lOMoARcPSD| 59908026
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DNNN
Doanh nghiệp nhà nưc
CTCP
Công ty cổ phn
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
QTDN
Quản trị doanh nghiệp
HĐTV
Hội đồng thành viên
HĐQT
Hội đồng quản trị
GĐ/TGĐ
Giám đốc/Tổng giám đốc
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
SCIC
Tổng công ty đu tư kinh doanh vốn
nhà nưc
TNHH MTV
Trách hiệm hữu hạn một thành viên
LDN
Luật doanh nghiệp
MỤC LỤC
MỞ
ĐẦU.......................................................................................................................3
NỘI
DUNG...................................................................................................................4
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP NHÀ
NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC..............4
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ QUẢN
TRỊ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..............................7
2.1. Thực trạng pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà nưc...................................7
2.2. Thực trạng thi hành các quy định pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà nưc
..................................................................................................................................13
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY.............................................................................................17
3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà nưc...............17
3.2. Các giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà nưc18
KẾT
LUẬN.................................................................................................................19
lOMoARcPSD| 59908026
MỞ ĐẦU
Ở Việt Nam hiện nay, quản trị doanh nghiệp là vấn đề thu ht được
nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu và đang là câu chuyện mang tính thời sự
của các chủ đu tư cũng như những người quản l doanh nghiệp. Song trên thực tế,
các nghiên cứu về quản trị doanh nghiệp thường tập trung chủ yếu vào loại hình
công ty cổ phn (CTCP), đặc biệt CTCP niêm yết, đại chng. Tuy nhiên, giá trị
của các nghiên cứu đó chỉ mang đy đủ nghĩa đối vi quản trị doanh nghiệp nhà
nưc khi doanh nghiệp nhà nưc (DNNN) vẫn còn hoạt động dưi cả hình thức
CTCP., xét về mặt hình thức, các quy định về quản trị CTCP gn như không còn ảnh
hưởng nhiều ti DNNN nữa, trong khi quản trị trong công ty TNHH MTV 100%
vốn nhà nưc lại chưa được ch trng theo những đặc thù của DNNN.
Bên cạnh đó, việc tập trung sự nghiên cứu về quản trị DNNN cn được
xem tính cấp thiết. Đó cũng l do tôi lựa chn đề tài tiểu luận: Pháp
luật về quản trị doanh nghiệp nhà nước Việt Nam hiện nay”. Kết quả tiểu luận
sẽ góp phn hoàn thiện khung pháp l của Nhà nưc đối vi quản trị DNNN; Góp
phn xây dựng nh quản trị DNNN hiệu quả, phù hợp vi môi trường cạnh tranh
và hội nhập kinh tế hiện nay.
NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN VQUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
Có thể xây dựng một khái niệm cơ bản, hài hòa được sự khác nhau trong các
quan niệm về QTDN như sau: QTDN hệ thống các chế định nhằm định hướng,
điều hành và kiểm soát doanh nghiệp, đáp ứng quyền lợi của nhà đầu tư và các bên
liên quan.
Sự khác biệt cơ bản giữa DNNN vi các loại hình doanh nghiệp còn lại dẫn đến
quản trị DNNN quản trị doanh nghiệp nói chung cũng những điểm khác nhau
nhất định. Điều này không nghĩa những nguyên tắc chung trong QTDN không áp
dụng được vi DNNN, tuy nhiên ngoài các nguyên tắc chung đó còn phải những
nguyên tắc quản trị riêng phù hợp vi tính chất đặc thù của DNNN.
lOMoARcPSD| 59908026
Sự tồn tại của DNNN trong các nền kinh tế của các quốc gia trên thế gii từ các
quốc gia kém phát triển, đang phát triển hay phát triển đ chứng t quan điểm để thị
trường tự điều tiết, tự điều chỉnh của các qua điểm kinh tế tự do trưc đây không phù
hợp. Pháp luật về quản trị DNNN tổng thể các nguyên tắc, các quy định pháp luật
quy chế của DNNN về cấu trúc quản lý nội bộ của DNNN và các biện pháp nhằm kiểm
soát doanh nghiệp bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu, của các chủ thể liên quan
của toàn xã hội.
Theo đó, nội dung của pháp luật quản trị DNNN những điểm khác biệt nhất
định so vi pháp luật QTDN nói chung quy định bởi sự khác biệt về tính chất, mục tiêu
hoạt động cũng như bản chất sở hữu của loại hình doanh nghiệp này. Những khác biệt
đó bao gồm:
Thứ nhất, mặc dù không phải toàn bộ nhưng quản trị DNNN hiện nay chủ yếu
đơn sở hữu vi chủ sở hữu duy nhất Nhà nưc (trong đó Việt Nam) hoặc nếu
có các chủ sở hữu khác ngoài Nhà nưc thì trong DNNN bao giờ vai trò của Nhà nưc
cũng mang tính quyết định, chi phối. Nhà nưc lại là đại diện do nhân dân ủy quyền do
đó pháp luật quản trị DNNN luôn phải đảm bảo lợi ích của chủ sở hữu cuối cùng
những người dân. Nhà nưc cũng như nhân dân đều không thể trực tiếp thực hiện quyền
chủ sở hữu của mình mà phải thông qua chế đại điện. Điều đó dẫn đến những mâu
thuẫn vmặt lợi ích giữa những chủ thể chỉ tồn tại trong DNNN. vậy, pháp luật quản
trị DNNN cn tập trung vào nội dung giám sát, đánh giá hiệu quả đối vi hoạt động
quản trị và tính công khai, minh bạch thông tin của các DNNN.
Thứ hai, Nhà nưc vỗn dĩ đmang chức năng quản l nnưc có vai trò tạo
lập khung khổ pháp l, do đó khi đồng thời chủ sở hữu doanh nghiệp thì nguy
chồng lấn của chức năng quản l nhà nưc và chức năng chủ sở hữu doanh nghiệp rất
dễ xảy ra. Đồng thời, sự thiếu công bằng hoặc lạm dụng quyền hạn để dành sự ưu tiên
n trong các quy định pháp luật cho DNNN so vi khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà
nưc nguy thực. Do đó, pháp luật quản trị DNNN phải đảm bảo Nhà nưc
không can thiệp vào hoạt động của DNNN trong vai trò quản l nhà nưc; bộ y quản
l quyền tự chủ và phải tự chịu trách nhiệm trong hoạt động quản l, điều hành doanh
nghiệp; tách bạch chức năng chủ sở hữu vi chức năng quản l nnưc. Bên cạnh đó,
DNNN là một pháp nhân, nên Nhà nưc, vi tính cách chủ sở hữu, cũng không thể
lOMoARcPSD| 59908026
can thiệp vào mi hoạt động quản trị doanh nghiệp hàng ngày của DNNN theo nguyên
tắc về tách bạch quyền sở hữu và quyền quản l.
Thứ ba, các DNNN hoạt động chủ yếu trong các lĩnh vực độc quyền Nhà nưc
và sản xuất và cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích nên việc bảo vệ quyền lợi của
các bên liên quan hoàn toàn không dễ, tính công khai minh bạch thông tin cũng hạn
chế. Do đó, môi trường hoạt động của DNNN mang tính thử thách ln đối vi việc quản
trị doanh nghiệp. vậy, pháp luật quản trị DNNN phải hạn chế lạm dụng vị thế độc
quyền, đảm bảo cao nhất tính minh bạch đặt DNNN vào môi trường kinh doanh bình
đẳng như doanh nghiệp thuộc các thành phn kinh tế khác. Bên cạnh đó, cn có mt hệ
thống pháp luật cạnh tranh/ kiểm soát độc quyền hiệu quả để ngăn ngừa độc quyền hành
chính làm méo tổn hại thị trường cạnh tranh lợi ích của các đối thủ cạnh tranh,
người tiêu dùng và x hộ.
Thứ tư, nếu nQTDN các doanh nghiệp nói chung thông thường chỉ đặt ra
trách nhiệm giải trình của bộ máy điều hành và HĐQT/HĐTV thì quản trị DNNN gắn
liền vi trách nhiệm giải trình của các quan đại diện, tổ chức đại diện, cụ thể Chính
phủ, các bộ quan đại diện chủ sở hữu. Điểm khác biệt này ảnh hưởng không ít
đến hiệu quả quản trị của DNNN bởi trách nhiệm giải trình của các quan này thường
không rõ ràng, khó nhận biết và thậm chí nhiều trường hợp chẳng biết quy trách nhiệm
chính xác cho quan nào. Do đó, pháp luật quản trị DNNN phải bảo đảm tính giải
trình cao, ràng của các quan nhân thực hiện chức năng chủ sở hữu trong
doanh nghiệp. Bên cạnh đó, pháp luật quản trị DNNN cn tăng cường nội dung giám
sát đối vi bộ máy quản l, điều hành đhạn chế việc lợi dụng, lạm dụng quyền hạn
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
lOMoARcPSD| 59908026
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ
QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 . Thực trạng pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà nước
Mô hình quản trị doanh nghiệp nhà nước
Theo quy định tại điều 79 điều 90 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định về
cơ cấu tổ chức quản l của DNNN và công ty TNHH một thành viên có 02 mô hình
hoạt động quan đại diện chủ sở hữu thể lựa chn một trong hai hình
sau:
hình thứ nhất bao gồm các thiết chế: (i) Chủ tịch công ty; (ii) Giám đốc hoặc
Tổng giám đốc và (iii) Kiểm soát viên.
Mô hình thứ hai bao gồm các thiết chế: (i) Hội đồng thành viên; (ii) Giám đốc hoặc
Tổng giám đốc và (iii) Kiểm soát viên.
Điểm khác biệt duy nhất giữa hai hình về người đại diện chủ sở hữu tại
DNNN. Tùy thuộc vào việc DNNN lựa chn hoạt động theo hình nào dẫn đến
việc quản l sẽ được thực hiện theo mô hình đó. Nếu DNNN được quản l theo mô
hình thứ nhất – là mô hình không có HĐTV thì chỉ có duy nhất một người đại diện
chủ sở hữu trực tiếp Chủ tịch công ty. Nếu lựa chn mô hình thhai mô hình
có HĐTV thì sẽ nhiều người (tối đa 07 người) được bổ nhiệm làm người đại diện
chủ sở hữu trực tiếp và tổ chức thành HĐTV của công ty.
