TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BỘ MÔN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA BÀI HỌC PHÁT HUY TÍNH NĂNG ĐỘNG CHỦ
QUAN. VẬN DỤNG BÀI HỌC NÀY VÀO VIỆC PHÁT HUY NHÂN T
CHỦ QUAN TRONG HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY.
NHÓM: 1
LỚP HP: 2273MLNP0221
CHUYÊN NGÀNH:
KHỞI NGHIỆP PHÁT TRIỂN KINH DOANH
HÀ NỘI, 2022
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
TT Họ và tên Nhiệm vụ Nhóm tự
xếp loại
Đánh giá của
giảng viên
1Bùi Đình Chinh Nhóm trưởng
2Bùi Thuỳ Dung Thư ký
3Trần Quỳnh Chi Làm phần mở đầu
4Nguyễn Hoàng Phương
Anh
Làm nội dung
1.1.1
5Phan Thị Lan Anh Làm nội dung
1.1.1
6Trần Lý Khánh Chi Làm nội dung
1.1.1
7Nguyễn Diệu Anh Làm nội dung 1.2
8Đoàn Khánh Băng Làm powerpoint
Thuyết trình
9Phạm Duy Đức Làm nội dung 2.1
10 Ngô Nhật Anh Làm nội dung 2.2
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................2
I. . SỞ LUẬN CỦA BÀI HỌC PHÁT HUY TÍNH NĂNG ĐỘNG CHỦ
QUAN...................................................................................................................2
1.1. Cơ sở lý luận của bài học: ‘phát huy tính năng động chủ quan”....................2
1.1.1. Nội dung phạm trù ý thức............................................................................2
1.2. Nguyên tắc phát huy tính năng động chủ quan trong hoạt động nhận thức
thực tiễn.................................................................................................................8
1.2.1. Tính năng động chủ quan............................................................................8
1.2.2. Phát huy tính năng động chủ quan trong hoạt động nhận thức thực tiễn.
...............................................................................................................................9
1.2.3. Kết luận……………………………………………………………………9
II. VẬN DỤNG NỘI DUNG BÀI HỌC NÀY VÀO PHÁT HUY NHÂN TỐ CHỦ
QUAN TRONG HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY..........9
2.1. Thực trạng vận dụng bài học này vào việc phát huy nhân tố chủ quan trong
hoạt động tự học của sinh viên hiện nay...............................................................9
2.2. Các giải pháp nhắm nâng cao việc vận dụng bài học phát huy tính năg động
chủ quan trong hoạt động tự học của sinh viên...................................................10
KẾT LUẬN.........................................................................................................11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................12
MỞ ĐẦU
Triết học Mác – Lênin là khoa học về những quy luật phổ biến chung nhất của sự
vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người; trang bị cho con
người thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng duy vật đúng
đắn để nhận thức và cải tạo thế giới.
Phạm trù ý thức trong triết học Mác – Lênin được đánh giá là một trong hai phạm
trù cơ bản được các trường phái triết học quan tâm nghiên cứu, nhưng tùy theo
cách lý giải khác nhau mà có những quan niệm rất khác nhau, là cơ sở để hình
thành các trường phái triết học khác nhau, hai đường lối cơ bản độc lập nhau chính
là chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật ( bao gồm chủ nghĩa duy vật siêu hình
và chủ nghĩa duy vật biện chứng).
Triết học Mác – Lênin đã góp phần làm sáng tỏ vấn đề ý thức, mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức thông qua việc đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên và bám sát thực
tiễn xã hội.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển đời sống xã hội, cần có sự phát huy tính
năng động chủ quan, tức là phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng tạo của ý
thức và vai trò nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực, năng động,
sáng tạo ấy. Điều này đòi hỏi con người phải tôn trọng tri thức khoa học; tích cực
học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học và truyền bá vào quần chúng đề
nó trở thành tri thức, niềm tin của quần chúng, hướng dẫn quần chúng hành động.
Mặt khác, phải tự giác tu dưỡng, rèn luyện để hình thành, củng cố nhân sinh quan
cách mạng, tình cảm, nghị lực cách mạng để có sự thống nhất hữu cơ giữa tính
khoa học và tính nhân văn trong định hướng hành động
Sau khi nghiên cứu môn triết học Mác – Lênin, tôi tâm huyết với đề tài cơ sở lí
luận của bài học phát huy tính năng động chủ quan, bởi vậy tôi lựa chọn nội dung:
“Cơ sở lý luận của bài học phát huy tính năng động chủ quan và vận dụng bài học
này vào việc phát huy nhân tố chủ quan trong hoạt động tự học của sinh viên hiện
nay” để viết thu hoạch.
1
NỘI DUNG
I. Cơ lý luận của bài học phát huy tính năng động chủ quan.
1.1 Cơ sở lý luận của bài học: ‘phát huy tính năng động chủ quan”
- Cơ sở lý luận của bài học:” phát huy tính năng động chủ quan” là quan điểm của
chủ nghĩa duy vật về phạm trù ý thức
1.1.1 Nội dung phạm trù ý thức
* Khái niệm về ý thức:
Theo tâm lý học thì ý thức được định nghĩa là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất
chỉ có ở con người. Ý thức được hiểu theo định nghĩa của triết học Mác-Lenin là
một phạm trù song song với phạm trù vật chất.
Ý thức là trạng thái có ý thức về một cái gì đó. Cụ thể hơn, đó là khả năng trực tiếp
biết và nhận thức, cảm nhận hoặc nhận thức được các sự kiện. Một định nghĩa khác
mô tả nó là trạng thái trong đó chủ thể nhận thức được một số thông tin khi thông
tin đó trực tiếp có sẵn để thực hiện theo hướng của một loạt các hành động.
Ý thức được xác định là một khái niệm tương đối. Nó có thể tập trung vào một
trạng thái bên trong, chẳng hạn như cảm giác nội tạng, hoặc vào các sự kiện bên
ngoài bằng cách nhận thức cảm tính. Nó tương tự như cảm nhận một cái gì đó, một
quá trình phân biệt với quan sát và nhận thức (bao gồm một quá trình cơ bản làm
quen với các mục mà chúng ta nhận thức được).
Ý thức hoặc “cảm nhận” có thể được mô tả là một cái gì đó xảy ra khi não được
kích hoạt theo những cách nhất định, chẳng hạn như khi màu đỏ là những gì được
nhìn thấy sau khi võng mạc được kích thích bởi sóng ánh sáng. Việc hình thành
khái niệm này được đặt ra trong bối cảnh khó khăn trong việc phát triển một định
nghĩa phân tích về nhận thức hoặc nhận thức cảm tính.
Ý thức cũng được kết hợp với ý thức theo nghĩa là khái niệm này biểu thị một kinh
nghiệm cơ bản như cảm giác hoặc trực giác đi kèm với kinh nghiệm về hiện tượng.
Cụ thể, điều này được gọi là ý thức về kinh nghiệm. Đối với ý thức, nó đã được
mặc định là phải trải qua các cấp độ thay đổi liên tục.
