lOMoARcPSD| 60794687
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lịch sử đã chứng minh, giai cấp công nhân giai cấp sứ mệnh lịch sử rất
quan trọng trong việc lãnh đạo c tầng lớp nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột
trong đấu tranh từng bước xóa bỏ chủ nghĩa tư bản xây dựng thành công chủ
nghĩa hội, đó là giai cấp tiên tiến nhất, tưởng các mạng, chính trị triệt để
nhất trong hội. Tuy rằng để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công
nhân phải trải qua những khó khăn, khổ cực, những bước thăng trầm, nhưng họ vẫn
hằng ngày, hằng giờ gắng sức hoàn thành nhiệm vụ của lịch sử giao phó.
Trước sự khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô,
nhiều người đã bộc lộ sự dao động hoài nghi về sứ mệnh lịch sử của giai cấp ng
nhân. Bọn cơ hội và các thế lực chống phá có cơ hội mới để phủ nhận sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chủ nghĩa xã hội.
vậy vấn đề sáng tỏ sứ mệnh lịch scủa giai cấp công nhân, nhất trong bối
cảnh lịch sử mới đang được đặt ra một cách bức thiết trên cả phương diện luận
lẫn thực tế.
Ở Việt Nam, giai cấp công nhân giữ một vai trò hết sức quan trọng. Là một bộ
phân của giai cấp công nhân thế giới, giai cấp công nhân Việt Nam luôn thể hiện và
phát huy tinh thần trách nhiệm của mình trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam. Bước ra từ khói lửa chiến tranh, trải qua nhiều thời kỳ thăng trầm, giai
cấp công nhân Việt Nam đã chứng minh họ những người lãnh đạo xứng đáng trong
sự nghiệp chung của đất nước. Hvẫn không ngừng đấu tranh. Trong chiến tranh thì
đấu tranh giải phóng dân tộc, trong hòa bình thì đấu tranh xây dựng đất nước.
Trong công cuộc hiện nay, công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa diễn ra
trên toàn thế giới, chủ nghĩa xã hội đang ở thời kỳ thoái trào, thời đại ngày nay vẫn
đang thời đại qđộ tchủ nghĩa bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn
thế giới còn đang nhiều biên động tiêu cực. Thì vấn đề làm sáng tỏ sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân được đặt ra càng bức thiết hơn bao giờ hết, kể cả trên
phương diện lý luận lẫn thực tiễn.
Giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử vô cùng trọng đại, xóa bỏ xã hội cũ, lạc
hậu, xây dựng hội mới tiến bộ, giải phóng giai cấp mình đồng thời giải phóng
toàn nhân loại trên phạm vi toàn thế giới. Ngày nay đứng trước tình hình phát triển
mới của đất nước thế giới, nhân loại bước vào thiên niên kỷ mới, nhiều ý kiến đặt
ra cho việc xây dựng phát triền giai cấp công nhân. Đảng ta khẳng định giai cấp
công nhân Việt Nam vẫn là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Vì thế, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không chỉ thể hiện
lOMoARcPSD| 60794687
rõ trong các văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc mà đây còn là một trong những đề
tài nghiên cứu khoa học của nhiều nhà lý luận nhà nghiên cứu lịch sử của nhiều
thế hệ công nhân, sinh viên. Sau khi học xong học phần Chủ nghĩa khoa học xã hội
và sự hướng dẫn của quý cô giáo phụ trách học phần. Dựa vào tình hình thực tế của
Việt Nam, bản thân em chọn đề tài “Tình hình phát triển giai cấp công nhân Việt
Nam trong thời kì công nghiệp hoá và hiện đại h” để góp một phần nào đó vào
việc làm sáng tỏ thêm vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.
2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
2.1 Mục đích
Mục đích của đề tài này là làm rõ bản chất của giai cấp công nhân và vai trò
của giai cấp công nhân Việt Nam trong thời công nghiệp hóa hiện đại
hóa.
2.2 Nhiệm vụ
Phân tích các quan điểm về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Liên hệ
tình hình thực tế của giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kì công nghiệp
hóa và hiện đại hóa.
2.3 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nằm trong phạm vi nghiên cứu sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân
trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sphương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng chủ nghĩa
duy vật lịch sử, đề tài sử dụng các phương pháp sau đây:
Phương pháp phân tích
Phương pháp tổng hợp
4. Kết cấu đề tài
Chương 1. Lý luận chung về sứ mệnh của giai cấp công nhân Chương 2.
Giai cấp công nhân VIệt Nam và tình hình phát triển giai cấp công nhân
trong thời kì công nghiệp hóa và hiện đại hóa
B. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỨ MỆNH CỦA
GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1.1. Khái niệm giai cấp công nhân
Khi sử dụng khái niệm giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng một số
thuật ngữ khác nhau để biểu đạt khái niệm đó, như: giai cấp vô sản, giai cấp vô sản
hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp,... Mặc dù
vậy, về bản những thuật ngữ này trước hết đều biểu thị một khái niệm thống nhất,
đó chỉ giai cấp công nhân hiện đại, con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp
lOMoARcPSD| 60794687
bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức
sản xuất hiện đại.
khái niệm giai cấp công nhân nhiều tên gọi khác nhau như thế nào đi nữa thì
theo C. Mác và Ph. Ăngghen vẫn chỉ mang hai thuộc tính cơ bản:
- Về phương thức lao động, phương thức sản xuất, đó những người lao
động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các ng cụ sản xuất nh chất
công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao.
- Về vttrong quan hệ sản xuất bản chủ nghĩa, đó những người lao
động không liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà bản
bị nhà bản c lột vgiá trị thặng dư. Thuộc tính thứ hai này nói lên
một trong những đặc trưng bản của giai cấp công nhân dưới chế độ
TBCN nên C.Mác và Ph.Ăngghen còn gọi giai cấp công nhân là giai cấp
vô sản.
Trong hai tiêu chí này, C.Mác Ph.Ăngghen tới tiêu chí một đó công nhân công
xưởng, được coi bộ phận tiêu biểu cho giai cấp công nhân hiện đại. Hai ông cho
rằng: “Các giai cấp khác đều suy tàn tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công
nghiệp, còn giai cấp sản lại sản phẩm của nền đại ng nghiệp”; “công nhân
cũng là một phát minh của thời đại mới, giống như máy móc cũng vậy ... công nhân
Anh là đứa con đầu lòng của nền đại công nghiệp hiện đại”.[2, tr610]
Với tiêu chí thứ hai, C.Mác Ph.Ăngghen cũng đặc biệt nhấn mạnh chính điều
này khiến cho người công nhân trở thành giai cấp đối kháng với giai cấp sản: giai
cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại
- tức giai cấp chỉ thể sống với điều kiện kiếm được việc làm, và chỉ kiếm
được việc làm, nếu lao động của họ làm tăng thêm bản - cũng phát triển theo.
Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để kiếm ăn từng bữa một, là một hàng
hóa, tức một món hàng đem bán như bất cứ một món hàng nào khác, thế họ
phải chịu hết smay rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường”.[3,tr35]
Tiêu chí này đã nói lên một trong những đặc trưng bản nhất của giai cấp công
nhân dưới chế độ tư bản, do đó C.Mác Ph.Ăngghen còn gọi giai cấp công nhân
giai cấp vô sản.
Tại sao C.Mác và Ph.Ăngghen lại đặc biệt nhấn mạnh hai tiêu chí trên? Sở dĩ như
vậy đây chính hai vị trí phân biệt giai cấp công nhân với các giai cấp khác trong
xã hội. Họ phải kiếm được việc làm và họ phải kiếm được việc làm khi họ bán được
sức lao động.
lOMoARcPSD| 60794687
Giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông nhân có sự khác nhau. Hai khái niệm về
hai giai cấp này khác nhau ở chỗ: Nông dân sử dụng tất cả các công cụ sản xuất để
tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh; sản phẩm của nông dân mang tính chất cá nhân và
công cụ sản xuất của họ còn thô sơ. Còn giai cấp công nhân có khác: công csản
xuất hiện đại; mỗi công nhân là một mắt khâu của công việc sản xuất; sản phẩm của
họ mang tính chất xã hội.
Giai cấp công nhân cũng khác với sản. Đó giai cấp công nhân không
liệu sản xuất, họ tồn tại được là nhờ bị bóc lột giá trị thặng dư. Còn giai cấp tư sản,
họ có nhiều tư liệu sản xuất nhưng lại không có sức lao động, họ phải thuê giai cấp
công nhân bóc lột sức lao động của giai cấp công nhân để tồn tại. Đây chính
hai mặt của một vấn đề.
Dưới chế độ chủ nghĩa bản, giai cấp công nhân lại những người lao động tự
do, những người bán sức lao động đsống, họ những người làm công ăn lương
(hay làm thuê), là lao động trong lĩnh vực công nghiệp.
Ngày nay, với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trong nửa sau của thế kỷ XX, bộ
mặt của giai cấp công nhân hiện đại nhiều thay đổi khác trước. Từ dự kiến của
C.Mác Ph.Ăngghen, giai cấp công nhân xét về diện mạo nhiều biến đổi. Chính
sự phát triển của lực lượng sản xuất hội hiện nay đã vượt xa trình độ văn minh
công nghiệp trước đây, sự xã hội hoá và phân công lao động xã hội mới, cơ cấu của
giai cấp công nhân hiện đại; các hình thức bóc lột giá trị thặng ... đã làm cho diện
mạo của giai cấp công nhân hiện đại không còn giống với những tả của C.Mác
trong thế kỷ XIX. Tuy thế nhưng giai cấp công nhân hiện đại vẫn tồn tại, vẫn có sứ
mệnh lịch sử của mình trong hội tư bản hiện đại; những thuộc tính bản của giai
cấp công nhân mà C.Mác đã phát hiện ra vẫn còn nguyên giá trị.
Hiện nay, cấu ngành nghề của giai cấp công nhân đã có nhiều thay đổi to lớn.
Bên cạnh lực lượng công nhân truyền thống, xuất hiện công nhân trình độ tự động
hoá với việc áp dụng phổ biến công nghthông tin vào sản xuất. Bên cạnh những
ngành công nghiệp truyển thống, xuất hiện công nhân hoạt độnglĩnh vực dịch vụ.
Thực tế các nước tư bản, công nhân trong các ngành dịch vụ này chiếm 50% đến
70% lao động. Tuy nhiên, điều này không hể làm giảm vai trò của giai cấp công nhân
trong nền kinh tế ngay cả tỷ trọng của giai cấp công nhân trong dân cư. Bởi
những người làm thuê trong các ngành dịch vụ gắn liền với công nghiệp hoạt
động theo lối công nghiệp vẫn công nhân xét cả trên hai thuộc tính vgiai cấp
công nhân. Mặt khác, n cạnh trình độ thấp của giai cấp công nhân truyền thống đã
xuất công nhân trình độ cao, xu hướng “tri thức hoá” cũng ngày càng tiếp
thu thêm đông đảo những người thuộc tầng lớp trí thức vào hàng ngũ của mình. Mặc
lOMoARcPSD| 60794687
dù vậy, bản chất về giai cấp công nhân cũng không hề thay đổi. Nếu trước kia, công
nhân bán sức lao động chân tay là chủ yếu thì nay, họ bán cả sức lao động chân tay
lao động trí óc, giá trị ngày càng lớn và do đó càng bị bóc lột giá trị thặng dư theo
chiều sâu. Giai cấp công nhân bắt đầu có sự thay đổi về tài sản. Phần lớn, họ không
còn là những người sản trần trụi với hai bàn tay trắng, họ đã có một số tư liệu
sản xuất phụ thể cùng gia đình làm thêm; một số công nhân đã cổ phần, cổ
phiếu nghiệp. Tuy vậy nhưng nó cũng không làm thay đổi toàn bộ lực lượng sản
xuất bản nhất, quyết định nhất đối với nền sản xuất bản chủ nghĩa, họ vẫn b
bóc lột dưới những hình thức khác nhau.
Có thể nói, những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về hai tiêu chí bản của
giai cấp công nhân cho đến nay vẫn còn nguyên gtrị, vẫn sở phương pháp
luận để chúng ta nghiên cứu giai cấp công nhân hiện đại, đặc biệt là để làm sáng tỏ
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay. Từ hai tiêu chí trên
ta có thể định nghĩa: “Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành
phát triển cùng với quá trình hình thành phát triển của nền công nghiệp hiện
đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng
cao; là lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản
xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; lực lượng chủ
yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”.[1,tr55]
1.2. Vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân
Một trong những phát hiện vĩ đại của Mác, Ăngghen đã sớm biết tách riêng
giai cấp sản ra đời từ khối quần chúng bị áp bức, phát hiện ra vị trí đặc biệt
những xu hướng lịch sử của nó. Từ đó khẳng định sứ mệnh lớn của giai cấpsản
và chỉ ra những phương pháp thực hiện sứ mệnh đó.
luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân một trong những vấn đề
chủ yếu nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nó đã được Mác, Ăngghen luận chứng một
cách khoa học xuyên suốt trong nhiều tác phẩm được Lênin tiếp tục phát triển
trong những điều kiện lịch sử mới.
Ngay từ cuối năm 1944, trong tác phẩm góp phần phê phán triết học” Pháp
quyền của Hê-Ghen, lần đầu tiên Mác đã nêu n vấn đsứ mệnh lịch sử của giai cấp
sản những điều kiện qua đó xóa bỏ mối quan hệ bóc lột bản chnghĩa,
thiết lập quan hệ xã hội mới. Đến bản “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” và bộ “Tư
bản” thì luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đã phát triển đến một
mức độ nhất định. “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” một khái quát về luận
phong trào TBCN vạch sở kinh tế của cấu hội những xu hướng tiếp
lOMoARcPSD| 60794687
tục phát triển của nó, đặt sở cho việc giải thích vai trò của giai cấp công nhân
trong việc xây dựng CNXH. Đến thời kì này, nhiều phạm trù, khái niệmbản nhất
đã được xác lập và sau đó được tiếp tục phát triển.
