tr,
người ta phân bit cp lc ca giá tr, gia chúng có th có độ vênh ln(13).
Nhng giá tr cp thp thưng lc ln (thí d s tn ti vt cht hoc
nhng li ích vt cht). Càng lên cao, thì c giá tr càng d (không phi tt
yếu!) yếu đi rất nhiu khi tr nên kh nghi. Ðó cũng nghịch bi kch ca
xã hội loài người. Kch Nguyễn Huy Tưng nhc nh chúng ta v cái nghch lý
trưng tn y. Nhng giá tr cp cao mun t bo tn và tỏa sáng không đưc
quay ng lại nhng giá tr cp thấp, như h trong kịch ca Nguyn Huy
ởng m, nhưng phi biết liên thông liên kết vi chúng, vn không
đánh mt bn thân. Ðó nhim v rất khó, nhưng tương lai của nền văn minh
con ngưi ph thuc vào vic gii quyết nhim vy.
Và, cui cùng, xin tr li vi mối băn khoăn được nêu trong li Ð ta kch.
"Chng biết Như phải hay nhng k giết Như phi? Ðài Cu Trùng
không thành, nên mng hay nên tiếc? Tháp người Hi nguyên ging
Angkor!" Văn minh Chiêm Thành văn minh Angkor thuc s nhng nn
văn minh đã tử vong. S phn, bí quyết trường tn hay t vong ca các nền văn
minh các dân tc mt ch đề tưởng sâu kín ca v kch ca Nguyn
Huy Tưởng nhng suy ngm kiên trì, lắng đọng t thu thiếu thời cho đến
tận lúc qua đi, ca ông v s phn ca dân tc chúng ta, so vi s phn c
dân tc khác, cho thy ông thc s một Con Người Vit Nam viết hoa. Ông
va mng vui cho s trưng tn ca dân tc, va lo lng cho tiền đ ca nó,
tiền đồ y, ông nghĩ rất đúng, phụ thuc vào vic dân tc có hin thc hóa đưc
nhng tim năng sáng tạo của mình hay không. Ðây là động cơ mãnh liệt khiến
Nguyễn Huy ng viết đi viết li kch Như Tô. Nguyễn Huy ng ghi
lại, nhưng không chia sẻ ng của Trương Tửu v i Ðo Vit Nam,
ct lõi "sống trước đã, sáng tạo sau"(14). Bi l sáng to thuc v nhim v,
thiên chc ca từng con ngưi tng dân tc. th thc hiện dưới nhiu
hình thc, không nht thiết phi bng nhng công trình ngh thut k khiến
thế gii kinh ngạc. Nhưng nhim v y phải được thc hin, không th coi
nhim v cp th hai, như Trương Tửu làm. Nhìn vào lch s, ta thy
nhng dân tc hay nhng nền văn minh đã suy vong do, trong một giai đoạn
nào đó, đã huy động đến vt kit nhng tim lc sáng to của mình (văn minh
Angkor là thí d điển hình). Nhưng, ngay trước mt chúng ta, mt s dân tc (
Bc Trung Phi) lch s khá lâu đời; h đương thc hin - khó nói mt
cách khác - s tiêu dit ln nhau s t dit. Phải chăng bởi h đã không
tìm ra con đường gii phóng nhng tim lc sáng to ca mình, nhng tim
lc y chuyn hóa thành nhng lc hy hoi? Bi kịch Như thôi thúc
chúng ta suy nghĩ và suy nghĩ...
Mt tác phẩm như Như chỉ th ra đi trong thời đại ngày nay,
mt trong nhng trái chín sm ca tiến trình văn hóa Việt Nam hi nhập văn
hóa thế giới. Chúng tôi đã c gng kho cu kch và tiu thuyết Âu - M thế k
XIX - XX, nhưng chưa tìm ra đưc tác phm nào viết trước nhng m 1940
ch đề tương tự đạt sc khái quát lch s như trước tác ca Nguyn Huy
ởng. Nhưng cũng trong những năm nhà văn của chúng ta viết đi viết li
v kịch tâm đắc ca mình, bên kia b Thái Bình Dương, nhà văn Ðức lưu vong
Thomas Mann sáng tác tiu thuyết - bi kịch Bác sĩ Faustus(15). Nhân vt chính
trong tiu thuyết y, nhạc thiên tài Adrian Leverkuhn, sng trong thời đại,
khi ngh thuật đã ngo ngh t khép mình trong tháp ngà ca mình, không
mun biết đến những lĩnh vực khác ca cuc sng, khi s cách tân trong
ngh thut tr thành mục đích tự thân mnh lnh câu thúc mọi n ngh sĩ,
Adrian Leverkuhn càng quên mình sáng to càng cm thy cn kit bên trong
cm hng sáng to. Và, b qu d cám dỗ, chàng đã bán linh hồn mình cho qu
d để đổi ly hai mươi bốn năm sáng tạo đầy hng khởi, nhưng dưới ngòi bút
ca chàng ch hin ra nhng bn nhc ca s nho báng tt c, s hy hoi
cung say s tuyt vng giá lạnh... Như của Nguyễn Huy ng
Bác Faustus của Thomas Mann như gi nhau t hai b đại ơng. Một tác
phm vừa đòi cho cái Ðẹp ngh thut quyn tr thành giá tr t thân, va cnh
báo v mi ha nm sn trong tham vng ca muốn đứng lên trên mi giá
tr khác ca sinh tn. Tác phẩm khác phơi y những h qu bi thm, khi tham
vọng đấy được tha mãn.
Bài tham kho 3
Trong làng kch hiện đi Vit Nam, bên cạnh Lưu Quang tài ng, vực dy
c mt nền văn học kịch đang trên đà tuột dốc, ta cũng không th không nhc
đến Nguyễn Huy Tưng mt trong nhng nhà viết kch tiu thuyết xut sc.
Các tác phm của ông thường đi khai thác các đ tài lch s tác phm Vũ
Như tác phẩm ni bt nhất. Xung đột kch được đẩy lên đến cao trào
được gii quyết hi th 5 “Vĩnh biệt cửu trùng đài” qua đó th hin quan
nim sâu sc ca ông v cuc đi và ngh thut.
Như một kiến trúc tài gii, b Tương Dực tên vua tàn bo bt
xây Cửu Trùng Đài thành i để hắn ăn chơi, ng lc. một người ngh
chân chính, Như đã không nhn li dù b hắn đe dọa s giết chết.
Nhưng Đam Thiềm mt cung n đã thuyết phục được ông y Cửu Trùng Đài.
Cửu Trùng Đài xây cao bao nhiêu, lòng dân oán hận Vũ Như Tô by nhiêu. Li
dng tình thế đó Trịnh Duy Sn đã dấy binh ni loạn. Đoạn trích “Vĩnh biệt
cửu trùng đài” là sự tiếp ni các s kin đang bị đẩy lên đến cao trào đó.
M đầu tác phm tiếng hong ht của Đam Thiền, khuyên Như y
mau trốn đi. Cơn biến lon xy ra kinh thành nên tình trng của Như
hết sc nguy hiểm, nhưng Như lại nht định không trn, không nghe li
khuyên của Đam Thiền bởi “Những người quân t không bao gi s chết.
vn nht chết, thì cùng phải để cho mọi ngưi biết rng công vic mình làm
chính đại quang minh. Tôi sng vi Cửu Trùng Đài, chết cũng với Cu Trùng
Đài. Tôi không thể xa Cửu Trùng Đài một bước. Hn tôi d c đây, thì tôi
chạy đi đâu?”. Ông hi sinh hết mình cho ngh thut, ông c th lại cũng
mong Cu Trùng Đài sẽ được hoàn thiện, để tranh tinh xo vi hóa công.
Nhưng ông nào biết, chính quyết định đó đã khiến ông nhn ly cái chết oan
nghit, đến c lúc chết ông vn không th lí gii vì sao mình phi chết.
Khi nhn li y dng Cu Trùng Đài bản thân Như đã mắc phi sai
lầm trong suy nghĩ hành động. Như mượn uy quyn tin bc ca
Tương Dực để thc hin gic mng Cu Trùng Đài. Nhưng tin bạc đó
chính công sc, ca ci ca nhân dân, ông ch nhìn thy cái b ni khi y
dng xong Cửu Trùng Đài, mà không nhận ra phn sâu ca s vic. Cu Trùng
Đài càng đến ngày hoàn thin thì mâu thun gia ông vi nhân dân càng ln
dn, h căm ghét Nbởi ông đã hạ lnh giết chết những ngưi b trn
để duy trì k luật trên công trường. Đó hành động hết sc tàn nhẫn, đặt công
trình lên trên tính mng ca th thuyền. Như đã biến thành mt k đáng
sợ, người dân không còn thy hình nh của Như gần gũi vi nhân dân
đâu nữa. Vì xây Cửu Trùng Đàicuộc sng ca nhân dân ngày càng cc kh.
Như một thiên tài nhưng không phải mt hin i. Ông không thu
hiu ni thng kh ca nhân dân.
Như bị đặt vào mâu thun không th hóa giải, điều hòa: mt bên khát
vng ngh thut, một bên đi sng ca nhân dân. Bi vy, cuối cùng ông đã
nhn ly cái kết vô cùng bi thm. Như Tô bị hiu lm b kết ti: Nhân
dân coi bạo chúaVũ Nhưmột là hai người gây ra tội ác: “Bạo chúa đã
chết, còn thằng Như đem phanh thây thành trăm mảnh”. Ông không chỉ
b nhân dân kết ti mà gic mng cuộc đời ông, ông đã dn biết bao tài năng
tâm sc xây dng Cửu Trùng Đài giờ cũng rơi vào tuyệt vng, Cửu Trùng Đài
b phá hy. Trước cảnh tượng Cu Trùng Đài rực cháy, Như Tô rú lên kinh
hoàng, tt c gic mộng đẹp tan tành, sp đổ, đó tiếng kinh hoàng, s hãi.
“Thông thế hết, dẫn ta đến pháp trường” Như người sáng to cái
đẹp cũng bị giết. Cái chết của Như mt kết cc tt yếu Cu Trùng
Đài là một công trình đẹp, tuyệt mĩ nhưng nó li là biu hin ca cái xu, cái ác,
nên tt yếu s b hy diệt. Qua đó Nguyễn Huy ởng cũng nêu lên mối
quan h gia ngh thut và cuộc đời: ngh thut phi xut phát t cuc sng
phc v con người mi có th tn ti nếu không nó tt yếu s b dit vng.