Những ý kiến phổ biến về ý thức cho rằng hiện tượng mô tả một điều kiện nhận
thức về bản thân (tự nhận thức). Lý thuyết hệ thống hiện đại, cung cấp những hiểu
biết sâu sắc về cách thế giới hoạt động thông qua sự hiểu biết rằng tất cả các hệ
thống đều tuân theo các quy tắc của hệ thống, tiếp cận sự tự nhận thức trong tầm
hiểu biết của nó về cách thức hoạt động của các hệ thống sống phức tạp lớn.
2
Theo Gregory Bateson, ý thức là động lực của sự tự tổ chức và nhận thức là điều
cốt yếu trong sự tồn tại của quá trình này. Lý thuyết hệ thống hiện đại cho rằng con
người, với tư cách là hệ thống sống, không chỉ nhận thức về môi trường mà còn
nhận thức về bản thân, đặc biệt là với khả năng logic và tò mò.
Những nỗ lực để mô tả ý thức bằng các thuật ngữ thần kinh đã tập trung vào việc
mô tả các mạng lưới trong não phát triển nhận thức về trình độ được phát triển bởi
các mạng lưới khác. Khi nhận thức cung cấp các tài liệu mà từ đó người ta phát
triển các ý tưởng chủ quan về kinh nghiệm của họ, người ta nói rằng người ta nhận
thức được trạng thái nhận thức của chính mình. Tổ chức nhận thức về trải nghiệm
bên trong của chính mình được giao một vai trò trung tâm trong việc tự điều chỉnh
* Nguồn gốc của ý thức:
Theo quan điểm của các nhà triết học.
Ý thức là một trong hai phạm trù cơ bản được các trường phái triết học quan
tâm nghiên cứu, nhưng tuỳ theo cách lý giải khác nhau mà có những quan niệm rất
khác nhau, là cơ sở để hình thành các trường phái triết học khác nhau, hai đường
lối cơ bản đối lập nhau là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm: Ý thức là nguyên thể đầu tiên, tồn tại
vĩnh viễn, là nguyên nhân sinh thành, chi phối sự tồn tại, biến đổi của toàn bộ TG
vật chất. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình: ý thức cũng chỉ là một
dạng vật chất đặc biệt, do vật chất sinh sản ra. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy
vật biện chứng: “Ý niệm chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyền vào trong đầu
óc con người và được cải biến đi ở trong đó”1
* Nguồn gốc tự nhiên
Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào đầu óc con người. Phản ánh
là thuộc tính phổ biến của mọi dạng vật chất,được biểu hiện trong sự liên hệ, tác
động qua lại giữa các đối tượng vật chất với nhau. Đó là sự tái tạo những đặc điểm
của dạng vật chất khác trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Các
hình thức phản ánh: phản ánh vật lý, hoá học, phản ánh sinh học: tâm lý động vật,
phản ánh năng động, sáng tạo (ý thức).Sự xuất hiện con người và hình thành bộ óc
con người có năng lực phản ánh hiện thực khách quan là nguồn gốc tự nhiên của ý
thức.
* Nguồn gốc xã hội:
Nguồn gốc xã hội bao gồm: lao động và ngôn ngữ
1 C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.20, tr.35.
3
Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên để
cải biến tự nhiên tạo ra sản phẩm thoả mãn nhu cầu con người. Ph. Ăngghen đã chỉ
rõ những động lực xã hội trực tiếp thúc đẩy sự ra đời của ý thức: “Trước hết là lao
động; sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích
chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn, làm cho bộ óc đó dần dần biến
chuyển thành bộ óc con người.”2
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp và công cụ để khái quát và truyền đạt tư tưởng.
Ph. Ăngghen viết: “ Đem so sánh con người với các loài vật, người ta sẽ thấy rõ
rằng ngôn ngữ bắt nguồn từ lao động và cùng phát triển với lao động, đó là cách
giải thích duy nhất đúng về nguồn gốc của ngôn ngữ” 3
Lao động và ngôn ngữ là hai sức kích thích chủ yếu làm chuyển biến dần bộ óc của
loài vượn thành bộ óc con người và tâm lý động vật thành ý thức con người.Ý thức
là sự phản ánh hiện thức khách quan bởi bộ óc của con người, nhưng không phải cứ
có thế giới khách quan và bộ óc người là có ý thức, mà phải đặt chúng trong mối
quan hện với thực tiễn xã hội.
Xem xét nguồn gốc tự nhiên và xã hội của ý thức cho thấy ý thức xuất hiện là kết
quả của quá trình tiến hoá lâu dài của giới tự nhiên, của lịch sử trái đất, đồng thời là
kết quả trực tiếp của thực tiễn xã hội - lịch sử của con người. Trong đó, nguồn gốc
tự nhiên là điều kiện cần còn nguồn gốc xã hội là điều kiện đủ để ý thức hình thành,
tồn tại và phát triển.
2 C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.20, tr.476.
3 C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.20, tr.645.
4
* Bản chất của ý thức
Lịch sử của triết học đã chứng minh bởi không hiểu được nguồn gốc ra đời của ý
thức nên chủ nghĩa duy tâm đã có những quan điểm sai lầm về bản chất ý thức và
cường điệu hoá vai trò của ý thức một cách thái quá, trừu tượng tới mức tách ra
khỏi đời sống hiện thực. Từ đó, ý thức bị biến thành thực thể tồn tại độc lập, thực
tại duy nhất và là nguồn gốc sinh ra vật chất. Ngược lại, chủ nghĩa duy vật siêu
hình đã tầm thường hoá vai trò của ý thức, coi ý thức là một dạng vật chất hoặc sự
phản ánh đơn giản, thụ động thế giới vật chất và tách rời thực tiễn xã hội đa dạng,
sinh động. Toàn bộ những quan niệm sai lầm trên đã không cho phép con người
hiểu được bản chất của ý thức cũng như biện chứng của quá trình phản ánh ý thức.
Hơn nữa, sự nhận thức đúng đắn về nguồn gốc ra đời cùng với việc nắm vững
thuyết phản ánh thì chủ nghĩa duy vật biện chứng đã luận giải một cách khoa học
về bản chất của ý thức. Suy cho cùng ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào
bộ não con người bằng cách thông qua hoạt động thực tiễn và ý thức sẽ phản ánh
thực tế khách quan về thế giới của con người.
Bàn về bản chất của ý thức, trước tiên ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan, là quá trình phản ánh tích cực và sáng tạo hiện thực khách quan của
não bộ con người. Cụ thể hơn ý thức là hình ảnh về hiện thực khách quan, không
phải là sự vật mà chỉ là hình ảnh phản ánh sự vật. Cần lưu ý rằng mặc dù ý thức và
vật chất đều là hiện thực nhưng ý thức là hiện thực chủ quan còn vật chất là hiện
thực khách quan. Ý thức là sự tồn tại phi cảm tính, đối lập với các đối tượng vật
chất và còn là cái vật chất ở bên ngoài “di chuyển” vào trong bộ não của con người,
được cải biến đi ở trong đó. Do vậy, kết quả phản ánh tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố cụ
thể là đối tượng phản ánh, điều kiện lịch sử xã hội, phẩm chất, năng lực, kinh
nghiệm sống của chủ thể phản ánh. Bên cạnh đó, ý thức còn có đặc tính tích cực,
sáng tạo, gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội như trao đổi thông tin giữa chủ thể và
đối tượng phản ánh hay xây dựng các học thuyết, lý thuyết khoa học bằng cách mô
hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần hoặc chuyển hoá mô
hình tư duy ra hiện thực khách quan rồi vận dụng để cải tạo hoạt động thực tiễn.