Trong điều kiện mới Lênin đã phát triển luận Maxit về giai cấp công nhân
như điều chủ yếu của học thuyết Mác”. Trong tất cả mọi giai đoạn đấu tranh
một thế giới mới, chủ nghĩa cộng sản, giai cấp công nhân lãnh tụ của phong
trào cách mạng, là người lãnh đạo của nhân dân lao động. Lênin đã cụ thể hóa sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân trong điều kiện của cách mạng sản và chuyên
chính vô sản.
Lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được
thể hiện ở một số luận điểm cơ bản sau:
+ Giai cấp công nhân là người đào mộ chôn CNTB và người sáng tạo ra xã hội
mới.
+ Giai cấp công nhân lãnh đạo trong phong trào cách mạng giải phóng của
quần chúng bị áp bức trong xã hội hiện tại.
+ Lợi ích giai cấp sản và sản đối lập và không điều hòa được. Cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản là tất yếu và sẽ dẫn đến chuyên
chính vô sản.
+ Giai cấp sản phải hiểu sứ mệnh của mình. Chủ nghĩa Mác-Lênin là điều
kiện ắt có, cơ bản để giai cấp sản từ giai cấp “tự nó” chuyển thành giai cấp
“vì nó”.
+ Sự ra đời của Đảng Cộng sản là tất yếu khách quan, ĐCS là sản phẩm của sự
kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và nhân tquyết định
thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp sản. Vai trò, sứ mệnh của
giai cấp sản luôn vấn đề trung tâm trong suốt một cuộc đấu tranh chính trị
- tưởng lâu dài và quyết liệt từ khi chủ nghĩa Mác- Lênin ra đời các giai
đoạn phát triển sau đó.
Hình thức khá phổ biến của sự phủ nhận vai trò của giai cấp vô sản sự công
kích khái niệm khoa học của Mác, Ăngghen về giai cấp sản. Một số người nêu
lên tư tưởng “phi kinh tế” về giai cấp để xóa mờ quan niệm của chủ nghĩa Mác cho
rằng giai cấp vừa là phạm trù kinh tế vừa là một phạm trù xã hội. Không thể khẳng
định giai cấp sản một cách tủy tiện, không tính đến vấn đề chiếm hữu - sở hữu
liệu sản xuất, hơn nữ lại chỉ coi đó là một hiện tượng tâm lý. Một số người khác lại
cho rằng không một giai cấp công nhân được xác định ràng. Điểm tựa của
lOMoARcPSD| 60794687
những luận điểm xuyên tạc phạm trù giai cấp nói trên chỗ không xem quan hệ
sở hữu tư liệu sản xuất như là một tiêu chuẩn khách quan để xem xét sản xuất.
Ngày nay trước sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - kỹ thuật
những hệ quả mà tạo ra, một lập luận phổ biến chống lại sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân cho rằng lý luận Mác - Lênin về vấn đề này là lỗi thời, giai cấp vô sản sẽ
bị xói mòn, thậm chí tiêu vong trước sự phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật.
Theo họ, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã đang tạo ra những biến đổi sâu
sắc trong sự phân ng lao động hội, hiện tượng “trí thức hóa lao động” phát triển
mạnh tỷ llao động ngày càng tăng cao hơn so với lao động chân ta, cấu hội
chủ nghĩa xã hội sẽ thay đổi mạnh.
Họ cũng cho rằng vai trò kinh tế của giai cấp công nhân sẽ giảm dần trong
tương lai, giai cấp công nhân sẽ biến mất. Một số nhà lý luận tư sản khác tuy không
đồng ý rằng giai cấp công nhân sẽ biến mất. Một số nhà luận sản khác tuy không
đồng ý rằng giai cấp công nhân sẽ biến mất, nhưng lại cho rằng giai cấp công nhân
không còn là nhân vật chủ yếu của lịch sử.
Cách mạng khoa học kỹ thuật có đem đến những biến đổi trong phân công lao
động hội trong nội dung, phương thức lao động, trong thành phần giai cấp vô sản.
Thế nhưng điều đó hoàn toàn “không xóa mờ” quan hsản xuất TBCN mâu thuẫn
giữa lao động với tư bản. Trí thức không là một giai cấp mà chỉ là một tẩng lớp đặc
biệt thuộc nhiều giai cấp khác. Sự ngăn cách giữa lao động chân tay và lao động trí
óc là một sai lầm về lý luận. Cách mạng khoa học kỹ thuật làm cho thành phần giai
cấp công nhân thêm đa dạng, bao gồm cả lao động chân tay lao động trí óc, lao
động trong khu vực sản xuất vật chất và dịch vụ…. Quá trình trí thức hóa phát triển
sẽ thể đưa tới một tầng lớp đặc biệt trong giai cấp công nhân chứ không hxóa
bỏ giai cấp công nhân. Nhìn chung cách mạng Khoa học kỹ thuật slàm cho giai cấp
công nhân phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng.
Ngày nay, sau sự sụp đổ của hình Chủ nghĩa hội nhiều nước, các nhà
lý luận tư sản lại một lần nữa cao giọng cho rằng họ đang nói “những lời cuối cùng
cho Mác” cho lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Sự sụp đổ của
mô hình CNXH ở một số nước vừa qua không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa Mác
và lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Trái lại, ở nhiều nguyên nhân
của cuộc khủng hoảng sự sụp đổ đó là xuất phát từ chỗ không nắm vững vai trò nh
đạo của giai cấp công nhân và không thực hiện chuyên chính vô sản một cách đúng
đắn, mơ hồ về mâu thuẫn giai cấp trên bình diện thế giới.
lOMoARcPSD| 60794687
1.3. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về nội dung sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân cho đến nay vẫn giữ nguyên giá trị khoa học thực
tiễn. Bởi vì, những nguyên lý cơ bản đó được chủ nghĩa Mác Lênin khái quát từ
thực tiễn sản xuất, kinh tế và phát triển trong CNTB gắn với sự phát triển của nền
công nghiệp ngày càng hiện đại, có thể khái quát nội dung cơ bản sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân qua mấy điểm sau đây:
Một là, ngay trong CNTB hàng thế kỷ nay, cũng như trong CNXH, giai cấp
công nhân trước hết phải được đảm nhận sứ mệnh trực tiếp là chủ thể lao động sản
xuất công nghiệp để đóng góp cho hội những sản phẩm vật chất tinh thần
ngày càng hiện đại hơn. Tách rời sản xuất công nghiệp, giai cấp công nhân không
còn mình nữa. Những thành tựu to lớn về sản xuất CNTB hàng thế kỷ nay và
những thành tựu bước đầu trong xây dựng CNXH đều có sự đóng góp rất to lớn và
quyết định nhất của giai đoạn công dân. Slượng chất lượng giai cấp công nhân
ngày càng tăng. Cả trong CNTB trong chủ nghĩa hội, nếu để giai cấp công
nhân không việc làm, không phát triển sản xuất công nghiệp hiện đại thi công
gạt bỏ một nội dung bản nhất của sứ mệnh lịch sử giai cấp công nghiệp.
CNXH đang sẽ từng bước khắc phục tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm
nghèo khổ của giai cấp công nhân, điều do bản chấ của nh, chế độ bản chủ
nghĩa qua 4 thế kỷ nay đã không giải quyết được.
Hai là, giai cấp ng nhân phải có những hoạt dộng chính trị, tưởng, tổ chức
để thông qua Đảng của mình lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền, xóa bỏ
chế độ kinh tế - chính trị và xã hội cũ, bảo vệ chính quyền mới của mình.
Ba là, giai cấp công nhân thông qua Đảng của nh lãnh đạo toàn hội trên
lĩnh vực chính trị - kinh tế - văn hóa - hội nhất vkinh tế, để từng bước
hình thành và phát triển xã hội mới – xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Đây
nội dung bản nhất quyết định nhất, phức tạp lâu i nhất trong sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân. Không thể nhận thức hoạt động chủ quan, duy ý
chí, giản đơn, nóng vội cũng không thể mơ hồ, hữu khuynh dẫn đến tự phát tư bản
chủ nghĩa.
Bốn là, giai cấp ng nhân mỗi nước luôn luôn mở rộng ng cường hợp
tác quốc tế với giai cấp công nhân nhân dân lao động tất cả các nước hòa
bình, độc lập, tự do, dân chủ tiến bộ hội. Đây nội dung thể hiện bản chất
quốc tế của giai cấp công nhân.
lOMoARcPSD| 60794687
Năm là, giai cấp công nhân Đảng cộng sản thường xuyên đấu tranh chống
mọi thứ chủ nghĩa cơ hội, bọn phản động, đầu tranh chống lại mọi thể lực thù địch
của nhân dân với Chủ nghĩa xã hội.
1.4. Những điều kiện quy định và thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân
1.4.1. Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh của giai cấp công nhân
Học thuyết C.Mác Ph.Ăngghen về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
luận chứng khoa học về địa vị kinh tế xã hội vai trò lịch sử của giai cấp công
nhân, về mục tiêu con đường để giai cấp đó hoàn thành sứ mệnh lịch sử của nh.
Học thuyết đã chứng minh sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được quy định
bởi những điều kiện kinh tế, xã hội khách quan.
a. Về địa vị kinh tế của giai cấp công nhân:
Dưới CNTB, giai cấp công nhân sản phẩm của nền đại công nghiệp TBCN,
ra đời phát triển cùng với sự hình thành phát triển của nền đại công nghiệp
TBCN, được nền sản xuất công nghiệp hiện đại rèn dũa tổ chức lại thành một lực
lượng hội hùng mạnh. Đại công nghiệp càng phát triển, tập trung làm psản
những người sản xuất hàng hoá nhỏ, bổ sung lực lượng cho giai cấp công nhân. Mặt
khác, đại công nghiệp phát triển tiếp tục bổ sung lực lượng cho giai cấp công nhân,
thu hút lực lượng lao động từ nhiều ngành, nhiều nghề khác nhau tạo nên tập đoàn
hùng mạnh. Bản thân sự phát triển nền đại công nghiệp ng yêu cầu cao với từng
người lao động, tập thể lao động về tác phong lao động, kỷ luật lao động...
Dưới CNTB, giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất trong các bộ phận
tiêu biểu cấu thành của lực lượng sản xuất của hội bản. Họ đại diện cho lực
lượng sản xuất tiên tiến nhất với trình độ hội hoá ngày càng cao. Nhưng CNTB
lại được xây dựng trên nền tảng của chế độ chiếm hữu tư nhân vlệu sản xuất
giai cấp tư sản là đại diện. Bởi thể, ở phương thức sản xuất TBCN luôn luôn tồn tại
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tính chất hội hoá ngày càng cao (mà giai
cấp công nhân là đại diện) với quan hệ sản xuất có tính chất chiếm hữu tư nhân (mà
giai cấp tư sản là đại diện). Đây mâu thuẫn bản vớc không thể khắc phục
được nếu không xoá bỏ được chế đbản. Biểu hiện về mặt chính trị, xã hội của
mâu thuẫn bản đó mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân giai cấp sản. Sự
vận động phát triển của những u thuẫn tất yếu trên dẫn đến ch mạng hội chủ
nghĩa, dẫn tới sự sụp đcủa chủ nghĩa bản thắng lợi của chủ nghĩa hội. N
vậy giai cấp công nhân gắn liền với nền lao động sản xuất vật chất, đi liền sự phát
triển của công nghiệp ngày càng hiện đại kể cả khi xuất hiện nền kinh tế tri thức.
lOMoARcPSD| 60794687
Do không liệu sản xuất, giai cấp công nhân phải bán sức lao động làm
thuê, bị nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư, bị lệ thuộc hoàn toàn vào quá trình
phân phối các kết quả lao động của chính họ. Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa,
giai cấp công nhân bị toàn bộ giai cấp tư sản bóc lột, là giai cấp trực tiếp đối kháng
với giai cấp sản, không quyền trong tổ chức, điều hành lao động, phân phối sản
phẩm lao động. Do đó giai cấp công nhân không được làm chủ trong hội tư bản
chủ nghĩaHbị bần cùng hoá so với giai cấp sản (bị bóc lột trong qtrình sản
xuất, ngoài quá trình sản xuất và bị bóc lột theo chiều sâu).
Giai cấp công nhân hiện nay ở các nước tư bản có đời sống vật chất cao vẫn bị
bóc lột, bần cùng hoá theo đúng nghĩa của nó. Công nhân cổ phần, tức đã ra
nhập vào quá trình sản xuất, điều hành sản xuất đó công nhân bản nhân n
nhưng con số này vẫn còn rất khiêm tốn. Còn ở các nớc tư bản phá triển, công nhân
bị bóc lột cao hơn rất nhiều, từ 200% tới 300% sự chênh lệch giàu nghèo ng
khá cao. Trong tất cả các giai cấp đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp
công nhân là thực sự ch mạng nó là sản phẩm của nền đại công nghiệp, đại diện
cho lực lượng sản xuất với trình độ xã hội hoá ngày càng cao, và nó lao động trong
nền đại công nghiệp với trình độ công nghệ ngày càng hiện đại và sản xuất ra tuyệt
đại của cải cho xã hội.
Từ địa vị giai cấp công nhân giai cấp công nhân lợi ích bản thống nhất
với lợi ích của đông đảo nhân dân lao động đã tạo điều kiện cho giai cấp công nhân
đoàn kết với giai cấp khác, đi đầu trong công cuộc đấu tranh để thực hiện quá trình
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Họ có khả năng đoàn kết giai cấp khác (tất cả
giai cấp sản) giai cấp công nhân: cùng lợi ích bản, thống nhất nhau do bị
bóc lột giá trị thặng dư; cùng tồn tại trong một môi trường sản xuất nh nhau có tính
chất công nghiệp thậm chí dịch vụ; có cùng tư bản trong nước và quốc tế bóc lột;
cùng mục tiêu, sứ mệnh lịch sử tiêu diệt tư sản, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
b. Về đặc điểm chính trị, xã hội
Địa vị kinh tế - hội đã tạo cho giai cấp công nhân những đặc điểm chính
trị - hội những giai cấp khác không thể có được, đó những đặc điểm bản
sau đây:
Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng.