Ngoài nhân vt Như Tô, ta cũng không th không nhắc đến Đam Thiền.
mt cung n xinh đẹp, tài năng nhưng b b rơi. Đam Thiền người yêu cái
đẹp, cái thái độ “bit nh liên tài”, chính bà là người đã khuyên Vũ Như Tô nên
lại để xây dng Cu Trùng Đài đim cho đất nước, cũng chính đã
khuyên Như Tô trốn đi khi xảy ra biến lon. tình nguyn lại để bo v
Cửu Trùng Đài bởi “tôi chết đi không thiệt hại cho đời”. Cũng như Vũ Như Tô,
Đam Thiềm cũng rơi vào bi kch v mng: hi sinh tt c danh d tính mạng để
bo v Cửu Trùng Đài nhưng cuối cung vn phi chết. Đau đớn hơn trước khi
chết còn phi chng kiến cnh Cửu Trùng Đài bị đốt phá tan tành. Người
hết lòng bo v Vũ Như Tô cũng b đưa ra pháp trường.
Hồi m của v kch Như đã được Nguyn Huy ng s dng ngôn
ng kịch điêu luyện, mang tính tng hp cao. Nhịp điệu li thoi nhanh, gp
gáp, s dng những câu văn ngắn cho thy tình thế cp bách. Tính cách, m
trng nhân vt đưc b lc rõ nét.
Vi các lp kch linh hot, t nhiên tác gi đã tái hin thành công hi kch th
năm. Qua hồi kch này ông gi gm s m thông vi bi kch của Vũ Như Tô,
Đồng thời đặt ra vấn đề mi quan h hài hòa gia ngh thuật con người.
Không ch vyhi cn trân trng, nâng niu những tài năng nghệ thuật, để h
có th phát huy tài năng của bn thân, xây dng s giàu đẹp cho đất nước.
Bài tham kho 4
Vào năm 1516 dưới triu vua lợn Tương Dc vn ni tiếng ăn chơi, sa
đọa đã sai Như y điện 100 nóc xây công trình quy ln Cu
trùng đài. Đây mt s kin thật đưc nhà viết kch tài ba Nguyn Huy
ởng khai thác để dng lên v kịch “Vũ Như Tô” phản ánh hai mâu thuẫn
bn v hội con người. Đoạn trích “Vĩnh biệt cửu trùng đài” thuộc hi
cui tác phm th hin cao trào kịch tính được đẩy lên đến đỉnh điểm, cùng vi
đó bi kịch ca nhân vật Như nữ ph Đan Thiềm_nhng người
ngh sĩ say mê cái đẹp mà quên mt mi quan h gia ngh thut và cuc sng,
gia lí tưng ngh thut thun túy vi li ích ca nhân dân.
Như là mt nhà kiến trúc tài gii b Tương Dc ép xây dng
Cửu trùng đài để làm nơi hưởng lạc vui chơi với cung n. Ông vốn người
ngh chân chính lại gn bó gn gũi với nhân dân nên đã từ chi, quyết không
nhn li ngang nhiên mng chi tên hôn quân bạo ngược. V sau khi được
Đan Thiềm_ngưi cung n say cái đẹp biết quý trọng người tài thuyết
phc là li dng tin bc và quyn lc của vua để xây dng một tòa lâu đài cho
đất nước “Bền như sao trăng”, thể “tranh tinh xảo với hóa công” để cho
“dân ta nghìn thu còn hãnh diện”. K t đó ông thay đổi thái độ chp nhn
mnh lnh, dn tt c tài năng trí tuệ sáng suốt để hoàn thành hoài bão,
ng muốn điểm tô cho đất nước. Chính vic m y của Như đã
tình đẩy dân đen vào cảnh lm than cc kh khi sưu thuế ngày càng tăng cao,
triều đình bt thêm th gii, thng tay h chém nhng k b trn, biết bao
nhiêu người chết tai nạn. Nhân dân m phẫn nhà vua, oán giân Như Tô.
Để ri Trnh Duy Sn k cầm đầu phe phái đi lp vi triều đình i kéo dân
chúng đng lên làm phn giết vua và bt giết Vũ Như Tô cùng Đan Thiềm.
M đầu đoạn trích “Vĩnh biệt cửu trùng đài” hình nh cung n Đan
Thim hớt hớt hi chy, mt ct không còn ht máu vào báo tin tình thế
nguy kch, thúc gic, cầu xin, van nài Như chạy trn vi nhng li l
tha thiết, chân thành: “Ông nghe tôi! Ông trốn đi! Ông nghe tôi! Ông phi trn
đi mới được”, nàng chắp tay van ly Như y b trn gìn gi tính mng
ch hội khác đại s đã hỏng. Tng chi tiết hành động li nói của Đan
Thim chng t mt người rt quý trọng người tài, hiu biết lo trước lo
sau cho tài năng đất nước. khẳng định: Ông trốn đi. Tài kia không nên để
ung. Ông mnh h nào thì ớc ta không còn ai đim na”, con
người y sn sàng qu i chân gic cu xin tha mạng cho ông Vũ, sẵn sàng
xin chết thay ông nhưng Như nht quyết sng chết cùng đài cửu trùng
mà không chu rời đi đ ri gây nên tn bi kch cho cuộc đời ông.
Như coi Cửu trùng đài quý hơn sinh mạng ca bn thân, c
phn xác ln phn hn của ông và Đan Thiềm. Chính vì vy ông mù quáng,
u không thoát ra khi o vng của mình được. Quân làm phn càng ngày
kéo đến càng gần nhưng con người y vn ngoan c vn không hiu do gì
h li mun bt mình, vn c đấu với đời, vi s phận: “Có để h giết
tôi?”, đứng trước quân khi lon vn t trn an mình mọi người “Đời ta
chưa tận, mệnh ta chưa cùng. Ta s xây một tòa đài đ t lòng tri kỉ”. Bị bn
chúng bt ông vn nuôi hi vng th phân trn vi ch ng v tm lòng
nguyn vng ca bản thân mong sao để người đời hiu cho nguyện ưc ông
đang thực hin là vì v đẹp ngàn năm của đất nước. Ông vẫn say sưa gic mng
ca riêng mình v Đài Cửu Trùng: “Vài năm nữa, Đài Cửu Trùng hoàn thành,
cao c, huy hoàng, gia cõi trn lao lc, mt cnh Bồng Lai…” Như
không th tỉnh táo để nhn din tình thế nguy kch ca hin ti. Ông vẫn nghĩ
mình b hiu nhm, vn không tin rng mình b nhân dân oán hn, b mọi người
căm ghét, ông không tin dân chúng mun phá Cửu Trùng Đài bởi đó công
trình, tòa lâu đài điểm tô cho đất nước. Đứng khía cạnh ngưi hùng thì
đúng ông con người dám làm dám chịu, khí phách hiên ngang nhưng da
trên hoàn cnh thc tại thì đó là bảo th, c chp.
Như xây Cửu Trùng Đài biểu hiện cho tài ng của người ngh
sĩ, hiện thân cho s khao khát say ng tạo cái đẹp đó đúng đắn,
đáng trân trọng nhưng thực tế của đất nước dân cùng khn kh cái đẹp y li
tr nên tht phù phiếm, xa x bởi đã thấm đẫm máu, nưc mắt và đưc xây trên
thây xác của nhân dân. ưc muốn cao đp của Như nhưng ông đã
tình y ra ti ác, tr thành k thù ca dân chúng th thuyn không
h hay biết. Đến khi kinh thành b phát ha, quân lính cho hay đó lệnh ca
An Hòa Hu, tn mt chng kiến cảnh Đài Cửu Trùng bốc cháy như giàn thiêu
ông ch biết gào lên trong tuyt vọng: “Đốt thc rồi! Đốt thc rồi! Ôi đảng ác!
Ôi muôn phn m giận! Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì? Ôi mộng ln! Ôi
Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài!”. Như bị rơi từ đỉnh cao mộng ng
xung h sâu ca tuyt vng. Nỗi đau s mất mát đã hòa vào nhau làm mt
di lên tiếng kêu của đau thương, tang tóc. Những câu cm thán tht ra t đỉnh
điểm cảm xúc đau đớn cùng. Tht đáng tiếc vi nhng câu hi ln của
Như đến khi chết ông vn không hiu ti sao li ra nông nỗi: “Ta tội gì?
Ta không ti! Ôi mng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu trùng đài! Tn bi kch
y cái giá ông phi tr không nhn thc vn đề muôn thu thc
ti.
Vũ Như Tô đã không hiểu được mi quan h gia ngh thut và cuc sng.
Ngh thuật được sáng to xây dng lên cuối cùng cũng phải phc v cho
đời sống nhân dân. Đó mới ngh thut v ngh thut. Còn ngh thut không
th ch để thỏa mãn tài năng, tưởng của người ngh sĩ mà quên mất rng i
đẹp phi gn vi cái thiện, đẹp thin không th tách rời được nhau. Đứng trên
lập trường người ngh Cửu trùng đài cái đẹp tuyệt mĩ, đứng trên lp
trưng ca nhân dân nó là mt bông hoa ác thấm đẫm máu. Cái giá mà Vũ Như
phi tr ông ch nghĩ mình nghệ chân chính quên mất rng mình
cũng là mt công dân ca đt nưc.
Như vậy qua đoạn trích “Vĩnh biệt cửu trùng đài” nhà văn đã tái hin li
bi kch của Vũ Như và Đan Thim gp phi phn ánh sâu sc hai mâu thun
ca thời đại. Mâu thun th nht mâu thun ca tập đoàn phong kiến
Tương Dực ăn chơi, hưởng lc vi hoàn cnh b bn cùng hóa ca nhân dân.
Mâu thun th hai trong bản thân con người Như Đan Thiềm. Đó
mâu thun giữa người công dân và người ngh và phản ánh mi quan h gia
ngh thut cuc sng. Hai mâu thuẫn này tác động lẫn nhau. Đan Thiềm
thuyết phục Như xây dựng Cửu trùng đài càng m cho mâu thun
hội tăng cao, người ngh sĩ càng hăng hái sáng tạo cái đẹp ngh thut bao nhiêu
thì càng mâu thun vi li ích công dân by nhiêu. Thật đáng tiếc cho mt
người tài năng lại b đặt nhm chỗ, không đúng thời thế để rồi con người y, tài
năng y b hy dit bi thc ti cuc sng. Qua đó ta cũng nhận thức đưc bài
học cái đẹp ngh thut ch thc s nhu cu ý nghĩa khi đời sng vt
chất được đáp ứng đầy đủ, li ích ca nhân dân phải được đặt lên hàng đu.
Quan điểm đó đến ngày nay vn không h li thời luôn đúng trong mọi
hoàn cảnh. Đảng nhà c ta luôn vn dụng vào để duy trì phát trin
đất nưc.
Đoạn trích đã gii quyết được mâu thun hội nhưng mâu thun cá nhân
với hai cách nghệ công dân chưa được gii quyết điểm biu hin trong
li nói cui cùng của Vũ Như“Ta tội gì. Không ta chmt hoài bão là
điểm đất nước, đem hết tài năng ra xây cho nòi ging một tòa đài hoa lệ th
thách thc với công trình trước sau, tranh tinh xo với hóa công” và lời đ ta
v kch ca tác gi: Chẳng biết Như phi hay nhng k giết Như
phi, ta chng biết. Cm bút chng qua cùng mt bnh với Đan Thiềm”.