5
Cùng với đó, ý thức mang bản chất lịch sử - xã hội. Điều kiện lịch sử đã chứng
minh cho con người ta thấy rằng ý thức chỉ là thuộc tính phản ánh của một dạng vật
chất đặc biệt là bộ não con người hay còn có thể hiểu là chỉ có con người mới có ý
thức. Điều này được rút ra thông qua kết quả của lịch sử vận động, hoạt động thực
tiễn, và đời sống xã hội phong phú tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy ý thức hình
thành và không ngừng phát triển. Đối với mối quan hệ xã hội, ý thức là một hiện
tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn liền với
sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh học mà chủ yếu là các quy luật xã hội
do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy
định. Từ đó ta đưa ra kết luận về bản chất của ý thức chính đó chính là sự phản ảnh
chân thật và đầy đủ nhất của ý thức. Hành vi con người cũng chính là yếu tố thể
hiện bản chất của ý thức và ý thức là một hiện tượng xã hội, mang bản chất xã hội.
* Kết cầu của ý thức
Ý thức có kết cấu rất phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ mật thiết với nhau.
Nếu xét theo chiều ngang thì ý thức gồm có 3 yếu tố cơ bản sau
Thứ nhất, là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của tri thức
quá trình nhận thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới
dạng các loại ngôn ngữ
Thứ hai là những rung động biểu hiện thái độ của con người trong , tình cảm
quan hệ của mình với thực tại xung quanh và đối với bản thân mình
Thứ 3, là biểu hiện sức mạnh của bản thân mỗi con người nhằm vượt ý chí
qua những cản trở trong quá trình thực hiện mục đích.
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau, song
tri thức là yếu tố quan trọng nhất. Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức, đồng
thời là nhân tố định hướng sự phát triển và mức độ biểu hiện của các yếu tố khác
trong ý thức. Như vậy, ý thức nếu thiếu tri thức thì chỉ là niềm tin mù quáng.
Ngược lại, nếu tri thức không biến thành tình cảm, niềm tin và ý chí thì bản thân nó
cũng không có vai trò gì đối với đời sống hiện thực.
Đó là ý thức xét theo chiều ngang. Còn nếu chúng ta xét theo chiều dọc thì ý thức
gồm 3 yếu tố cơ bản : thứ nhất đó là tự ý thức, thứ 2 đó là tiềm thức, thứ 3 đó là vô
thức
Tự ý thức: Là ý thức về bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế
giới bên ngoài
6
Tiềm thức: Là những tri thức chủ thể đã có được từ trước nhưng gần như trở
thành kỹ năng nằm trong tầng sâu của ý thức chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng
Vô thức: Là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ,
hành vi, thái độ ứng xử của con người mà chưa có sự kiểm tra, tính toán của lý trí.
Như vậy, ở phần kết cấu của ý thức chúng ta có thể thấy rằng ý thức bao gồm
các yếu tố khác nhau tùy theo cách phân chia khác nhau và nó cũng đóng vai trò rất
quan trọng trong hoạt động của con người
*Ý nghĩa phương pháp luận:
Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của nhân tố con
người; phải coi trọng vai trò của ý thức, coi trọng công tác tư tưởng và giáo dục tư
tưởng, coi trọng giáo dục lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tự tưởng Hồ Chí
Minh. Đồng thời, phải giáo dục và nâng cao trình độ tri thức khoa học, củng cố, bồi
dưỡng nhiệt tình, ý chí cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nói chung,
nhất là trong điều kiện nền văn minh trí tuệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa hiện nay;
coi trọng việc giữ gìn, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên, bảo đảm
sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học.
Phải khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí (chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu
lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực); bệnh bảo thủ trì trệ,
thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại ngồi chờ…; đặc biệt là trong quá trình đổi mới hiện
nay.
7
1.2. Nguyên tắc phát huy tính năng động chủ quan trong hoạt động nhận thức
và thực tiễn.
Thực tiễn là hoạt động biến đổi thế giới khách quan, có đầy đủ tính năng
động. Tính năng động của thực tiễn được đề cập ở đây là sự thể hiện tính chủ thể
của thực tiễn, là tính nỗ lực tự giác, tính tích cực của con người trong hoạt động
thực tiễn. Mao Trạch Đông viết: "Tất cả mọi việc đều do con người tiến hành, sẽ
không có thắng lợi cuối cùng nếu không có con người kiên trì đấu tranh và thực
hiện. Nhất thiết phải có con người căn cứ vào thực tế khách quan và được tư tưởng
dẫn dắt, chỉ đạo,... thì mọi phương châm, chính sách, chiến lược, chiến thuật mới
có thể thực thực hiện được. Những tưởng chỉ là cái chủ quan, việc làm hoặc hành
động là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ quan với khách quan. Tất cả những điều
đó đều biểu hiện tính năng động đặc thù của con người. Chúng ta gọi tính năng
động này là "tính năng động tự giác" cái khiến con người khác với con vật. Tất cả
những tư tưởng có căn cứ và phù hợp với hiện thực khách quan là tư tưởng đúng
đắn, tất cả những việc làm hay hành động căn cứ vào tư tưởng đúng đắn là hành
động đúng đắn. Chúng ta cần phải phát huy những tư tưởng và hành động như vậy,
cần phải phát huy tính năng động tự giác ấy4"
1.2.1. Tính năng động chủ quan.
Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức
trong quá trình phản ánh sự vật, hiện tượng để tìm ra bản chất quy luật của nó và đề
ra đường lối, biện pháp cải biến nó phục vụ lợi ích con người đồng thời phát huy
vai trò của nhân tố con người.
Bên cạnh đó, chống tư tưởng, thái độ thụ động ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì
trệ, thiếu tính sáng tạo; mà phải biết tạo ra những điều kiện thích hợp, làm cho điều
kiện này tác động và điều kiện khác để nảy sinh ra điều kiện cần thiết cho hoạt
động của con người. Phải coi trọng vai trò của ý thức, coi trọng công tác tư tưởng
và giáo dục tư tưởng, coi trọng giáo dục lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh.
4 Tuyển tập Mao Trạch Đông, t.2, Nxb Nhân dân Trung Quốc, 1991, tr 477
8
1.2.2. Phát huy tính năng động chủ quan trong hoạt động nhận thức và thực
tiễn
Trong thời kì toàn cầu hóa hiện nay, nhất là trong điều kiện nền văn minh trí tuệ,
kinh tế tri thức, phải giao dục và nâng cao trình độ tri thức khoa học, củng cố bồi
dưỡng nhiệt tình, ý chí cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nói chung.
Đồng thời, coi trọng việc giữ gìn, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng
viên, bảo đảm sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học.
