







Preview text:
lOMoAR cPSD| 59769538
PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA I.
CƠ BẢN VỀ PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa
Pháp chế XHCN là một khái niệm, một phạm trù pháp lý cơ bản của khoa
học pháp lý XHCN. Đây là vấn đề không phải là mới mẻ. Song, sau khi các nước
XHCN ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, các nước trong hệ thống XJCN đã đều tiến
hành cải tổ đổi mới theo những con đường phát triển của riêng mình, pháp chế
được bàn đến trong một điều kiện mới. trong điều kiện của quá trình xây dựng
nhà nước pháp quyền, quá trình xây dựng phát triển nền kinh tế thị trường mở
cửa, hội nhập quốc tế và xây dựng xã hội công dân, pháp chế XHCN (theo quan
niệm cũ) không dễ gì có sự thống nhất về nội hàm của nó. Vì vậy, để đưa ra được
khái niệm về pháp chế XHCN một cách tương đối hoàn chỉnh, đúng với tên gọi
của nó cần tiếp cận từ nhiều phương diện.
Thứ nhất, tiếp cận từ tư tưởng của các nhà kinh điển của chủ nghĩa
MácLeeenin về pháp chế XHCN, “pháp chế là một hiện tượng xã hội độc lập với
tư cách là nhân tố của quyền lực chính trị”.
Thứ hai, tiếp cận từ quan điểm của Đảng ta về pháp chế XHCN trong các
văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc, Đảng ta đều coi pháp chế XHCN là nguyên tắc
tổ chức và hoạt động của nhà nước. muốn nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quảng
lý nhà nước và phát huy dân chủ XHCN phương pháp chủ yếu, tổng thể, toàn
diện và thường xuyên là tăng cường pháp chế XHCN.
Thứ ba, tiếp cận từ khái niệm pháp chế của khoa học pháp lý, có nội dung
đa diện, đa nghĩa mà hạt nhân, cốt lõi của nó là sự tôn trọng và thực hiện pháp
luật hiện hành 1 cách tự giác, đầy đủ, nghiêm minh và thống nhất của các chủ thể trong toàn xã hội.
Pháp chế và pháp luật là 2 khái niệm có quan hệ chặt chẽ với nhau. Chúng
là những khái niệm gần gũi, nhưng không đồng nhất. pháp luật là hệ thống các
quy phạm cho nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội. pháp chế là
1 phạm trù thể hiện những yêu cầu, đòi hỏi đối với chủ thể pháp luật phải tôn
trọng và thực hiện đúng pháp luật. cho nên, pháp luật là tiền đề của pháp chế
nhưng có pháp luật chưa hẳn đã có pháp chế. Do đó pháp luật chỉ có thể phát huy
được hiệu lực của mình, điều chỉnh một cách có hiệu quả các quan hệ xã hội khi
dựa trên cơ sở vững chắc của nền pháp chế và ngược lại pháp chế chỉ có thể được
củng cố và tăng cường khi có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp và kịp thời. lOMoAR cPSD| 59769538
Như vậy, pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ đặc biệt của đời sống
chính trị-xã hội, trong đó tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội và mọi công dân phải tôn trọng và thực hiện pháp luật hiện hành 1 cách
nghiêm minh, triệt để, chính xác, bình đẳng và thống nhất.
2. Đặc điểm pháp chế xã hội chủ nghĩa
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một khái niệm rộng bao gồm nhiều mặt, do
vậy cần phải xem xét nó ở những bình diện sau đây:
Thứ nhất, pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Pháp chế đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy
nhà nước phải tiến hành đúng quy định của pháp luật. mọi cán bộ công chức nhà
nước phải tôn trọng và nghiêm chỉnh tuân theo pháp luật khi thực hiện quyền và
nghĩa vụ của mình; mọi vi phạm đều bị xử phạt nghiêm minh. Đó là cơ sở bảo
đảm bộ máy nhà nước hoạt động đồng bộ, nhịp nhàng và có hiệu quả, phát huy
hiệu lực của nhà nước và bảo đảm công bằng xã hội. điều 12 Hiến pháp 1992
(sửa đối bổ sung năm 2001) khẳng định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.”