Nguyễn Huy ng trân trọng tài năng, say cái đp, cm thông cho
Như nhưng ông cũng không đng tình vi nhân vt những người ngh sĩ
ch biết quan tâm đến cái đẹp mà không vì quyn li ca nhân dân.

Preview text:

Phân tích Vĩnh biệt cửu trùng đài Ngữ văn 11
Dàn ý Phân tích Vĩnh biệt cửu trùng đài Giới thiệu chung
- "Vũ Như Tô" là vở kịch xuất sắc của Nguyễn Huy Tưởng và của nền kịch
Việt Nam hiện đại. Tác phẩm được sáng tác năm 1941, dựa trên một sự kiện
lịch sử xảy ra ở kinh thành Thăng Long vào thời Hậu Lê.
- Trong đoạn trích được học, gây ấn tượng sâu sắc nhất là bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô.
Trình bày cảm nghĩ về bi kịch nhân vật Vũ Như Tô
Những nét chính trong bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô
Bi kịch Vũ Như Tô là bi kịch của người nghệ sĩ có tài và có hoài bão lớn,
nhưng không giải quyết được những mối quan hệ phức tạp giữa nghệ thuật và
đời sống, đặc biệt là không giải quyết được thực sự đúng đắn vấn đề sáng tạo
nghệ thuật cho ai và để làm gì.
- Vũ Như Tô muốn xây dựng một công trình kiến trúc vĩ đại, tuyệt mĩ, tô điểm
cho non sông và mục đích đó là hết sức cao đẹp, xuất phát từ thiên chức của
người nghệ sĩ, từ lòng yêu nước và tinh thần dân tộc.
- Nhưng trên thực tế, Cửu Trùng Đài xây trên tiền của, mồ hôi, xương máu
của nhân dân và nếu được hoàn thành, nó cũng chỉ là nơi ăn chơi sa đọa của
vua chúa. Vũ Như Tô đã sai lầm khí lợi dụng quyền lực của bạo chúa để thực
hiện khát vọng nghệ thuật của mình, chỉ đứng trên lập trường nghệ sĩ nên trở
thành kẻ đối nghịch với nhân dân.
- Chính vì vậy, nhân dân căm hận bạo chúa, đồng thời cũng oán trách, nguyền
rủa người kiến trúc sư và cuối cùng đã giết chết cả Lê Tương Dực lẫn Vũ Như
Tô, đốt cháy Cửu Trùng Đài.
Trình bày cảm nghĩ
- Thương cảm người nghệ sĩ có tài, có tâm, đam mê nghệ thuật, khao khát
sáng tạo, sẵn sàng hi sinh tất cả cho cái đẹp, nhưng xa rời thực tế mà phải trả
giá đắt bằng sinh mệnh và cả công trình nghệ thuật của mình.
- Không có cái đẹp tách rời cái chân, cái thiện. Tác phẩm nghệ thuật không thể
chỉ mang cái đẹp thuần túy, mà phảỉ có mục đích phục vụ nhân dân. Người
nghệ sĩ phải có hoài bão lớn, có khát vọng sáng tạo những công trình vĩ đại
cho muôn đời, nhưng cũng phải biết xử lý đung đắn mối quan hệ giữa khát
vọng đó với điều kiện thực tế của cuộc sống, với đòi hỏi của muôn dân.
- Xã hội phải biết tạo điều kiện sáng tạo cho các tài năng, vun đắp tài năng
quý trọng nâng niu những sản phẩm nghệ thuật đích thực. Kết luận
Qua bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng gợi những suy tư
sâu sắc về mối quan hệ giữa người nghệ sĩ với hoạt động sáng tạo nghệ thuật
và hiện thực đời sống của nhân dân.
Văn mẫu lớp 11: Phân tích Vĩnh biệt cửu trùng đài
Nguyễn Huy Tưởng (1912 - 1960) xuất thân trong một gia đình Nho giáo ở
làng Dục Tú, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay là xã Dục Tú, huyện Đông
Anh, Hà Nội). Năm 1943, ông tham gia Hội Văn hoá cứu quốc do Đảng lãnh
đạo và là đại biểu tham dự Quốc dân Đại hội ở Tận Trào tháng Tám năm 1945.
Trong sáng tác, Nguyễn Huy Tưởng có thiên hướng khai thác đề tài lịch sử và
có đóng góp nổi bật ở các thể loại tiểu thuyết và kịch. Văn phong của ông giản
dị, trong sáng và thâm trầm, sâu sắc. Năm 1996, ông được Nhà nước tặng Giải
thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Tác phẩm chính: Các vở kịch Vũ Như Tô (1941), Bắc Sơn (1946), Những
người ở lại (1948), kịch bản phim Lũy hoa (1960); các tiểu thuyết Đêm hội
Long Trì (1942), An Tư (1945), Sống mãi với Thủ đổ (1961); kí: Kí sự Cao -
Lạng (1951),… Vũ Như Tô là vở kịch đặc sắc của Nguyễn Huy Tưởng.
Qua tấn bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả đặt ra những vấn đề sâu sắc, có ý
nghĩa muôn thuở về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc sống, giữa lí tưởng
nghệ thuật cao siêu, thuần túy của muôn đời với lợi ích thiết thân và trực tiếp của nhân dân.
Vũ Như Tô - một kiến trúc sư thiên tài bị vua Lê Tương Dực bắt xây dựng
Cửu Trùng Đài để làm nơi hưởng lạc, vui chơi với các cung nữ. vốn là một
nghệ sĩ chân chính gắn bó với nhân dân, cho nên mặc dù bị Lê Tương Dực
dọa giết, Vũ Như Tô vẫn ngang nhiên chửi mắng tên hôn quân ấy và kiên
quyết từ chối xây Cửu Trùng Đài (hồi I).
Đan Thiềm, một cung nữ đã thuyết phục Vũ Như Tô chấp nhận yêu Cầu của
Lê Tương Dực, lợi dụng quyền thế và tiền bạc của hắn, trổ hết tài năng để xây
dựng cho đất nước một tòa lâu đài vĩ đại bền như trăng sao, có thể tranh tinh
xảo với hóa công để cho dân ta nghìn thu còn hãnh diện.
Theo lời khuyên, Vũ Như Tô đã thay đổi thái độ, chấp nhận xây cửu Trùng
Đài. Từ đó, ông dồn hết tâm trí và bằng mọi giá xây dựng tòa đài sao cho thật
hùng vĩ, tráng lệ. Tuy nhiên, ông đã vô tình gây biết bao tai hoa cho nhân dân.
Để xây dựng Cửu Trùng Đài, triều đình ra lệnh tăng thêm sưu thuế, bắt thêm
thợ giỏi, tróc nã, hành hạ những người chống đối. Dân căm phẫn vua vì vua
làm cho dân cùng, nước kiệt; thợ oán Vũ Như Tô bởi nhiều người đã chết vì
tai nạn, vì ông cho chém đầu những kẻ chạy trốn. Công cuộc xây dựng càng
gần thành công thì mâu thuẫn giữa tập đoàn thống trị xa hoa trụy lạc với dân
chúng nghèo khổ, giữa Vũ Như Tô với những người thợ lành nghề và người
lao động mà ông hằng yêu mến càng căng thẳng, gay gắt (hồi II, III, IV).
Lợi dụng tình hình rối ren và mâu thuẫn ấy, Quận công Trịnh Duy Sản - kẻ
cầm đầu phe đối lập trong triều đình đã dấy binh nổi loạn, lôi kéo thợ làm
phản, giết vua Lê Tương Dực, Vũ Như Tô, Đan Thiềm. Cửu Trùng Đài bị
chính những người thợ đập phá và thiêu hủy (hồi V).
Đoạn Vĩnh biệt Cữu Trùng Đài là hồi V của vở kịch, thể hiện hiểu biết sâu sắc
về nghệ thuật kịch của Nguyễn Huy Tưởng: ngôn ngữ kịch điêu luyện, có tính
tổng hợp cao; dùng ngôn ngữ, hành động của nhân vật để khắc họa tính cách,
miêu tả tâm trạng, dẫn dắt và đẩy xung đột kịch đến cao trào.
Trong cung cấm, Đan Thiềm đột ngột hớt hơ hớt hải chạy vào, mặt cắt không
còn hột máu, giục giã Vũ Như Tô hãy trốn mau bởi loạn đến nơi rồi. Dân gian
đói kém nổi lên, quận công Trịnh Duy Sản mượn tiếng đi dẹp giặc rồi quay
binh về làm loạn. Nhưng Vũ Như Tô kiên quyết không chịu rời CửuTrùng Đài
một bước. Vừa lúc đó, Nguyễn Vũ lật đật chạy vào hỏi tình hình lo lắng cho
tính mạng của nhà vua. Lê Trung Mại xuất hiện thông báo Duy Sản đã đốt lửa
hiệu giả báo có giặc, nhà vua lẻn ra cửa Bảo Khánh chạy giặc thì bị Ngô Hạch
võ sĩ của Duy Sản đâm chết. Khâm Đức hoàng hậu hay tin cũng nhảy vào lửa
tự thiêu. Nguyễn Vũ khóc lóc và rút dao tự tử. Một bọn nội gián khác thông
báo thêm sau khi giết vua Lê Tương Dực, triều đình đã lập vua khác lên ngôi.
Võ Tả Hầu là Phùng Mai đứng lên mắng quân phản nghịch đã bị chém đầu
ngay lập tức. An Hòa Hầu ở bến Bồ Đề kéo quân về đốt phá kinh thành. Thợ
xậy Cửu Trùng Đài quá nửa theo về quân phản nghịch. Đan Thiềm tiếp tục
giục Vũ Như Tô đi trốn nhưng ông vẫn kiên quyết ở lại. Quân khởi loạn kéo
vào. Đan Thiềm không thể xin tha được cho Vũ Như Tô, nàng bị chúng kéo đi
nên chi còn biết Xin cùng ông vĩnh biệt Cửu Trùng Đài. Vũ Như Tô khăng
khăng cho là mình không có tội, xin vào thưa với chủ tướng ý nguyện tốt đẹp
khi xây Cửu Trùng Đài nhưng quân lính không nghe và cho biết chính An Hòa
Hầu đã ra lệnh đốt sạch Cửu Trùng Đài. Vũ Như Tô đau đớn, vỡ mộng, chua
chát chấp nhận cái chết bi thảm.
Vũ Như Tô và Đan Thiềm coi Cửu Trùng Đài là cả phần xác lẫn phần hồn của
cuộc đời mình. Vì nó mà Vũ Như Tô chấp nhận làm việc cho hôn quân bạo
chúa. Vì nó mà dù bị thương trên công trường, ông vẫn tiếp tục chỉ đạo công
việc. Cũng vì nó, để giữ gìn kỉ luật, ông buộc phải trị tội những người thợ bỏ
trốn. Cũng lại vì nó mà ông quyết ở lại trong cung cấm, giữa cơn biến loạn để
bảo vệ không phải mạng sống của mình mà là bảo vệ Cửu Trùng Đài - sinh
mạng nghệ thuật của cả đời ông.