1.2.3. Kết luận
Muốn phát huy tính năng động thực tiễn, cần phải lấy việc tuân thủ quy luật
khách quan của sự vận động vật chất làm cơ sở và tiền đề. Tính năng động của hoạt
động thực tiễn con người, về thực chất, chính là con người vận dụng tri thức về quy
luật khách quan nhằm cải tạo thế giới khách quan. Nhận thức về quy luật khách
quan càng sâu sắc, càng chắc chắn, thì càng phát huy được tính năng động của thực
tiễn. Khi rời xa quy luật khách quan và điều kiện hiện thực, con người không
những không thể phát huy tính năng động thực tiễn một cách chính xác, mà còn
gặp phải sự trừng phạt của quy luật khách quan. Mao Trạch Đông viết: "Con người
muốn giành được thắng lợi trong công việc, tức cái kết quả trong dự đoán, thì nhất
định phải làm cho tư tưởng của mình phù hợp với tính quy luật của thế giới khách
quan, nếu như không phù hợp thì sẽ chuốc lấy thất bại trong thực tiễn. Con người,
sau khi trải qua sự thất bại, đã nhận được bài học từ sự thất bại đó. Nếu biết cải
biến tự tưởng của mình cho phù hợp với tính quy luật của thế giới bên ngoài, con
người sẽ có thể biến thất bại thành thắng lợi. Câu "thất bại là mẹ thành công"
chính nhằm về đạo lý ấy" 5. Do vậy, nhất định phải kết hợp sự phát huy tính năng
động thực tiễn với việc tôn trọng quy luật khách quan, kết hợp nhiệt tình thực tiễn
cao độ thái độ khoa học hiện thực, đồng thời phải nhận thức và giải quyết đúng đắn
các quan hệ lợi ích, phải biết kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích
xã hội; phải có động cơ trong sang, thái độ thật sự khách quan, khoa học không vui
lợi trong nhận thức và hành động của mình.
II. VẬN DỤNG NỘI DUNG BÀI HỌC NÀY VÀO VIỆC PHÁT HUY NHÂN
TỐ CHỦ QUAN TRONG HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN HIỆN
NAY
2.1 Thực trạng vận dụng bài học này vào việc phát huy nhân tố chủ quan
trong hoạt động tự học của sinh viên hiện nay
5 Tuyển tập Mao Trạch Đông, Sđđ., t.1, tr284
9
Với tư cách là một sinh viên đang trong quá trình trưởng thành tại ngôi trường đại
học thương mại, tôi nhận thấy:
Thực trạng việc vận dụng bài học này vào việc phát huy nhân tố chủ quan trong
hoạt động tự học của sinh viên hiện nay vẫn còn hạn chế bởi các nguyên nhân sau:
Sinh viên chưa có nhận thức đúng đắn về mục tiêu,mục đich đúng đắn trong việc
học tập cũng như trong việc tự học. Nhiều bạn vẫn còn tâm lí nghỉ xả hơi sau kì thi
THPT QG nên chưa bắt kịp tiến độ học tập trên đại học.
Sinh viên chưa có thái độ tích cực trong việc tự học,cụ thể là vẫn còn giữ thái độ
học thụ đông giống như trung học, vẫn quen với việc cần người đốc thúc mới chịu
tập trung học tập. Điều này vô tình trở thành rào cản ngăn bước các bạn.
Sinh viên chưa có được sự sáng tạo,khả năng tư duy độc lập cũng như khả năng
vận dụng lí thuyết vào thực hành,thực tiễn cuộc sống .
Sinh viên chưa nắm được phương pháp tự học phù hợp với khả năng và nhận thức
của mình để đem lại kết quả học tập như mong muốn nên chóng nản, không đủ
kiên trì để gặt hái thành công.
Bên cạnh đó,vẫn còn có rất nhiều tấm gương sinh viên nhờ tinh thần tự học,tự tìm
tòi học hỏi kết hợp cùng sự cố gắng phấn đấu trong học tập, có ý thức vươn lên để
gặt hái, đạt được những thành công, những điều mà mình mong muốn. Họ là những
con người sống bản lĩnh,có trách nhiệm với chính bản thân mình cũng như cộng
đồng và sẽ là tấm gương sáng cho chúng ta học tập và noi theo.
Việc tự học có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi sinh viên hiện nay vì
điều này sẽ giúp các sinh viên từng bước làm chủ kiến thức,phát triển tư duy từ đó
trở thành phiên bản tốt hơn của chính mình đồng thời góp phần giúp cho xã hội
ngày càng phát triển hơn.
Chính vì vậy sinh viên hiện nay cần cố gắng phát huy tính chủ động tự giác
trong học tập và rèn luyện để có thể thành công trong tương lai không xa.
2.2 Các giải pháp nhắm nâng cao việc vận dụng bài học phát huy tính năg
động chủ quan trong hoạt động tự học của sinh viên
1. Về phía các giáo viên và nhà trường
Đặt ra phần thưởng cho sinh viên hằm nâng cao tính tự học của sinh viên. (Ví dụ:
các phần học bổng, các phần thưởng ngoài,...)
10
Hỗ trợ sinh viên đưa ra mục tiêu tương lai nhằm nâng cao tính tự học của sinh viên.
(Ví dụ: Thành tích học sinh giỏi, có công việc làm ổn định trong tương lai,...)
Đưa ra các tình huống,hậu quả có thể xảy ra nếu sinh viên không có được thành
tích tốt nhằm thúc đẩy sinh viên. (Ví dụ: Mất học bổng,học lại, bị buộc rời khỏi
trường,...)
Nhắc nhở sinh viên không ỷ lại vào sự thúc dục của bạn bè, phụ huynh mới học
như trước kì thi THPT QG để bắt kịp với tiến độ học tập của các trường cấp bậc
Đại học.
Giúp học sinh tìm ra những hoạt động thực tiễn có thể sử dụng các kiến thức đã học
để năng cao sự hứng thú, nhu cầu học của sinh viên.
Tăng cường cơ sở vật chất (VD: thư viện, các không gian đề sinh viên có thể tự
học, nghiên cứu…)
2. Về phía sinh viên
Sinh viên nên đặt ra mục tiêu cho bản thân, xây dựng nên một kế hoạch học tập,
đồng thời chọn ra phương pháp học đúng đắn cho mình nhằm nắm vững kiến thức
Nâng cao khả năng tư duy, tiếp thu bài giảng góp phần năng cao khả năng tư duy
sáng tạo, từ đó việc tự học trở nên dễ dàng hơn
KẾT LUẬN
Như vậy, có thể thấy, bài học: “phát huy tính năng động chủ quan” có cơ sỏ
lý luận là quan điểm của chủ nghĩa duy vật về phạm trù ý thức. Trong đó phạm trù
ý thức là phạm trù cơ bản đóng vai trò quan trọng nhằm vật chất hóa tính tích cực,
sáng tạo và vai trò của nhân tố con người trong việc phát huy tính năng động chủ
quan.
Đồng thời, việc áp dụng bài học : “phát huy tính năng động chủ quan” trong
hoạt động tự học của sinh viên hiện nay tuy còn nhiều mặt hạn chế nhưng đã có
những chuyển biến tích cực, đã nhận thức được tầm quan trọng của việc tự học.
Cũng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Nếu không chịu khó học thì
không tiến bộ được. Không tiến bộ là thoái bộ. Xã hội càng đi tới, công việc càng
nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình mà không chịu khó học thì lạc hậu, mà lạc
hậu thì bị đào thải, tự mình đào thải mình”.
11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.20, tr.476.