Giai cấp công nhân giai cấp tiên phong cách mạng họ đại biểu cho phương
thức sản xuất tiên tiến, gắn liền với những thành tựu khoa học công nghệ hiện
đại. Đó là giai cấp đuợc trang bị bởi một lý luận khoa học, cách mạng và luôn luôn
đi đầu trong mọi phong trào cách mạng theo mục tiêu xóa bỏ xã hội cũ lạc hậu, xây
lOMoARcPSD| 60794687
dựng hội mới tiến bộ, nhờ đó thể tập hợp được đông đảo các giai cấp, tầng lớp
khác vào phong trào cách mạng.
Thứ hai, giai cấp công nhân giai cấp tinh thần cách mạng triệt để nhất
thời đại ngày nay.
Trong cuộc cách mạng sản, giai cấp sản chỉ tinh thần cách mạng trong
thời kỳ đấu tranh chống chế độ phong kiến, còn khi giai cấp này đã giành được chính
quyền thì hquay trở lại bóc lột giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, những giai
cấp đã từng kề vai sát cánh với giai cấp này trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản.
Khác với giai cấp tư sản, giai cấp công nhân bị giai cấp tư sản bóc lột, có lợi ích cơ
bản đối lập trực tiếp với lợi ích của giai cấp sản. Điều kiện sống, điều kiện lao
động trong chế độ tư bản chủ nghĩa đã chcho hthấy: họ chỉ thể được giải phóng
bằng giải phóng toàn xã hội khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa.
Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C.Mác Ph.Ăngghen đã chỉ rõ:
“Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp sản thì chỉ có giai cấp vô
sản giai cấp thật sự cách mạng... Các tầng lớp trung đẳng những tiểu công
nghiệp, tiểu thương, thợ thủ công và nông dân, tất cả đều đấu tranh chống giai cấp
sản để cứu lấy sự sống còn của họ với tính cách những tầng lớp trung đẳng.
Cho nên họ không cách mạng mà bảo thủ”.
Thứ ba, giai cấp công nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật cao.
Giai cấp công nhân lao động trong nền sản xuất đại công nghiệp với hệ thống
sản xuất mang tính chất dây chuyền và nhịp độ làm việc khẩn trương buộc giai cấp
này phải tuân thủ nghiêm ngặt kỷ luật lao động; cùng với cuộc sống đô thị tập trung
đã tạo nên tính tổ chức, kỷ luật chặt chẽ cho giai cấp công nhân.
Tính tổ chức kỷ luật cao của giai cấp này được tăng cường khi phát triển
thành một lực lượng chính trị lớn mạnh, tổ chức: được sự giác ngộ bởi một
luận khoa học, cách mạng tổ chức ra được chính đảng nó - đảng cộng sản. Giai
cấp công nhân không ý thức tổ chức kỷ luật cao thì không thể giành được thắng
lợi trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản và xây dựng chế độ xã hội mới.
Thứ tư, giai cấp công nhân có bản chất quốc tế.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, giai cấp tư sản một lực ợng quốc tế.
Giai cấp sản không chỉ bóc lột giai cấp công nhân chính nước họ còn bóc
lột giai cấp công nhân các nước thuộc địa. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ
của lực lượng sản xuất, sản xuất mang tính toàn cầu hóa. bản của nước này có
thể đầu sang nước khác một xu hướng khách quan. Nhiều sản phẩm không phải
lOMoARcPSD| 60794687
do một nước sản xuất ra kết quả lao động của nhiều quốc gia. Vì thế, phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân không chỉ diễn ra đơn ltừng doanh nghiệp,
mỗi quốc gia ngày càng phải có sự gắn giữa phong trào công nhân các nước,
có nvậy, phong trào ng nhân mới thể giành được thắng lợi. V.I.Lênin chỉ rõ:
“... không sự ủng hộ của cách mạng quốc tế của thế giới thì thắng lợi của cách
mạng vô sản là không thể có được”, “Tư bản là một lực lượng quốc tế. Muốn thắng
nó, cần phải có sự liên minh quốc tế”.
Tóm lại, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân sở được thực hiện bởi giai
cấp công nhân, một giai cấp cách mạng, đại biểu cho lực lượng sản xuất hiện
đại, cho phương thức sản xuất tiên tiến thay thế phương thức sản xuất bản chủ
nghĩa, xác lập phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa, hình thái kinh tế hội
cộng sản chủ nghĩa. Giai cấp công nhân giai cấp đại biểu cho tương lai, cho xu thế
đi lên của tiến trình phát triển lịch sử. Đây đặc tính quan trọng, quyết định bản
chất cách mạng của giai cấp ng nhân. Hoàn toàn không phải nghèo khổ giai
cấp công nhân một giai cấp ch mạng. Tình trạng nghèo khổ của giai cấp công
nhân dưới chù nghĩa tư bản là hậu quả của sự bóc lột, áp bức mà giai cấp tư sản
chủ nghĩa tư bản tạo ra đối với công nhân. Đó là trạng thái mà cách mạng sẽ xóa bỏ
để giải phóng giai cấp công nhân giải phóng hội. 1.4.2. Điều kiện chquan
để giai cấp công nhân thực hiện smệnh lịch sử Chnghĩa Mác - Lênin chỉ ra
những điều kiên thuộ c về nhân tố chquan để giai cấp công nhân hoàn thành sứ
mênh lịch sử của mình. Đó là:
Sự phát tri
n của bản thân giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng.
Thông qua sự phát triển này thể thấy sự lớn mạnh của giai cấp công nhân cùng
với quy phát triển của nền sản xuất vât chất hiệ n đại trên nền tảng của công
nghiêp, của kỹ thuậ t và công nghệ .
giai cấp đại diên tiêu biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, chất lượng
giai cấp công nhân còn phải thể hiên năng lực trình độ làm chủ khoa học kỹ
thuât công nghệ hiệ n đại, nhất trong điều kiệ n hiệ n nay. Cuộ c cách mạng
công nghiêp lần thứ 4 (4.0) đang tác độ ng sâu sắc vào sản xuất, vào quản lý và đờị
sống hôi nói chung, đang đòi hỏi sự biến đổi sâu sắc tính chất, phương thức laọ
đông của công nhân, lao độ ng bằng trí óc, bằng năng lực trí tuệ , bằng sức sáng tạọ
sẽ ngày càng tăng lên, lao đông giản n, bắp trong truyền thống sẽ giảm dầ bởi
sự hỗ trợ của máy móc, của công nghê hiệ n đại, trong đó vai trò của công
nghê
thông tin. Trình độ học vấn, tay nghề, bậ c thợ của công nhân, văn hóa sả xuất, văn
hóa lao đông đáp ứng yêu cầu của kinh tế tri thức là những thước đọ quan trọng về
sự phát triển chất lượng của giai cấp công nhân hiên đại.
lOMoARcPSD| 60794687
Chỉ với sự phát triển như vây về số lượng chất lượng, đặc biệ t về chấ
lượng thì giai cấp công nhân mới thể thực hiên được sứ mệ nh lịch sử của giaị
cấp mình.
Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan quan trọng nhất đ
giai cấp công
nhân thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình.[1,tr63]
Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân ra đời đảm nhận
vai trò lãnh đạo cuộc cách mạng dấu hiệu về sự trưởng thành vượt bậc của giai
cấp công nhân với tư cách là giai cấp cách mạng.
Quy luât chung, phổ biến cho sự ra đời của Đảng C ng sản sự kết hợp
giữa chủ nghĩa hôi khoa học, tức chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân.
Giai cấp công nhân sở hôi nguồn bsung lực lượng quan trọng
nhất của Đảng, làm cho Đảng mang bản chất giai cấp công nhân trở thành đôi tiê
phong, bô tham mưu chiến đấu của giai cấp. Đảng Cộ ng sản đại biểu trung
thàn cho lợi ích của giai cấp công nhân, của dân tôc hộ i. Sức mạnh của Đảng
không chỉ thể hiên ở bản chất giai cấp công nhân mà còn ở mối liên hệ mậ t thiế
giữa Đảng với nhân dân, với quần chúng lao đông đông đảo trong hộ i, thực hiệ
cuôc cách mạng do Đảng lãnh đạo đgiải phóng giai cấp giải phóng xã hộ
i.
Ngoài hai điều kiên thuộ c vnhân tố chủ quan nêu trên chủ nghĩa Mác - Lênin
còn chỉ rõ, để cuôc cách mạng thực hiệ n sứ mệ nh lịch sử của giai cấp công
nhân đi
tới thắng lợi, phải có sự liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân với giai cấp ng
n và các tầng lớp lao đông khác do giai cấp công nhân thông qua độ tiên phong
của nó là Đảng Công sản lãnh đạo.
Tóm lại, chỉ duy nhất giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử a bỏ chủ nghĩa
tư bản, từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn
thế giới.
lOMoARcPSD| 60794687
CHƯƠNG 2. GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM VÀ TÌNH HÌNH PHÁT
TRIỂN GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRONG THỜI KÌ CÔNG NGHIỆP HÓA
VÀ HIỆN ĐẠI HÓA
2.1. Sự ra đời và phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam
Giai cấp công nhân (GCCN) Việt Nam ra đời phát triển gắn liền với quá
trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp những năm cuối thế kỷ XIX. Trước khi
thực dân Pháp nổ súng xâm lược, hội Việt Nam vẫn một hội phong kiến với
hai giai cấp cơ bản là giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp nông dân; duy trì nền
kinh tế lạc hậu dựa vào sản xuất tiểu nông là chính, cơ sở kinh tế công nghiệp, dịch
vụ chưa phát triển. Sau khi cuộc xâm lăng bình định đã cơ bản hoàn thành, thực
dân Pháp liền bắt tay tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ nhất với quy mô mở rộng
ra cả nước. Các nmáy rượu bia, vải sợi, điện nước, ngành đường sắt, hầm mỏ, đồn
điền cao su, cà phê...lần lượt ra đời và cùng với đó đội ngũ những người công nhân
Việt Nam đầu tiên được hình thành. Họ những người ng dân bị tước đoạt hết
ruộng đất, những người thợ thủ công bị phá sản buộc phải o làm việc trong các
doanh nghiệp bản Pháp. Theo số liệu thống trước chiến tranh thế giới lần thứ
nhất, tổng số công nhân của Việt Nam khoảng tn 10 vạn người, chủ yếu tập trung
một số thành phố lớn như: Nội, Sài Gòn - Chợ Lớn, Hải Phòng vùng mỏ
Quảng Ninh…[5,tr1]
Sau chiến tranh thế giới lần thnhất, để bù đắp những tổn thất, thực dân Pháp
đã tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai với quy tốc độ lớn hơn trước.
Chúng tăng cường đầu tư vào các ngành khai khoáng, giao thông vận tải, đồn điền,
công nghiệp chế biến, dệt may...nhằm tăng cường vét bóc lột ở các nước thuộc
địa. Thời kỳ này, số lượng công nhân Việt Nam đã phát triển nhanh chóng lên đến
trên 22 vạn người vào đầu năm 1929.
Dưới sự áp bức bóc lột hà khắc của thực dân, phong kiến, giai cấp công nhân
Việt Nam đã đoàn kết, tổ chức tập hợp nhau lại đấu tranh đòi quyền lợi, dẫn đến hình
thành các Hội Ái hữu, Hội Tương tế trong các nhà máy, nghiệp. Cuối năm 1920,
người công nhân yêu nước Tôn Đức Thắng đã vận động thành lập Công hội Ba Son
Sài Gòn, mở đầu cho phong trào đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc.
Là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở
Việt Nam, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ đầu thế kỉ này, lớp công nhân đầu
tiên xuất hiện gắn liền với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897) và thực sự
trở thành giai cấp công nhân Việt Nam từ thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ hai
(1924 1929). Cùng với quá trình phát triển cách mạng, giai cấp công nhân Việt
Nam sớm trở thành bộ phận của đội ngũ công nhân quốc tế. Giai cấp ng nhân Việt
lOMoARcPSD| 60794687
Nam 1 bộ phận của giai cấp công nhân quốc tế nên đặc điểm chung của giai
cấp công nhân quốc tế. Bên cạnh đó, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời phát
triển trong điều kiện cụ thể của dân tộc Việt Nam nên còn có những đặc điểm riêng,
ảnh hưởng đến việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt
Nam
Thứ nhất, sinh ra và lớn lên từ một nước vốn là thuộc địa, nửa phong kiến,
truyền thống yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc, còn non trẻ, nhỏ bé, song giai cấp
công nhân sớm trở thành giai cấp duy nhất được lịch sử, dân tộc được thừa nhận và
giao psứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ sau các phong trào cứu nước
theo lập trường Cần Vương, lập trường tư bản và tiêu tư bản thất bại.
Thứ hai, ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa mới lớn lên đã tiếp thu chủ
nghĩa Mác-Lênin, hệ tưởng của giai cấp công nhân quốc tế, nhanh chóng trở thành
lực lượng chính trị tự giác thống nhất được chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục, đã sớm
giác ngộ mục tiêu cách mạng triệt để.
Thứ ba, giai cấp công nhân nước ta xuất thân từ nông dân lao động thực dân
phong kiên bóc lột, bần cùng hóa nên có quan hệ máu thịt với giai cấp nông dân và
các tầng lớp lao động khác. Qua thử thách của cách mạng, liên minh đã trở thành
động lực và là cơ sở vững chắc cho khối đại đoàn kết dân tộc.