Quy định về hoạt động của Nhà nước với tư cách chủ sở hữu doanh nghiệp
Những hệ quả tích cực của các quy định pháp luật
Đến thời điểm hiện tại, kết quả ln nhất mà khung pháp luật quản trị mang lại
bưc đu xây dựng được nền tảng pháp l cho môi trường kinh doanh, cạnh tranh
bình đẳng giữa DNNN vi doanh nghiệp thuộc các thành phn kinh tế khác. Liên
quan trực tiếp đến các nội dung quản trị DNNN, khung pháp l đề cập những vấn đ
quan trng sau đây:
Thứ nhất, vchủ sở hữu nhà nưc và quan hệ giữa chủ sở hữu nhà nưc vi
DNNN; cấu tổ chức bộ máy của DNNN, các quan quản l, điều hành, kiểm
soát; các quyền nghĩa vụ của DNNN của chủ sở hữu, của người quản l doanh
lOMoARcPSD| 59908026
nghiệp được quy định tại Luật Doanh nghiệp 2020 các văn bản hưng dẫn đ quy
định về tập đoàn kinh tế nhà nưc, tổng công ty nhà nưc.
Thứ hai, về mô hình tổ chức quản l công ty DNNN; quyền và nghĩa vụ của ch
sở hữu, quan đại diện chủ sở hữu mối quan hệ vi DNNN, vi bộ máy quản
l, điều hành trong doanh nghiệp; chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của từng
quan trong cấu quản trị DNNN nHĐTV, Chủ tịch công ty, chủ tịch HĐTV,
GĐ/TGĐ, ban kiểm soát, kiểm soát viên; trách nhiệm và nghĩa vụ của các cơ quan,
nhân tham gia vào cấu QTDN; các giao dịch nội bộ, công khai công bố
thông tin… được quy định tại Luật Doanh nghiệp 2020.
Thứ ba, các nội dung cụ thể như quyền sở hữu, công khai minh bạch, giao dịch
khả năng lợi, đảm bảo lợi ích các bên có liên quan... cũng đ được quy định trong
các văn bản khác.
Thứ tư, khung pháp l đ thống nhất mục tiêu điều chỉnh cấu chủ sở hữu theo
hình công ty TNHH một thành viên để DNNN không còn là đối tượng được đặc
cách của các quy định pháp luật chung.
Thứ năm, khung pháp l quy định ràng hơn đối vi việc phân công, phân cấp
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu trong mối quan hệ giữa chủ sở hữu,
đại diện chủ sở hữu DNNN. Theo đó, Mỗi công ty TNHH một thành viên được
chuyển đổi từ công ty nhà nưc hoặc thành lập mi chdo một tchức được phân
công, phân cấp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu..
Những tồn tại, hạn chế của pháp luật về chủ sở hữu DNNN
Thứ nhất, các quy định pháp luật vchủ sở hữu DNNN hiện nay vẫn chưa phân
định được chức năng chủ sở hữu vi các chức năng khác, đặc biệt chức năng quản
l hành chính của Nhà nưc trong mối quan hvi DNNN. Điều này dẫn đến việc
khó xác định được chính xác phương hưng và mục tiêu của quản trị DNNN, từ đó
gây khó khăn trong việc xác lập cơ cấu quản trị DNNN hiệu quả. Bên cạnh đó, các
quy định về các quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nưc tại DNNN thông qua hệ
thống người đại diện ng nhiều điểm chưa ràng, chưa dứt khoát trong việc
“trao quyềnmà vẫn còn can thiệp thông qua cơ chế đại diện chủ sở hữu. Ví dụ như
lOMoARcPSD| 59908026
một sthiết chế trong quản trị DNNN trong Luật Doanh nghiệp 2020 quy định việc
bổ nhiệm một số chức danh quản l phải thông qua đại diện chủ sở hữu chứ HĐTV
không được tự quyết...
Thứ hai, Mặc Luật phá sản 2014 không loại trừ đối tượng điều chỉnh DNNN,
điều đó nghĩa nếu thực sự cạnh tranh bình đẳng thì các chủ ncũng được
quyền yêu cu mở thủ tục phá sản đối vi DNNN như vi các doanh nghiệp khác.
Nhưng mâu thuẫn ở đây là các văn bản pháp luật khác liên quan đến hoạt động của
DNNN hiện nay chưa văn bản nào quy định vquyền yêu cu mở thủ tục phá sản
cho các chủ nợ. Theo Luật Quản l, sử dụng vốn nhà nưc đu tư váo sản xuất kinh
doanh tại doanh nghiệp thì vấn đề này mi chỉ dừng lại quy định “cho” phá sản
đối tượng thẩm quyền quyết định quan đại diện chủ sở hữu DNNN. Cũng
theo Luật này, phá sản được xem như một hình thức sắp xếp lại DNNN. Điều đó có
nghĩa rằng, bên cạnh các chủ nợ, theo Luật Phá sản, có thể quyền yêu cu mthủ
tục yêu cu tuyên bố psản doanh nghiệp nhà nưc nhưng quyền đó bị ngăn cản
bởi quyết định “chocủa đại diện chủ shữu DNNN. Hiểu theo nghĩa đó, vấn đề
yêu cu mở thủ tục phán sản DNNN không hẳn quyền của các chủ nợ còn
quyền “cho” phá sản của cơ quan đại diện chủ sở hữu DNNN.
Thứ ba, pháp luật gắn DNNN vào mô hình công ty TNHH một thành viên,
hình mà bất cứ nhà đu là tổ chức nào cũng có thể lựa chn. Điều này nghĩa
địa vị pháp l của DNNN ngang bằng, bình đẳng vi các doanh nghiệp khác, pháp
luật không cn tạo ra chế qđặc thù cho DNNN. Do đó, vnguyên tắc không
nên các văn bản pháp luật biệt quá, nội bộ quá cho chỉ áp dụng vi các
DNNN độc quyền trong khai thác tài nguyên quốc gia đkinh doanh. Bởi các văn
bản dưi dạng cá biệt đ vô tình “tố cáosự can thiệp của các cơ quan quản l hành
chính Nhà nưc bằng các văn bản hành chính để truyền tải quyết định của chủ sở
hữu. Đồng thời đó còn thể hiện sự bất bình đẳng đối vi các doanh nghiệp khác và
sự ưu tiên của Nhà nưc đối vi khu vực DNNN. Việc lạm dụng vị trí độc quyền sẽ
được kiểm soát theo pháp luật cạnh tranh.
Thứ tư, pháp luật chưa tách bạch được trách nhiệm sản xuất, cung ứng dịch vụ công
ích các trách nhiệm khác của DNNN. Về trách nhiệm đối vi nền kinh tế, DNNN
lOMoARcPSD| 59908026
chỉ hoạt động kinh doanh tại các ngành, lĩnh vực, mà thị trường cn sự điều tiết và sự
can thiệp của DNNN trong các trường hợp này cũng cn tuân thủ các nguyên tắc của
thị trường để tránh những tác động sai lệch đến quy luật vận động khách quan của thị
trường. Còn sản xuất, cung ứng dịch vụ công ích và các nhiệm vụ chính trị - x hội
nhiệm vụ phải thực hiện của DNNN. Tuy nhiên, những trách nhiệm này hiện chưa
được phân tách ng cụ thể bằng các quy định của pháp luật. Do đó, các hoạt
động sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích nhiệm vụ chính trị - x hội vẫn
đang đan xen vi hoạt động kinh doanh thun ty trong các DNNN. Điều này gây ra
những khó khăn không nh trong việc xác định mục tiêu quản trị của DNNN.
Thứ năm, mặc tinh thn chung của pháp luật doanh nghiệp Việt Nam bình
đẳng về mi mặt giữa DNNN vi các doanh nghiệp ngoài Nhà nưc. Tuy nhiên, còn
không ít những quy định không rõ ràng hoặc quy định một cách chung chung, nặng
về tính nguyên tắc. Điển hình các quy định về tổ chức quản lDNNN, về trách
nhiệm của chủ sở hữu, các nhà quản l, về độc quyền, về các lĩnh vực hoạt động của
DNNN, về vốn đu của Nhà nưc... nơi tồn tại nhiều quy định không ràng
dẫn đến nội dung, mục đích của Luật bị hiểu sai hoặc cố tình tìm cách hiểu sai, từ
đó tạo ra sự thiếu thống nhất trong ứng xử và một trong những nguyên nhân gây
ra dẫn đến sự bất bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp.
Thứ sáu, cơ chế pháp l chưa đảm bảo bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực tài
chính. Quản trị DNNN theo thông lquốc tế yêu cu không được sử dụng các mối
quan hệ của DNNN vi các ngân hàng thương mại Nhà nưc để tiếp cận các nguồn
lực tài chính mà phải áp dụng chế cạnh tranh quan hệ thương mại thun ty.
Tuy nhiên bằng các văn bản pháp luật mang tính nội bộ đặc thù quy định về tổ
chức quản l các vấn đtài chính của các DNNN hoạt động trong các lĩnh vực
tài nguyên, khoáng sản hay những ngành đang chiếm vị thế độc quyền nđ nêu
trên chứng t DNNN vẫn được ưu tiên tiếp cận các nguồn lực. Trong đó, đáng kể
nhất là nguồn lực tài chính được ưu ái ngay từ trên văn bản pháp luật.
Trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước với các bên có liên quan
Các bên liên quan của DNNN là những tổ chức, cá nhân có quyền hoặc nghĩa vụ
liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp vi DNNN. Trong quản trị DNNN, các đối tượng
lOMoARcPSD| 59908026
liên quan được coi là quan trng nhất bao gồm: khách hàng, chủ nợ và người dân chủ
sở hữu thực sự và cuối cùng của DNNN.
Tuy nhiên, là một công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, DNNN đy của
các trách nhiệm và nghĩa vụ pháp l vi khách hàng, đối tác, vi chủ sở hữu ( Nhà
nưc), vi người lao động cũng như trách nhiệm x hội (CSR) như mi công ty
TNHH MTV khác, ngoài những quy định đặc thù quy định tại LDN 2020.
Điều 8, khoản 5, Luật DN 2020 quy định nghĩa vụ của DN trong các mối quan hệ
là: “Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động theo quy định
của pháp luật; không phân biệt đối xử, xc phạm danh dự, nhân phẩm của người lao
động trong doanh nghiệp; không ngược đi lao động, cưỡng bức lao động hoặc sử
dụng lao động chưa thành niên trái pháp luật; hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi cho
người lao động tham gia đào tạo nâng cao trình độ, kỹ năng nghề; thực hiện các
chính sách, chế độ bảo hiểm x hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế bảo hiểm
khác cho người lao động theo quy định của pháp luật.”. Ngoài ra, DNNN n
trách nhiệm của DNNN vi các bên liên quan khác, được quy định rải rác nhiều
văn bản pháp pháp luật khác nhau như: Bộ luật sự, Luật thương mại khi DNNN tham
gia quan hệ Hợp đồng; Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 khi DNNN tham
gia quan hệ tiêu dùng..... Đặc biệt, về mối quan hệ giữa DNNN vi chủ sở hữu
DNNN được phân tích tại nhiều mục khác nhau trong Luận án này.