Tính cách nổi bật nhất ở Vũ Như Tô là tính cách của người nghệ sĩ tài hoa
hiện thân cho niềm khao khát và đam mê sáng tạo Cái Đẹp. Nhưng trong mội
hoàn cảnh lịch sử cụ thể, thì Cái Đẹp ấy thành ra phù phiếm. Nó sang trọng,
siêu đẳng, thậm chí cao cả và đẫm máu như một bông hoa ác. Vì thế, đi đến
tận cùng niềm đam mê, khao khát ấy, Vũ Như Tô tất phải đối mặt với bi kịch
đau đớn của đời mình: ông trở thành kẻ thù của dân chúng, thợ thuyền mà không hay biết.
Tài ba của Vũ Như Tô được nói đến chủ yếu ở các hồi kịch trước, thông qua
hành động của ông và nhất là qua lời của các nhân vật khác nói về ông. Tài
nghệ của ông đạt đến mức siêu phàm, được Đan Thiềm ca ngợi là một thiên
tài ngàn năm chưa dễ có một, có thể sai khiến gạch đá như viên tưởng cầm
quân. Trong hồi thứ V, những lo lắng, toan tính và thái độ của Đan Thiềm khi
nói về Vũ Như Tô đủ cho thấy cái tài ấy quả là hiếm hoi: tài kia không nên để
uổng..; Ông mà có mệnh hệ nào thì nước ta không còn ai điểm tô nữa… Đừng
để phi tài trời. Hồi V không nói nhiều đến tài năng của nhân vật (chỉ có Đan
Thiềm nhắc đến) mà đặt Vũ Như Tô vào việc tìm kiếm một câu trả lời: Việc
mình nhận xây Cửu Trùng Đài là đúng hay sai? Có công hay có tội? Nhưng
Vũ Như Tô không trả tời được thỏa đáng câu hỏi đó bởi ông chỉ đứng trên lập
trường của người nghệ sĩ mà không đứng trên lập trường của nhân dân, đứng
trên lập trường Cái Đẹp mà không đứng trên lập trường Cái Thiện. Hành động
của ông không hướng đến sự hòa giải mà thách thức và chấp nhận sự hủy diệt.
Vũ Như Tô đã từng tranh tinh xảo vôi hóa công, giờ lại bướng bỉnh tranh phải
– trái với số phận và với cuộc đời. Hành động kịch hướng vào cuộc đua tranh
này và thể hiện tập trung qua diễn biến tâm trạng của Vũ Như Tô.
Vũ Nhự Tô vì chìm đắm trong khao khát, đam mê Cái Đẹp mà trở nên mơ
mộng và ảo tưởng. Giấc mộng ấy bắt đầu từ khi ông quyết định nhận lời xây
Cửu Trùng Đài cho Lê Tương Dực, mượn tay bạo chúa để xây một công trình
tô điểm cho đời. Càng sáng suốt trong sáng tạo thiết kế, thi công Cửu Trùng
Đài bao nhiêu, Vũ Như Tô càng xa rời thực tế bấy nhiêu.
Ngay cả khi sự thật phũ phàng của Cơn biến loạn dội đến, Đan Thiềm cố gắng
kéo ông ra khỏi giấc mộng bằng thông tin kinh hoàng là loạn đến nơi rồi và
bằng phản ứng dữ dội của dân chúng đối với ông: Ai ai cũng cho ông là thủ
phạm. Vua xa xỉ là vì ông, công khố hao hụt là vì ông, dân gian lầm than là vì
ông, man di oán giận là vì ông, thần nhân trách móc là vì ông:., mà Vũ Như
Tô vẫn không tỉnh, vẫn cho là họ hiểu nhầm.
Tận mắt chứng kiến Nguyễn Vũ tự sát, nghe tên nội giám thông báo kẻ phá,
người đốt cửu Trùng Đài, Vũ Như Tô vẫn cho là điều vô Ií. Nghe tiếng quân
lính reo hò truy tìm mình để phanh thây, Vũ Như Tô vẫn cố đấu lí với số phận
và cuộc đời: Có lí gì để họ giết tôi? Đứng trước quân khởi loạn gươm giáo
sáng lòe, Vũ Như Tô tự trấn an: Đời ta chưa tận, mệnh ta chưa cùng. Ta sẽ xây
một tòa đài vĩ đại để tạ lòng tri kỉ. Bị ra lệnh dẫn về trình chủ tướng, Vũ Như
Tô vẫn hi vọng sẽ có thể phân trần giảng giải cho người đời biết rõ nguyện
vọng của ta. Ông dường như không hề nghe thấy tiếng cười ầm ĩ và lời quát
tháo của quân lính. Mày không biết mấy nghìn người chết vì Cửu Trùng Đài,
mẹ mất con, vợ mất chồng vì mày đó ư? Người ta oán mày còn hơn oán quỷ.
Ông vẫn say sưa trong giấc mộng Cửu Trùng Đài: Vài năm nữa, đài Cửu
Trùng hoàn thành, cao cả, huy hoàng, giữa cõi trần lao lực, có một cảnh Bồng Lai…
Chỉ đến khi kinh thành phát hỏa, quân lính cho hay đó là lệnh của An Hòa
Hầu và tận mắt chứng kiến ánh lửa sáng rực, cả tàn than, bụi khói bay vào, Vũ
Như Tô mới rú lên kinh hoàng, tuyệt vọng: Đốt thực rồi! Đốt thực rồi Ị ôi
đảng ác ! Ôi muôn phần căm giận! Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì? Ôi mộng
lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài! Rơi xuống từ một cửu Trùng Đài vời
vợi độ cao của mơ màng và ảo vọng, nỗi đau vỡ mộng trong Vũ Như Tô hoá
thành tiếng kêu bi thiết, não nùng, khắc khoải. Cửu Trùng Đài đã biến thành
một đài lửa rừng rực trong kinh thành Thăng Long đầy biến động, Vũ Như Tô
đã chết trước khi ra pháp trường. Mộng lớn, Đan Thiềm, Cửu Trùng Đài Tất
cả nối tiếp nhau dội xuống những âm thanh của đau thương tang tóc. Nỗi đau
mất mát đã hòa vào làm một, trở nên tột cùng. Âm thanh ấy trở thành âm
thánh chủ đạo dội ngược lên toàn bộ các hồi trước của vở kịch.
Khắc khoải trong lòng người đọc vẫn là những dấu chấm hỏi, những câu cảm
thán thốt ra từ đỉnh điểm của cảm xúc, từ cao trào của xung đột trong Vũ Như
Tô: Ta tội gì? Ta không có tội! ôi mộng lớn Ị ôi Đan Thiềm Ị Ôi Cửu Trùng
Đài! Cảm giác ngột ngạt, bức bối tưởng như còn nguyên vẹn khi Nguyễn Huy
Tưởng viết lời đề tựa: ôi khô khan! ôi gay gắt! Bi kịch Vũ Như Tô đã thức
tỉnh ý thức của chúng ta về vấn đề muôn thuở: mối quan hệ hữu cơ giữa nghệ thuật và cuộc sống.
Ngược lại với nhận thức của Vũ Như Tô, trong mắt dân chúng, Cửu Trùng
Đài là hiện thân của thói ăn chơi xa xỉ, hiện thân của tội ác. Cửu Trùng Đài và
cha đẻ của nó - Vũ Như Tô - chính là kẻ thù của họ. Vũ Như Tô, Cửu Trùng
Đài, lũ cung nữ… bị quân phản nghịch xếp chung vào một hạng cần phải trị
tội. Bởi vậy Cửu Trùng Đài bị thiêu cháy, Vũ Như Tô bị giải ra pháp trường
và dân chúng reo hò, ăn mừng như ăn mừng chiến thẳng lớn.
Điểu gì đã tạo nên sự khác biệt đến đối lập khi nhìn nhận và đánh giá về công
trình cửu Trùng Đài mà kiến trúc sư Vũ Như Tô từng kì vọng: móng phải đào
sâu xuống dưới âm ti, nóc phải vờn mây?Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài
với ao ước điểm tô cho đất nước, để lại cho dân tộc một công trình là hiện
thân của cái đẹp cao cả, huy hoàng, đem hết tài ra xây cho nòi giống một tòa
đài hoa lệ, thách thức cả những công trình sau trước, tranh tinh xảo với Hóa
công. Ao ước, khao khát ấy là cao cả, là chân chính, bởi xuất phát điểm của nó
là từ một cái Tâm tha thiết với dân tộc. Cho nên ngay từ đầu, nhiều người đã
hiểu và ủng hộ Vũ Như Tô. Nhưng đài càng xây cao, mạng người càng rẻ mạt,
dân chúng càng điêu đứng, bọn hôn quân bạo chúa càng ra tay vơ vét. Cửu
Trùng Đài đã trở thành đại hoạ, gây ra bao khốn khổ điêu linh, thành một đóa
hoa ác, thành hiện thân cho thói xa hoa hưởng lạc trên xương máu của nhân
dân. Và tất nhiên, trong mắt nhân dân, Vũ Như Tô trở thành kẻ thù phải đền tội. Bài tham khảo 2
Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng, cũng như những nhân vật chính, còn gọi
là nhân vật anh hùng (héros) của bi kịch, là một con người quá khổ, ta muốn
nhận biết nó thì phải đo nó bằng cái thước của nó, chứ không phải của ta.
Vũ Như Tô, cũng như Hamlet, như Coriolanus, như vua Lia (Lear), không phải
là người tốt theo nghĩa thông thường. Con người tốt bụng, con người hiền từ
hay mềm yếu, mà sự mềm yếu là "phản chỉ định" đối với nhân vật bi kịch. Con
người hiền từ yếu đuối, thụ động hứng chịu, quằn quại rên xiết dưới những đòn
đánh không hiểu nổi của số phận là đối tượng của kịch mêlô (mélodrame) ở
châu Âu, kịch cải lương ở ta. Vũ Như Tô, nhân vật bi kịch, chủ động vùng dậy
chống lại số phận, không đợi nó đánh mình, thách thức số phận xây Cửu Trùng Ðài.