Thứ tư, từ khi trở thành giai cấp cầm quyền, giai cấp công nhân Việt Nam luôn
phát huy bản chất cách mạng trong xây dựng bảo vệ tổ quốc, luôn lực lượng đi
đầu lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, snghiệp đây mạng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa xây dựng và phát triển nền kinh tế công nghiệp và nền kinh tế tri thức hiện đại.
Thứ năm, quá trình “tri thức hóa” giai cấp công nhân diễn ra mạnh mẽ, từng
bước hình thành giai cấp công nhân tri thức Việt Nam. Việc hình thành giai cấp công
nhân tri thức không có nghĩa là sự bổ sung và lực lượng giai cấp công nhân có trình
độ cao mà là giai cấp công nhân được điều khiển những công nghệ tự động hóa của
nền kinh tế tri thức.
Vậy sự ra đời phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam ảnh hưởng
đến quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân nước ta trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2.2. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình công
nghiệp hóa và hiện đại hóa
Đầu tiên khi nói tới smệnh lịch sử của công nhân ta đã từng biết tới sứ mệnh
của họ trên toàn thế giới của giai cấp công nhân do C. Mác (1818 – 1883) phát hiện
lOMoARcPSD| 60794687
luận chứng từ cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên, đến nay đã trải qua ba lần
tiến hóa. Những nội hàm bản của luận này đã thể hiện tiếp tục được bổ sung
từ thực tiễn các cuộc công nghiệp và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay sự phát
triển của công nghiệp 4.0, vđại thể, sẽ vẫn tiếp tục những lí luận những nội dung
C. Mác đã đưa ra, tiếp nối nội dung smệnh lịch scủa giai cấp công nhân trong
thời đại phát triển thông tin.
Hiện nay chúng ta ng thể dễ dàng nhận thấy sự phát triển không ngừng và vượt
trội của cách mạng công nghiệp 4.0 đặc điểm “Tốc độ vận động ngày càng
nhanh chứ không đều đặn”, với quy mô “thúc đẩy những chuyển đổi hình chưa
từng trên các khía cạnh kinh tế, kinh doanh, hội và nhân”, những tác
động “dẫn đến sự chuyển đổi của toàn bộ các hệ thống giữa các (trong mỗi) quốc
gia, doanh nghiệp ngành công nghiệp và toàn hội”. Như vậy nên đây cũng
sở để chúng ta có thể nêu ra những quan điểm của mình đối với sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân từ lô-gíc chung của các cuộc cách mạng công nghiệp đã diễn ra
tnhững nhận thức ban đầu vCách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay, cũng như
những dự báo.
Căn cứ dựa trên các chứng minh của chủ nghĩa Mác Lênin giai cấp công nhân được
biết tới là giai cấp tiên tiến nhất và cách mạng nhất, là lực lượng xã hội duy nhất có
sứ mệnh lịch sử: xóa bỏ chủ nghĩa bản, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải
phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và giải phóng toàn thể nhân loại khỏi
mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp ng nhân bắt nguồn từ địa vị kinh tế-xã hội
khách quan cụ thể như sau:
Giai cấp công nhân xuất phát điểm ra đời dưới chủ nghĩa bản, thể
nóigiai cấp công nhân lực lượng cũng một bộ phận quan trọng nhất, cách
mạng nhất của lực lượng sản xuất có trình độ xã hội hóa cao.
Giai cấp công nhân họ ra đời những người không liệu sản xuất
việcbán sức lao động của mình cho nhà bản để sống duy trì các hoạt động
thời điểm hiện tại là điều đương nhiên. Họ bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư
mà họ đã tạo ra trong thời gian lao động.
lOMoARcPSD| 60794687
Không những rất yếu về liệu kinh tế, những điều khó khăn đó cũng đã
giúpcho giai cấp công nhân trở thành giai cấp cách mạng triệt để khả năng
thực hiện sứ mệnh lịch sử, đó khả năng đoàn kết toàn thể giai cấp công nhân
các dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế chống chủ nghĩa đế quốc.
Như vậy đối với dự phát triển như hiện nay ta thấy giai cấp công nhân Việt Nam đã
khẳng định được tầm cỡ và vị trí của chính họ, để thể xứng đáng là bộ phận của
giai cấp công nhân thế giới, tiếp tục lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh nền tảng tưởng. Ngày nay, công nhân Việt Nam chủ động tham gia giải
quyết các vấn đề là thu hút sự quan tâm hàng đầu của Việt Nam nói riêng thế giới
nói chung. Các vấn đề đó có tính thời sự cao như dân số, môi trường, văn hóa, năng
lượng, lương thực, …
Giai cấp công nhân lực lượng kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ hội chủ
nghĩa, không chấp nhận chế độ đa đảng, đa nguyên chính trị.
Giai cấp công nhân tham gia đông đảo vào các thành phần kinh tế, lấy mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh để phấn đấu.
Giai cấp công nhân lực lượng tiên phong trong đấu tranh phòng chống tiêu cực,
tham nhũng, tệ nạn xã hội, là lực lượng chính trị – xã hội quan trọng trong việc bảo
vệ tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự hội, xây dựng nền quốc phòng toàn
dân.
Qua những phân tích nêu trên ta kết luận:
Như vậy từ các thông tin đưa ra ntrên ta thấy được những sứ mệnh lịch sử lớn lao
của giai cấp công nhân Việt Nam xóa bỏ chế độ bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế đ
bóc lột, tự giải phóng, giải phóng nhân dân lao động toàn thể nhân loại khỏi sự
áp bức, bóc lột, xây dựng thành công xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Như vậy n chúng hiện nay việc phát triển về số lượng chất ợng, nâng cao giác
ngộ bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn nghề nghiệp thực hiện “tri thức hóa
công nhân”, cũng như việc nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ vào sản xuất
nhằm tăng năng suất, chất lượng hiệu quả làm việc của công nhân, xứng đáng với
vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới là một vấn đề cần thiết và quan trọng
cần được thực hiện.[7]
lOMoARcPSD| 60794687
2.3. Tình hình phát triển giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ CNH,
HĐH
2.2.1. Ưu đi
m
Qua hơn 25 m đổi mới, giai cấp công nhân nước ta đã những chuyển biến
quan trọng, đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua
đội tiền phong Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
hội nhập kinh tế quốc tế, lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; đóng góp trực tiếp
to lớn vào sự phát triển của đất nước. Giai cấp công nhân Việt Nam những ưu
điểm:
Đội ngũ công nhân nước ta ngày càng đa dạng về cấu ngành nghề, với trình
độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp được nâng lên đáng kể. Đội ngũ công
nhân đang tăng nhanh trong một số ngành kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế (điện
lực, dầu khí, điện tử, tin học, viễn thông...); đồng thời cũng đang phát triển mạnh ở
một số ngành sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu (dệt may, giày da, chế biến thủy
sản...). Đã hình thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức (có trình độ
cao đẳng, đại học trở lên) m công tác quản lý sản xuất kinh doanh, nghiên cứu
quản khoa học kỹ thuật gắn với sản xuất kinh doanh hoặc trực tiếp sản xuất. Hàng
chục vạn cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản doanh nghiệp sản xuất kinh doanh,
công nhân bậc cao và thợ giỏi đã năng động, sáng tạo, có nhiều sáng kiến có giá trị
cao được áp dụng.
Đội ngũ công nhân nước ta đang là một lực lượng sản xuất cơ bản, có vai trò
quan trọng trong quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân theo con đường hội
chủ nghĩa. Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giai cấp công nhân đã đóng góp
trực tiếp to lớn vào sự nghiệp phát triển của đất nước, đưa nền kinh tế vượt qua thời
kỳ suy giảm, đạt tốc đtăng trưởng khá cao phát triển tương đối toàn diện, cấu
kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra nhiều sản phẩm
có sức cạnh tranh, tăng cường tiềm lực và cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế.
Giai cấp công nhân nước ta thích nghi tương đối nhanh với cơ chế thị trường,
tưởng trông chờ vào bao cấp của Nhà nước được khắc phục rõ rệt; đã bắt đầu hình
thành được ý thức về giá trị của bản thân trong lao động; đã xuất hiện một bộ phận
công nhân cổ phần trong trong doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa. Trong quá
trình hình thành thực hiện đường lối đổi mới, công nhân nước ta, đặc biệt là đội
ngũ công nhân trí thức, đã phát huy tinh thần sáng tạo, đề xuất nhiều giải pháp quý
báu cho Đảng, Nhà nước đúc rút thành những chủ trương và chính sách đlãnh đạo,
lOMoARcPSD| 60794687
chỉ đạo thực hiện có hiệu quả phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội.
Những cán bộ quản sản xuất kinh doanh, cán bộ kỹ thuật bộ phận công nhân
trực tiếp sản xuất trình độ cao, đã phát huy tốt hơn tính năng động, sáng tạo trong
công việc, tự chủ trong sản xuất kinh doanh, thích ứng với chế thị trường, tiếp thu
và từng bước làm chủ những thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại.
Một bộ phận giai cấp công nhân, nhất trong khu vực doanh nghiệp nhà
nước, có bản lĩnh chính trị, lập trường giai cấp vững vàng. Đại đa số công nhân tin
tưởng vào Đảng, Nhà nước, chế độ, vào công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển
của đất nước theo con đường hội Chủ nghĩa, ý thức dân tộc, tinh thần yêu
nước, cần lao động, tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái. Quan tâm mong
muốn hàng đầu của công nhân hiện nay việc làm ổn định thu nhập công
bằng, bảo bảo đảm đời sống; đất nước phát triển, chính trị - xã hội ổn định, dân chủ
công bằng hội được đảm bảo; doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thuận lợi;
được bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng vvật chất tinh thần,
quyền được tham gia các hoạt động chính trị - xã hội, quyền được đối xử bình đẳng,
được chăm sóc sức khỏe, học tập, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng
nghề nghiệp. Cùng với các giai cấp, tầng lớp và thành phần hội khác trong khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, giai cấp công nhân nước ta là cơ sở chính trị xã hội vững
chắc của Đảng và Nhà nước.
Trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
dưới sự lãnh đạo của Đảng, khi chuyển sang kinh tế thị trường, giai cấp công nhân
đã phục vụ sản xuất và đời sống của nông dân ngày càng nhiều hơn, thông qua cung
cấp các liệu sản xuất tiên tiến dịch vụ kỹ thuật, chế biến nông sản, xây dựng
kết cấu hạ tầng nông thôn; thu hút đội ngũ trí thức gắn bó với các doanh nghiệp đ
nghiên cứu chuyển giao công nghệ, nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh của
doanh nghiệp. Đã có một số mô hình liên kết trực tiếp công nghiệp với nông nghiệp
nghiên cứu khoa học, công nhân với nông dân tthức trong sản xuất kinh
doanh (như mô hình Công ty Mía đường Lam Sơn, hình thức liên kết bốn nhà: nhà
nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học, nhà nước; các hình thức liên kết trong thực
hiện xây dựng cánh đồng 50 triệu đồng/ha/năm hộ ng dân thu nhập 50 triệu
đồng/năm...)
2.2.2. Hạn chế
Trong điều kiện mới hiện nay bên cạnh những thành tựu thì giai cấp công nhân
ở nước ta hiện nay còn bộc lộ những hạn chế, đó là:
lOMoARcPSD| 60794687
Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng,
cấu trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ ng nghề nghiệp của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế, quốc tế.
Có thống của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam cho thấy trình độ chuyên
môn của công nhân Việt Nam tại các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế còn
khá khiêm tốn, cụ thể: 57,08% lao động phổ thông, 26,97% là lao động có trình độ
chuyên môn từ cấp học nghề trở lên, 6,26% công nhân trình độ trung cấp
10,09% tỷ lệ công nhân có trình độ đại học, cao đẳng. Còn theo số liệu thống từ
cuộc điều tra khảo sát về “tiền lương thu nhập của người lao động trong các khu
công nghiệp” do Viện Công nhân Công đoàn (thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam) tiến hành cho thấy trình độ chất lượng công nhân tại các khu công nghiệp
trong cả nước vẫn còn rất hạn chế. Cụ thể theo điều tra, công nhân 10,5% trình
độ tiểu học; 43,7% trình độ, trung học sở 45,5% có trình độ tiểu học phổ thông,
đặc biệt vẫn còn 0,28% người lao động không biết chữ. Kết quả khảo sát cũng cho
thấy, lao động của ta chủ yếu lao động giản đơn chưa qua đào tạo nghề. tới
75% lao động chưa qua học nghề tại các sở đào tạo ngoài doanh nghiệp, trong số
này khoảng 94% người được đào tạo ngắn hạn tại doanh nghiệp trước khi bắt đầu
công việc của mình. Chỉ 9,5% công nhân lao động kỹ thuật, 3,7% công nhân
trình độ trung cấp, 3% cao đẳng và 5,6% trình độ đại học. Nếu tính chung s công
nhân được đào tạo nghề (cả các sở doanh nghiệp) thì tỷ lcông nhân lao
động bậc cao rất ít. Số công nhân bậc 4 chiếm 8,4% và bậc 6-7 chỉ chiếm 3,2%.
Đặc biệt, hiện chúng ta còn thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản
giỏi, công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp kỷ luật lao động còn nhiều
hạn chế; đa phần công nhân tnông dân chưa được đào tạo cơ bản hệ thống,
một bộ phận công nhân chậm thích nghi với cơ chế thị trường.