Trách nhiệm đối vi các bên liên quan nội dung mà trưc đây rất ít các
DNNN quan tâm, đặc biệt các DNNN hoạt động trong các ngành, lĩnh vực độc
quyền. Tuy nhiên, thời gian gn đây, xác định tm quan trng của cạnh tranh trong
một sân chơi bình đẳng nên các DNNN đ bắt đu quan tâm đến mối quan hệ vi
các bên có liên quan. Đặc biệt là các DNNN hoạt động vì mc tiêu lợi nhuận đ k
quan tâm đến  kiến và lợi ích của khách hàng.
Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa hưng dẫn nào về quy tắc nội bộ áp dụng cho các
DNNN đáp ứng được yêu cu chuẩn mực quốc gia phù hợp quốc tế. Hơn nữa,
mặc hu hết các DNNN đều xây dựng được quy định quản l nội bộ, song việc
công bố, thực thi tuyên truyền rộng ri còn gặp những khó khăn nhất định. Bên
cạnh đó, quy định thành viên HĐTV quyền xem xét hồ sơ yêu cu cung cấp
lOMoARcPSD| 59908026
thông tin của doanh nghiệp bất cứ lc nào trên thực tế chưa thực hiện được triệt để.
Điều này dẫn đến việc tiếp cận thông tin của HĐTV n chưa đủ để tuyên truyền
rộng ri các quy định quản l nội bộ.
Ngoài ra, để đảm bảo lợi ích của DNNN trong giao dịch vi các bên và người liên
quan, bên cạnh việc quy định về điều kiện “khắt khe hơnđối vi người quản l
DNNN, và để dự liệu cho kiểm soát giao dịch tư lợi trong DNNN vi cách là một
CTTNHH MTV, Luật Doanh nghiệp 2020 còn quy định chung về:
- Xác định rõ “Người có liên quan” là tổ chức, nhân có quan hệ trực
tiếp hoặc gián tiếp vi doanh nghiệp trong các trường hợp sau đây: (1) Công ty mẹ,
người quản l và người đại diện theo pháp luật của công ty mẹ người thẩm
quyền bổ nhiệm người quản l của công ty mẹ; (2) ng ty con, người quản l
người đại diện theo pháp luật của công ty con; (3) nhân, tổ chức hoặc nhóm
nhân, tổ chức khả năng chi phối hoạt động của doanh nghiệp đó thông qua s
hữu, thâu tóm cổ phn, phn vốn góp hoặc thông qua việc ra quyết định của công
ty; (4) Người quản l doanh nghiệp, người đại diện theo pháp luật, Kiểm soát viên;
(5) Vợ, chồng, bố đẻ, mẹ đẻ, bố nuôi, mẹ nuôi, bố chồng, mẹ chồng, bố vợ, mẹ vợ,
con đẻ, con nuôi, con rể, con dâu, anh ruột, chị ruột, em ruột, anh rể, em rể, chị dâu,
em dâu của người quản l công ty, người đại diện theo pháp luật, Kiểm soát viên,
thành viên cổ đông sở hữu phn vốn góp hay cổ phn chi phối; (6) nhân
người đại diện theo ủy quyền của công ty, tổ chức quy định tại các điểm a, b c
khoản 23 Điều 4 LDN 2020; (7) Doanh nghiệp trong đó nhân, công ty, tổ chức
quy định tại các điểm a, b, c, d, đ e khoản 23 Điều 4 LDN 2020 sở hữu đến
mức chi phối việc ra quyết định của công ty.
- Quy định về kiểm soát giao dịch lợi: Điều 86 LDN 2020 quy định
về Hợp đồng, giao dịch của công ty vi những người có liên quan. Theo đó, trường
hợp
Điều lệ công ty không quy định khác, hợp đồng, giao dịch giữa công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên do tổ chức làm chủ sở hữu vi một số diện người phải được
Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm
soát viên xem xét quyết định.
lOMoARcPSD| 59908026
Người k kết hợp đồng phải thông báo cho Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch
công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên về các đối tượng có liên
quan đối vi hợp đồng, giao dịch đó; đồng thời kèm theo dự thảo hợp đồng hoặc nội
dung chủ yếu của giao dịch đó.
Trường hợp Điều lệ công ty không quy định khác, Hội đồng thành viên, Chủ
tịch công ty và Kiểm soát viên phải quyết định việc chấp thuận hợp đồng hoặc giao
dịch trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo theo nguyên tắc đa số,
mỗi người có một phiếu biểu quyết; người có lợi ích liên quan không có quyền biểu
quyết. Hợp đồng, giao dịch quy định tại Điều này chỉ được chấp thuận khi có đủ các
điều kiện theo quy định của pháp luật.
Theo quy định, hợp đồng, giao dịch được k kết không đng quy định sẽ bị
hiệu và xử l theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp có thiệt hại, người k
hợp đồng người có liên quan các bên của hợp đồng liên đi chịu trách nhiệm
về thiệt hại phát sinh hoàn trả cho công ty các khoản lợi thu được từ việc thực
hiện hợp đồng, giao dịch đó »
thể nói, kế thừa những chính sách pháp luật trong các lĩnh vực hợp đồng, lao
động, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, phá sản, bảo vệ môi trường….Luật Doanh
nghiệp 2020 đ những bưc tiến bộ đáng kể trong việc ghi nhận sâu cụ thể hoá
về trách nhiệm của DNNN trong mối quan hệ vi các bên liên quan đặc biệt
là những vấn đề liên quan đến quản trị có hiệu quả các DNNN.
2.2 . Thực trạng thi hành các quy định pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà
nước
Về hình và thiết chế quản trị doanh nghiệp nhà nước
Vấn đề đầu tiên được nhiều nhà nghiên cứu pháp l và quản trị nói đến lâu nay là
việc tách bạch chức năng chủ sở hữu chức năng quản l doanh nghiệp của Nhà
nưc trong các DNNN. Một trong sáu tiêu chuẩn OECD đưa ra đối vi nguyên tắc
“Nhà nưc đóng vai trò là chủ sở hữu có hiểu biết và tích cực, yêu cu tính chuyên
nghiệp và hiệu quả trong quá trình xây dựng chính sách sở hữu” cũng chính xác
định ràng việc thực thi các quyền sở hữu trong DNNN và “có thể thực hiện vấn
lOMoARcPSD| 59908026
đề này bằng việc thiết lập một cơ quan điều phối hoặc một cơ quan chuyên trách tập
trung vào chức năng sở hữu nhà nưc”.
Vấn đề thứ hai liên quan đến các lỗ hổng về quản trị nêu trên còn là vấn đề chồng
chéo giữa các nội dung quản l, giám sát của nhiều quan quản l khác nhau, ngoài
Bộ chủ quản, theo Luật Quản l, sử dụng vốn nhà nưc đu vào sản xuất kinh
doanh tại doanh nghiệp còn Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch Đu tư, Bộ Nội vụ,
Bộ Lao động, Thương binh X hội cũng tham gia giám sát các DNNN những
nội dung khác nhau. Điều này dẫn đến những khó khăn trong việc xác định lỗi quản
l thuộc về quan nào khi xảy ra sai phm trong DNNN. vậy, khi hậu quả
xảy ra, chthấy những nhân trực tiếp tham gia quản l DNNN bị xl vi phạm
không nhân của các quan tham gia quản l, giám sát DNNN bị xử l.
Như thế, do thiếu minh bạch nên, quản trị DNNN bị can thiệp bởi những quyền lực
nằm ngoài “quyền quản trịDNNN. Do không được công bố công khai nhưng
ràng trong các vụ Đại án gn đây đcho thấy, có một hoặc nhiều quyền lực bên
ngoài vẫn can thiệp, chỉ đạo trái phép trái thông lệ vào hoạt động quản trị của
nhiều doanh nghiệp vốn nhà nưc làm phương hại tính minh bạch hiệu quả
kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn nhà nưc
Vấn đề thứ ba thể hiện yếu kém trong mô hình quản trị DNNN còn là ở chỗ chưa
xác định ràng vai tcủa Nhà nưc trong quản trị DNNN cũng như việc phân
định mục tiêu lợi nhuận hay mục tiêu công ích của DNNN. Mục tiêu chính trị, x
hội và mục tiêu kinh doanh còn lẫn lộn chưa xác định được thứ tự ưu tiên trong
các DNNN, mặc chức năng chủ yếu của DNNN phủ trống nhu cu x hội
trong những lĩnh vực nhân không muốn tham gia hoặc làm không tốt. Nhưng thực
tế có vẻ vẫn diễn ra theo chiều hưng ngược lại, không những DNNN tham gia xuất
hiện trong nhiều ngành, nghề, lĩnh vực cạnh tranh vi các doanh nghiệp ngoài N
nưc thậm chí còn được nhận được những ưu tiên, bảo trợ của Nhà nưc vi vai
trò chủ sở hữu. Chính sự không rạch ròi giữa các nhiệm vụ của DNNN dẫn đến
những khó khăn cho chủ sở hữu trong việc định hưng cách thức quản trị phù hợp
và vai trò của Nhà nưc trong QTDN của mình.
lOMoARcPSD| 59908026
Vấn đề thứ tư là, mặc dù hiện nay pháp luật đ quy định, cơ quan đại diện chủ sở
hữu, quan quản l nhà nưc không can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp, hoạt động quản l, điều hành của người quản l doanh
nghiệp cũng như tôn trng sự độc lập của HĐTV, nhưng trên thực tế Nhà nưc vẫn
chưa thể tách hẳn khi công việc quản l hàng ngày của DNNN cũng như cho phép
DNNN tự chủ hoạt động đy đủ để đạt được các mục tiêu đ được xác định của h.
Vẫn còn không ít trường hợp thay vạch ra mục tiêu, định hưng thực hiện giám
sát thì Nhà nưc lại trực tiếp xử l.
Vấn đề thứ năm, việc thực thi các quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nưc tại
DNNN còn nhiều bất cập. Hiện nay, phân cấp thực hiện quyền chủ sở hữu trong các
bộ chủ quản khá chồng chéo. Bộ trưởng và Thứ trưởng bộ chủ quản thường thẩm
quyền chủ sở hữu vi các DNNN theo lĩnh vực phụ trách, do đó các vụ tham mưu
cho những người thẩm quyền cũng theo lĩnh vực người đó phụ trách; Bên cạnh
đó, pháp luật hiện tại chưa quy định việc lấy  kiến, biểu quyết của tập thể lnh đạo
đối vi những quyết định quan trng liên quan đến thực hiện quyền chủ shữu trong
DNNN. Những vấn đề này dẫn đến một thực tế tùy tiện, phân tán, chồng chéo giữa
các quyết định được bộ chủ quản đưa ra, giữa các quan chủ quản vi quan
quản l nhà nưc.