2. C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.20, tr.35.
3. C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.20, tr.645.
4. Tuyển tập Mao Trạch Đông, t.2, Nxb Nhân dân Trung Quốc, 1991, tr 477
5. Tuyển tập Mao Trạch Đông, Sđđ., t.1, tr284
12

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI BỘ MÔN TRIẾT HỌC ĐỀ TÀI
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA BÀI HỌC PHÁT HUY TÍNH NĂNG ĐỘNG CHỦ
QUAN. VẬN DỤNG BÀI HỌC NÀY VÀO VIỆC PHÁT HUY NHÂN TỐ
CHỦ QUAN TRONG HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY. NHÓM: 1 LỚP HP: 2273MLNP0221 CHUYÊN NGÀNH:
KHỞI NGHIỆP PHÁT TRIỂN KINH DOANH HÀ NỘI, 2022
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ TT Họ và tên Nhiệm vụ Nhóm tự Đánh giá của xếp loại giảng viên 1Bùi Đình Chinh Nhóm trưởng 2Bùi Thuỳ Dung Thư ký 3Trần Quỳnh Chi Làm phần mở đầu 4Nguyễn Hoàng Phương Làm nội dung Anh 1.1.1 5Phan Thị Lan Anh Làm nội dung 1.1.1 6Trần Lý Khánh Chi Làm nội dung 1.1.1 7Nguyễn Diệu Anh Làm nội dung 1.2 8Đoàn Khánh Băng Làm powerpoint Thuyết trình 9Phạm Duy Đức Làm nội dung 2.1 10 Ngô Nhật Anh Làm nội dung 2.2 MỤC LỤC Trang
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................2
I. . CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA BÀI HỌC PHÁT HUY TÍNH NĂNG ĐỘNG CHỦ
QUAN...................................................................................................................2
1.1. Cơ sở lý luận của bài học: ‘phát huy tính năng động chủ quan”....................2
1.1.1. Nội dung phạm trù ý thức............................................................................2
1.2. Nguyên tắc phát huy tính năng động chủ quan trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn.................................................................................................................8
1.2.1. Tính năng động chủ quan............................................................................8
1.2.2. Phát huy tính năng động chủ quan trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
...............................................................................................................................9
1.2.3. Kết luận……………………………………………………………………9
II. VẬN DỤNG NỘI DUNG BÀI HỌC NÀY VÀO PHÁT HUY NHÂN TỐ CHỦ
QUAN TRONG HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY..........9
2.1. Thực trạng vận dụng bài học này vào việc phát huy nhân tố chủ quan trong
hoạt động tự học của sinh viên hiện nay...............................................................9
2.2. Các giải pháp nhắm nâng cao việc vận dụng bài học phát huy tính năg động
chủ quan trong hoạt động tự học của sinh viên...................................................10
KẾT LUẬN.........................................................................................................11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................12 MỞ ĐẦU
Triết học Mác – Lênin là khoa học về những quy luật phổ biến chung nhất của sự
vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người; trang bị cho con
người thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng duy vật đúng
đắn để nhận thức và cải tạo thế giới.
Phạm trù ý thức trong triết học Mác – Lênin được đánh giá là một trong hai phạm
trù cơ bản được các trường phái triết học quan tâm nghiên cứu, nhưng tùy theo
cách lý giải khác nhau mà có những quan niệm rất khác nhau, là cơ sở để hình
thành các trường phái triết học khác nhau, hai đường lối cơ bản độc lập nhau chính
là chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật ( bao gồm chủ nghĩa duy vật siêu hình
và chủ nghĩa duy vật biện chứng).
Triết học Mác – Lênin đã góp phần làm sáng tỏ vấn đề ý thức, mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức thông qua việc đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên và bám sát thực tiễn xã hội.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển đời sống xã hội, cần có sự phát huy tính
năng động chủ quan, tức là phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng tạo của ý
thức và vai trò nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực, năng động,
sáng tạo ấy. Điều này đòi hỏi con người phải tôn trọng tri thức khoa học; tích cực
học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học và truyền bá vào quần chúng đề
nó trở thành tri thức, niềm tin của quần chúng, hướng dẫn quần chúng hành động.
Mặt khác, phải tự giác tu dưỡng, rèn luyện để hình thành, củng cố nhân sinh quan
cách mạng, tình cảm, nghị lực cách mạng để có sự thống nhất hữu cơ giữa tính
khoa học và tính nhân văn trong định hướng hành động
Sau khi nghiên cứu môn triết học Mác – Lênin, tôi tâm huyết với đề tài cơ sở lí
luận của bài học phát huy tính năng động chủ quan, bởi vậy tôi lựa chọn nội dung:
“Cơ sở lý luận của bài học phát huy tính năng động chủ quan và vận dụng bài học
này vào việc phát huy nhân tố chủ quan trong hoạt động tự học của sinh viên hiện
nay” để viết thu hoạch. 1 NỘI DUNG
I. Cơ lý luận của bài học phát huy tính năng động chủ quan.
1.1 Cơ sở lý luận của bài học: ‘phát huy tính năng động chủ quan”
- Cơ sở lý luận của bài học:” phát huy tính năng động chủ quan” là quan điểm của
chủ nghĩa duy vật về phạm trù ý thức
1.1.1 Nội dung phạm trù ý thức * Khái niệm về ý thức:
Theo tâm lý học thì ý thức được định nghĩa là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất
chỉ có ở con người. Ý thức được hiểu theo định nghĩa của triết học Mác-Lenin là
một phạm trù song song với phạm trù vật chất.
Ý thức là trạng thái có ý thức về một cái gì đó. Cụ thể hơn, đó là khả năng trực tiếp
biết và nhận thức, cảm nhận hoặc nhận thức được các sự kiện. Một định nghĩa khác
mô tả nó là trạng thái trong đó chủ thể nhận thức được một số thông tin khi thông
tin đó trực tiếp có sẵn để thực hiện theo hướng của một loạt các hành động.
Ý thức được xác định là một khái niệm tương đối. Nó có thể tập trung vào một
trạng thái bên trong, chẳng hạn như cảm giác nội tạng, hoặc vào các sự kiện bên
ngoài bằng cách nhận thức cảm tính. Nó tương tự như cảm nhận một cái gì đó, một
quá trình phân biệt với quan sát và nhận thức (bao gồm một quá trình cơ bản làm
quen với các mục mà chúng ta nhận thức được).
Ý thức hoặc “cảm nhận” có thể được mô tả là một cái gì đó xảy ra khi não được
kích hoạt theo những cách nhất định, chẳng hạn như khi màu đỏ là những gì được
nhìn thấy sau khi võng mạc được kích thích bởi sóng ánh sáng. Việc hình thành
khái niệm này được đặt ra trong bối cảnh khó khăn trong việc phát triển một định
nghĩa phân tích về nhận thức hoặc nhận thức cảm tính.
Ý thức cũng được kết hợp với ý thức theo nghĩa là khái niệm này biểu thị một kinh
nghiệm cơ bản như cảm giác hoặc trực giác đi kèm với kinh nghiệm về hiện tượng.
Cụ thể, điều này được gọi là ý thức về kinh nghiệm. Đối với ý thức, nó đã được
mặc định là phải trải qua các cấp độ thay đổi liên tục.