Địa vị chính trị của giai cấp công nhân chưa thể hiện đầy đủ. Giai cấp công
nhân còn hạn chế về phát huy vai trò nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Giác ngộ giai
cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân không đồng đều; sự hiểu biết về chính sách,
pháp luật còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo xuất thân tcông
nhân còn thấp. Một bộ phận công nhân chưa thiết tha phấn đấu vào Đảng tham
gia hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã hội. Đặc biệt, tỷ lệ công nhân là đảng
viên trong tổng số đảng viên của Đảng những năm gần đây đang giảm dần một xu
hướng rất đáng lo ngại. Do công tác phát triển Đảng trong công nhân chưa thực sự
được quan tâm, nên khu vực kinh tế ngoài nhà nước, vốn đầu nước ngoài
(FDI), tỉ lệ doanh nghiệp có tổ chức cơ sở Đảng rất thấp.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 60794687 A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lịch sử đã chứng minh, giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lịch sử rất
quan trọng trong việc lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột
trong đấu tranh từng bước xóa bỏ chủ nghĩa tư bản và xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội, đó là giai cấp tiên tiến nhất, có tư tưởng các mạng, chính trị triệt để
nhất trong xã hội. Tuy rằng để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công
nhân phải trải qua những khó khăn, khổ cực, những bước thăng trầm, nhưng họ vẫn
hằng ngày, hằng giờ gắng sức hoàn thành nhiệm vụ của lịch sử giao phó.
Trước sự khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô,
nhiều người đã bộc lộ sự dao động và hoài nghi về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân. Bọn cơ hội và các thế lực chống phá có cơ hội mới để phủ nhận sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chủ nghĩa xã hội.
Vì vậy vấn đề là sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, nhất là trong bối
cảnh lịch sử mới đang được đặt ra một cách bức thiết trên cả phương diện lý luận lẫn thực tế.
Ở Việt Nam, giai cấp công nhân giữ một vai trò hết sức quan trọng. Là một bộ
phân của giai cấp công nhân thế giới, giai cấp công nhân Việt Nam luôn thể hiện và
phát huy tinh thần trách nhiệm của mình trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam. Bước ra từ khói lửa chiến tranh, trải qua nhiều thời kỳ thăng trầm, giai
cấp công nhân Việt Nam đã chứng minh họ là những người lãnh đạo xứng đáng trong
sự nghiệp chung của đất nước. Họ vẫn không ngừng đấu tranh. Trong chiến tranh thì
đấu tranh giải phóng dân tộc, trong hòa bình thì đấu tranh xây dựng đất nước.
Trong công cuộc hiện nay, công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa diễn ra
trên toàn thế giới, chủ nghĩa xã hội đang ở thời kỳ thoái trào, thời đại ngày nay vẫn
đang là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn
thế giới còn đang có nhiều biên động và tiêu cực. Thì vấn đề làm sáng tỏ sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân được đặt ra càng bức thiết hơn bao giờ hết, kể cả trên
phương diện lý luận lẫn thực tiễn.
Giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử vô cùng trọng đại, xóa bỏ xã hội cũ, lạc
hậu, xây dựng xã hội mới tiến bộ, giải phóng giai cấp mình đồng thời giải phóng
toàn nhân loại trên phạm vi toàn thế giới. Ngày nay đứng trước tình hình phát triển
mới của đất nước và thế giới, nhân loại bước vào thiên niên kỷ mới, nhiều ý kiến đặt
ra cho việc xây dựng và phát triền giai cấp công nhân. Đảng ta khẳng định giai cấp
công nhân Việt Nam vẫn là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Vì thế, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không chỉ thể hiện lOMoAR cPSD| 60794687
rõ trong các văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc mà đây còn là một trong những đề
tài nghiên cứu khoa học của nhiều nhà lý luận nhà nghiên cứu lịch sử và của nhiều
thế hệ công nhân, sinh viên. Sau khi học xong học phần Chủ nghĩa khoa học xã hội
và sự hướng dẫn của quý cô giáo phụ trách học phần. Dựa vào tình hình thực tế của
Việt Nam, bản thân em chọn đề tài “Tình hình phát triển giai cấp công nhân Việt
Nam trong thời kì công nghiệp hoá và hiện đại hoá
” để góp một phần nào đó vào
việc làm sáng tỏ thêm vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.
2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu 2.1 Mục đích
Mục đích của đề tài này là làm rõ bản chất của giai cấp công nhân và vai trò
của giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kì công nghiệp hóa và hiện đại hóa. 2.2 Nhiệm vụ
Phân tích các quan điểm về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Liên hệ
tình hình thực tế của giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kì công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
2.3 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nằm trong phạm vi nghiên cứu sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân
trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, đề tài sử dụng các phương pháp sau đây: Phương pháp phân tích Phương pháp tổng hợp
4. Kết cấu đề tài
Chương 1. Lý luận chung về sứ mệnh của giai cấp công nhân Chương 2.
Giai cấp công nhân VIệt Nam và tình hình phát triển giai cấp công nhân
trong thời kì công nghiệp hóa và hiện đại hóa

B. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỨ MỆNH CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1.1. Khái niệm giai cấp công nhân
Khi sử dụng khái niệm giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng một số
thuật ngữ khác nhau để biểu đạt khái niệm đó, như: giai cấp vô sản, giai cấp vô sản
hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp,... Mặc dù
vậy, về cơ bản những thuật ngữ này trước hết đều biểu thị một khái niệm thống nhất,
đó là chỉ giai cấp công nhân hiện đại, con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp tư lOMoAR cPSD| 60794687
bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại.
Dù khái niệm giai cấp công nhân có nhiều tên gọi khác nhau như thế nào đi nữa thì
theo C. Mác và Ph. Ăngghen vẫn chỉ mang hai thuộc tính cơ bản:
- Về phương thức lao động, phương thức sản xuất, đó là những người lao
động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất
công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao.
- Về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, đó là những người lao
động không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và
bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư. Thuộc tính thứ hai này nói lên
một trong những đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân dưới chế độ
TBCN nên C.Mác và Ph.Ăngghen còn gọi giai cấp công nhân là giai cấp vô sản.
Trong hai tiêu chí này, C.Mác và Ph.Ăngghen tới tiêu chí một đó là công nhân công
xưởng, được coi là bộ phận tiêu biểu cho giai cấp công nhân hiện đại. Hai ông cho
rằng: “Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công
nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của nền đại công nghiệp”; “công nhân
cũng là một phát minh của thời đại mới, giống như máy móc cũng vậy ... công nhân
Anh là đứa con đầu lòng của nền đại công nghiệp hiện đại”.[2, tr610]
Với tiêu chí thứ hai, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đặc biệt nhấn mạnh vì chính điều
này khiến cho người công nhân trở thành giai cấp đối kháng với giai cấp tư sản: “giai
cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại
- tức là giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được việc làm, và chỉ kiếm
được việc làm, nếu lao động của họ làm tăng thêm tư bản - cũng phát triển theo.
Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để kiếm ăn từng bữa một, là một hàng
hóa, tức là một món hàng đem bán như bất cứ một món hàng nào khác, vì thế họ
phải chịu hết sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường”.[3,tr35]
Tiêu chí này đã nói lên một trong những đặc trưng cơ bản nhất của giai cấp công
nhân dưới chế độ tư bản, do đó C.Mác và Ph.Ăngghen còn gọi giai cấp công nhân là giai cấp vô sản.
Tại sao C.Mác và Ph.Ăngghen lại đặc biệt nhấn mạnh hai tiêu chí trên? Sở dĩ như
vậy vì đây chính là hai vị trí phân biệt giai cấp công nhân với các giai cấp khác trong
xã hội. Họ phải kiếm được việc làm và họ phải kiếm được việc làm khi họ bán được sức lao động. lOMoAR cPSD| 60794687
Giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông nhân có sự khác nhau. Hai khái niệm về
hai giai cấp này khác nhau ở chỗ: Nông dân sử dụng tất cả các công cụ sản xuất để
tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh; sản phẩm của nông dân mang tính chất cá nhân và
công cụ sản xuất của họ còn thô sơ. Còn giai cấp công nhân có khác: công cụ sản
xuất hiện đại; mỗi công nhân là một mắt khâu của công việc sản xuất; sản phẩm của
họ mang tính chất xã hội.
Giai cấp công nhân cũng khác với vô sản. Đó là giai cấp công nhân không có tư
liệu sản xuất, họ tồn tại được là nhờ bị bóc lột giá trị thặng dư. Còn giai cấp tư sản,
họ có nhiều tư liệu sản xuất nhưng lại không có sức lao động, họ phải thuê giai cấp
công nhân và bóc lột sức lao động của giai cấp công nhân để tồn tại. Đây chính là
hai mặt của một vấn đề.
Dưới chế độ chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân lại là những người lao động tự
do, những người bán sức lao động để sống, họ là những người làm công ăn lương
(hay làm thuê), là lao động trong lĩnh vực công nghiệp.
Ngày nay, với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trong nửa sau của thế kỷ XX, bộ
mặt của giai cấp công nhân hiện đại có nhiều thay đổi khác trước. Từ dự kiến của
C.Mác và Ph.Ăngghen, giai cấp công nhân xét về diện mạo có nhiều biến đổi. Chính
sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội hiện nay đã vượt xa trình độ văn minh
công nghiệp trước đây, sự xã hội hoá và phân công lao động xã hội mới, cơ cấu của
giai cấp công nhân hiện đại; các hình thức bóc lột giá trị thặng dư... đã làm cho diện
mạo của giai cấp công nhân hiện đại không còn giống với những mô tả của C.Mác
trong thế kỷ XIX. Tuy thế nhưng giai cấp công nhân hiện đại vẫn tồn tại, vẫn có sứ
mệnh lịch sử của mình trong xã hội tư bản hiện đại; những thuộc tính cơ bản của giai
cấp công nhân mà C.Mác đã phát hiện ra vẫn còn nguyên giá trị.
Hiện nay, cơ cấu ngành nghề của giai cấp công nhân đã có nhiều thay đổi to lớn.
Bên cạnh lực lượng công nhân truyền thống, xuất hiện công nhân trình độ tự động
hoá với việc áp dụng phổ biến công nghệ thông tin vào sản xuất. Bên cạnh những
ngành công nghiệp truyển thống, xuất hiện công nhân hoạt động ở lĩnh vực dịch vụ.
Thực tế ở các nước tư bản, công nhân trong các ngành dịch vụ này chiếm 50% đến
70% lao động. Tuy nhiên, điều này không hể làm giảm vai trò của giai cấp công nhân
trong nền kinh tế và ngay cả tỷ trọng của giai cấp công nhân trong dân cư. Bởi vì
những người làm thuê trong các ngành dịch vụ gắn liền với công nghiệp và hoạt
động theo lối công nghiệp vẫn là công nhân xét cả trên hai thuộc tính về giai cấp
công nhân. Mặt khác, bên cạnh trình độ thấp của giai cấp công nhân truyền thống đã
xuất công nhân có trình độ cao, có xu hướng “tri thức hoá” và cũng ngày càng tiếp
thu thêm đông đảo những người thuộc tầng lớp trí thức vào hàng ngũ của mình. Mặc lOMoAR cPSD| 60794687
dù vậy, bản chất về giai cấp công nhân cũng không hề thay đổi. Nếu trước kia, công
nhân bán sức lao động chân tay là chủ yếu thì nay, họ bán cả sức lao động chân tay
và lao động trí óc, giá trị ngày càng lớn và do đó càng bị bóc lột giá trị thặng dư theo
chiều sâu. Giai cấp công nhân bắt đầu có sự thay đổi về tài sản. Phần lớn, họ không
còn là những người vô sản trần trụi với hai bàn tay trắng, mà họ đã có một số tư liệu
sản xuất phụ có thể cùng gia đình làm thêm; một số công nhân đã có cổ phần, cổ
phiếu ở xí nghiệp. Tuy vậy nhưng nó cũng không làm thay đổi toàn bộ lực lượng sản
xuất cơ bản nhất, quyết định nhất đối với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, họ vẫn bị
bóc lột dưới những hình thức khác nhau.
Có thể nói, những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về hai tiêu chí cơ bản của
giai cấp công nhân cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị, vẫn là cơ sở phương pháp
luận để chúng ta nghiên cứu giai cấp công nhân hiện đại, đặc biệt là để làm sáng tỏ
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay. Từ hai tiêu chí trên
ta có thể định nghĩa: “Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành
và phát triển cùng với quá trình hình thành và phát triển của nền công nghiệp hiện
đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng
cao; là lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản
xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực lượng chủ
yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”.[1,tr55]
1.2. Vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân
Một trong những phát hiện vĩ đại của Mác, Ăngghen là đã sớm biết tách riêng
giai cấp vô sản ra đời từ khối quần chúng bị áp bức, phát hiện ra vị trí đặc biệt và
những xu hướng lịch sử của nó. Từ đó khẳng định sứ mệnh lớn của giai cấp vô sản
và chỉ ra những phương pháp thực hiện sứ mệnh đó.
Lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những vấn đề
chủ yếu nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nó đã được Mác, Ăngghen luận chứng một
cách khoa học xuyên suốt trong nhiều tác phẩm và được Lênin tiếp tục phát triển
trong những điều kiện lịch sử mới.
Ngay từ cuối năm 1944, trong tác phẩm “góp phần phê phán triết học” Pháp
quyền của Hê-Ghen, lần đầu tiên Mác đã nêu lên vấn đề sứ mệnh lịch sử của giai cấp
vô sản là những điều kiện mà qua đó nó xóa bỏ mối quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa,
thiết lập quan hệ xã hội mới. Đến bản “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” và bộ “Tư
bản”
thì lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đã phát triển đến một
mức độ nhất định. “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” là một khái quát về lý luận
phong trào TBCN vạch rõ cơ sở kinh tế của cơ cấu xã hội và những xu hướng tiếp lOMoAR cPSD| 60794687
tục phát triển của nó, đặt cơ sở cho việc giải thích vai trò của giai cấp công nhân
trong việc xây dựng CNXH. Đến thời kì này, nhiều phạm trù, khái niệm cơ bản nhất
đã được xác lập và sau đó được tiếp tục phát triển.