Vấn đề thứ sáu, vấn đề quản l, giám sát, đánh giá DNNN thực hiện chức năng
chủ sở hữu nnưc còn bất cập; hthống thông tin không đy đủ, chưa đáp ứng
yêu cu quản l, giám sát của cơ quan chức năng.
Trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước đối với các bên có liên quan
Hiện nay, một số DNNN vốn chủ shữu ln cũng bắt đu để đến công
tác công khai thông tin qua các kênh khác nhau để người dân thể tiếp cận được,
6/6 tập đoàn kinh tế thuộc diện phải thực hiện công bố thông tin có chuyên mục
riêng về công bố thông tin. Đặc biệt đối vi các DNNN hoạt động trong các lĩnh vực
độc quyền, trong 2/6 tập đoàn kinh tế nhà nưc thực hiện nghiêm tc, đy đủ việc
công bố thông tin theo quy định thì 2 tập đoàn kinh tế đó đều hoạt động trong lĩnh
vực độc quyền VNPT PVN. Điều này chứng t DNNN đdấu hiệu tương
thích vi khuyến nghị “càng độc quyền lại càng cn công khai, minh bạch các vấn
lOMoARcPSD| 59908026
đề liên quan đến mối quan hệ vi các bên thứ ba để tránh slạm dụng tính độc quyền
gây thiệt hại đến lợi ích của các bên liên quan”.
Tuy nhiên, vẫn còn đó khá nhiều tiêu chuẩn liên quan đến mối quan hệ vi các
bên thứ ba chưa đạt ti, cũng như không ít những tồn tại, hạn chế cn kịp thời điều
chỉnh.
Thứ nhất, chưa tôn trng quyền của các bên có quyền lợi liên quan. Tại sao quản
trị DNNN mi chưa thể đột phá”, đóng góp một phn l do chính việc ít quan
tâm, thậm chí cả sự thờ ơ trong việc “công nhận và tôn trng quyền của các bên
có quyền lợi liên quan” của DNNN, của cơ quan đại diện chủ sở hữu, cơ quan điều
phối thậm chí của Nhà nưc. Cả khía cạnh pháp l thực tiễn tổ chức, quyền
lợi của các bên liên quan như chủ nkhách hàng chưa thực sự được tôn trng.
Thậm chí, chính sách sở hữu nhà nưc hiện nay vẫn chưa quy định cho phép chủ n
của DNNN có được quyền rất cơ bản của mình là quyền nộp đơn yêu cu tuyên bố
phá sản DNNN như các loại hình doanh nghiệp khác.
Thứ hai, chưa thực hiện báo cáo ràng, cụ thể mối quan hệ vi các bên liên quan.
Pháp luật hiện nay đ yêu cu DNNN cũng như các quan chủ sở hữu thực hiện
công bố thông tin trên trang thông tin điện tử, thể coi đây một kênh tiếp cận
thông tin nhanh dễ dàng cho mi đối tượng trong đó các bên liên quan nếu
thông tin được các DNNN đảm bảo kịp thời chính xác. Tuy nhiên, trên thực tế
chưa thể tha mn nhu cu thông tin đy đủ, ràng, cụ thể các bên quyền lợi
liên quan cn được biết.
Thứ ba, rất ít HĐTV của các DNNN, HĐQT của các công ty con thực hiện việc
triển khai xây dựng, công bố, thực thi tuyên truyền rộng ri chương trình tuân thủ
các quy tắc đạo đức kinh doanh nội bộ dựa trên chuẩn mực quốc gia, phù hợp vi
các cam kết quốc tế áp dụng cho DNNN lẫn các công ty con chi nhánh của
doanh nghiệp mình.
Chương 3: QUAN ĐIỂM GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1 . Quan điểm hoàn thiện pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà nước
lOMoARcPSD| 59908026
Trưc tình trạng thua lỗ, thất thoát tài sản từ DNNN đ vẫn đang tiếp tục
diễn ra mà đa số hệ quả này đều liên quan đến những vi phạm trong hoạt động quản
trị doanh nghiệp. Thực trạng quản trị DNNN thời gian qua cho thấy, n không ít
những bất cập, hạn chế trong quá trình thi hành pháp luật quản trị DNNN trên thực
tiễn. Nguyên nhân rất ln dẫn đến thực tế nêu trên xuất phát từ những thiếu sót của
các quy định pháp luật trong điều chỉnh hoạt động quản trị DNNN. Ở góc độ vĩ
hơn, có thể nói những khiếm khuyết đó một trong những rào cản ln làm hạn chế
mục tiêu xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng cho “cộng đồng
doanh nghiệp, hạn chế thc đẩy phát triển kinh tế nói chung. Do đó, hoàn thiện pháp
luật về quản trị DNNN ở Việt Nam là nhu cu mang tính thời sự nhằm đảm bảo
sở pháp l vững chắc cho việc tiếp cận và áp dụng các nguyên tắc quản trị hiện đại
trong DNNN. Đồng thời, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quản trị DNNN
cn đặt trong phương hưng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, trên sở xác
định đng đắn mối quan hệ giữa Nhà nưc vi thị trường phù hợp vi quá trình
hội nhập.
Trên tinh thn đó, xin nêu một số quan điểm chủ đạo cho quá trình hoàn thiện
pháp luật về quản trị DNNN như sau:
- Hoàn thiện pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà nưc cn phù hợp
vi xu thế phát triển và định hưng, lộ trình cải cách kinh tế thị trường của Đảng
Nhà nưc.
- Hoàn thiện pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà nưc phải tiếp cận
vi các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế.
-Hoàn thiện pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà nưc cn gắn liền vi quá
trình hoàn thiện, sửa đổi pháp luật về doanh nghiệp, hoàn thiện các thể chế kinh tế
thị trường.
3.2 . Các giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà nước
a) Đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ và minh bạch của pháp luật về quản trị
doanh nghiệp nhà nưc
Thống nhất, đồng bộ và minh bạch của pháp luật quản trị DNNN đồng nghĩa vi
việc đảm bảo nền tảng pháp l vững chắc để DNNN hoạt động trong môi trường
kinh doanh cạnh tranh bình đẳng như các doanh nghiệp thuộc các thành phn kinh
tế khác và tạo cơ sở cải thiện thực tế QTDN trong DNNN.
lOMoARcPSD| 59908026
b) Hoàn thiện pháp luật để đảm bảo Nhà nưc là mt chủ sở hữu đích thực
và trách nhiệm
Cn thiết lập các hệ thống báo cáo đồng bộ cho phép giám sát và đánh giá thường
xuyên hiệu quả của DNNN và đảm bảo thông tin kịp thời đến quan điều phối, cụ
thể hiện nay là Ủy ban Quản l vốn nhà nưc. Ngược lại, Ủy ban này phải đảm bảo
tất cả các DNNN đều hệ thống báo cáo đy đủ cho bên ngoài. Bên cạnh đó, xây
dựng quy trình đề cử HĐTV cụ thể minh bạch nội dung cn thiết. Thậm chí Ủy
ban Quản l vốn nhà nưc nên sự phối hợp vi Bộ Nội vụ để xây dựng ban
hành những tiêu chí cụ thể hóa quy định thay thế thành viên HĐTV nếu kết quả kinh
doanh của DNNN thua lỗ 2 năm liên tiếp đưa doanh nghiệp rơi vào diện giám sát
đặc biệt. Tuy nhiên, chặt chẽ trong công tác nhân sự chỉ thực sự có hiệu quả khi
tồn tại song song vi việc đảm bảo chính sách thù lao cho thành viên HĐTV của
DNNN.
c) Hoàn thiện các quy định pháp luật về trách nhiệm của DNNN trong mối
quan hệ vi các bên liên quan
Việt Nam, n khá nhiều tiêu chuẩn liên quan đến mối quan hệ vi các bên
thứ ba chưa đạt ti (đặc biệt các bên khách hàng, chủ nợ, đồng sở hữu trong các
công ty con của DNNN) ng như không ít những tồn tại, hạn chế trong các quy
định cn kịp thời điều chỉnh.
KẾT LUẬN
Thông qua việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà nưc ở
Việt Namcó thể rt ra những kết luận sau đây:
Thứ nhất, việc xây dựng l luận về quản trị DNNN và pháp luật quản trị DNNN
có  nghĩa quan trng trong việc đánh giá và đề xuất các giải pháp góp phn hoàn thiện
thực trạng pháp luật quản trị DNNN hiện nay Việt Nam. Dựa trên đặc trưng pháp l
của DNNN cũng như bản chất sở hữu của loại hình doanh nghiệp này, từ đó xác định
yêu cu DNNN phải những nguyên tắc quản trị riêng phù hợp vi tính chất đặc
thù của DNNN.
Thứ hai, tiểu luận chỉ điểm khác biệt giữa nội dung của pháp luật quản trị
DNNN so vi pháp luật QTDN nói chung xây dựng được các nội dung của pháp luật
về quản trị DNNN. Theo đó các nội dung của pháp luật vquản trị DNNN bào gồm các
quy định về: hình quản l DNNN các thiết chế quản l của DNNN, hoạt động
của Nhà nưc vi tư cách một chủ sở hữu, quan hệ của DNNN đối vi các bên có liên
quan, công khai và minh bạch hóa thông tin và trách nhiệm của HĐTV trong quản trị
DNNN.
Thứ ba, tiểu luận đánh giá thực trạng kết quả hoạt động của DNNN thời gian qua
cho thấy về bản, hiệu quả hoạt động của DNNN còn thấp, nhiều hậu quả nặng nề
lOMoARcPSD| 59908026
đều có nguyên nhân từ việc những bất cập, yếu kém trong quản trị DNNN. Qua đó đặt
ra yêu cu cải thiện năng lực quản trị doanh nghiệp của hệ thống DNNN. còn nhiều hạn
chế.