Nguyên nhân, lực đẩy của tính chủ động cao độ ấy ở nhân vật bi kịch là niềm
say mê (passion), trong trường hợp Vũ Như Tô là say mê sáng tạo. Niềm say
mê ấy như là thuốc súng, như là ét-xăng nằm sẵn bên trong nhân vật bi kịch,
chỉ chờ được châm để nổ cháy. Trong kịch của Nguyễn Huy Tưởng, người
châm cho say mê nơi Vũ Như Tô bốc lửa là Ðan Thiềm (điểm thắt nút của
kịch). Không phải Ðan Thiềm đã thuyết phục hay dụ dỗ họ Vũ xây Cửu Trùng
Ðài, khát vọng xây Cửu Trùng Ðài sục sôi sẵn trong Vũ Như Tô, chỉ cần một
lời khích lệ từ bên ngoài là nó chuyển hóa thành hành động. Bản đồ Cửu Trùng
Ðài đã được vẽ sẵn, mọi tính toán kinh tế - kỹ thuật đã được hoàn tất trước khi
nhà kiến trúc sư thiên tài gặp mỹ nữ có tâm hồn. Mối băn khoăn xuất phát từ
lương tâm kẻ sĩ (bây giờ ta gọi là lương tâm công dân) về việc phục vụ cho hôn
quân bạo chúa, đi ngược lại quyền lợi của quần chúng nhân dân, mà chính họ
Vũ với vợ con và bạn bè đồng nghiệp là thành phần, được tháo gỡ rất dễ dàng
mà không làm giảm sức thuyết phục nghệ thuật của nhân vật và của cả tác
phẩm. Từ giây phút ấy, ngọn lửa đam mê cứ thế mà cháy, càng gặp trở ngại
càng cháy cao. Vũ Như Tô, mượn tay Lê Tương Dực cuồng bạo, hành động hối
hả và quyết liệt, lo sợ công trình của mình sẽ không hoàn thành. Trong sử liệu,
Cửu Trùng Ðài xây từ năm này sang năm khác, thời gian của bi kịch được thu
rút lại trong vòng 10 tháng. Người thợ cả đôn hậu trong đời thường không ngần
ngại giết hết tất cả những ai chống lại công trình của y. Trong y, không có chỗ
cho những băn khoăn trăn trở về cái giá mà nhân dân phải trả cho tác phẩm
nghệ thuật tuyệt mĩ của y. Bao nhiêu công của phải đổ vào, bao nhiêu tính
mạng phải hy sinh cũng đều là hợp đích trong con mắt người nghệ sĩ bị ám ảnh
bởi đồ án lý tưởng của mình. Một trong những lớp kịch hay nhất (hồi 4, lớp 1):
Vũ Như Tô gặp vợ lần cuối cùng, Thị Nhiên kể cho chồng về cảnh đói kém,
mất mùa, giặc nổi lên như châu chấu ở quê nhà, con cái ốm đau quặt quẹo
không được cha chăm nom... Họ Vũ, đã què chân vì ngã từ nóc xuống, nghe
mà không nghe thấy, toàn bộ tâm trí bị cuốn hút bởi cảnh quan tráng lệ của
Cửu Trùng Ðài. "Khi con người ở trong nghệ thuật, nó vắng mặt ở trong cuộc
sống, và ngược lại"(6) - đó là trạng thái bi kịch (theo nghĩa triết học) muôn
thuở của nhân sinh, được phản ánh cả ở trong vở kịch của Nguyễn Huy Tưởng.
Ðối với Vũ Như Tô, Cửu Trùng Ðài quý hơn tính mạng của chàng, cái đó thật
đáng yêu và đáng phục. Nhưng Cửu Trùng Ðài còn quý hơn hạnh phúc và sự
sống của hàng trăm, hàng ngàn con người khác, cái đó thì lại đáng sợ rồi. Theo
đuổi cái đẹp thuần túy, biến nó không những thành giá trị tự thân, mà còn thành
thần tượng độc tôn, người nghệ sĩ thiên tài đã phạm tội trước nhân dân, trước
nhân loại, trước sự sống. Cái chết của Vũ Như Tô, xét từ một góc độ xác định,
là hợp lý, là xứng đáng. Ðó là cái chết chuộc tội, mặc dù nhân vật kịch không ý thức được điều đó.
Như chúng ta biết, tội lỗi bi kịch là một khái niệm mấu chốt trong lý thuyết bi
kịch. Không có tội lỗi bi kịch, cũng như không có xung đột bi kịch thì không
có tác phẩm bi kịch. Nhưng tội lỗi bi kịch khác những kiểu tội lỗi khác ở chỗ
nào? Hơn hai ngàn năm sau Thi pháp học của Aristote, triết gia và nhà văn hiện
sinh chủ nghĩa tiền khu Kierkegaard khẳng định: "Nếu con người hoàn toàn vô
tội, bi kịch mất hết lý thú, bởi vì sẽ mất đi sức mạnh của xung đột bi kịch; mặt
khác, nếu nhân vật tự nó có lỗi hoàn toàn, thì nó sẽ không thể khiến ta quan
tâm, xét từ quan điểm bi kịch"(7). Có nghĩa là nhân vật bi kịch phải vừa có tội,
lại vừa không có tội (đây là điểm khu biệt bi kịch với kịch anh hùng, ở ta là
kịch tuồng, trong đó những nhân vật anh hùng chính trực một trăm phần trăm
đấu tranh với những nhân vật gian ác hèn hạ cũng một trăm phần trăm). Các
nhân vật bi kịch điển hình trên kịch trường (và sau này cả trong tiểu thuyết) thế
giới đều là như thế. Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng, như chúng tôi đã cố
gắng chứng minh, cũng là nhân vật như thế, cũng vừa có tội, mà tội lớn, lại vừa
không có tội, hay là, như một trong những nhà phê bình đầu tiên ở ta bình về
tác phẩm này nói theo lối nói điển hình Việt Nam, "có chỗ đáng giận, có điều
đáng thương"(8). Cho nên, không có gì đáng ngạc nhiên là, sáng tác xong vở
kịch, tác giả thấy cần phải viết thêm mấy dòng Ðề tựa nổi tiếng, trong đó nhắc
lại hai lần: "Chẳng biết Vũ Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải?" Câu
hỏi này, theo chúng tôi, không thể hiện sự hạn chế về tư tưởng của tác giả, mà
nó chứng tỏ rằng tác giả, có thể chỉ bằng trực giác sáng tạo, cảm nhận rất rõ cái
bản chất bi kịch của trước tác của mình. Bi kịch, thể loại lớn của văn học và
sân khấu, bao giờ cũng đặt độc giả và khán giả trước những câu rất phức tạp,
hóc búa và nhức nhối của cuộc sống. Những câu hỏi ấy không chờ đợi những
giải đáp vội vã, dễ dãi, đơn giản. Cho nên thiết nghĩ cũng không nên vì cảm
thông và mến yêu Vũ Như Tô mà gọi tội của nhân vật này là "tội thiêng
liêng"(9). Như thế từ "thiêng liêng" bị mất nghĩa, mà tính chất của cái tội ở
nhân vật vừa đáng yêu, vừa đáng sợ này lại không được thâu tóm.
Ðể làm sáng tỏ hơn cái tội bi kịch của Vũ Như Tô, xin được đi sâu một chút
vào lịch sử khái niệm này. Bi kịch, như chúng ta biết, ra đời ở Hy Lạp cổ đại và
liên quan mật thiết với tôn giáo và minh triết của dân tộc này. Người Hy Lạp
thờ nhiều thần linh, mà mỗi thần hiện thân cho một sức mạnh bản thể nào đó.
Tôn giáo Hy Lạp đòi hỏi sùng kính tất cả các thần, không được coi thường một
thần nào. Trong bi kịch rất nổi tiếng Hippolyte của Euripide, chàng trai thủ tiết
Hippolyte, vì chỉ tôn sùng thần trinh nữ Artémis và khinh rẻ nữ thần Aphrodite
mà đã bị Aphrodite trừng phạt, truyền cho Phèdre, mẹ kế của Hippolyte, tình
yêu điên rồ đối với chàng; tình yêu ấy cuối cùng đã giết chết Hippolyte. Tội bi
kịch của Hippolyte là đã ái mộ chỉ một Artémis (sự trinh tiết) và rẻ rúng
Aphrodite (tình yêu). Nếu dịch ra ngôn ngữ khái niệm của xã hội thế tục hóa
hiện đại, thì Hippolyte đã đề cao quá mức một giá trị của nhân sinh và coi
thường quá mức một giá trị khác. Ðây là một trong những kiểu lầm lỗi cơ bản
của con người và loài người, trong văn học được thâu tóm bằng phạm trù tội lỗi
bi kịch(10). Mọi say mê của con người, nhất là những say mê chính đáng, cao
thượng, giàu tính nhân văn, càng nồng cháy bao nhiêu thì càng tiềm ẩn nhiều
nguy cơ này bấy nhiêu. Có thể tranh luận cái này có thuộc về bản chất bất hoàn
hảo không thay đổi của con người hay không (hệ quả của "tội lỗi tổ tông", theo
tư duy thần học), nhưng rõ ràng lỗi lầm bi kịch có tính phổ biến, tính toàn nhân
loại. Lỗi lầm của Vũ Như Tô trong kịch Nguyễn Huy Tưởng là như thế. Chàng
rất cao thượng trong khát vọng và ý chí sáng tạo của mình, nhưng chàng đã độc
tôn cái Ðẹp nghệ thuật, đặt nó lên trên mọi giá trị cơ bản khác, tuân thủ chỉ một
mệnh lệnh của cái Ðẹp và dửng dưng với mệnh lệnh của cái Thiện. Ðây là cốt
lõi của cái lỗi bi kịch ở nhân vật anh hùng này.
Trong Nhật ký tư tưởng của Nguyễn Huy Tưởng, ta bắt gặp một ý kỳ lạ, ghi
ngày 23-2-1932, lúc nhà văn tương lai chưa đầy hai mươi tuổi; nó như báo
trước cái nút khó tháo của những vấn đề triết lý của kịch Vũ Như Tô: "Cái đẹp
do ở sự giai cấp bất bình đẳng, cái sướng do ở sự giai cấp bình đẳng"(11). "Cái
sướng" ở đây có lẽ chỉ hạnh phúc, mà hạnh phúc chung, hạnh phúc ấy chỉ có
thể đạt được khi thực hiện bình đẳng giai cấp - một mệnh lệnh cơ bản của cái
Thiện. Nhưng được cái Thiện thì lại mất cái Ðẹp gắn liền với bất công xã hội,
bất bình đẳng giai cấp (tư tưởng này khá uyên thâm, xin trở lại với nó sau).
Phải chọn một trong hai cái, và Vũ Như Tô, nhân vật ra đời mười năm sau
những dòng viết trên, đã dứt khoát và quyết liệt chọn cái Ðẹp.
Cho đến giờ, chúng tôi mới chỉ nói đến lỗi lầm của nhân vật số một
(protagoniste), nhưng trong bi kịch còn có nhân vật số hai, đối kháng
(antagoniste) - quần chúng nhân dân. Quần chúng nhân dân cụ thể, chứ không
trừu tượng ấy, trong lịch sử và trong kịch của Nguyễn Huy Tưởng đã chọn
không suy nghĩ đắn đo chỉ một cái Thiện như họ hiểu nó, và chà đạp, hạ nhục
không thương tiếc cái Ðẹp. Nhân vật đối kháng tập thể, cũng hệt như nhân vật
nguyên khởi, đã phạm tội lỗi bi kịch. Trong bi kịch thực thụ không có người
chiến thắng. Tính cao cả đặc biệt của nó là ở chỗ ấy.