Thứ hai, pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
các tổ chức chính trị - xã hội và đoàn thể quần chúng.
Mọi tổ chức chính trị - xã hội và đoàn thể quần chúng đều có phương thức,
nguyên tắc hoạt động riêng, nhưng vẫn phải tôn trọng và tuân theo nguyên tắc
pháp chế XHCN. Bởi mỗi thành viên của tổ chức hay đoàn thể đó trước hết là
một công dân nên họ luôn chịu sự tác động của nhà nước; mặt khác các tổ chức
chính trị - xã hội và đoàn thể quần chúng đều được hình thành và hoạt động trong
phạm vi lãnh thổ của nhà nước, tham gia các quan hệ xã hội, trong đó có các quan
hệ do nhà nước xác lập và bảo vệ. ngay cả Đảng Cộng sản với tư cách là đảng
cầm quyền, là lãnh đạo nhà nước, quản lý xã hội phải “hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật” như Điều 4 Hiến pháp 1992 quy định.
Thứ ba, pháp chế XHCN là nguyên tắc xử sự của công dân.
Điều này đòi hỏi mọi công dân tôn trọng và tự giác thực hiện đúng yêu
cầu của pháp luật trong các hành vi xử sự của mình, được phép làm những gì mà
pháp luật không cấm. đây là điều kiện đảm bảo công bằng xã hội, mọi công dân
đều bình đẳng trước pháp luật, là điều kiện cho mỗi người được tự do, tồn tại và
phát triển. mặt khác, trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lap động là chủ nhân đất
nước nên còn đòi hỏi mọi công dân có trách nhiệm tham gia quản lý công việc lOMoAR cPSD| 59769538
nhà nước, bảo đảm thực hiện nguyên tắc pháp chế bằng hình thức như kiểm tra,
giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội, đấu tranh chống
vi phạm pháp luật, pháp chế…
Thứ tư, pháp chế xã hội chủ nghĩa có quan hệ mật thiết với chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Trong mối quan hệ này, dân chủ XHCN là cơ sở củng cố nền pháp chế
XHCN và pháp chế XHCN là yếu tố mở rộng nền dân chủ XHCN, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân lao động. Có thể khẳng định rằng một nền dân chủ
XHCN thực sự không thể thiếu pháp chế XHCN, vì chính pháp chế là nền tảng
vững chắc nhất để duy trì và thực hiện những nguyên tắc của chế độ dân chủ
XHCN, tạo ra tính tổ chức kỷ luật, thiết lập kỷ cương của xã hội. Mối quan hệ
trực tiếp được thể hiện ở sự tham gia của đông đảo quần chúng vào quản lý các
công việc nhà nước và xã hội, vào kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà
nước. Đặc điểm này cũng nói lên nét khác biệt căn bản về bản chất của pháp chế
XHCN với pháp chế tư sản.
Như vậy, pháp chế XHCN đã trở thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn
bộ cơ chế hoạt động trong chế độ chính trị - xã hội XHCN ở nước ta. Pháp chế
XHCN là hình thức, phương pháp tổ chức và vận hành cơ chế Đảng lãnh đạo,
nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
3. Những yêu cầu cơ bản của pháp chế XHCN.
a. Tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp.
Tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp và Luật bảo đảm tính thống nhất của
hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện cho hệ thống pháp luật ngày
càng hoàn thiện, làm cơ sở để thiết lập trật tự pháp luật, củng cố và tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Hiến pháp và Luật là những văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội –
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ban hành, thể hiện một cách tập trung ý
chí và những lợi ích cơ bản của nhân dân lao động trên các lĩnh vực, trong các
vấn đề quan trọng của nhà nước và xã hội. đó là những văn bản quy phạm pháp
luật có giá trị pháp lý cao nhất. tuy nhiên, Hiến pháp và Luật có đặc điểm riêng,
trong nhiều trường hợp không thể quy định một cách chi tiết và cụ thể để áp lOMoAR cPSD| 59769538
dụng trong mọi tình huống. vì vậy, chúng luôn đòi hỏi phải có sự cụ thể hóa của
các văn bản dưới luật. trên thực tế, những văn bản dưới luật hết sức phong phú,
chiếm một số lượng rất lớn trong hệ thống pháp luật, vì vậy, mọi quy định của
các văn bản dưới luật đều phù hợp với Hiến pháp và Luật. do đó, khi xây dựng
các văn bản dưới luật phải dựa trên những quy định của Hiến pháp và Luật. nếu
không thực hiện tốt yêu cầu tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp và Luật thì tình
trạng tản mạn, trùng lặp, chồng chéo hoặc mâu thuẫn trong các quy phạm pháp
luật, phá vỡ tính thống nhất của hệ thống pháp luật là không thể tránh khỏi.
Ví dụ: Hiến pháp quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân ( hay sở hữu
nhà nước). luật đất đai, nghị định, thông tư hướng dẫn cũng phải tôn trọng quy
định của Hiến pháp, triệt để tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp và Luật.
b. Bảo đảm tính thống nhất của pháp chế trên quy mô toàn quốc.
Từ bản chất của nhà nước và pháp luật chủ nghĩa, nguyên tắc mọi công
dân đều bình đẳng trước pháp luật, pháp chế XHCN đòi hỏi phải có sự thống
nhất về nhận thức và tổ chức thực hiện pháp luật trên quy mô toàn quốc. thực
hiện tốt yêu cầu này là điều kiện quan trọng để thiết lập trật tự, kỷ cương, cấp
dưới phục tùng cấp trên, lợi ích của địa phương phải phù hợp với lợi ích quốc
gia, cá nhân cs quyền tự do dân chủ những phải tôn trọng quyền của những chủ
thể khác. Bảo đảm nguyên tắc pháp chế thống nhất là điều kiện để xóa bỏ tư
tưởng cục bộ, địa phương chủ nghĩa, tự do vô chính phủ, bảo đảm công bằng xã hội.
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật, củng
cố, tăng cường pháp chế, Nhà nước cũng cần phải xem xét những điều kiện và
hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương, tìm ra những hình thức và phương pháp
phù hợp để đưa pháp luật vào đời sống với hiệu quả cao nhất mà không vi phạm
pháp luật, không xâm hại đến tính thống nhất của pháp chế.
Ví dụ: theo quy định của Luật hôn nhân gia đình và Nghị định 158/2005
quy định: Đăng kí kết hôn. Khi đăng kí kết hôn phải nộp lệ phí. Tuy nhirn ở vùng
sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số Chính phủ có quy định riêng để phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh, đó là khi đăng kí kết hôn sẽ được miễn lệ phí. (Nhị định số 32/2000).
c. Các cơ quan xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật
phải hoạt động một cách tích cực, chủ động và có hiệu quả. lOMoAR cPSD| 59769538
Để có cơ sở vững chắc củng cố nền pháp chế, cần chú ý đến những biện
pháp bảo đảm cho các cơ quan chuyên trách xây dựng pháp luật đủ khả năng và
điều kiện để hoàn thiện hệ thống pháp luật một cách đầy đủ, đồng bộ và thống nhất.
Tổ chức và thực hiện pháp luật là một mặt quan trọng của nền pháp chế
dẫn đến một trong những yêu cầu đặt ra là muốn củng cố và tăng cường pháp
chế thì bảo đảm cho các cơ quan tổ chức và thực hiện pháp luật hoạt động có
hiệu quả. Từ đó, các chủ thể mới hiểu được pháp luật, có ý thức và tự giác,
nghiêm chỉnh tuân theo pháp luật và bảo đảm được nguyên tắc pháp chế.