Những ý kiến phổ biến về ý thức cho rằng hiện tượng mô tả một điều kiện nhận
thức về bản thân (tự nhận thức). Lý thuyết hệ thống hiện đại, cung cấp những hiểu
biết sâu sắc về cách thế giới hoạt động thông qua sự hiểu biết rằng tất cả các hệ
thống đều tuân theo các quy tắc của hệ thống, tiếp cận sự tự nhận thức trong tầm
hiểu biết của nó về cách thức hoạt động của các hệ thống sống phức tạp lớn. 2
Theo Gregory Bateson, ý thức là động lực của sự tự tổ chức và nhận thức là điều
cốt yếu trong sự tồn tại của quá trình này. Lý thuyết hệ thống hiện đại cho rằng con
người, với tư cách là hệ thống sống, không chỉ nhận thức về môi trường mà còn
nhận thức về bản thân, đặc biệt là với khả năng logic và tò mò.
Những nỗ lực để mô tả ý thức bằng các thuật ngữ thần kinh đã tập trung vào việc
mô tả các mạng lưới trong não phát triển nhận thức về trình độ được phát triển bởi
các mạng lưới khác. Khi nhận thức cung cấp các tài liệu mà từ đó người ta phát
triển các ý tưởng chủ quan về kinh nghiệm của họ, người ta nói rằng người ta nhận
thức được trạng thái nhận thức của chính mình. Tổ chức nhận thức về trải nghiệm
bên trong của chính mình được giao một vai trò trung tâm trong việc tự điều chỉnh
* Nguồn gốc của ý thức:
Theo quan điểm của các nhà triết học.
Ý thức là một trong hai phạm trù cơ bản được các trường phái triết học quan
tâm nghiên cứu, nhưng tuỳ theo cách lý giải khác nhau mà có những quan niệm rất
khác nhau, là cơ sở để hình thành các trường phái triết học khác nhau, hai đường
lối cơ bản đối lập nhau là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm: Ý thức là nguyên thể đầu tiên, tồn tại
vĩnh viễn, là nguyên nhân sinh thành, chi phối sự tồn tại, biến đổi của toàn bộ TG
vật chất. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình: ý thức cũng chỉ là một
dạng vật chất đặc biệt, do vật chất sinh sản ra. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy
vật biện chứng: “Ý niệm chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyền vào trong đầu
óc con người và được cải biến đi ở trong đó”1 * Nguồn gốc tự nhiên
Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào đầu óc con người. Phản ánh
là thuộc tính phổ biến của mọi dạng vật chất,được biểu hiện trong sự liên hệ, tác
động qua lại giữa các đối tượng vật chất với nhau. Đó là sự tái tạo những đặc điểm
của dạng vật chất khác trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Các
hình thức phản ánh: phản ánh vật lý, hoá học, phản ánh sinh học: tâm lý động vật,
phản ánh năng động, sáng tạo (ý thức).Sự xuất hiện con người và hình thành bộ óc
con người có năng lực phản ánh hiện thực khách quan là nguồn gốc tự nhiên của ý thức. * Nguồn gốc xã hội:
Nguồn gốc xã hội bao gồm: lao động và ngôn ngữ
1 C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.20, tr.35. 3
Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên để
cải biến tự nhiên tạo ra sản phẩm thoả mãn nhu cầu con người. Ph. Ăngghen đã chỉ
rõ những động lực xã hội trực tiếp thúc đẩy sự ra đời của ý thức: “Trước hết là lao
động; sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích
chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn, làm cho bộ óc đó dần dần biến
chuyển thành bộ óc con người.”2
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp và công cụ để khái quát và truyền đạt tư tưởng.
Ph. Ăngghen viết: “ Đem so sánh con người với các loài vật, người ta sẽ thấy rõ
rằng ngôn ngữ bắt nguồn từ lao động và cùng phát triển với lao động, đó là cách
giải thích duy nhất đúng về nguồn gốc của ngôn ngữ” 3
Lao động và ngôn ngữ là hai sức kích thích chủ yếu làm chuyển biến dần bộ óc của
loài vượn thành bộ óc con người và tâm lý động vật thành ý thức con người.Ý thức
là sự phản ánh hiện thức khách quan bởi bộ óc của con người, nhưng không phải cứ
có thế giới khách quan và bộ óc người là có ý thức, mà phải đặt chúng trong mối
quan hện với thực tiễn xã hội.
Xem xét nguồn gốc tự nhiên và xã hội của ý thức cho thấy ý thức xuất hiện là kết
quả của quá trình tiến hoá lâu dài của giới tự nhiên, của lịch sử trái đất, đồng thời là
kết quả trực tiếp của thực tiễn xã hội - lịch sử của con người. Trong đó, nguồn gốc
tự nhiên là điều kiện cần còn nguồn gốc xã hội là điều kiện đủ để ý thức hình thành, tồn tại và phát triển.
2 C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.20, tr.476.
3 C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.20, tr.645. 4 * Bản chất của ý thức
Lịch sử của triết học đã chứng minh bởi không hiểu được nguồn gốc ra đời của ý
thức nên chủ nghĩa duy tâm đã có những quan điểm sai lầm về bản chất ý thức và
cường điệu hoá vai trò của ý thức một cách thái quá, trừu tượng tới mức tách ra
khỏi đời sống hiện thực. Từ đó, ý thức bị biến thành thực thể tồn tại độc lập, thực
tại duy nhất và là nguồn gốc sinh ra vật chất. Ngược lại, chủ nghĩa duy vật siêu
hình đã tầm thường hoá vai trò của ý thức, coi ý thức là một dạng vật chất hoặc sự
phản ánh đơn giản, thụ động thế giới vật chất và tách rời thực tiễn xã hội đa dạng,
sinh động. Toàn bộ những quan niệm sai lầm trên đã không cho phép con người
hiểu được bản chất của ý thức cũng như biện chứng của quá trình phản ánh ý thức.
Hơn nữa, sự nhận thức đúng đắn về nguồn gốc ra đời cùng với việc nắm vững
thuyết phản ánh thì chủ nghĩa duy vật biện chứng đã luận giải một cách khoa học
về bản chất của ý thức. Suy cho cùng ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào
bộ não con người bằng cách thông qua hoạt động thực tiễn và ý thức sẽ phản ánh
thực tế khách quan về thế giới của con người.