Trong điều kiện mới Lênin đã phát triển lý luận Maxit về giai cấp công nhân
như là “điều chủ yếu của học thuyết Mác”. Trong tất cả mọi giai đoạn đấu tranh vì
một thế giới mới, vì chủ nghĩa cộng sản, giai cấp công nhân là lãnh tụ của phong
trào cách mạng, là người lãnh đạo của nhân dân lao động. Lênin đã cụ thể hóa sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân trong điều kiện của cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản.
Lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được
thể hiện ở một số luận điểm cơ bản sau:
+ Giai cấp công nhân là người đào mộ chôn CNTB và người sáng tạo ra xã hội mới.
+ Giai cấp công nhân là lãnh đạo trong phong trào cách mạng giải phóng của
quần chúng bị áp bức trong xã hội hiện tại.
+ Lợi ích giai cấp tư sản và vô sản là đối lập và không điều hòa được. Cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản là tất yếu và sẽ dẫn đến chuyên chính vô sản.
+ Giai cấp vô sản phải hiểu rõ sứ mệnh của mình. Chủ nghĩa Mác-Lênin là điều
kiện ắt có, cơ bản để giai cấp vô sản từ giai cấp “tự nó” chuyển thành giai cấp “vì nó”.
+ Sự ra đời của Đảng Cộng sản là tất yếu khách quan, ĐCS là sản phẩm của sự
kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và là nhân tố quyết định
thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Vai trò, sứ mệnh của
giai cấp vô sản luôn là vấn đề trung tâm trong suốt một cuộc đấu tranh chính trị
- tư tưởng lâu dài và quyết liệt từ khi chủ nghĩa Mác- Lênin ra đời và các giai
đoạn phát triển sau đó.
Hình thức khá phổ biến của sự phủ nhận vai trò của giai cấp vô sản là sự công
kích khái niệm khoa học của Mác, Ăngghen về giai cấp vô sản. Một số người nêu
lên tư tưởng “phi kinh tế” về giai cấp để xóa mờ quan niệm của chủ nghĩa Mác cho
rằng giai cấp vừa là phạm trù kinh tế vừa là một phạm trù xã hội. Không thể khẳng
định giai cấp vô sản một cách tủy tiện, không tính đến vấn đề chiếm hữu - sở hữu tư
liệu sản xuất, hơn nữ lại chỉ coi đó là một hiện tượng tâm lý. Một số người khác lại
cho rằng không có một giai cấp công nhân được xác định rõ ràng. Điểm tựa của lOMoAR cPSD| 60794687
những luận điểm xuyên tạc phạm trù giai cấp nói trên là ở chỗ không xem quan hệ
sở hữu tư liệu sản xuất như là một tiêu chuẩn khách quan để xem xét sản xuất.
Ngày nay trước sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - kỹ thuật và
những hệ quả mà nó tạo ra, một lập luận phổ biến chống lại sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân cho rằng lý luận Mác - Lênin về vấn đề này là lỗi thời, giai cấp vô sản sẽ
bị xói mòn, thậm chí tiêu vong trước sự phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật.
Theo họ, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã và đang tạo ra những biến đổi sâu
sắc trong sự phân công lao động xã hội, hiện tượng “trí thức hóa lao động” phát triển
mạnh tỷ lệ lao động ngày càng tăng cao hơn so với lao động chân ta, cơ cấu xã hội
chủ nghĩa xã hội sẽ thay đổi mạnh.
Họ cũng cho rằng vai trò kinh tế của giai cấp công nhân sẽ giảm dần và trong
tương lai, giai cấp công nhân sẽ biến mất. Một số nhà lý luận tư sản khác tuy không
đồng ý rằng giai cấp công nhân sẽ biến mất. Một số nhà lý luận tư sản khác tuy không
đồng ý rằng giai cấp công nhân sẽ biến mất, nhưng lại cho rằng giai cấp công nhân
không còn là nhân vật chủ yếu của lịch sử.
Cách mạng khoa học kỹ thuật có đem đến những biến đổi trong phân công lao
động xã hội trong nội dung, phương thức lao động, trong thành phần giai cấp vô sản.
Thế nhưng điều đó hoàn toàn “không xóa mờ” quan hệ sản xuất TBCN và mâu thuẫn
giữa lao động với tư bản. Trí thức không là một giai cấp mà chỉ là một tẩng lớp đặc
biệt thuộc nhiều giai cấp khác. Sự ngăn cách giữa lao động chân tay và lao động trí
óc là một sai lầm về lý luận. Cách mạng khoa học kỹ thuật làm cho thành phần giai
cấp công nhân thêm đa dạng, bao gồm cả lao động chân tay và lao động trí óc, lao
động trong khu vực sản xuất vật chất và dịch vụ…. Quá trình trí thức hóa phát triển
sẽ có thể đưa tới một tầng lớp đặc biệt trong giai cấp công nhân chứ không hề xóa
bỏ giai cấp công nhân. Nhìn chung cách mạng Khoa học kỹ thuật sẽ làm cho giai cấp
công nhân phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng.
Ngày nay, sau sự sụp đổ của mô hình Chủ nghĩa xã hội ở nhiều nước, các nhà
lý luận tư sản lại một lần nữa cao giọng cho rằng họ đang nói “những lời cuối cùng
cho Mác” và cho lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Sự sụp đổ của
mô hình CNXH ở một số nước vừa qua không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa Mác
và lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Trái lại, ở nhiều nguyên nhân
của cuộc khủng hoảng sự sụp đổ đó là xuất phát từ chỗ không nắm vững vai trò lãnh
đạo của giai cấp công nhân và không thực hiện chuyên chính vô sản một cách đúng
đắn, mơ hồ về mâu thuẫn giai cấp trên bình diện thế giới. lOMoAR cPSD| 60794687
1.3. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về nội dung sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân cho đến nay vẫn giữ nguyên giá trị khoa học và thực
tiễn. Bởi vì, những nguyên lý cơ bản đó được chủ nghĩa Mác – Lênin khái quát từ
thực tiễn sản xuất, kinh tế và phát triển trong CNTB gắn với sự phát triển của nền
công nghiệp ngày càng hiện đại, có thể khái quát nội dung cơ bản sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân qua mấy điểm sau đây:
Một là, ngay trong CNTB hàng thế kỷ nay, cũng như trong CNXH, giai cấp
công nhân trước hết phải được đảm nhận sứ mệnh trực tiếp là chủ thể lao động sản
xuất công nghiệp để đóng góp cho xã hội những sản phẩm vật chất và tinh thần
ngày càng hiện đại hơn. Tách rời sản xuất công nghiệp, giai cấp công nhân không
còn là mình nữa. Những thành tựu to lớn về sản xuất CNTB hàng thế kỷ nay và
những thành tựu bước đầu trong xây dựng CNXH đều có sự đóng góp rất to lớn và
quyết định nhất của giai đoạn công dân. Số lượng và chất lượng giai cấp công nhân
ngày càng tăng. Cả trong CNTB và trong chủ nghĩa xã hội, nếu để giai cấp công
nhân không có việc làm, không phát triển sản xuất công nghiệp hiện đại thi công
là gạt bỏ một nội dung cơ bản nhất của sứ mệnh lịch sử giai cấp công nghiệp.
CNXH đang và sẽ từng bước khắc phục tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm và
nghèo khổ của giai cấp công nhân, điều mà do bản chấ của mình, chế độ tư bản chủ
nghĩa qua 4 thế kỷ nay đã không giải quyết được.
Hai là, giai cấp công nhân phải có những hoạt dộng chính trị, tư tưởng, tổ chức
để thông qua Đảng của mình lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền, xóa bỏ
chế độ kinh tế - chính trị và xã hội cũ, bảo vệ chính quyền mới của mình.
Ba là, giai cấp công nhân thông qua Đảng của mình lãnh đạo toàn xã hội trên
lĩnh vực chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội … nhất là về kinh tế, để từng bước
hình thành và phát triển xã hội mới – xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Đây
là nội dung cơ bản nhất quyết định nhất, phức tạp và lâu dài nhất trong sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân. Không thể nhận thức và hoạt động chủ quan, duy ý
chí, giản đơn, nóng vội cũng không thể mơ hồ, hữu khuynh dẫn đến tự phát tư bản chủ nghĩa.
Bốn là, giai cấp công nhân ở mỗi nước luôn luôn mở rộng và tăng cường hợp
tác quốc tế với giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở tất cả các nước vì hòa
bình, độc lập, tự do, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đây là nội dung thể hiện bản chất
quốc tế của giai cấp công nhân. lOMoAR cPSD| 60794687
Năm là, giai cấp công nhân và Đảng cộng sản thường xuyên đấu tranh chống
mọi thứ chủ nghĩa cơ hội, bọn phản động, đầu tranh chống lại mọi thể lực thù địch
của nhân dân với Chủ nghĩa xã hội.
1.4. Những điều kiện quy định và thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
1.4.1. Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh của giai cấp công nhân
Học thuyết C.Mác và Ph.Ăngghen về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
là luận chứng khoa học về địa vị kinh tế xã hội và vai trò lịch sử của giai cấp công
nhân, về mục tiêu và con đường để giai cấp đó hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Học thuyết đã chứng minh sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được quy định
bởi những điều kiện kinh tế, xã hội khách quan.
a. Về địa vị kinh tế của giai cấp công nhân:
Dưới CNTB, giai cấp công nhân là sản phẩm của nền đại công nghiệp TBCN,
nó ra đời và phát triển cùng với sự hình thành phát triển của nền đại công nghiệp
TBCN, được nền sản xuất công nghiệp hiện đại rèn dũa tổ chức lại thành một lực
lượng xã hội hùng mạnh. Đại công nghiệp càng phát triển, tập trung làm phá sản
những người sản xuất hàng hoá nhỏ, bổ sung lực lượng cho giai cấp công nhân. Mặt
khác, đại công nghiệp phát triển tiếp tục bổ sung lực lượng cho giai cấp công nhân,
thu hút lực lượng lao động từ nhiều ngành, nhiều nghề khác nhau tạo nên tập đoàn
hùng mạnh. Bản thân sự phát triển nền đại công nghiệp cũng yêu cầu cao với từng
người lao động, tập thể lao động về tác phong lao động, kỷ luật lao động...
Dưới CNTB, giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất trong các bộ phận
tiêu biểu cấu thành của lực lượng sản xuất của xã hội tư bản. Họ đại diện cho lực
lượng sản xuất tiên tiến nhất với trình độ xã hội hoá ngày càng cao. Nhưng CNTB
lại được xây dựng trên nền tảng của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư lệu sản xuất mà
giai cấp tư sản là đại diện. Bởi thể, ở phương thức sản xuất TBCN luôn luôn tồn tại
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao (mà giai
cấp công nhân là đại diện) với quan hệ sản xuất có tính chất chiếm hữu tư nhân (mà
giai cấp tư sản là đại diện). Đây là mâu thuẫn cơ bản vớc có và không thể khắc phục
được nếu không xoá bỏ được chế độ tư bản. Biểu hiện về mặt chính trị, xã hội của
mâu thuẫn cơ bản đó là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Sự
vận động phát triển của những mâu thuẫn tất yếu trên dẫn đến cách mạng xã hội chủ
nghĩa, dẫn tới sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Như
vậy giai cấp công nhân gắn liền với nền lao động sản xuất vật chất, đi liền sự phát
triển của công nghiệp ngày càng hiện đại kể cả khi xuất hiện nền kinh tế tri thức. lOMoAR cPSD| 60794687
Do không có tư liệu sản xuất, giai cấp công nhân phải bán sức lao động làm
thuê, bị nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư, bị lệ thuộc hoàn toàn vào quá trình
phân phối các kết quả lao động của chính họ. Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa,
giai cấp công nhân bị toàn bộ giai cấp tư sản bóc lột, là giai cấp trực tiếp đối kháng
với giai cấp tư sản, không có quyền trong tổ chức, điều hành lao động, phân phối sản
phẩm lao động. Do đó giai cấp công nhân không được làm chủ trong xã hội tư bản
chủ nghĩaHọ bị bần cùng hoá so với giai cấp tư sản (bị bóc lột trong quá trình sản
xuất, ngoài quá trình sản xuất và bị bóc lột theo chiều sâu).
Giai cấp công nhân hiện nay ở các nước tư bản có đời sống vật chất cao vẫn bị
bóc lột, bần cùng hoá theo đúng nghĩa của nó. Công nhân có cổ phần, tức là đã ra
nhập vào quá trình sản xuất, điều hành sản xuất đó là công nhân tư bản nhân dân
nhưng con số này vẫn còn rất khiêm tốn. Còn ở các nớc tư bản phá triển, công nhân
bị bóc lột cao hơn rất nhiều, từ 200% tới 300% và sự chênh lệch giàu nghèo cũng
khá cao. Trong tất cả các giai cấp đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp
công nhân là thực sự cách mạng vì nó là sản phẩm của nền đại công nghiệp, đại diện
cho lực lượng sản xuất với trình độ xã hội hoá ngày càng cao, và nó lao động trong
nền đại công nghiệp với trình độ công nghệ ngày càng hiện đại và sản xuất ra tuyệt
đại của cải cho xã hội.
Từ địa vị giai cấp công nhân và giai cấp công nhân có lợi ích cơ bản thống nhất
với lợi ích của đông đảo nhân dân lao động đã tạo điều kiện cho giai cấp công nhân
đoàn kết với giai cấp khác, đi đầu trong công cuộc đấu tranh để thực hiện quá trình
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Họ có khả năng đoàn kết giai cấp khác (tất cả
giai cấp vô sản) vì giai cấp công nhân: có cùng lợi ích cơ bản, thống nhất nhau do bị
bóc lột giá trị thặng dư; cùng tồn tại trong một môi trường sản xuất nh nhau có tính
chất công nghiệp thậm chí dịch vụ; có cùng tư bản trong nước và quốc tế bóc lột; có
cùng mục tiêu, sứ mệnh lịch sử tiêu diệt tư sản, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
b. Về đặc điểm chính trị, xã hội
Địa vị kinh tế - xã hội đã tạo cho giai cấp công nhân có những đặc điểm chính
trị - xã hội mà những giai cấp khác không thể có được, đó là những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng.
Giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng vì họ đại biểu cho phương
thức sản xuất tiên tiến, gắn liền với những thành tựu khoa học và công nghệ hiện
đại. Đó là giai cấp đuợc trang bị bởi một lý luận khoa học, cách mạng và luôn luôn
đi đầu trong mọi phong trào cách mạng theo mục tiêu xóa bỏ xã hội cũ lạc hậu, xây lOMoAR cPSD| 60794687
dựng xã hội mới tiến bộ, nhờ đó có thể tập hợp được đông đảo các giai cấp, tầng lớp
khác vào phong trào cách mạng.
Thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất thời đại ngày nay.
Trong cuộc cách mạng tư sản, giai cấp tư sản chỉ có tinh thần cách mạng trong
thời kỳ đấu tranh chống chế độ phong kiến, còn khi giai cấp này đã giành được chính
quyền thì họ quay trở lại bóc lột giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, những giai
cấp đã từng kề vai sát cánh với giai cấp này trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản.
Khác với giai cấp tư sản, giai cấp công nhân bị giai cấp tư sản bóc lột, có lợi ích cơ
bản đối lập trực tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản. Điều kiện sống, điều kiện lao
động trong chế độ tư bản chủ nghĩa đã chỉ cho họ thấy: họ chỉ có thể được giải phóng
bằng giải phóng toàn xã hội khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa.
Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ:
“Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô
sản là giai cấp thật sự cách mạng... Các tầng lớp trung đẳng là những tiểu công
nghiệp, tiểu thương, thợ thủ công và nông dân, tất cả đều đấu tranh chống giai cấp
tư sản để cứu lấy sự sống còn của họ với tính cách là những tầng lớp trung đẳng.
Cho nên họ không cách mạng mà bảo thủ”.
Thứ ba, giai cấp công nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật cao.
Giai cấp công nhân lao động trong nền sản xuất đại công nghiệp với hệ thống
sản xuất mang tính chất dây chuyền và nhịp độ làm việc khẩn trương buộc giai cấp
này phải tuân thủ nghiêm ngặt kỷ luật lao động; cùng với cuộc sống đô thị tập trung
đã tạo nên tính tổ chức, kỷ luật chặt chẽ cho giai cấp công nhân.
Tính tổ chức và kỷ luật cao của giai cấp này được tăng cường khi nó phát triển
thành một lực lượng chính trị lớn mạnh, có tổ chức: được sự giác ngộ bởi một lý
luận khoa học, cách mạng và tổ chức ra được chính đảng có nó - đảng cộng sản. Giai
cấp công nhân không có ý thức tổ chức kỷ luật cao thì không thể giành được thắng
lợi trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản và xây dựng chế độ xã hội mới.
Thứ tư, giai cấp công nhân có bản chất quốc tế.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, giai cấp tư sản là một lực lượng quốc tế.
Giai cấp tư sản không chỉ bóc lột giai cấp công nhân ở chính nước họ mà còn bóc
lột giai cấp công nhân ở các nước thuộc địa. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ
của lực lượng sản xuất, sản xuất mang tính toàn cầu hóa. Tư bản của nước này có
thể đầu tư sang nước khác là một xu hướng khách quan. Nhiều sản phẩm không phải lOMoAR cPSD| 60794687
do một nước sản xuất ra mà là kết quả lao động của nhiều quốc gia. Vì thế, phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân không chỉ diễn ra đơn lẻ ở từng doanh nghiệp,
ở mỗi quốc gia mà ngày càng phải có sự gắn bó giữa phong trào công nhân các nước,
có như vậy, phong trào công nhân mới có thể giành được thắng lợi. V.I.Lênin chỉ rõ:
“... không có sự ủng hộ của cách mạng quốc tế của thế giới thì thắng lợi của cách
mạng vô sản là không thể có được”, “Tư bản là một lực lượng quốc tế. Muốn thắng
nó, cần phải có sự liên minh quốc tế”.
Tóm lại, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân sở dĩ được thực hiện bởi giai
cấp công nhân, vì nó là một giai cấp cách mạng, đại biểu cho lực lượng sản xuất hiện
đại, cho phương thức sản xuất tiên tiến thay thế phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, xác lập phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa, hình thái kinh tế xã hội
cộng sản chủ nghĩa. Giai cấp công nhân là giai cấp đại biểu cho tương lai, cho xu thế
đi lên của tiến trình phát triển lịch sử. Đây là đặc tính quan trọng, quyết định bản
chất cách mạng của giai cấp công nhân. Hoàn toàn không phải vì nghèo khổ mà giai
cấp công nhân là một giai cấp cách mạng. Tình trạng nghèo khổ của giai cấp công
nhân dưới chù nghĩa tư bản là hậu quả của sự bóc lột, áp bức mà giai cấp tư sản và
chủ nghĩa tư bản tạo ra đối với công nhân. Đó là trạng thái mà cách mạng sẽ xóa bỏ
để giải phóng giai cấp công nhân và giải phóng xã hội. 1.4.2. Điều kiện chủ quan
để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch
sử Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra
những điều kiên thuộ c về nhân tố chủ quan đệ̉ giai cấp công nhân hoàn thành sứ
mênh lịch sử của mình. Đó là:̣
Sự phát tri n của bản thân giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng.
Thông qua sự phát triển này có thể thấy sự lớn mạnh của giai cấp công nhân cùng
với quy mô phát triển của nền sản xuất vât chất hiệ n đại trên nền tảng của công ̣
nghiêp, của kỹ thuậ t và công nghệ .̣
Là giai cấp đại diên tiêu biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, chất lượng ̣
giai cấp công nhân còn phải thể hiên ở năng lực và trình độ làm chủ khoa học kỹ ̣
thuât và công nghệ hiệ n đại, nhất là trong điều kiệ n hiệ n nay. Cuộ c cách mạng ̣
công nghiêp lần thứ 4 (4.0) đang tác độ ng sâu sắc vào sản xuất, vào quản lý và đờị
sống xã hôi nói chung, đang đòi hỏi sự biến đổi sâu sắc tính chất, phương thức laọ
đông của công nhân, lao độ ng bằng trí óc, bằng năng lực trí tuệ , bằng sức sáng tạọ
sẽ ngày càng tăng lên, lao đông giản dơn, cơ bắp trong truyền thống sẽ giảm dầṇ bởi
sự hỗ trợ của máy móc, của công nghê hiệ n đại, trong đó có vai trò của công ̣ nghê
thông tin. Trình độ học vấn, tay nghề, bậ c thợ của công nhân, văn hóa sảṇ xuất, văn
hóa lao đông đáp ứng yêu cầu của kinh tế tri thức là những thước đọ quan trọng về
sự phát triển chất lượng của giai cấp công nhân hiên đại.̣ lOMoAR cPSD| 60794687
Chỉ với sự phát triển như vây về số lượng và chất lượng, đặc biệ t về chấṭ
lượng thì giai cấp công nhân mới có thể thực hiên được sứ mệ nh lịch sử của giaị cấp mình.
Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan quan trọng nhất đ giai cấp công
nhân thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình.[1,tr63]
Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân ra đời và đảm nhận
vai trò lãnh đạo cuộc cách mạng là dấu hiệu về sự trưởng thành vượt bậc của giai
cấp công nhân với tư cách là giai cấp cách mạng.
Quy luât chung, phổ biến cho sự ra đời của Đảng Cộ
ng sản là sự kết hợp ̣
giữa chủ nghĩa xã hôi khoa học, tức chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công ̣ nhân.
Giai cấp công nhân là cơ sở xã hôi và nguồn bổ sung lực lượng quan trọng ̣
nhất của Đảng, làm cho Đảng mang bản chất giai cấp công nhân trở thành đôi tiêṇ
phong, bô tham mưu chiến đấu của giai cấp. Đảng Cộ ng sản đại biểu trung
thànḥ cho lợi ích của giai cấp công nhân, của dân tôc và xã hộ i. Sức mạnh của Đảng ̣
không chỉ thể hiên ở bản chất giai cấp công nhân mà còn ở mối liên hệ mậ t thiếṭ
giữa Đảng với nhân dân, với quần chúng lao đông đông đảo trong xã hộ i, thực hiệ
ṇ cuôc cách mạng do Đảng lãnh đạo để giải phóng giai cấp và giải phóng xã hộ i.̣
Ngoài hai điều kiên thuộ c về nhân tố chủ quan nêu trên chủ nghĩa Mác -̣ Lênin
còn chỉ rõ, để cuôc cách mạng thực hiệ n sứ mệ nh lịch sử của giai cấp công ̣ nhân đi
tới thắng lợi, phải có sự liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và các tầng lớp lao đông khác do giai cấp công nhân thông qua độ ị tiên phong
của nó là Đảng Công sản lãnh đạo.̣
Tóm lại, chỉ duy nhất giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử xóa bỏ chủ nghĩa
tư bản, từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới. lOMoAR cPSD| 60794687
CHƯƠNG 2. GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM VÀ TÌNH HÌNH PHÁT
TRIỂN GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRONG THỜI KÌ CÔNG NGHIỆP HÓA VÀ HIỆN ĐẠI HÓA
2.1. Sự ra đời và phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam
Giai cấp công nhân (GCCN) Việt Nam ra đời và phát triển gắn liền với quá
trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp những năm cuối thế kỷ XIX. Trước khi
thực dân Pháp nổ súng xâm lược, xã hội Việt Nam vẫn là một xã hội phong kiến với
hai giai cấp cơ bản là giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp nông dân; duy trì nền
kinh tế lạc hậu dựa vào sản xuất tiểu nông là chính, cơ sở kinh tế công nghiệp, dịch
vụ chưa phát triển. Sau khi cuộc xâm lăng và bình định đã cơ bản hoàn thành, thực
dân Pháp liền bắt tay tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ nhất với quy mô mở rộng
ra cả nước. Các nhà máy rượu bia, vải sợi, điện nước, ngành đường sắt, hầm mỏ, đồn
điền cao su, cà phê...lần lượt ra đời và cùng với đó đội ngũ những người công nhân
Việt Nam đầu tiên được hình thành. Họ là những người nông dân bị tước đoạt hết
ruộng đất, những người thợ thủ công bị phá sản buộc phải vào làm việc trong các
doanh nghiệp tư bản Pháp. Theo số liệu thống kê trước chiến tranh thế giới lần thứ
nhất, tổng số công nhân của Việt Nam khoảng trên 10 vạn người, chủ yếu tập trung
ở một số thành phố lớn như: Hà Nội, Sài Gòn - Chợ Lớn, Hải Phòng và vùng mỏ Quảng Ninh…[5,tr1]
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, để bù đắp những tổn thất, thực dân Pháp
đã tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai với quy mô và tốc độ lớn hơn trước.
Chúng tăng cường đầu tư vào các ngành khai khoáng, giao thông vận tải, đồn điền,
công nghiệp chế biến, dệt may...nhằm tăng cường vơ vét và bóc lột ở các nước thuộc
địa. Thời kỳ này, số lượng công nhân Việt Nam đã phát triển nhanh chóng lên đến
trên 22 vạn người vào đầu năm 1929.
Dưới sự áp bức bóc lột hà khắc của thực dân, phong kiến, giai cấp công nhân
Việt Nam đã đoàn kết, tổ chức tập hợp nhau lại đấu tranh đòi quyền lợi, dẫn đến hình
thành các Hội Ái hữu, Hội Tương tế trong các nhà máy, xí nghiệp. Cuối năm 1920,
người công nhân yêu nước Tôn Đức Thắng đã vận động thành lập Công hội Ba Son
ở Sài Gòn, mở đầu cho phong trào đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc.
Là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở
Việt Nam, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ đầu thế kỉ này, lớp công nhân đầu
tiên xuất hiện gắn liền với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897) và thực sự
trở thành giai cấp công nhân Việt Nam từ thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ hai
(1924 – 1929). Cùng với quá trình phát triển cách mạng, giai cấp công nhân Việt
Nam sớm trở thành bộ phận của đội ngũ công nhân quốc tế. Giai cấp công nhân Việt lOMoAR cPSD| 60794687
Nam là 1 bộ phận của giai cấp công nhân quốc tế nên có đặc điểm chung của giai
cấp công nhân quốc tế. Bên cạnh đó, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và phát
triển trong điều kiện cụ thể của dân tộc Việt Nam nên còn có những đặc điểm riêng,
ảnh hưởng đến việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam
Thứ nhất, sinh ra và lớn lên từ một nước vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, có
truyền thống yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc, dù còn non trẻ, nhỏ bé, song giai cấp
công nhân sớm trở thành giai cấp duy nhất được lịch sử, dân tộc được thừa nhận và
giao phó sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ sau các phong trào cứu nước
theo lập trường Cần Vương, lập trường tư bản và tiêu tư bản thất bại.
Thứ hai, ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa mới lớn lên đã tiếp thu chủ
nghĩa Mác-Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân quốc tế, nhanh chóng trở thành
lực lượng chính trị tự giác thống nhất được chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục, đã sớm
giác ngộ mục tiêu cách mạng triệt để.
Thứ ba, giai cấp công nhân nước ta xuất thân từ nông dân lao động thực dân
phong kiên bóc lột, bần cùng hóa nên có quan hệ máu thịt với giai cấp nông dân và
các tầng lớp lao động khác. Qua thử thách của cách mạng, liên minh đã trở thành
động lực và là cơ sở vững chắc cho khối đại đoàn kết dân tộc.