Xử lý kịp thời và nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật là trách
nhiệm của cả bộ máy nhà nước, nhưng trước hết chủ yếu là những cơ quan bảo
vệ pháp luật nên cần thiết chú trọng nâng cao hoạt động của các cơ quan này
tích cực, chủ động và hiệu quả hơn. Kết quả sẽ tác động trực tiếp với viwjwc
củng cố và tăng cường pháp chế. Hơn nữa, pháp chế còn là nhiệm vụ của các tổ
chức xa hội và toàn dân. Vì vậy, yêu cầu cũng đòi hỏi các tổ chức và mọi công
dân phải có trách nhiệm tham gia đấu tranh chống vi phạm pháp luật, bảo vệ pháp chế XHCN.
Ví dụ: Nghị định về kiềm chế tai nạn giao thông của Thủ tướng Chính phủ
quy định: “Mọi người ngồi trên xe mô tô, gắn máy phải đội mũ bảo hiểm trên
các tuyến đường từ ngày 15 /12/2007”. Đối tượng phải chấp hành đầu tiên là
cán bộ công chức và tích cực tuyên truyền. đến nay, 99% người dân đã chấp
hành quy định này và đã trở thành thói quen. Có thể thấy, pháp luật đã thực sự
được thực hiện trong cuộc sống.
d. Không tách rời công tác pháp chế với văn hóa.
Trình độ văn hóa nói chung và trình độ văn hóa pháp lý nói riêng của các
nhân viên nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và công dân có ảnh hưởng rất
lớn tới quá trình củng cố nền pháp chế XHCN. Trình độ văn hóa của công chúng
càng cao thì việc thực hiện pháp luật càng tự giác và thống nhất. có thể nói, văn
hóa là cơ sở quan trọng để củng cố nền pháp chế, ngược lại, nền pháp chế vững
mạnh lại mở ra khả năng lớn thúc đẩy phát triển văn hóa XHCN. Vì vậy, phải gắn
công tác pháp chế với công việc nâng cao trình độ văn hóa nói chung và văn hóa
pháp lý nói riêng của các nhân viên nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và lOMoAR cPSD| 59769538
công dân. Công tác pháp chế, quá trình xây dựng pháp luật phải phù hợp với đặc
trưng văn hóa từng vùng miền trong từng thời kì khác nhau.
Ví dụ: Việc vi phạm pháp luật có tỷ lệ lớn hơn ở những nơi mà những
người lãnh đạo có trình độ văn hóa không cao, hoặc ở những tập thể trong đó
thiếu sự tôn trọng pháp luật và bản thân người lãnh đạo vi phạm pháp luật.
Như vậy, thực chất của việc tăng cường pháp chế là tăng cường chế độ
quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật để mọi chủ thể trong xã hội đều
hoạt động trong xã hội đều hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
II. THỰC TRẠNG PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 1. Thành tựu.
Trên phương diện thực tiễn, việc xây dựng pháo chế XHCN ở VN đạt
nhiều thành tựu quan trọng.
Nhà nước ta đã xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật ngày càng lớn,
chất lượng ngày càng nâng cao, hoàn thiện một bước quan trọng trong hệ thống
pháp luật về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, thể chế kinh tế thị trường
định hướng XHCN; về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân;
về các lĩnh vực văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục – đào tạp, khoa học, công nghệ,
môi trường, quốc phòng an ninh, đối ngoại… bảo đảm yêu cầu quản lý, ổn định,
phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. hệ
thống pháp luật đã thể chế kịp thời chủ trương của Đảng, cụ thể hóa các quy định
mới của Hiến pháp 2013, bám sát yêu cầu cuộc sống và đáp ứng tiêu chí của hệ
thống pháp luật về “tính đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch”, xử
lý tốt những vấn đề phức tạp của thực tiễn.
Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề
quan trọng của đất nước, giám sát tối cao có nhiều đổi mưới, chất lượng và hiệu
quả được nâng cao. Vai trò, quyền làm chủ của nhân dân được củng cố, phát huy,
bảo đảm và lan tỏa tinh thân tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, cơ chế
dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở dựa trên phương
châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Bộ máy nhà nước bước đầu được sắp xếp theo hướng tinh gọn gắn với tinh
giảm biên chế, hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; cơ chế phân công, phối hợp lOMoAR cPSD| 59769538
và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rõ hơn và có chuyển biến tích cực.
trong đó, vai trò, trách nhiệm của đại biểu dân cư thể hiện rõ hơn, hiệu quả hơn.