Thứ tư, trưc thực trạng pháp luật nêu trên, việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về
quản trị DNNN là nhu cu tất yếu và cấp thiết. Mục tiêu của việc hoàn thiện pháp luật
về quản trị DNNN là nhằm xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, đáp ứng yêu cu của
thực tiễn, phù hợp vi những đặc thù của hình DNNN, tương thích vi thông lệ
quản trị quốc tế hiện đại nhằm phát huy vai trò nòng cốt của DNNN trong kinh tế nhà
nưc. Để đạt được mục tiêu này tiểu luận đ đề xuất những quan điểm, giải pháp nhằm
góp phn hoàn thiện các quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả thưc thi pháp luật về
quản trị DNNN ở Việt Nam hiện nay.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 59908026
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT DNNN Doanh nghiệp nhà nước CTCP Công ty cổ phần TNHH Trách nhiệm hữu hạn QTDN Quản trị doanh nghiệp HĐTV Hội đồng thành viên HĐQT Hội đồng quản trị GĐ/TGĐ
Giám đốc/Tổng giám đốc GDP
Tổng sản phẩm quốc nội SCIC
Tổng công ty đầu tư kinh doanh vốn nhà nước
TNHH MTV Trách hiệm hữu hạn một thành viên LDN Luật doanh nghiệp MỤC LỤC MỞ
ĐẦU.......................................................................................................................3 NỘI
DUNG...................................................................................................................4
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP NHÀ
NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC..............4
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ QUẢN
TRỊ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..............................7
2.1. Thực trạng pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà nước...................................7
2.2. Thực trạng thi hành các quy định pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà nước
..................................................................................................................................13
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY.............................................................................................17
3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà nước...............17
3.2. Các giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà nước18 KẾT
LUẬN.................................................................................................................19 lOMoAR cPSD| 59908026 MỞ ĐẦU
Ở Việt Nam hiện nay, quản trị doanh nghiệp là vấn đề thu hút được
nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu và đang là câu chuyện mang tính thời sự
của các chủ đầu tư cũng như những người quản lý doanh nghiệp. Song trên thực tế,
các nghiên cứu về quản trị doanh nghiệp thường tập trung chủ yếu vào loại hình
công ty cổ phần (CTCP), đặc biệt là CTCP niêm yết, đại chúng. Tuy nhiên, giá trị
của các nghiên cứu đó chỉ mang đầy đủ ý nghĩa đối với quản trị doanh nghiệp nhà
nước khi doanh nghiệp nhà nước (DNNN) vẫn còn hoạt động dưới cả hình thức
CTCP., xét về mặt hình thức, các quy định về quản trị CTCP gần như không còn ảnh
hưởng nhiều tới DNNN nữa, trong khi quản trị trong công ty TNHH MTV 100%
vốn nhà nước lại chưa được chú trọng theo những đặc thù của DNNN.
Bên cạnh đó, việc tập trung sự nghiên cứu về quản trị DNNN cần được
xem là có tính cấp thiết. Đó cũng là lý do mà tôi lựa chọn đề tài tiểu luận: “Pháp
luật về quản trị doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay”. Kết quả tiểu luận
sẽ góp phần hoàn thiện khung pháp lý của Nhà nước đối với quản trị DNNN; Góp
phần xây dựng mô hình quản trị DNNN hiệu quả, phù hợp với môi trường cạnh tranh
và hội nhập kinh tế hiện nay. NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
Có thể xây dựng một khái niệm cơ bản, hài hòa được sự khác nhau trong các
quan niệm về QTDN như sau: QTDN là hệ thống các chế định nhằm định hướng,
điều hành và kiểm soát doanh nghiệp, đáp ứng quyền lợi của nhà đầu tư và các bên liên quan.
Sự khác biệt cơ bản giữa DNNN với các loại hình doanh nghiệp còn lại dẫn đến
quản trị DNNN và quản trị doanh nghiệp nói chung cũng có những điểm khác nhau
nhất định. Điều này không có nghĩa những nguyên tắc chung trong QTDN không áp
dụng được với DNNN, tuy nhiên ngoài các nguyên tắc chung đó còn phải có những
nguyên tắc quản trị riêng phù hợp với tính chất đặc thù của DNNN. lOMoAR cPSD| 59908026
Sự tồn tại của DNNN trong các nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới từ các
quốc gia kém phát triển, đang phát triển hay phát triển đã chứng tỏ quan điểm để thị
trường tự điều tiết, tự điều chỉnh của các qua điểm kinh tế tự do trước đây không phù
hợp. Pháp luật về quản trị DNNN là tổng thể các nguyên tắc, các quy định pháp luật và
quy chế của DNNN về cấu trúc quản lý nội bộ của DNNN và các biện pháp nhằm kiểm
soát doanh nghiệp bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu, của các chủ thể có liên quan và của toàn xã hội
.
Theo đó, nội dung của pháp luật quản trị DNNN có những điểm khác biệt nhất
định so với pháp luật QTDN nói chung quy định bởi sự khác biệt về tính chất, mục tiêu
hoạt động cũng như bản chất sở hữu của loại hình doanh nghiệp này. Những khác biệt đó bao gồm:
Thứ nhất, mặc dù không phải là toàn bộ nhưng quản trị DNNN hiện nay chủ yếu
là đơn sở hữu với chủ sở hữu duy nhất là Nhà nước (trong đó có Việt Nam) hoặc nếu
có các chủ sở hữu khác ngoài Nhà nước thì trong DNNN bao giờ vai trò của Nhà nước
cũng mang tính quyết định, chi phối. Nhà nước lại là đại diện do nhân dân ủy quyền do
đó pháp luật quản trị DNNN luôn phải đảm bảo lợi ích của chủ sở hữu cuối cùng là
những người dân. Nhà nước cũng như nhân dân đều không thể trực tiếp thực hiện quyền
chủ sở hữu của mình mà phải thông qua cơ chế đại điện. Điều đó dẫn đến những mâu
thuẫn về mặt lợi ích giữa những chủ thể chỉ tồn tại trong DNNN. Vì vậy, pháp luật quản
trị DNNN cần tập trung vào nội dung giám sát, đánh giá hiệu quả đối với hoạt động
quản trị và tính công khai, minh bạch thông tin của các DNNN.
Thứ hai, Nhà nước vỗn dĩ đã mang chức năng quản lý nhà nước và có vai trò tạo
lập khung khổ pháp lý, do đó khi đồng thời là chủ sở hữu doanh nghiệp thì nguy cơ
chồng lấn của chức năng quản lý nhà nước và chức năng chủ sở hữu doanh nghiệp rất
dễ xảy ra. Đồng thời, sự thiếu công bằng hoặc lạm dụng quyền hạn để dành sự ưu tiên
hơn trong các quy định pháp luật cho DNNN so với khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà
nước là nguy cơ có thực. Do đó, pháp luật quản trị DNNN phải đảm bảo Nhà nước
không can thiệp vào hoạt động của DNNN trong vai trò quản lý nhà nước; bộ máy quản
lý có quyền tự chủ và phải tự chịu trách nhiệm trong hoạt động quản lý, điều hành doanh
nghiệp; tách bạch chức năng chủ sở hữu với chức năng quản lý nhà nước. Bên cạnh đó,
DNNN là một pháp nhân, nên Nhà nước, với tính cách là chủ sở hữu, cũng không thể lOMoAR cPSD| 59908026
can thiệp vào mọi hoạt động quản trị doanh nghiệp hàng ngày của DNNN theo nguyên
tắc về tách bạch quyền sở hữu và quyền quản lý.
Thứ ba, các DNNN hoạt động chủ yếu trong các lĩnh vực độc quyền Nhà nước
và sản xuất và cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích nên việc bảo vệ quyền lợi của
các bên liên quan hoàn toàn không dễ, tính công khai minh bạch thông tin cũng hạn
chế. Do đó, môi trường hoạt động của DNNN mang tính thử thách lớn đối với việc quản
trị doanh nghiệp. Vì vậy, pháp luật quản trị DNNN phải hạn chế lạm dụng vị thế độc
quyền, đảm bảo cao nhất tính minh bạch và đặt DNNN vào môi trường kinh doanh bình
đẳng như doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Bên cạnh đó, cần có một hệ
thống pháp luật cạnh tranh/ kiểm soát độc quyền hiệu quả để ngăn ngừa độc quyền hành
chính làm méo mó và tổn hại thị trường cạnh tranh và lợi ích của các đối thủ cạnh tranh,
người tiêu dùng và xã hộ.
Thứ tư, nếu như QTDN ở các doanh nghiệp nói chung thông thường chỉ đặt ra
trách nhiệm giải trình của bộ máy điều hành và HĐQT/HĐTV thì quản trị DNNN gắn
liền với trách nhiệm giải trình của các cơ quan đại diện, tổ chức đại diện, cụ thể là Chính
phủ, các bộ và cơ quan đại diện chủ sở hữu. Điểm khác biệt này ảnh hưởng không ít
đến hiệu quả quản trị của DNNN bởi trách nhiệm giải trình của các cơ quan này thường
không rõ ràng, khó nhận biết và thậm chí nhiều trường hợp chẳng biết quy trách nhiệm
chính xác cho cơ quan nào. Do đó, pháp luật quản trị DNNN phải bảo đảm tính giải
trình cao, rõ ràng của các cơ quan và cá nhân thực hiện chức năng chủ sở hữu trong
doanh nghiệp. Bên cạnh đó, pháp luật quản trị DNNN cần tăng cường nội dung giám
sát đối với bộ máy quản lý, điều hành để hạn chế việc lợi dụng, lạm dụng quyền hạn
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. lOMoAR cPSD| 59908026
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ
QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1 . Thực trạng pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà nước
Mô hình quản trị doanh nghiệp nhà nước
Theo quy định tại điều 79 và điều 90 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định về
cơ cấu tổ chức quản lý của DNNN và công ty TNHH một thành viên có 02 mô hình
hoạt động và cơ quan đại diện chủ sở hữu có thể lựa chọn một trong hai mô hình sau:
Mô hình thứ nhất bao gồm các thiết chế: (i) Chủ tịch công ty; (ii) Giám đốc hoặc
Tổng giám đốc và (iii) Kiểm soát viên.
Mô hình thứ hai bao gồm các thiết chế: (i) Hội đồng thành viên; (ii) Giám đốc hoặc
Tổng giám đốc và (iii) Kiểm soát viên.
Điểm khác biệt duy nhất giữa hai mô hình là về người đại diện chủ sở hữu tại
DNNN. Tùy thuộc vào việc DNNN lựa chọn hoạt động theo mô hình nào dẫn đến
việc quản lý sẽ được thực hiện theo mô hình đó. Nếu DNNN được quản lý theo mô
hình thứ nhất – là mô hình không có HĐTV thì chỉ có duy nhất một người đại diện
chủ sở hữu trực tiếp là Chủ tịch công ty. Nếu lựa chọn mô hình thứ hai – mô hình
có HĐTV thì sẽ có nhiều người (tối đa 07 người) được bổ nhiệm làm người đại diện
chủ sở hữu trực tiếp và tổ chức thành HĐTV của công ty.