Thứ tư, từ khi trở thành giai cấp cầm quyền, giai cấp công nhân Việt Nam luôn
phát huy bản chất cách mạng trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc, luôn là lực lượng đi
đầu và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp đây mạng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa xây dựng và phát triển nền kinh tế công nghiệp và nền kinh tế tri thức hiện đại.
Thứ năm, quá trình “tri thức hóa” giai cấp công nhân diễn ra mạnh mẽ, từng
bước hình thành giai cấp công nhân tri thức Việt Nam. Việc hình thành giai cấp công
nhân tri thức không có nghĩa là sự bổ sung và lực lượng giai cấp công nhân có trình
độ cao mà là giai cấp công nhân được điều khiển những công nghệ tự động hóa của nền kinh tế tri thức.
Vậy sự ra đời và phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam có ảnh hưởng
đến quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân nước ta trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2.2. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình công
nghiệp hóa và hiện đại hóa
Đầu tiên khi nói tới sứ mệnh lịch sử của công nhân ta đã từng biết tới sứ mệnh
của họ trên toàn thế giới của giai cấp công nhân do C. Mác (1818 – 1883) phát hiện lOMoAR cPSD| 60794687
và luận chứng từ cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên, đến nay đã trải qua ba lần
tiến hóa. Những nội hàm cơ bản của lý luận này đã thể hiện và tiếp tục được bổ sung
từ thực tiễn các cuộc công nghiệp và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay sự phát
triển của công nghiệp 4.0, về đại thể, sẽ vẫn tiếp tục những lí luận và những nội dung
mà C. Mác đã đưa ra, tiếp nối nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong
thời đại phát triển thông tin.
Hiện nay chúng ta cũng có thể dễ dàng nhận thấy sự phát triển không ngừng và vượt
trội của cách mạng công nghiệp 4.0 có đặc điểm là “Tốc độ vận động ngày càng
nhanh chứ không đều đặn”, với quy mô là “thúc đẩy những chuyển đổi mô hình chưa
từng có trên các khía cạnh kinh tế, kinh doanh, xã hội và cá nhân”, có những tác
động “dẫn đến sự chuyển đổi của toàn bộ các hệ thống giữa các (và trong mỗi) quốc
gia, doanh nghiệp ngành công nghiệp và toàn xã hội”. Như vậy nên đây cũng là cơ
sở để chúng ta có thể nêu ra những quan điểm của mình đối với sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân từ lô-gíc chung của các cuộc cách mạng công nghiệp đã diễn ra
và từ những nhận thức ban đầu về Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay, cũng như những dự báo.
Căn cứ dựa trên các chứng minh của chủ nghĩa Mác – Lênin giai cấp công nhân được
biết tới là giai cấp tiên tiến nhất và cách mạng nhất, là lực lượng xã hội duy nhất có
sứ mệnh lịch sử: xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải
phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và giải phóng toàn thể nhân loại khỏi
mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân bắt nguồn từ địa vị kinh tế-xã hội
khách quan cụ thể như sau: –
Giai cấp công nhân có xuất phát điểm ra đời dưới chủ nghĩa tư bản, có thể
nóigiai cấp công nhân là lực lượng và cũng là một bộ phận quan trọng nhất, cách
mạng nhất của lực lượng sản xuất có trình độ xã hội hóa cao. –
Giai cấp công nhân họ ra đời là những người không có tư liệu sản xuất và
việcbán sức lao động của mình cho nhà tư bản để sống và duy trì các hoạt động ở
thời điểm hiện tại là điều đương nhiên. Họ bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư
mà họ đã tạo ra trong thời gian lao động. lOMoAR cPSD| 60794687 –
Không những rất yếu về tư liệu và kinh tế, những điều khó khăn đó cũng đã
giúpcho giai cấp công nhân trở thành giai cấp cách mạng triệt để và có khả năng
thực hiện sứ mệnh lịch sử, đó là khả năng đoàn kết toàn thể giai cấp công nhân và
các dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế chống chủ nghĩa đế quốc.
Như vậy đối với dự phát triển như hiện nay ta thấy giai cấp công nhân Việt Nam đã
khẳng định được tầm cỡ và vị trí của chính họ, để có thể xứng đáng là bộ phận của
giai cấp công nhân thế giới, tiếp tục lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh là nền tảng tư tưởng. Ngày nay, công nhân Việt Nam chủ động tham gia giải
quyết các vấn đề là thu hút sự quan tâm hàng đầu của Việt Nam nói riêng và thế giới
nói chung. Các vấn đề đó có tính thời sự cao như dân số, môi trường, văn hóa, năng lượng, lương thực, …
Giai cấp công nhân là lực lượng kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, không chấp nhận chế độ đa đảng, đa nguyên chính trị.
Giai cấp công nhân tham gia đông đảo vào các thành phần kinh tế, lấy mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh để phấn đấu.
Giai cấp công nhân là lực lượng tiên phong trong đấu tranh phòng chống tiêu cực,
tham nhũng, tệ nạn xã hội, là lực lượng chính trị – xã hội quan trọng trong việc bảo
vệ tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã hội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Qua những phân tích nêu trên ta kết luận:
Như vậy từ các thông tin đưa ra như trên ta thấy được những sứ mệnh lịch sử lớn lao
của giai cấp công nhân Việt Nam là xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ
bóc lột, tự giải phóng, giải phóng nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi sự
áp bức, bóc lột, xây dựng thành công xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Như vậy nên chúng hiện nay việc phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác
ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp thực hiện “tri thức hóa
công nhân”, cũng như việc nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ vào sản xuất
nhằm tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả làm việc của công nhân, xứng đáng với
vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới là một vấn đề cần thiết và quan trọng
cần được thực hiện.[7] lOMoAR cPSD| 60794687
2.3. Tình hình phát triển giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH
2.2.1. Ưu đi m
Qua hơn 25 năm đổi mới, giai cấp công nhân nước ta đã có những chuyển biến
quan trọng, đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua
đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và
hội nhập kinh tế quốc tế, lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; đóng góp trực tiếp
to lớn vào sự phát triển của đất nước. Giai cấp công nhân Việt Nam có những ưu điểm:
Đội ngũ công nhân nước ta ngày càng đa dạng về cơ cấu ngành nghề, với trình
độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp được nâng lên đáng kể. Đội ngũ công
nhân đang tăng nhanh trong một số ngành kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế (điện
lực, dầu khí, điện tử, tin học, viễn thông...); đồng thời cũng đang phát triển mạnh ở
một số ngành sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu (dệt may, giày da, chế biến thủy
sản...). Đã hình thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức (có trình độ
cao đẳng, đại học trở lên) làm công tác quản lý sản xuất kinh doanh, nghiên cứu và
quản lý khoa học kỹ thuật gắn với sản xuất kinh doanh hoặc trực tiếp sản xuất. Hàng
chục vạn cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý doanh nghiệp sản xuất kinh doanh,
công nhân bậc cao và thợ giỏi đã năng động, sáng tạo, có nhiều sáng kiến có giá trị cao được áp dụng.
Đội ngũ công nhân nước ta đang là một lực lượng sản xuất cơ bản, có vai trò
quan trọng trong quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân theo con đường xã hội
chủ nghĩa. Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giai cấp công nhân đã đóng góp
trực tiếp to lớn vào sự nghiệp phát triển của đất nước, đưa nền kinh tế vượt qua thời
kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và phát triển tương đối toàn diện, cơ cấu
kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra nhiều sản phẩm
có sức cạnh tranh, tăng cường tiềm lực và cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế.
Giai cấp công nhân nước ta thích nghi tương đối nhanh với cơ chế thị trường,
tư tưởng trông chờ vào bao cấp của Nhà nước được khắc phục rõ rệt; đã bắt đầu hình
thành được ý thức về giá trị của bản thân trong lao động; đã xuất hiện một bộ phận
công nhân có cổ phần trong trong doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa. Trong quá
trình hình thành và thực hiện đường lối đổi mới, công nhân nước ta, đặc biệt là đội
ngũ công nhân trí thức, đã phát huy tinh thần sáng tạo, đề xuất nhiều giải pháp quý
báu cho Đảng, Nhà nước đúc rút thành những chủ trương và chính sách để lãnh đạo, lOMoAR cPSD| 60794687
chỉ đạo thực hiện có hiệu quả phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội.
Những cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh, cán bộ kỹ thuật và bộ phận công nhân
trực tiếp sản xuất có trình độ cao, đã phát huy tốt hơn tính năng động, sáng tạo trong
công việc, tự chủ trong sản xuất kinh doanh, thích ứng với cơ chế thị trường, tiếp thu
và từng bước làm chủ những thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại.
Một bộ phận giai cấp công nhân, nhất là trong khu vực doanh nghiệp nhà
nước, có bản lĩnh chính trị, lập trường giai cấp vững vàng. Đại đa số công nhân tin
tưởng vào Đảng, Nhà nước, chế độ, vào công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển
của đất nước theo con đường Xã hội Chủ nghĩa, có ý thức dân tộc, tinh thần yêu
nước, cần cù lao động, tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái. Quan tâm mong
muốn hàng đầu của công nhân hiện nay là có việc làm ổn định và thu nhập công
bằng, bảo bảo đảm đời sống; đất nước phát triển, chính trị - xã hội ổn định, dân chủ
và công bằng xã hội được đảm bảo; doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thuận lợi;
được bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng về vật chất và tinh thần,
quyền được tham gia các hoạt động chính trị - xã hội, quyền được đối xử bình đẳng,
được chăm sóc sức khỏe, học tập, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng
nghề nghiệp. Cùng với các giai cấp, tầng lớp và thành phần xã hội khác trong khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, giai cấp công nhân nước ta là cơ sở chính trị xã hội vững
chắc của Đảng và Nhà nước.
Trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
dưới sự lãnh đạo của Đảng, khi chuyển sang kinh tế thị trường, giai cấp công nhân
đã phục vụ sản xuất và đời sống của nông dân ngày càng nhiều hơn, thông qua cung
cấp các tư liệu sản xuất tiên tiến và dịch vụ kỹ thuật, chế biến nông sản, xây dựng
kết cấu hạ tầng nông thôn; thu hút đội ngũ trí thức gắn bó với các doanh nghiệp để
nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của
doanh nghiệp. Đã có một số mô hình liên kết trực tiếp công nghiệp với nông nghiệp
và nghiên cứu khoa học, công nhân với nông dân và trí thức trong sản xuất kinh
doanh (như mô hình Công ty Mía đường Lam Sơn, hình thức liên kết bốn nhà: nhà
nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học, nhà nước; các hình thức liên kết trong thực
hiện xây dựng cánh đồng 50 triệu đồng/ha/năm và hộ nông dân thu nhập 50 triệu đồng/năm...)
2.2.2. Hạn chế
Trong điều kiện mới hiện nay bên cạnh những thành tựu thì giai cấp công nhân
ở nước ta hiện nay còn bộc lộ những hạn chế, đó là: lOMoAR cPSD| 60794687
Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng,
cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế, quốc tế.
Có thống kê của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam cho thấy trình độ chuyên
môn của công nhân Việt Nam tại các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế còn
khá khiêm tốn, cụ thể: 57,08% lao động phổ thông, 26,97% là lao động có trình độ
chuyên môn từ sơ cấp học nghề trở lên, 6,26% công nhân có trình độ trung cấp và
10,09% tỷ lệ công nhân có trình độ đại học, cao đẳng. Còn theo số liệu thống kê từ
cuộc điều tra khảo sát về “tiền lương thu nhập của người lao động trong các khu
công nghiệp” do Viện Công nhân Công đoàn (thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam) tiến hành cho thấy trình độ chất lượng công nhân tại các khu công nghiệp
trong cả nước vẫn còn rất hạn chế. Cụ thể theo điều tra, công nhân có 10,5% trình
độ tiểu học; 43,7% trình độ, trung học cơ sở 45,5% có trình độ tiểu học phổ thông,
đặc biệt vẫn còn 0,28% người lao động không biết chữ. Kết quả khảo sát cũng cho
thấy, lao động của ta chủ yếu là lao động giản đơn chưa qua đào tạo nghề. Có tới
75% lao động chưa qua học nghề tại các cơ sở đào tạo ngoài doanh nghiệp, trong số
này có khoảng 94% người được đào tạo ngắn hạn tại doanh nghiệp trước khi bắt đầu
công việc của mình. Chỉ có 9,5% công nhân lao động kỹ thuật, 3,7% công nhân có
trình độ trung cấp, 3% cao đẳng và 5,6% có trình độ đại học. Nếu tính chung số công
nhân được đào tạo nghề (cả ở các cơ sở và doanh nghiệp) thì tỷ lệ công nhân lao
động bậc cao là rất ít. Số công nhân bậc 4 chiếm 8,4% và bậc 6-7 chỉ chiếm 3,2%.
Đặc biệt, hiện chúng ta còn thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản
lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều
hạn chế; đa phần công nhân từ nông dân chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống,
một bộ phận công nhân chậm thích nghi với cơ chế thị trường.
Địa vị chính trị của giai cấp công nhân chưa thể hiện đầy đủ. Giai cấp công
nhân còn hạn chế về phát huy vai trò nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Giác ngộ giai
cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân không đồng đều; sự hiểu biết về chính sách,
pháp luật còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo xuất thân từ công
nhân còn thấp. Một bộ phận công nhân chưa thiết tha phấn đấu vào Đảng và tham
gia hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã hội. Đặc biệt, tỷ lệ công nhân là đảng
viên trong tổng số đảng viên của Đảng những năm gần đây đang giảm dần là một xu
hướng rất đáng lo ngại. Do công tác phát triển Đảng trong công nhân chưa thực sự
được quan tâm, nên ở khu vực kinh tế ngoài nhà nước, có vốn đầu tư nước ngoài
(FDI), tỉ lệ doanh nghiệp có tổ chức cơ sở Đảng rất thấp.