Hoạt động cơ quan hành pháp chủ động, tích cực, tập trung vào quản lý,
điều hành, tháo gỡ rào cản, phục vụ, hỗ trợ phát triển. cải cách hành chính, tư
pháp có bước đột phá; chất lượng hoạt động có tiến bộ, bảo vệ tốt hơn lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức và cá nhân; tôn
trọng, bảo vệ , bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Định kỳ, các bộ tư
pháp về các vùng xa để tuyên truyền phổ biến pháp luật có nội dung phù hợp với
đặc điểm tình hình từng cơ sở, lắng nghe tâm tư nguyện vọng, ý kiến kiến nghị
và pháp luật của nhân dân. Năm 2020, Bộ Tư pháp trong nhóm ba bộ dẫn đầu về
Chỉ số cải cách hành chính với tổng điểm và đứng thứ 2 về Chỉ số đo lường sự
hài lòng của người dân, tổ chức – 89,58%.
Những kết quả này được Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục
được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ
các quyền lập pháp và tư pháp”. 2. Hạn chế
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, ưu điểm, pháp chế XHCN ở nước ta còn nhiều hạn chế.
Điển hình là hệ thống pháp luật còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc với số lượn
lớn văn bản dưới luật, nhất là văn bản của các bộ, cơ quan ngang bộ theo
Báo cáo số 411/BC-CP của Chính phủ về kết quả rà soát văn bản QPPL.
Một số quy định còn chồng chéo, mâu thuẫn; tính khả thi, tính dự báo
chưa cao, ảnh hưởng đến tính ổn định của hệ thống pháp luật. một số quy
định chưa đáp ứng yêu cầu “chính xác, phổ thông, rõ ràng, dễ hiểu” theo
quy định của Luật Ban hành văn bản QPPL, dẫn đến việc hiểu, áp dụng không thống nhất.
Hơn nữa, kỷ luật, kỷ cương trong xây dựng và ban hành văn bản pháp luật
chưa nghiêm. Một số cơ quan soạn thảo văn bản chưa quan tâm đúng mức
đến việc rà soát đầy đủ, kỹ lưỡng quy định trong các văn bản QPPL liên
quan khi sửa đổi, bổ sung, ban hành quy định mới, dẫn đến mâu thuẫn,
chồng chéo giữa các quy định. Tình trạng luật khung, luật ống, luật phải
chờ văn bản hướng dẫn thi hành từ Chính phủ (Nghị định), các Bộ (Thông
tư, Thông tư liên tịch…), thậm chí có nơi phải chờ hướng dẫn của UBND lOMoAR cPSD| 59769538
tỉnh, thành phố và các Sở, ngành… mới phát sịn hiệu lực thực tế vẫn còn.
Tình trạng “nợ” văn bản hướng dẫn thi hành có cải thiện nhưng chưa được khắc phục triệt để.
Tại cuộc họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội phiên thứ 48, Phó Viện trưởng
Viện Kiểm Sát Nhân Dân tối cao Nguyễn Duy Giảng cho biết, có 23 văn
bản có nội dung mâu thuẫn; 3 văn bản đã lạc hậu, không còn phù hợp với
thực tiễn và 24 văn bản đã hết hiệu lực thi hành những chưa có văn bản
khác sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hoặc thay thế. Tính đến tháng 8 /2020, còn
lại 87/572 nội dung chưa ban hành văn bản quy định chi tiết. một số luật
có từ 80-100% nội dung chưa ban hành văn bản quy định chi tiết được ban
hành, đặc biệt, có một số nội dung sau gần 3 năm luật có hiệu lực nhưng
vẫn chưa có văn bản quy định. Điều này tác động không tốt đến sự phát
triển kinh tế - xã hội và cũng là nguyên nhân làm tính thống nhất và kỷ
cương của pháp luật chưa cao.