Quy định về hoạt động của Nhà nước với tư cách chủ sở hữu doanh nghiệp
Những hệ quả tích cực của các quy định pháp luật
Đến thời điểm hiện tại, kết quả lớn nhất mà khung pháp luật quản trị mang lại là
bước đầu xây dựng được nền tảng pháp lý cho môi trường kinh doanh, cạnh tranh
bình đẳng giữa DNNN với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Liên
quan trực tiếp đến các nội dung quản trị DNNN, khung pháp lý đề cập những vấn đề quan trọng sau đây:
Thứ nhất, về chủ sở hữu nhà nước và quan hệ giữa chủ sở hữu nhà nước với
DNNN; cơ cấu tổ chức bộ máy của DNNN, các cơ quan quản lý, điều hành, kiểm
soát; các quyền và nghĩa vụ của DNNN và của chủ sở hữu, của người quản lý doanh lOMoAR cPSD| 59908026
nghiệp được quy định tại Luật Doanh nghiệp 2020 và các văn bản hướng dẫn đã quy
định về tập đoàn kinh tế nhà nước, tổng công ty nhà nước.
Thứ hai, về mô hình tổ chức quản lý công ty DNNN; quyền và nghĩa vụ của chủ
sở hữu, cơ quan đại diện chủ sở hữu và mối quan hệ với DNNN, với bộ máy quản
lý, điều hành trong doanh nghiệp; chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng cơ
quan trong cơ cấu quản trị DNNN như HĐTV, Chủ tịch công ty, chủ tịch HĐTV,
GĐ/TGĐ, ban kiểm soát, kiểm soát viên; trách nhiệm và nghĩa vụ của các cơ quan,
cá nhân tham gia vào cơ cấu QTDN; các giao dịch nội bộ, công khai và công bố
thông tin… được quy định tại Luật Doanh nghiệp 2020.
Thứ ba, các nội dung cụ thể như quyền sở hữu, công khai minh bạch, giao dịch có
khả năng tư lợi, đảm bảo lợi ích các bên có liên quan... cũng đã được quy định trong các văn bản khác.
Thứ tư, khung pháp lý đã thống nhất mục tiêu điều chỉnh cơ cấu chủ sở hữu theo
mô hình công ty TNHH một thành viên để DNNN không còn là đối tượng được đặc
cách của các quy định pháp luật chung.
Thứ năm, khung pháp lý quy định rõ ràng hơn đối với việc phân công, phân cấp
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu trong mối quan hệ giữa chủ sở hữu,
đại diện chủ sở hữu và DNNN. Theo đó, Mỗi công ty TNHH một thành viên được
chuyển đổi từ công ty nhà nước hoặc thành lập mới chỉ do một tổ chức được phân
công, phân cấp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu..
Những tồn tại, hạn chế của pháp luật về chủ sở hữu DNNN
Thứ nhất, các quy định pháp luật về chủ sở hữu DNNN hiện nay vẫn chưa phân
định được chức năng chủ sở hữu với các chức năng khác, đặc biệt là chức năng quản
lý hành chính của Nhà nước trong mối quan hệ với DNNN. Điều này dẫn đến việc
khó xác định được chính xác phương hướng và mục tiêu của quản trị DNNN, từ đó
gây khó khăn trong việc xác lập cơ cấu quản trị DNNN hiệu quả. Bên cạnh đó, các
quy định về các quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước tại DNNN thông qua hệ
thống người đại diện cũng có nhiều điểm chưa rõ ràng, chưa dứt khoát trong việc
“trao quyền” mà vẫn còn can thiệp thông qua cơ chế đại diện chủ sở hữu. Ví dụ như lOMoAR cPSD| 59908026
một số thiết chế trong quản trị DNNN trong Luật Doanh nghiệp 2020 quy định việc
bổ nhiệm một số chức danh quản lý phải thông qua đại diện chủ sở hữu chứ HĐTV
không được tự quyết...
Thứ hai, Mặc dù Luật phá sản 2014 không loại trừ đối tượng điều chỉnh là DNNN,
điều đó có nghĩa là nếu thực sự có cạnh tranh bình đẳng thì các chủ nợ cũng được
quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với DNNN như với các doanh nghiệp khác.
Nhưng mâu thuẫn ở đây là các văn bản pháp luật khác liên quan đến hoạt động của
DNNN hiện nay chưa có văn bản nào quy định về quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản
cho các chủ nợ. Theo Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư váo sản xuất kinh
doanh tại doanh nghiệp thì vấn đề này mới chỉ dừng lại ở quy định “cho” phá sản và
đối tượng có thẩm quyền quyết định là cơ quan đại diện chủ sở hữu DNNN. Cũng
theo Luật này, phá sản được xem như một hình thức sắp xếp lại DNNN. Điều đó có
nghĩa rằng, bên cạnh các chủ nợ, theo Luật Phá sản, có thể có quyền yêu cầu mở thủ
tục yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp nhà nước nhưng quyền đó bị ngăn cản
bởi quyết định “cho” của đại diện chủ sở hữu DNNN. Hiểu theo nghĩa đó, vấn đề
yêu cầu mở thủ tục phán sản DNNN không hẳn là quyền của các chủ nợ mà còn là
quyền “cho” phá sản của cơ quan đại diện chủ sở hữu DNNN.
Thứ ba, pháp luật gắn DNNN vào mô hình công ty TNHH một thành viên,
hình mà bất cứ nhà đầu tư là tổ chức nào cũng có thể lựa chọn. Điều này có nghĩa là
địa vị pháp lý của DNNN ngang bằng, bình đẳng với các doanh nghiệp khác, pháp
luật không cần tạo ra cơ chế quá đặc thù cho DNNN. Do đó, về nguyên tắc không
nên có các văn bản pháp luật cá biệt quá, nội bộ quá cho dù chỉ áp dụng với các
DNNN độc quyền trong khai thác tài nguyên quốc gia để kinh doanh. Bởi các văn
bản dưới dạng cá biệt đã vô tình “tố cáo” sự can thiệp của các cơ quan quản lý hành
chính Nhà nước bằng các văn bản hành chính để truyền tải quyết định của chủ sở
hữu. Đồng thời đó còn thể hiện sự bất bình đẳng đối với các doanh nghiệp khác và
sự ưu tiên của Nhà nước đối với khu vực DNNN. Việc lạm dụng vị trí độc quyền sẽ
được kiểm soát theo pháp luật cạnh tranh.
Thứ tư, pháp luật chưa tách bạch được trách nhiệm sản xuất, cung ứng dịch vụ công
ích và các trách nhiệm khác của DNNN. Về trách nhiệm đối với nền kinh tế, DNNN lOMoAR cPSD| 59908026
chỉ hoạt động kinh doanh tại các ngành, lĩnh vực, mà thị trường cần sự điều tiết và sự
can thiệp của DNNN trong các trường hợp này cũng cần tuân thủ các nguyên tắc của
thị trường để tránh những tác động sai lệch đến quy luật vận động khách quan của thị
trường. Còn sản xuất, cung ứng dịch vụ công ích và các nhiệm vụ chính trị - xã hội là
nhiệm vụ phải thực hiện của DNNN. Tuy nhiên, những trách nhiệm này hiện chưa
được phân tách rõ ràng và cụ thể bằng các quy định của pháp luật. Do đó, các hoạt
động sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích và nhiệm vụ chính trị - xã hội vẫn
đang đan xen với hoạt động kinh doanh thuần túy trong các DNNN. Điều này gây ra
những khó khăn không nhỏ trong việc xác định mục tiêu quản trị của DNNN.
Thứ năm, mặc dù tinh thần chung của pháp luật doanh nghiệp Việt Nam là bình
đẳng về mọi mặt giữa DNNN với các doanh nghiệp ngoài Nhà nước. Tuy nhiên, còn
không ít những quy định không rõ ràng hoặc quy định một cách chung chung, nặng
về tính nguyên tắc. Điển hình ở các quy định về tổ chức quản lý DNNN, về trách
nhiệm của chủ sở hữu, các nhà quản lý, về độc quyền, về các lĩnh vực hoạt động của
DNNN, về vốn đầu tư của Nhà nước... là nơi tồn tại nhiều quy định không rõ ràng
dẫn đến nội dung, mục đích của Luật bị hiểu sai hoặc cố tình tìm cách hiểu sai, từ
đó tạo ra sự thiếu thống nhất trong ứng xử và là một trong những nguyên nhân gây
ra dẫn đến sự bất bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp.
Thứ sáu, cơ chế pháp lý chưa đảm bảo bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực tài
chính. Quản trị DNNN theo thông lệ quốc tế yêu cầu không được sử dụng các mối
quan hệ của DNNN với các ngân hàng thương mại Nhà nước để tiếp cận các nguồn
lực tài chính mà phải áp dụng cơ chế cạnh tranh và quan hệ thương mại thuần túy.
Tuy nhiên bằng các văn bản pháp luật mang tính nội bộ và đặc thù quy định về tổ
chức quản lý và các vấn đề tài chính của các DNNN hoạt động trong các lĩnh vực
tài nguyên, khoáng sản hay những ngành đang chiếm vị thế độc quyền như đã nêu ở
trên chứng tỏ DNNN vẫn được ưu tiên tiếp cận các nguồn lực. Trong đó, đáng kể
nhất là nguồn lực tài chính được ưu ái ngay từ trên văn bản pháp luật.
Trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước với các bên có liên quan
Các bên liên quan của DNNN là những tổ chức, cá nhân có quyền hoặc nghĩa vụ
liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp với DNNN. Trong quản trị DNNN, các đối tượng lOMoAR cPSD| 59908026
liên quan được coi là quan trọng nhất bao gồm: khách hàng, chủ nợ và người dân chủ
sở hữu thực sự và cuối cùng của DNNN.
Tuy nhiên, là một công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, DNNN có đầy của
các trách nhiệm và nghĩa vụ pháp lý với khách hàng, đối tác, với chủ sở hữu ( Nhà
nước), với người lao động cũng như trách nhiệm xã hội (CSR) như mọi công ty
TNHH MTV khác, ngoài những quy định đặc thù quy định tại LDN 2020.
Điều 8, khoản 5, Luật DN 2020 quy định nghĩa vụ của DN trong các mối quan hệ
là: “Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động theo quy định
của pháp luật; không phân biệt đối xử, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người lao
động trong doanh nghiệp; không ngược đãi lao động, cưỡng bức lao động hoặc sử
dụng lao động chưa thành niên trái pháp luật; hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho
người lao động tham gia đào tạo nâng cao trình độ, kỹ năng nghề; thực hiện các
chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế và bảo hiểm
khác cho người lao động theo quy định của pháp luật.”. Ngoài ra, DNNN còn có
trách nhiệm của DNNN với các bên có liên quan khác, được quy định rải rác ở nhiều
văn bản pháp pháp luật khác nhau như: Bộ luật sự, Luật thương mại khi DNNN tham
gia quan hệ Hợp đồng; Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 khi DNNN tham
gia quan hệ tiêu dùng..... Đặc biệt, về mối quan hệ giữa DNNN với chủ sở hữu
DNNN được phân tích tại nhiều mục khác nhau trong Luận án này.