Ai ai cũng biết giới thuyết của Aristote về hiệu ứng tâm lý của bi kịch: nó gây
sợ hãi và xót thương. Nhưng cái đó chưa đủ và không phải là cái chính. Hành
động bi kịch phải dẫn đến sự thanh tẩy (catharsis) những cảm xúc ấy. Sự thanh
tẩy này đạt được bằng và nhờ sự giác ngộ cái lẽ sâu kín của những khổ đau bất
hạnh đã đến với các nhân vật kịch. Ðây cũng là điểm quan trọng khu biệt bi
kịch với kịch mêlo hay kịch cải lương. ở những thể loại này, hiệu ứng xót
thương đến trào nước mắt, đến ngất xỉu là đặc trưng và tự đủ. Vũ Như Tô, tác
phẩm bi kịch, không làm ta rơi nước mắt, nhưng nó bắt ta suy ngẫm về cái lẽ,
cái nghĩa sâu xa của những gì ta đã đọc hoặc đã thấy (trên sân khấu). Ðó là
hiệu ứng catharsis chậm.
Có những bi kịch có dụng ý giúp đỡ độc giả hay khán giả thực hiện catharsis
bằng cách để cho các nhân vật, ở điểm tháo nút, tự giác ngộ ý nghĩa của những
gì đã xảy ra (thí dụ, Oedipe làm vua hay Othello). Nhưng đa số các tác phẩm bi
kịch phó thác nhiệm vụ ấy cho người đọc, người xem. Vũ Như Tô thuộc loại
thứ hai. Cho đến phút bị chém đầu, nhân vật anh hùng này vẫn đinh ninh: toàn
bộ chân lý và lẽ phải thuộc về một mình chàng với Ðan Thiềm, toàn bộ tội tầy
trời thuộc về "đảng ác" đã đốt phá Cửu Trùng Ðài. Mặt khác, dân chúng, binh
sĩ nổi loạn cũng chỉ biết hả hê là đã loại trừ được nguyên nhân trực tiếp của
những tai họa của họ. Nhưng toàn bộ hành động kịch khiến chúng ta, sau
những phút giây xúc động mạnh, suy nghĩ dai dẳng theo nhiều hướng, cố tìm
tới cái catharsis không thể thiếu được. Xin phác thảo một vài hướng suy nghĩ
của cá nhân, mong được trao đổi với các đồng nghiệp.
Chúng ta, những con người, luôn luôn lầm lạc trong hành động lẫn tư duy. Ðề
cao cái Chân, cái Thiện, cái Ðẹp như những giá trị cao nhất của nhân sinh (thực
ra, còn nhiều giá trị tuyệt đối khác: cái Thiêng, Tình yêu, Tự do...), chúng ta, bị
câu thúc bởi thực tiễn xã hội và bị chi phối bởi kiểu tư duy trừu tượng hóa, chủ
biệt chứ không chủ toàn ngày càng thống ngự đời sống tinh thần của loài người,
rất dễ xem chúng như những giá trị độc lập, có thể tồn tại riêng biệt, cái này
không có cái kia vẫn được. Từ đấy mà ta lại càng dễ hy sinh, dễ thí giá trị này
cho giá trị kia. Trong khi ấy trong cuộc sống lý tưởng, tức là cuộc sống duy
nhất xứng đáng với con người, mọi giá trị phải tồn tại viên mãn, không lấn át
mà nâng đỡ, bổ sung hài hòa cho nhau. Bi kịch của Nguyễn Huy Tưởng nhắc
nhở chúng ta về mối họa lớn của sự tách rời và đối nghịch hóa các giá trị. Nó
chứng minh đầy thuyết phục rằng cái Ðẹp tự sát, khi nó nhảy múa trên thân thể
quằn quại của cái Thiện, nhưng giết cái Ðẹp vì cái Thiện cũng là giết luôn cả cái Thiện.
Trên đây chúng tôi vừa dẫn một tư tưởng tổng kết rất cô đúc của Nguyễn Huy
Tưởng: "Cái đẹp do ở sự giai cấp bất bình đẳng..." Như chúng tôi hiểu, ý nhà
văn muốn nói, cái đẹp nhân tạo (không phải cái đẹp thiên tạo) ra đời trong xã
hội bất bình đẳng và luôn luôn phục vụ cho những giai cấp thống trị, bị những
giai cấp ấy chiếm hữu. Ðây quả là mâu thuẫn cơ bản và bi kịch của cả văn
minh loài người, và chính kịch Vũ Như Tô phản ánh một cách nổi bật mâu
thuẫn ấy. Mâu thuẫn này nhiều khi trở nên gay cấn đến nỗi một thiên tài sáng
tạo đúng là "ngàn năm chưa dễ có một" như L. Tolstoi (mà Nguyễn Huy Tưởng
rất ái mộ), đã cương quyết chối từ cả cái Ðẹp lẫn toàn bộ văn hóa, văn minh,
kêu gọi loài người trở lại và tự ông cũng cố trở lại với cuộc sống tự nhiên, mộc
mạc của những con người làm ruộng chân lấm tay bùn - cái cuộc sống mà trong
kịch của Nguyễn Huy Tưởng, Thị Nhiên (chỉ một cái tên của nữ nhân vật này
đã là một sáng tạo đáng phục!) kêu gọi Vũ Như Tô trở về. Nhưng nhân loại đã
không nghe theo một trong những người thầy đáng kính đáng yêu nhất của nó.
(Có thể một phần bởi lẽ ông thầy này, cũng như nhiều ông thầy lớn khác, muốn
trở thành vị thầy duy nhất). Nó đã không chối từ những giá trị siêu đẳng, chỉ vì
chúng đương bị một thiểu số không xứng đáng chiếm giữ, để thỏa mãn với chỉ
những giá trị sơ đẳng, vừa tầm với tuyệt đại đa số. Bởi vì hàng trăm hàng ngàn
đình làng mà Thị Nhiên nhắc đến không thay thế được một Cửu Trùng Ðài.
Nhưng quan hệ giữa cái siêu đẳng và cái sơ đẳng trong văn hóa là tương hỗ,
nuôi dưỡng lẫn nhau. Không có cái siêu đẳng, cái sơ đẳng càng quảng bá càng
trở nên thô kệch. Nhưng cắt đứt quan hệ với cái sơ đẳng ("cái tự nhiên" hay là
"đất" của văn hóa), cái siêu đẳng tự làm cho mình mất đi nhựa sống. Bệnh Ðan
Thiềm trong kịch của Nguyễn Huy Tưởng (không phải trong lời Ðề tựa!) là
bệnh khát khao và quý giá chỉ một cái đẹp siêu đẳng. Cái đó có thể châm chước
cho nàng, nhưng nếu họ Vũ chỉ say đắm Ðan Thiềm và quên hẳn Thị Nhiên,
thiên tài của chàng sẽ cạn kiệt.
Một trong những hiệu ứng tâm lý quan trọng nữa của bi kịch là ưu tư bi
kịch(12). Bi kịch được viết không phải để truyền cho ta niềm vui sống hay an
ủi ta trong những khổ đau, có những thể loại khác phục vụ những nhu cầu ấy.
Bi kịch khiến chúng ta lo lắng cho vận mệnh của những giá trị lớn của xã hội
và con người. Vũ Như Tô là một tác phẩm như thế. Trong lý thuyết giá trị,
người ta phân biệt cấp và lực của giá trị, giữa chúng có thể có độ vênh lớn(13).
Những giá trị ở cấp thấp thường có lực lớn (thí dụ sự tồn tại vật chất hoặc
những lợi ích vật chất). Càng lên cao, thì các giá trị càng dễ (không phải tất
yếu!) yếu đi và rất nhiều khi trở nên khả nghi. Ðó cũng là nghịch lý bi kịch của
xã hội loài người. Kịch Nguyễn Huy Tưởng nhắc nhở chúng ta về cái nghịch lý
trường tồn ấy. Những giá trị cấp cao muốn tự bảo tồn và tỏa sáng không được
quay lưng lại những giá trị cấp thấp, như họ Vũ trong kịch của Nguyễn Huy
Tưởng làm, nhưng phải biết liên thông và liên kết với chúng, mà vẫn không
đánh mất bản thân. Ðó là nhiệm vụ rất khó, nhưng tương lai của nền văn minh
con người phụ thuộc vào việc giải quyết nhiệm vụ này.
Và, cuối cùng, xin trở lại với mối băn khoăn được nêu trong lời Ðề tựa kịch.
"Chẳng biết Vũ Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải? Ðài Cửu Trùng
không thành, nên mừng hay nên tiếc? Tháp người Hời nguyên là giống
Angkor!" Văn minh Chiêm Thành và văn minh Angkor thuộc số những nền
văn minh đã tử vong. Số phận, bí quyết trường tồn hay tử vong của các nền văn
minh và các dân tộc là một chủ đề tư tưởng sâu kín của vở kịch của Nguyễn
Huy Tưởng và những suy ngẫm kiên trì, lắng đọng từ thuở thiếu thời cho đến
tận lúc qua đời, của ông về số phận của dân tộc chúng ta, so với số phận các
dân tộc khác, cho thấy ông thực sự là một Con Người Việt Nam viết hoa. Ông
vừa mừng vui cho sự trường tồn của dân tộc, vừa lo lắng cho tiền đồ của nó,
tiền đồ ấy, ông nghĩ rất đúng, phụ thuộc vào việc dân tộc có hiện thực hóa được
những tiềm năng sáng tạo của mình hay không. Ðây là động cơ mãnh liệt khiến
Nguyễn Huy Tưởng viết đi viết lại kịch Vũ Như Tô. Nguyễn Huy Tưởng ghi
lại, nhưng không chia sẻ tư tưởng của Trương Tửu về cái Ðạo Việt Nam, mà
cốt lõi là "sống trước đã, sáng tạo sau"(14). Bởi lẽ sáng tạo thuộc về nhiệm vụ,
thiên chức của từng con người và từng dân tộc. Có thể thực hiện nó dưới nhiều
hình thức, không nhất thiết phải bằng những công trình nghệ thuật kỳ vĩ khiến
thế giới kinh ngạc. Nhưng nhiệm vụ ấy phải được thực hiện, và không thể coi
nó là nhiệm vụ cấp thứ hai, như Trương Tửu làm. Nhìn vào lịch sử, ta thấy có
những dân tộc hay những nền văn minh đã suy vong do, trong một giai đoạn
nào đó, đã huy động đến vắt kiệt những tiềm lực sáng tạo của mình (văn minh
Angkor là thí dụ điển hình). Nhưng, ngay trước mắt chúng ta, một số dân tộc (ở
Bắc và Trung Phi) có lịch sử khá lâu đời; họ đương thực hiện - khó nói một
cách khác - sự tiêu diệt lẫn nhau và sự tự diệt. Phải chăng bởi vì họ đã không
tìm ra con đường giải phóng những tiềm lực sáng tạo của mình, và những tiềm
lực ấy chuyển hóa thành những lực hủy hoại? Bi kịch Vũ Như Tô thôi thúc
chúng ta suy nghĩ và suy nghĩ...