Bàn về bản chất của ý thức, trước tiên ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan, là quá trình phản ánh tích cực và sáng tạo hiện thực khách quan của
não bộ con người. Cụ thể hơn ý thức là hình ảnh về hiện thực khách quan, không
phải là sự vật mà chỉ là hình ảnh phản ánh sự vật. Cần lưu ý rằng mặc dù ý thức và
vật chất đều là hiện thực nhưng ý thức là hiện thực chủ quan còn vật chất là hiện
thực khách quan. Ý thức là sự tồn tại phi cảm tính, đối lập với các đối tượng vật
chất và còn là cái vật chất ở bên ngoài “di chuyển” vào trong bộ não của con người,
được cải biến đi ở trong đó. Do vậy, kết quả phản ánh tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố cụ
thể là đối tượng phản ánh, điều kiện lịch sử xã hội, phẩm chất, năng lực, kinh
nghiệm sống của chủ thể phản ánh. Bên cạnh đó, ý thức còn có đặc tính tích cực,
sáng tạo, gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội như trao đổi thông tin giữa chủ thể và
đối tượng phản ánh hay xây dựng các học thuyết, lý thuyết khoa học bằng cách mô
hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần hoặc chuyển hoá mô
hình tư duy ra hiện thực khách quan rồi vận dụng để cải tạo hoạt động thực tiễn. 5
Cùng với đó, ý thức mang bản chất lịch sử - xã hội. Điều kiện lịch sử đã chứng
minh cho con người ta thấy rằng ý thức chỉ là thuộc tính phản ánh của một dạng vật
chất đặc biệt là bộ não con người hay còn có thể hiểu là chỉ có con người mới có ý
thức. Điều này được rút ra thông qua kết quả của lịch sử vận động, hoạt động thực
tiễn, và đời sống xã hội phong phú tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy ý thức hình
thành và không ngừng phát triển. Đối với mối quan hệ xã hội, ý thức là một hiện
tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn liền với
sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh học mà chủ yếu là các quy luật xã hội
do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy
định. Từ đó ta đưa ra kết luận về bản chất của ý thức chính đó chính là sự phản ảnh
chân thật và đầy đủ nhất của ý thức. Hành vi con người cũng chính là yếu tố thể
hiện bản chất của ý thức và ý thức là một hiện tượng xã hội, mang bản chất xã hội. * Kết cầu của ý thức
Ý thức có kết cấu rất phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ mật thiết với nhau.
Nếu xét theo chiều ngang thì ý thức gồm có 3 yếu tố cơ bản sau
Thứ nhất, tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của
quá trình nhận thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại ngôn ngữ
Thứ hai, tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ của con người trong
quan hệ của mình với thực tại xung quanh và đối với bản thân mình
Thứ 3, ý chí là biểu hiện sức mạnh của bản thân mỗi con người nhằm vượt
qua những cản trở trong quá trình thực hiện mục đích.
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau, song
tri thức là yếu tố quan trọng nhất. Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức, đồng
thời là nhân tố định hướng sự phát triển và mức độ biểu hiện của các yếu tố khác
trong ý thức. Như vậy, ý thức nếu thiếu tri thức thì chỉ là niềm tin mù quáng.
Ngược lại, nếu tri thức không biến thành tình cảm, niềm tin và ý chí thì bản thân nó
cũng không có vai trò gì đối với đời sống hiện thực.
Đó là ý thức xét theo chiều ngang. Còn nếu chúng ta xét theo chiều dọc thì ý thức
gồm 3 yếu tố cơ bản : thứ nhất đó là tự ý thức, thứ 2 đó là tiềm thức, thứ 3 đó là vô thức
Tự ý thức: Là ý thức về bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài 6
Tiềm thức: Là những tri thức chủ thể đã có được từ trước nhưng gần như trở
thành kỹ năng nằm trong tầng sâu của ý thức chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng
Vô thức: Là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ,
hành vi, thái độ ứng xử của con người mà chưa có sự kiểm tra, tính toán của lý trí.
Như vậy, ở phần kết cấu của ý thức chúng ta có thể thấy rằng ý thức bao gồm
các yếu tố khác nhau tùy theo cách phân chia khác nhau và nó cũng đóng vai trò rất
quan trọng trong hoạt động của con người
*Ý nghĩa phương pháp luận:
Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của nhân tố con
người; phải coi trọng vai trò của ý thức, coi trọng công tác tư tưởng và giáo dục tư
tưởng, coi trọng giáo dục lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tự tưởng Hồ Chí
Minh. Đồng thời, phải giáo dục và nâng cao trình độ tri thức khoa học, củng cố, bồi
dưỡng nhiệt tình, ý chí cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nói chung,
nhất là trong điều kiện nền văn minh trí tuệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa hiện nay;
coi trọng việc giữ gìn, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên, bảo đảm
sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học.
Phải khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí (chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu
lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực); bệnh bảo thủ trì trệ,
thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại ngồi chờ…; đặc biệt là trong quá trình đổi mới hiện nay. 7
1.2. Nguyên tắc phát huy tính năng động chủ quan trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Thực tiễn là hoạt động biến đổi thế giới khách quan, có đầy đủ tính năng
động. Tính năng động của thực tiễn được đề cập ở đây là sự thể hiện tính chủ thể
của thực tiễn, là tính nỗ lực tự giác, tính tích cực của con người trong hoạt động
thực tiễn. Mao Trạch Đông viết: "Tất cả mọi việc đều do con người tiến hành, sẽ
không có thắng lợi cuối cùng nếu không có con người kiên trì đấu tranh và thực
hiện. Nhất thiết phải có con người căn cứ vào thực tế khách quan và được tư tưởng
dẫn dắt, chỉ đạo,... thì mọi phương châm, chính sách, chiến lược, chiến thuật mới
có thể thực thực hiện được. Những tưởng chỉ là cái chủ quan, việc làm hoặc hành
động là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ quan với khách quan. Tất cả những điều
đó đều biểu hiện tính năng động đặc thù của con người. Chúng ta gọi tính năng
động này là "tính năng động tự giác" cái khiến con người khác với con vật. Tất cả
những tư tưởng có căn cứ và phù hợp với hiện thực khách quan là tư tưởng đúng
đắn, tất cả những việc làm hay hành động căn cứ vào tư tưởng đúng đắn là hành
động đúng đắn. Chúng ta cần phải phát huy những tư tưởng và hành động như vậy,
cần phải phát huy tính năng động tự giác ấy4"
1.2.1. Tính năng động chủ quan.
Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức
trong quá trình phản ánh sự vật, hiện tượng để tìm ra bản chất quy luật của nó và đề
ra đường lối, biện pháp cải biến nó phục vụ lợi ích con người đồng thời phát huy
vai trò của nhân tố con người.
Bên cạnh đó, chống tư tưởng, thái độ thụ động ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì
trệ, thiếu tính sáng tạo; mà phải biết tạo ra những điều kiện thích hợp, làm cho điều
kiện này tác động và điều kiện khác để nảy sinh ra điều kiện cần thiết cho hoạt
động của con người. Phải coi trọng vai trò của ý thức, coi trọng công tác tư tưởng
và giáo dục tư tưởng, coi trọng giáo dục lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
4 Tuyển tập Mao Trạch Đông, t.2, Nxb Nhân dân Trung Quốc, 1991, tr 477 8
1.2.2. Phát huy tính năng động chủ quan trong hoạt động nhận thức và thực tiễn
Trong thời kì toàn cầu hóa hiện nay, nhất là trong điều kiện nền văn minh trí tuệ,
kinh tế tri thức, phải giao dục và nâng cao trình độ tri thức khoa học, củng cố bồi
dưỡng nhiệt tình, ý chí cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nói chung.