Trách nhiệm đối với các bên có liên quan là nội dung mà trước đây rất ít các
DNNN quan tâm, đặc biệt là các DNNN hoạt động trong các ngành, lĩnh vực độc
quyền. Tuy nhiên, thời gian gần đây, xác định tầm quan trọng của cạnh tranh trong
một sân chơi bình đẳng nên các DNNN đã bắt đầu quan tâm đến mối quan hệ với
các bên có liên quan. Đặc biệt là các DNNN hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận đã khá
quan tâm đến ý kiến và lợi ích của khách hàng.
Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có hướng dẫn nào về quy tắc nội bộ áp dụng cho các
DNNN đáp ứng được yêu cầu chuẩn mực quốc gia và phù hợp quốc tế. Hơn nữa,
mặc dù hầu hết các DNNN đều xây dựng được quy định quản lý nội bộ, song việc
công bố, thực thi và tuyên truyền rộng rãi còn gặp những khó khăn nhất định. Bên
cạnh đó, quy định thành viên HĐTV có quyền xem xét hồ sơ và yêu cầu cung cấp lOMoAR cPSD| 59908026
thông tin của doanh nghiệp bất cứ lúc nào trên thực tế chưa thực hiện được triệt để.
Điều này dẫn đến việc tiếp cận thông tin của HĐTV còn chưa đủ để tuyên truyền
rộng rãi các quy định quản lý nội bộ.
Ngoài ra, để đảm bảo lợi ích của DNNN trong giao dịch với các bên và người liên
quan, bên cạnh việc quy định về điều kiện “khắt khe hơn” đối với người quản lý
DNNN, và để dự liệu cho kiểm soát giao dịch tư lợi trong DNNN với tư cách là một
CTTNHH MTV, Luật Doanh nghiệp 2020 còn quy định chung về: -
Xác định rõ “Người có liên quan” là tổ chức, cá nhân có quan hệ trực
tiếp hoặc gián tiếp với doanh nghiệp trong các trường hợp sau đây: (1) Công ty mẹ,
người quản lý và người đại diện theo pháp luật của công ty mẹ và người có thẩm
quyền bổ nhiệm người quản lý của công ty mẹ; (2) Công ty con, người quản lý và
người đại diện theo pháp luật của công ty con; (3) Cá nhân, tổ chức hoặc nhóm cá
nhân, tổ chức có khả năng chi phối hoạt động của doanh nghiệp đó thông qua sở
hữu, thâu tóm cổ phần, phần vốn góp hoặc thông qua việc ra quyết định của công
ty; (4) Người quản lý doanh nghiệp, người đại diện theo pháp luật, Kiểm soát viên;
(5) Vợ, chồng, bố đẻ, mẹ đẻ, bố nuôi, mẹ nuôi, bố chồng, mẹ chồng, bố vợ, mẹ vợ,
con đẻ, con nuôi, con rể, con dâu, anh ruột, chị ruột, em ruột, anh rể, em rể, chị dâu,
em dâu của người quản lý công ty, người đại diện theo pháp luật, Kiểm soát viên,
thành viên và cổ đông sở hữu phần vốn góp hay cổ phần chi phối; (6) Cá nhân là
người đại diện theo ủy quyền của công ty, tổ chức quy định tại các điểm a, b và c
khoản 23 Điều 4 LDN 2020; (7) Doanh nghiệp trong đó cá nhân, công ty, tổ chức
quy định tại các điểm a, b, c, d, đ và e khoản 23 Điều 4 LDN 2020 có sở hữu đến
mức chi phối việc ra quyết định của công ty. -
Quy định về kiểm soát giao dịch tư lợi: Điều 86 LDN 2020 quy định
về Hợp đồng, giao dịch của công ty với những người có liên quan. Theo đó, trường hợp
Điều lệ công ty không có quy định khác, hợp đồng, giao dịch giữa công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên do tổ chức làm chủ sở hữu với một số diện người phải được
Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm
soát viên xem xét quyết định. lOMoAR cPSD| 59908026
Người ký kết hợp đồng phải thông báo cho Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch
công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên về các đối tượng có liên
quan đối với hợp đồng, giao dịch đó; đồng thời kèm theo dự thảo hợp đồng hoặc nội
dung chủ yếu của giao dịch đó.
Trường hợp Điều lệ công ty không có quy định khác, Hội đồng thành viên, Chủ
tịch công ty và Kiểm soát viên phải quyết định việc chấp thuận hợp đồng hoặc giao
dịch trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo theo nguyên tắc đa số,
mỗi người có một phiếu biểu quyết; người có lợi ích liên quan không có quyền biểu
quyết. Hợp đồng, giao dịch quy định tại Điều này chỉ được chấp thuận khi có đủ các
điều kiện theo quy định của pháp luật.
Theo quy định, hợp đồng, giao dịch được ký kết không đúng quy định sẽ bị vô
hiệu và xử lý theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp có thiệt hại, người ký
hợp đồng và người có liên quan là các bên của hợp đồng liên đới chịu trách nhiệm
về thiệt hại phát sinh và hoàn trả cho công ty các khoản lợi thu được từ việc thực
hiện hợp đồng, giao dịch đó »
Có thể nói, kế thừa những chính sách pháp luật trong các lĩnh vực hợp đồng, lao
động, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, phá sản, bảo vệ môi trường….Luật Doanh
nghiệp 2020 đã có những bước tiến bộ đáng kể trong việc ghi nhận sâu và cụ thể hoá
về trách nhiệm của DNNN trong mối quan hệ với các bên có liên quan và đặc biệt
là những vấn đề liên quan đến quản trị có hiệu quả các DNNN.
2.2 . Thực trạng thi hành các quy định pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà nước
Về mô hình và thiết chế quản trị doanh nghiệp nhà nước
Vấn đề đầu tiên được nhiều nhà nghiên cứu pháp lý và quản trị nói đến lâu nay là
việc tách bạch chức năng chủ sở hữu và chức năng quản lý doanh nghiệp của Nhà
nước trong các DNNN. Một trong sáu tiêu chuẩn OECD đưa ra đối với nguyên tắc
“Nhà nước đóng vai trò là chủ sở hữu có hiểu biết và tích cực, yêu cầu tính chuyên
nghiệp và hiệu quả trong quá trình xây dựng chính sách sở hữu” cũng chính là xác
định rõ ràng việc thực thi các quyền sở hữu trong DNNN và “có thể thực hiện vấn lOMoAR cPSD| 59908026
đề này bằng việc thiết lập một cơ quan điều phối hoặc một cơ quan chuyên trách tập
trung vào chức năng sở hữu nhà nước”.
Vấn đề thứ hai liên quan đến các lỗ hổng về quản trị nêu trên còn là vấn đề chồng
chéo giữa các nội dung quản lý, giám sát của nhiều cơ quan quản lý khác nhau, ngoài
Bộ chủ quản, theo Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh
doanh tại doanh nghiệp còn có Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nội vụ,
Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cũng tham gia giám sát các DNNN ở những
nội dung khác nhau. Điều này dẫn đến những khó khăn trong việc xác định lỗi quản
lý thuộc về cơ quan nào khi xảy ra sai phạm trong DNNN. Vì vậy, khi có hậu quả
xảy ra, chỉ thấy những cá nhân trực tiếp tham gia quản lý DNNN bị xử lý vi phạm
mà không có cá nhân của các cơ quan tham gia quản lý, giám sát DNNN bị xử lý.
Như thế, do thiếu minh bạch nên, quản trị DNNN bị can thiệp bởi những quyền lực
nằm ngoài “quyền quản trị” DNNN. Do không được công bố công khai nhưng rõ
ràng là trong các vụ Đại án gần đây đã cho thấy, có một hoặc nhiều quyền lực bên
ngoài vẫn can thiệp, chỉ đạo trái phép và trái thông lệ vào hoạt động quản trị của
nhiều doanh nghiệp có vốn nhà nước làm phương hại tính minh bạch và hiệu quả
kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn nhà nước
Vấn đề thứ ba thể hiện yếu kém trong mô hình quản trị DNNN còn là ở chỗ chưa
xác định rõ ràng vai trò của Nhà nước trong quản trị DNNN cũng như việc phân
định mục tiêu lợi nhuận hay mục tiêu công ích của DNNN. Mục tiêu chính trị, xã
hội và mục tiêu kinh doanh còn lẫn lộn và chưa xác định được thứ tự ưu tiên trong
các DNNN, mặc dù chức năng chủ yếu của DNNN là “phủ trống nhu cầu xã hội”
trong những lĩnh vực tư nhân không muốn tham gia hoặc làm không tốt. Nhưng thực
tế có vẻ vẫn diễn ra theo chiều hướng ngược lại, không những DNNN tham gia xuất
hiện trong nhiều ngành, nghề, lĩnh vực cạnh tranh với các doanh nghiệp ngoài Nhà
nước mà thậm chí còn được nhận được những ưu tiên, bảo trợ của Nhà nước với vai
trò là chủ sở hữu. Chính sự không rạch ròi giữa các nhiệm vụ của DNNN dẫn đến
những khó khăn cho chủ sở hữu trong việc định hướng cách thức quản trị phù hợp
và vai trò của Nhà nước trong QTDN của mình. lOMoAR cPSD| 59908026
Vấn đề thứ tư là, mặc dù hiện nay pháp luật đã quy định, cơ quan đại diện chủ sở
hữu, cơ quan quản lý nhà nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp, hoạt động quản lý, điều hành của người quản lý doanh
nghiệp cũng như tôn trọng sự độc lập của HĐTV, nhưng trên thực tế Nhà nước vẫn
chưa thể tách hẳn khỏi công việc quản lý hàng ngày của DNNN cũng như cho phép
DNNN tự chủ hoạt động đầy đủ để đạt được các mục tiêu đã được xác định của họ.
Vẫn còn không ít trường hợp thay vì vạch ra mục tiêu, định hướng và thực hiện giám
sát thì Nhà nước lại trực tiếp xử lý.
Vấn đề thứ năm, việc thực thi các quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước tại
DNNN còn nhiều bất cập. Hiện nay, phân cấp thực hiện quyền chủ sở hữu trong các
bộ chủ quản khá chồng chéo. Bộ trưởng và Thứ trưởng bộ chủ quản thường có thẩm
quyền chủ sở hữu với các DNNN theo lĩnh vực phụ trách, do đó các vụ tham mưu
cho những người có thẩm quyền cũng theo lĩnh vực người đó phụ trách; Bên cạnh
đó, pháp luật hiện tại chưa quy định việc lấy ý kiến, biểu quyết của tập thể lãnh đạo
đối với những quyết định quan trọng liên quan đến thực hiện quyền chủ sở hữu trong
DNNN. Những vấn đề này dẫn đến một thực tế tùy tiện, phân tán, chồng chéo giữa
các quyết định được bộ chủ quản đưa ra, giữa các cơ quan chủ quản với cơ quan quản lý nhà nước.