Một tác phẩm như Vũ Như Tô chỉ có thể ra đời trong thời đại ngày nay, nó là
một trong những trái chín sớm của tiến trình văn hóa Việt Nam hội nhập văn
hóa thế giới. Chúng tôi đã cố gắng khảo cứu kịch và tiểu thuyết Âu - Mỹ thế kỷ
XIX - XX, nhưng chưa tìm ra được tác phẩm nào viết trước những năm 1940
có chủ đề tương tự và đạt sức khái quát lịch sử như trước tác của Nguyễn Huy
Tưởng. Nhưng cũng trong những năm mà nhà văn của chúng ta viết đi viết lại
vở kịch tâm đắc của mình, bên kia bờ Thái Bình Dương, nhà văn Ðức lưu vong
Thomas Mann sáng tác tiểu thuyết - bi kịch Bác sĩ Faustus(15). Nhân vật chính
trong tiểu thuyết ấy, nhạc sĩ thiên tài Adrian Leverkuhn, sống trong thời đại,
khi mà nghệ thuật đã ngạo nghễ tự khép mình trong tháp ngà của mình, không
muốn biết đến những lĩnh vực khác của cuộc sống, khi mà sự cách tân trong
nghệ thuật trở thành mục đích tự thân và mệnh lệnh câu thúc mọi văn nghệ sĩ,
Adrian Leverkuhn càng quên mình sáng tạo càng cảm thấy cạn kiệt bên trong
cảm hứng sáng tạo. Và, bị quỷ dữ cám dỗ, chàng đã bán linh hồn mình cho quỷ
dữ để đổi lấy hai mươi bốn năm sáng tạo đầy hứng khởi, nhưng dưới ngòi bút
của chàng chỉ hiện ra những bản nhạc của sự nhạo báng tất cả, sự hủy hoại
cuồng say và sự tuyệt vọng giá lạnh... Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng và
Bác sĩ Faustus của Thomas Mann như gọi nhau từ hai bờ đại dương. Một tác
phẩm vừa đòi cho cái Ðẹp nghệ thuật quyền trở thành giá trị tự thân, vừa cảnh
báo về mối họa nằm sẵn trong tham vọng của nó muốn đứng lên trên mọi giá
trị khác của sinh tồn. Tác phẩm khác phơi bày những hệ quả bi thảm, khi tham
vọng đấy được thỏa mãn. Bài tham khảo 3
Trong làng kịch hiện đại Việt Nam, bên cạnh Lưu Quang Vũ tài năng, vực dậy
cả một nền văn học kịch đang trên đà tuột dốc, ta cũng không thể không nhắc
đến Nguyễn Huy Tưởng một trong những nhà viết kịch và tiểu thuyết xuất sắc.
Các tác phẩm của ông thường đi khai thác các đề tài lịch sử và tác phẩm Vũ
Như Tô là tác phẩm nổi bật nhất. Xung đột kịch được đẩy lên đến cao trào và
được giải quyết ở hồi thứ 5 “Vĩnh biệt cửu trùng đài” qua đó thể hiện quan
niệm sâu sắc của ông về cuộc đời và nghệ thuật.
Vũ Như Tô là một kiến trúc sư tài giỏi, bị Lê Tương Dực – tên vua tàn bạo bắt
xây Cửu Trùng Đài thành nơi để hắn ăn chơi, hưởng lạc. Là một người nghệ sĩ
chân chính, Vũ Như Tô đã không nhận lời dù có bị hắn đe dọa sẽ giết chết.
Nhưng Đam Thiềm một cung nữ đã thuyết phục được ông xây Cửu Trùng Đài.
Cửu Trùng Đài xây cao bao nhiêu, lòng dân oán hận Vũ Như Tô bấy nhiêu. Lợi
dụng tình thế đó Trịnh Duy Sản đã dấy binh nổi loạn. Đoạn trích “Vĩnh biệt
cửu trùng đài” là sự tiếp nối các sự kiện đang bị đẩy lên đến cao trào đó.
Mở đầu tác phẩm là tiếng hoảng hốt của Đam Thiền, khuyên Vũ Như Tô hãy
mau trốn đi. Cơn biến loạn xảy ra ở kinh thành nên tình trạng của Vũ Như Tô
hết sức nguy hiểm, nhưng Vũ Như Tô lại nhất định không trốn, không nghe lời
khuyên của Đam Thiền bởi “Những người quân tử không bao giờ sợ chết. Mà
vạn nhất có chết, thì cùng phải để cho mọi người biết rằng công việc mình làm
chính đại quang minh. Tôi sống với Cửu Trùng Đài, chết cũng với Cửu Trùng
Đài. Tôi không thể xa Cửu Trùng Đài một bước. Hồn tôi dể cả ở đây, thì tôi
chạy đi đâu?”. Ông hi sinh hết mình cho nghệ thuật, ông cố thủ ở lại cũng
mong Cửu Trùng Đài sẽ được hoàn thiện, để tranh tinh xảo với hóa công.
Nhưng ông nào biết, chính quyết định đó đã khiến ông nhận lấy cái chết oan
nghiệt, đến cả lúc chết ông vẫn không thể lí giải vì sao mình phải chết.
Khi nhận lời xây dựng Cửu Trùng Đài bản thân Vũ Như Tô đã mắc phải sai
lầm trong suy nghĩ và hành động. Vũ Như Tô mượn uy quyền và tiền bạc của
Lê Tương Dực để thực hiện giấc mộng Cửu Trùng Đài. Nhưng tiền bạc đó
chính là công sức, của cải của nhân dân, ông chỉ nhìn thấy cái bề nổi khi xây
dựng xong Cửu Trùng Đài, mà không nhận ra phần sâu của sự việc. Cửu Trùng
Đài càng đến ngày hoàn thiện thì mâu thuẫn giữa ông với nhân dân càng lớn
dần, họ căm ghét Vũ Như Tô bởi ông đã hạ lệnh giết chết những người bỏ trốn
để duy trì kỉ luật trên công trường. Đó là hành động hết sức tàn nhẫn, đặt công
trình lên trên tính mạng của thợ thuyền. Vũ Như Tô đã biến thành một kẻ đáng
sợ, người dân không còn thấy hình ảnh của Vũ Như Tô gần gũi với nhân dân
đâu nữa. Vì xây Cửu Trùng Đài mà cuộc sống của nhân dân ngày càng cực khổ.
Vũ Như Tô là một thiên tài nhưng không phải là một hiền tài. Ông không thấu
hiểu nỗi thống khổ của nhân dân.
Vũ Như Tô bị đặt vào mâu thuẫn không thể hóa giải, điều hòa: một bên là khát
vọng nghệ thuật, một bên là đời sống của nhân dân. Bởi vậy, cuối cùng ông đã
nhận lấy cái kết vô cùng bi thảm. Vũ Như Tô bị hiểu lầm và bị kết tội: Nhân
dân coi bạo chúa và Vũ Như Tô là một là hai người gây ra tội ác: “Bạo chúa đã
chết, còn thằng Vũ Như Tô đem phanh thây thành trăm mảnh”. Ông không chỉ
bị nhân dân kết tội mà giấc mộng cuộc đời ông, ông đã dồn biết bao tài năng và
tâm sức xây dựng Cửu Trùng Đài giờ cũng rơi vào tuyệt vọng, Cửu Trùng Đài
bị phá hủy. Trước cảnh tượng Cửu Trùng Đài rực cháy, Vũ Như Tô rú lên kinh
hoàng, tất cả giấc mộng đẹp tan tành, sụp đổ, đó là tiếng rú kinh hoàng, sợ hãi.
“Thông thế là hết, dẫn ta đến pháp trường” – Vũ Như Tô người sáng tạo cái
đẹp cũng bị giết. Cái chết của Vũ Như Tô là một kết cục tất yếu vì Cửu Trùng
Đài là một công trình đẹp, tuyệt mĩ nhưng nó lại là biểu hiện của cái xấu, cái ác,
nên tất yếu nó sẽ bị hủy diệt. Qua đó Nguyễn Huy Tưởng cũng nêu lên mối
quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời: nghệ thuật phải xuất phát từ cuộc sống và
phục vụ con người mới có thể tồn tại nếu không nó tất yếu sẽ bị diệt vọng.
Ngoài nhân vật Vũ Như Tô, ta cũng không thể không nhắc đến Đam Thiền. Bà
là một cung nữ xinh đẹp, tài năng nhưng bị bỏ rơi. Đam Thiền là người yêu cái
đẹp, cái thái độ “biệt nhỡ liên tài”, chính bà là người đã khuyên Vũ Như Tô nên
ở lại để xây dựng Cửu Trùng Đài điểm tô cho đất nước, cũng chính bà đã
khuyên Như Tô trốn đi khi xảy ra biến loạn. Và bà tình nguyện ở lại để bảo vệ
Cửu Trùng Đài bởi “tôi chết đi không thiệt hại cho đời”. Cũng như Vũ Như Tô,
Đam Thiềm cũng rơi vào bi kịch vỡ mộng: hi sinh tất cả danh dự tính mạng để
bảo vệ Cửu Trùng Đài nhưng cuối cung vẫn phải chết. Đau đớn hơn trước khi
chết còn phải chứng kiến cảnh Cửu Trùng Đài bị đốt phá tan tành. Người bà
hết lòng bảo vệ là Vũ Như Tô cũng bị đưa ra pháp trường.
Hồi năm của vở kịch Vũ Như Tô đã được Nguyễn Huy Tưởng sử dụng ngôn
ngữ kịch điêu luyện, mang tính tổng hợp cao. Nhịp điệu lời thoại nhanh, gấp
gáp, sử dụng những câu văn ngắn cho thấy tình thế cấp bách. Tính cách, tâm
trạng nhân vật được bộ lộc rõ nét.
Với các lớp kịch linh hoạt, tự nhiên tác giả đã tái hiện thành công hồi kịch thứ
năm. Qua hồi kịch này ông gửi gắm sự ảm thông với bi kịch của Vũ Như Tô,
Đồng thời đặt ra vấn đề mối quan hệ hài hòa giữa nghệ thuật và con người.