Đồng thời, coi trọng việc giữ gìn, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng
viên, bảo đảm sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học. 1.2.3. Kết luận
Muốn phát huy tính năng động thực tiễn, cần phải lấy việc tuân thủ quy luật
khách quan của sự vận động vật chất làm cơ sở và tiền đề. Tính năng động của hoạt
động thực tiễn con người, về thực chất, chính là con người vận dụng tri thức về quy
luật khách quan nhằm cải tạo thế giới khách quan. Nhận thức về quy luật khách
quan càng sâu sắc, càng chắc chắn, thì càng phát huy được tính năng động của thực
tiễn. Khi rời xa quy luật khách quan và điều kiện hiện thực, con người không
những không thể phát huy tính năng động thực tiễn một cách chính xác, mà còn
gặp phải sự trừng phạt của quy luật khách quan. Mao Trạch Đông viết: "Con người
muốn giành được thắng lợi trong công việc, tức cái kết quả trong dự đoán, thì nhất
định phải làm cho tư tưởng của mình phù hợp với tính quy luật của thế giới khách
quan, nếu như không phù hợp thì sẽ chuốc lấy thất bại trong thực tiễn. Con người,
sau khi trải qua sự thất bại, đã nhận được bài học từ sự thất bại đó. Nếu biết cải
biến tự tưởng của mình cho phù hợp với tính quy luật của thế giới bên ngoài, con
người sẽ có thể biến thất bại thành thắng lợi. Câu "thất bại là mẹ thành công"
chính nhằm về đạo lý ấy" 5. Do vậy, nhất định phải kết hợp sự phát huy tính năng
động thực tiễn với việc tôn trọng quy luật khách quan, kết hợp nhiệt tình thực tiễn
cao độ thái độ khoa học hiện thực, đồng thời phải nhận thức và giải quyết đúng đắn
các quan hệ lợi ích, phải biết kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích
xã hội; phải có động cơ trong sang, thái độ thật sự khách quan, khoa học không vui
lợi trong nhận thức và hành động của mình.
II. VẬN DỤNG NỘI DUNG BÀI HỌC NÀY VÀO VIỆC PHÁT HUY NHÂN
TỐ CHỦ QUAN TRONG HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY
2.1 Thực trạng vận dụng bài học này vào việc phát huy nhân tố chủ quan
trong hoạt động tự học của sinh viên hiện nay
5 Tuyển tập Mao Trạch Đông, Sđđ., t.1, tr284 9
Với tư cách là một sinh viên đang trong quá trình trưởng thành tại ngôi trường đại
học thương mại, tôi nhận thấy:
Thực trạng việc vận dụng bài học này vào việc phát huy nhân tố chủ quan trong
hoạt động tự học của sinh viên hiện nay vẫn còn hạn chế bởi các nguyên nhân sau:
Sinh viên chưa có nhận thức đúng đắn về mục tiêu,mục đich đúng đắn trong việc
học tập cũng như trong việc tự học. Nhiều bạn vẫn còn tâm lí nghỉ xả hơi sau kì thi
THPT QG nên chưa bắt kịp tiến độ học tập trên đại học.
Sinh viên chưa có thái độ tích cực trong việc tự học,cụ thể là vẫn còn giữ thái độ
học thụ đông giống như trung học, vẫn quen với việc cần người đốc thúc mới chịu
tập trung học tập. Điều này vô tình trở thành rào cản ngăn bước các bạn.
Sinh viên chưa có được sự sáng tạo,khả năng tư duy độc lập cũng như khả năng
vận dụng lí thuyết vào thực hành,thực tiễn cuộc sống .
Sinh viên chưa nắm được phương pháp tự học phù hợp với khả năng và nhận thức
của mình để đem lại kết quả học tập như mong muốn nên chóng nản, không đủ
kiên trì để gặt hái thành công.
Bên cạnh đó,vẫn còn có rất nhiều tấm gương sinh viên nhờ tinh thần tự học,tự tìm
tòi học hỏi kết hợp cùng sự cố gắng phấn đấu trong học tập, có ý thức vươn lên để
gặt hái, đạt được những thành công, những điều mà mình mong muốn. Họ là những
con người sống bản lĩnh,có trách nhiệm với chính bản thân mình cũng như cộng
đồng và sẽ là tấm gương sáng cho chúng ta học tập và noi theo.
Việc tự học có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi sinh viên hiện nay vì
điều này sẽ giúp các sinh viên từng bước làm chủ kiến thức,phát triển tư duy từ đó
trở thành phiên bản tốt hơn của chính mình đồng thời góp phần giúp cho xã hội
ngày càng phát triển hơn.
Chính vì vậy sinh viên hiện nay cần cố gắng phát huy tính chủ động tự giác
trong học tập và rèn luyện để có thể thành công trong tương lai không xa.
2.2 Các giải pháp nhắm nâng cao việc vận dụng bài học phát huy tính năg
động chủ quan trong hoạt động tự học của sinh viên
1. Về phía các giáo viên và nhà trường
Đặt ra phần thưởng cho sinh viên hằm nâng cao tính tự học của sinh viên. (Ví dụ:
các phần học bổng, các phần thưởng ngoài,...) 10
Hỗ trợ sinh viên đưa ra mục tiêu tương lai nhằm nâng cao tính tự học của sinh viên.
(Ví dụ: Thành tích học sinh giỏi, có công việc làm ổn định trong tương lai,...)
Đưa ra các tình huống,hậu quả có thể xảy ra nếu sinh viên không có được thành
tích tốt nhằm thúc đẩy sinh viên. (Ví dụ: Mất học bổng,học lại, bị buộc rời khỏi trường,...)
Nhắc nhở sinh viên không ỷ lại vào sự thúc dục của bạn bè, phụ huynh mới học
như trước kì thi THPT QG để bắt kịp với tiến độ học tập của các trường cấp bậc Đại học.
Giúp học sinh tìm ra những hoạt động thực tiễn có thể sử dụng các kiến thức đã học
để năng cao sự hứng thú, nhu cầu học của sinh viên.
Tăng cường cơ sở vật chất (VD: thư viện, các không gian đề sinh viên có thể tự học, nghiên cứu…) 2. Về phía sinh viên
Sinh viên nên đặt ra mục tiêu cho bản thân, xây dựng nên một kế hoạch học tập,
đồng thời chọn ra phương pháp học đúng đắn cho mình nhằm nắm vững kiến thức
Nâng cao khả năng tư duy, tiếp thu bài giảng góp phần năng cao khả năng tư duy
sáng tạo, từ đó việc tự học trở nên dễ dàng hơn KẾT LUẬN
Như vậy, có thể thấy, bài học: “phát huy tính năng động chủ quan” có cơ sỏ
lý luận là quan điểm của chủ nghĩa duy vật về phạm trù ý thức. Trong đó phạm trù
ý thức là phạm trù cơ bản đóng vai trò quan trọng nhằm vật chất hóa tính tích cực,
sáng tạo và vai trò của nhân tố con người trong việc phát huy tính năng động chủ quan.
Đồng thời, việc áp dụng bài học : “phát huy tính năng động chủ quan” trong
hoạt động tự học của sinh viên hiện nay tuy còn nhiều mặt hạn chế nhưng đã có
những chuyển biến tích cực, đã nhận thức được tầm quan trọng của việc tự học.
Cũng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Nếu không chịu khó học thì
không tiến bộ được. Không tiến bộ là thoái bộ. Xã hội càng đi tới, công việc càng
nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình mà không chịu khó học thì lạc hậu, mà lạc
hậu thì bị đào thải, tự mình đào thải mình”. 11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.20, tr.476.
2. C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.20, tr.35.
3. C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.20, tr.645.
4. Tuyển tập Mao Trạch Đông, t.2, Nxb Nhân dân Trung Quốc, 1991, tr 477
5. Tuyển tập Mao Trạch Đông, Sđđ., t.1, tr284 12