Vấn đề thứ sáu, vấn đề quản lý, giám sát, đánh giá DNNN và thực hiện chức năng
chủ sở hữu nhà nước còn bất cập; hệ thống thông tin không đầy đủ, chưa đáp ứng
yêu cầu quản lý, giám sát của cơ quan chức năng.
Trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước đối với các bên có liên quan
Hiện nay, một số DNNN có vốn chủ sở hữu lớn cũng bắt đầu để ý đến công
tác công khai thông tin qua các kênh khác nhau để người dân có thể tiếp cận được,
có 6/6 tập đoàn kinh tế thuộc diện phải thực hiện công bố thông tin có chuyên mục
riêng về công bố thông tin. Đặc biệt đối với các DNNN hoạt động trong các lĩnh vực
độc quyền, trong 2/6 tập đoàn kinh tế nhà nước thực hiện nghiêm túc, đầy đủ việc
công bố thông tin theo quy định thì 2 tập đoàn kinh tế đó đều hoạt động trong lĩnh
vực độc quyền là VNPT và PVN. Điều này chứng tỏ DNNN đã có dấu hiệu tương
thích với khuyến nghị “càng độc quyền lại càng cần công khai, minh bạch các vấn lOMoAR cPSD| 59908026
đề liên quan đến mối quan hệ với các bên thứ ba để tránh sự lạm dụng tính độc quyền
gây thiệt hại đến lợi ích của các bên liên quan”.
Tuy nhiên, vẫn còn đó khá nhiều tiêu chuẩn liên quan đến mối quan hệ với các
bên thứ ba chưa đạt tới, cũng như không ít những tồn tại, hạn chế cần kịp thời điều chỉnh.
Thứ nhất, chưa tôn trọng quyền của các bên có quyền lợi liên quan. Tại sao quản
trị DNNN mãi chưa thể “đột phá”, đóng góp một phần lý do chính là việc ít quan
tâm, thậm chí có cả sự thờ ơ trong việc “công nhận và tôn trọng quyền của các bên
có quyền lợi liên quan” của DNNN, của cơ quan đại diện chủ sở hữu, cơ quan điều
phối và thậm chí của Nhà nước. Cả khía cạnh pháp lý và thực tiễn tổ chức, quyền
lợi của các bên liên quan như chủ nợ và khách hàng chưa thực sự được tôn trọng.
Thậm chí, chính sách sở hữu nhà nước hiện nay vẫn chưa quy định cho phép chủ nợ
của DNNN có được quyền rất cơ bản của mình là quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố
phá sản DNNN như các loại hình doanh nghiệp khác.
Thứ hai, chưa thực hiện báo cáo rõ ràng, cụ thể mối quan hệ với các bên liên quan.
Pháp luật hiện nay đã yêu cầu DNNN cũng như các cơ quan chủ sở hữu thực hiện
công bố thông tin trên trang thông tin điện tử, có thể coi đây là một kênh tiếp cận
thông tin nhanh và dễ dàng cho mọi đối tượng trong đó có các bên liên quan nếu
thông tin được các DNNN đảm bảo kịp thời và chính xác. Tuy nhiên, trên thực tế
chưa thể thỏa mãn nhu cầu thông tin đầy đủ, rõ ràng, cụ thể mà các bên có quyền lợi
liên quan cần được biết.
Thứ ba, có rất ít HĐTV của các DNNN, HĐQT của các công ty con thực hiện việc
triển khai xây dựng, công bố, thực thi và tuyên truyền rộng rãi chương trình tuân thủ
các quy tắc đạo đức kinh doanh nội bộ dựa trên chuẩn mực quốc gia, phù hợp với
các cam kết quốc tế và áp dụng cho DNNN lẫn các công ty con và chi nhánh của doanh nghiệp mình.
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1 . Quan điểm hoàn thiện pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà nước lOMoAR cPSD| 59908026
Trước tình trạng thua lỗ, thất thoát tài sản từ DNNN đã và vẫn đang tiếp tục
diễn ra mà đa số hệ quả này đều liên quan đến những vi phạm trong hoạt động quản
trị doanh nghiệp. Thực trạng quản trị DNNN thời gian qua cho thấy, còn không ít
những bất cập, hạn chế trong quá trình thi hành pháp luật quản trị DNNN trên thực
tiễn. Nguyên nhân rất lớn dẫn đến thực tế nêu trên xuất phát từ những thiếu sót của
các quy định pháp luật trong điều chỉnh hoạt động quản trị DNNN. Ở góc độ vĩ mô
hơn, có thể nói những khiếm khuyết đó là một trong những rào cản lớn làm hạn chế
mục tiêu xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng cho “cộng đồng”
doanh nghiệp, hạn chế thúc đẩy phát triển kinh tế nói chung. Do đó, hoàn thiện pháp
luật về quản trị DNNN ở Việt Nam là nhu cầu mang tính thời sự nhằm đảm bảo cơ
sở pháp lý vững chắc cho việc tiếp cận và áp dụng các nguyên tắc quản trị hiện đại
trong DNNN. Đồng thời, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quản trị DNNN
cần đặt trong phương hướng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, trên cơ sở xác
định đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường và phù hợp với quá trình hội nhập.
Trên tinh thần đó, xin nêu một số quan điểm chủ đạo cho quá trình hoàn thiện
pháp luật về quản trị DNNN như sau: -
Hoàn thiện pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà nước cần phù hợp
với xu thế phát triển và định hướng, lộ trình cải cách kinh tế thị trường của Đảng và Nhà nước. -
Hoàn thiện pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà nước phải tiếp cận
với các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế.
-Hoàn thiện pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà nước cần gắn liền với quá
trình hoàn thiện, sửa đổi pháp luật về doanh nghiệp, hoàn thiện các thể chế kinh tế thị trường.
3.2 . Các giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà nước
a) Đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ và minh bạch của pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà nước
Thống nhất, đồng bộ và minh bạch của pháp luật quản trị DNNN đồng nghĩa với
việc đảm bảo nền tảng pháp lý vững chắc để DNNN hoạt động trong môi trường
kinh doanh cạnh tranh bình đẳng như các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế khác và tạo cơ sở cải thiện thực tế QTDN trong DNNN. lOMoAR cPSD| 59908026
b) Hoàn thiện pháp luật để đảm bảo Nhà nước là một chủ sở hữu đích thực và trách nhiệm
Cần thiết lập các hệ thống báo cáo đồng bộ cho phép giám sát và đánh giá thường
xuyên hiệu quả của DNNN và đảm bảo thông tin kịp thời đến cơ quan điều phối, cụ
thể hiện nay là Ủy ban Quản lý vốn nhà nước. Ngược lại, Ủy ban này phải đảm bảo
tất cả các DNNN đều có hệ thống báo cáo đầy đủ cho bên ngoài. Bên cạnh đó, xây
dựng quy trình đề cử HĐTV cụ thể và minh bạch là nội dung cần thiết. Thậm chí Ủy
ban Quản lý vốn nhà nước nên có sự phối hợp với Bộ Nội vụ để xây dựng và ban
hành những tiêu chí cụ thể hóa quy định thay thế thành viên HĐTV nếu kết quả kinh
doanh của DNNN thua lỗ 2 năm liên tiếp đưa doanh nghiệp rơi vào diện giám sát
đặc biệt. Tuy nhiên, chặt chẽ trong công tác nhân sự chỉ thực sự có hiệu quả khi nó
tồn tại song song với việc đảm bảo chính sách thù lao cho thành viên HĐTV của DNNN.
c) Hoàn thiện các quy định pháp luật về trách nhiệm của DNNN trong mối
quan hệ với các bên liên quan
Ở Việt Nam, còn khá nhiều tiêu chuẩn liên quan đến mối quan hệ với các bên
thứ ba chưa đạt tới (đặc biệt các bên là khách hàng, chủ nợ, đồng sở hữu trong các
công ty con của DNNN) cũng như không ít những tồn tại, hạn chế trong các quy
định cần kịp thời điều chỉnh. KẾT LUẬN
Thông qua việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà nước ở
Việt Nam” có thể rút ra những kết luận sau đây:
Thứ nhất, việc xây dựng lý luận về quản trị DNNN và pháp luật quản trị DNNN
có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá và đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện
thực trạng pháp luật quản trị DNNN hiện nay ở Việt Nam. Dựa trên đặc trưng pháp lý
của DNNN cũng như bản chất sở hữu của loại hình doanh nghiệp này, từ đó xác định
rõ yêu cầu DNNN phải có những nguyên tắc quản trị riêng phù hợp với tính chất đặc thù của DNNN.
Thứ hai, tiểu luận chỉ rõ điểm khác biệt giữa nội dung của pháp luật quản trị
DNNN so với pháp luật QTDN nói chung và xây dựng được các nội dung của pháp luật
về quản trị DNNN. Theo đó các nội dung của pháp luật về quản trị DNNN bào gồm các
quy định về: mô hình quản lý DNNN và các thiết chế quản lý của DNNN, hoạt động
của Nhà nước với tư cách một chủ sở hữu, quan hệ của DNNN đối với các bên có liên
quan, công khai và minh bạch hóa thông tin và trách nhiệm của HĐTV trong quản trị DNNN.
Thứ ba, tiểu luận đánh giá thực trạng kết quả hoạt động của DNNN thời gian qua
cho thấy về cơ bản, hiệu quả hoạt động của DNNN còn thấp, nhiều hậu quả nặng nề lOMoAR cPSD| 59908026
đều có nguyên nhân từ việc những bất cập, yếu kém trong quản trị DNNN. Qua đó đặt
ra yêu cầu cải thiện năng lực quản trị doanh nghiệp của hệ thống DNNN. còn nhiều hạn chế.
Thứ tư, trước thực trạng pháp luật nêu trên, việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về
quản trị DNNN là nhu cầu tất yếu và cấp thiết. Mục tiêu của việc hoàn thiện pháp luật
về quản trị DNNN là nhằm xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, đáp ứng yêu cầu của
thực tiễn, phù hợp với những đặc thù của mô hình DNNN, tương thích với thông lệ
quản trị quốc tế hiện đại nhằm phát huy vai trò nòng cốt của DNNN trong kinh tế nhà
nước. Để đạt được mục tiêu này tiểu luận đã đề xuất những quan điểm, giải pháp nhằm
góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả thưc thi pháp luật về
quản trị DNNN ở Việt Nam hiện nay.