Không chỉ vậy xã hội cần trân trọng, nâng niu những tài năng nghệ thuật, để họ
có thể phát huy tài năng của bản thân, xây dựng sự giàu đẹp cho đất nước. Bài tham khảo 4
Vào năm 1516 dưới triều vua lợn Lê Tương Dực vốn nổi tiếng là ăn chơi, sa
đọa đã sai Vũ Như Tô xây điện 100 nóc và xây công trình quy mô lớn là Cửu
trùng đài. Đây là một sự kiện có thật được nhà viết kịch tài ba Nguyễn Huy
Tưởng khai thác để dựng lên vở kịch “Vũ Như Tô” phản ánh hai mâu thuẫn cơ
bản về xã hội và con người. Đoạn trích “Vĩnh biệt cửu trùng đài” thuộc hồi
cuối tác phẩm thể hiện cao trào kịch tính được đẩy lên đến đỉnh điểm, cùng với
đó là bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô và nữ phụ Đan Thiềm_những người
nghệ sĩ say mê cái đẹp mà quên mất mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống,
giữa lí tưởng nghệ thuật thuần túy với lợi ích của nhân dân.
Vũ Như Tô là một nhà kiến trúc sư tài giỏi bị Lê Tương Dực ép xây dựng
Cửu trùng đài để làm nơi hưởng lạc vui chơi với cung nữ. Ông vốn là người
nghệ sĩ chân chính lại gắn bó gần gũi với nhân dân nên đã từ chối, quyết không
nhận lời và ngang nhiên mắng chửi tên hôn quân bạo ngược. Về sau khi được
Đan Thiềm_người cung nữ say mê cái đẹp và biết quý trọng người tài thuyết
phục là lợi dụng tiền bạc và quyền lực của vua để xây dựng một tòa lâu đài cho
đất nước “Bền như sao trăng”, có thể “tranh tinh xảo với hóa công” và để cho
“dân ta nghìn thu còn hãnh diện”. Kể từ đó ông thay đổi thái độ chấp nhận
mệnh lệnh, dồn tất cả tài năng và trí tuệ sáng suốt để hoàn thành hoài bão, lí
tưởng muốn điểm tô cho đất nước. Chính việc làm ấy của Vũ Như Tô đã vô
tình đẩy dân đen vào cảnh lầm than cực khổ khi sưu thuế ngày càng tăng cao,
triều đình bắt thêm thợ giỏi, thẳng tay hạ chém những kẻ bỏ trốn, biết bao
nhiêu người chết vì tai nạn. Nhân dân căm phẫn nhà vua, oán giân Vũ Như Tô.
Để rồi Trịnh Duy Sản kẻ cầm đầu phe phái đối lập với triều đình lôi kéo dân
chúng đứng lên làm phản giết vua và bắt giết Vũ Như Tô cùng Đan Thiềm.
Mở đầu đoạn trích “Vĩnh biệt cửu trùng đài” là hình ảnh cung nữ Đan
Thiềm hớt hơ hớt hải chạy, mặt cắt không còn hột máu vào báo tin tình thế
nguy kịch, thúc giục, cầu xin, van nài Vũ Như Tô chạy trốn với những lời lẽ
tha thiết, chân thành: “Ông nghe tôi! Ông trốn đi! Ông nghe tôi! Ông phải trốn
đi mới được”, nàng chắp tay van lạy Vũ Như Tô hãy bỏ trốn gìn giữ tính mạng
chờ cơ hội khác vì đại sự đã hỏng. Từng chi tiết hành động và lời nói của Đan
Thiềm chứng tỏ cô là một người rất quý trọng người tài, hiểu biết lo trước lo
sau cho tài năng đất nước. Cô khẳng định: “Ông trốn đi. Tài kia không nên để
uổng. Ông mà có mệnh hệ nào thì nước ta không còn ai điểm tô nữa”, con
người ấy sẵn sàng quỳ dưới chân giặc cầu xin tha mạng cho ông Vũ, sẵn sàng
xin chết thay ông nhưng Vũ Như Tô nhất quyết sống chết cùng đài cửu trùng
mà không chịu rời đi để rồi gây nên tấn bi kịch cho cuộc đời ông.
Vũ Như Tô coi Cửu trùng đài quý hơn sinh mạng của bản thân, nó là cả
phần xác lẫn phần hồn của ông và Đan Thiềm. Chính vì vậy mà ông mù quáng,
u mê không thoát ra khỏi ảo vọng của mình được. Quân làm phản càng ngày
kéo đến càng gần nhưng con người ấy vẫn ngoan cố vẫn không hiểu vì lí do gì
họ lại muốn bắt mình, vẫn cố đấu lí với đời, với số phận: “Có lí gì để họ giết
tôi?”, đứng trước quân khởi loạn vẫn tự trấn an mình và mọi người “Đời ta
chưa tận, mệnh ta chưa cùng. Ta sẽ xây một tòa đài để tạ lòng tri kỉ”. Bị bọn
chúng bắt ông vẫn nuôi hi vọng có thể phân trần với chủ tướng về tấm lòng
nguyện vọng của bản thân mong sao để người đời hiểu cho nguyện ước ông
đang thực hiện là vì vẻ đẹp ngàn năm của đất nước. Ông vẫn say sưa giấc mộng
của riêng mình về Đài Cửu Trùng: “Vài năm nữa, Đài Cửu Trùng hoàn thành,
cao cả, huy hoàng, giữa cõi trần lao lực, có một cảnh Bồng Lai…” Vũ Như Tô
không thể tỉnh táo để nhận diện tình thế nguy kịch của hiện tại. Ông vẫn nghĩ
mình bị hiểu nhầm, vẫn không tin rằng mình bị nhân dân oán hận, bị mọi người
căm ghét, ông không tin dân chúng muốn phá Cửu Trùng Đài bởi đó là công
trình, là tòa lâu đài điểm tô cho đất nước. Đứng ở khía cạnh người hùng thì
đúng ông là con người dám làm dám chịu, có khí phách hiên ngang nhưng dựa
trên hoàn cảnh thực tại thì đó là bảo thủ, cố chấp.
Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài là biểu hiện cho tài năng của người nghệ
sĩ, hiện thân cho sự khao khát và say mê sáng tạo cái đẹp đó là đúng đắn, là
đáng trân trọng nhưng thực tế của đất nước dân cùng khốn khổ cái đẹp ấy lại
trở nên thật phù phiếm, xa xỉ bởi đã thấm đẫm máu, nước mắt và được xây trên
thây xác của nhân dân. Dù là ước muốn cao đẹp của Vũ Như Tô nhưng ông đã
vô tình gây ra tội ác, trở thành kẻ thù của dân chúng và thợ thuyền mà không
hề hay biết. Đến khi kinh thành bị phát hỏa, quân lính cho hay đó là lệnh của
An Hòa Hầu, tận mắt chứng kiến cảnh Đài Cửu Trùng bốc cháy như giàn thiêu
ông chỉ biết gào lên trong tuyệt vọng: “Đốt thực rồi! Đốt thực rồi! Ôi đảng ác!
Ôi muôn phần căm giận! Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì? Ôi mộng lớn! Ôi
Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài!”. Vũ Như Tô bị rơi từ đỉnh cao mộng tưởng
xuống hố sâu của tuyệt vọng. Nỗi đau và sự mất mát đã hòa vào nhau làm một
dội lên tiếng kêu của đau thương, tang tóc. Những câu cảm thán thốt ra từ đỉnh
điểm cảm xúc đau đớn vô cùng. Thật đáng tiếc với những câu hỏi lớn của Vũ
Như Tô đến khi chết ông vẫn không hiểu tại vì sao lại ra nông nỗi: “Ta tội gì?
Ta không có tội! Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu trùng đài! Tấn bi kịch
ấy là cái giá mà ông phải trả vì không nhận thức rõ vấn đề muôn thuở và thực tại.
Vũ Như Tô đã không hiểu được mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống.
Nghệ thuật được sáng tạo và xây dựng lên cuối cùng cũng phải vì phục vụ cho
đời sống nhân dân. Đó mới là nghệ thuật vị nghệ thuật. Còn nghệ thuật không
thể chỉ để thỏa mãn tài năng, lí tưởng của người nghệ sĩ mà quên mất rằng cái
đẹp phải gắn với cái thiện, đẹp thiện không thể tách rời được nhau. Đứng trên
lập trường người nghệ sĩ Cửu trùng đài là cái đẹp tuyệt mĩ, đứng trên lập
trường của nhân dân nó là một bông hoa ác thấm đẫm máu. Cái giá mà Vũ Như
Tô phải trả là ông chỉ nghĩ mình là nghệ sĩ chân chính mà quên mất rằng mình
cũng là một công dân của đất nước.
Như vậy qua đoạn trích “Vĩnh biệt cửu trùng đài” nhà văn đã tái hiện lại
bi kịch của Vũ Như Tô và Đan Thiềm gặp phải phản ánh sâu sắc hai mâu thuẫn
của thời đại. Mâu thuẫn thứ nhất là mâu thuẫn của tập đoàn phong kiến Lê
Tương Dực ăn chơi, hưởng lạc với hoàn cảnh bị bần cùng hóa của nhân dân.
Mâu thuẫn thứ hai trong bản thân con người Vũ Như Tô và Đan Thiềm. Đó là
mâu thuẫn giữa người công dân và người nghệ sĩ và phản ánh mối quan hệ giữa
nghệ thuật và cuộc sống. Hai mâu thuẫn này tác động lẫn nhau. Đan Thiềm
thuyết phục Vũ Như Tô xây dựng Cửu trùng đài càng làm cho mâu thuẫn xã
hội tăng cao, người nghệ sĩ càng hăng hái sáng tạo cái đẹp nghệ thuật bao nhiêu
thì càng mâu thuẫn với lợi ích công dân bấy nhiêu. Thật đáng tiếc cho một
người tài năng lại bị đặt nhầm chỗ, không đúng thời thế để rồi con người ấy, tài
năng ấy bị hủy diệt bởi thực tại cuộc sống. Qua đó ta cũng nhận thức được bài
học cái đẹp nghệ thuật chỉ thực sự có nhu cầu và có ý nghĩa khi đời sống vật
chất được đáp ứng đầy đủ, lợi ích của nhân dân phải được đặt lên hàng đầu.
Quan điểm đó đến ngày nay vẫn không hề lỗi thời mà nó luôn đúng trong mọi
hoàn cảnh. Đảng và nhà nước ta luôn vận dụng nó vào để duy trì và phát triển đất nước.
Đoạn trích đã giải quyết được mâu thuẫn xã hội nhưng mâu thuẫn cá nhân
với hai tư cách nghệ sĩ và công dân chưa được giải quyết điểm biểu hiện trong
lời nói cuối cùng của Vũ Như Tô “Ta tội gì. Không ta chỉ có một hoài bão là tô
điểm đất nước, đem hết tài năng ra xây cho nòi giống một tòa đài hoa lệ có thể
thách thức với công trình trước sau, tranh tinh xảo với hóa công” và lời đề tựa
vở kịch của tác giả: “Chẳng biết Vũ Như Tô phải hay những kẻ giết Vũ Như
Tô phải, ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm”.
Nguyễn Huy Tưởng trân trọng tài năng, say mê cái đẹp, cảm thông cho Vũ
Như Tô nhưng ông cũng không đồng tình với nhân vật và những người nghệ sĩ
chỉ biết quan tâm đến cái đẹp mà không vì quyền lợi của nhân dân.