-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Tiểu luận môn Chủ nghĩa xã hội khoa học | Đại học Quảng Nam
Tiểu luận môn Chủ nghĩa xã hội khoa học | Đại học Quảng Nam. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF gồm 31 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Chủ nghĩa xã hội khoa học (QN) 1 tài liệu
Đại học Quảng Nam 25 tài liệu
Tiểu luận môn Chủ nghĩa xã hội khoa học | Đại học Quảng Nam
Tiểu luận môn Chủ nghĩa xã hội khoa học | Đại học Quảng Nam. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF gồm 31 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học (QN) 1 tài liệu
Trường: Đại học Quảng Nam 25 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lịch sử đã chứng minh, giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lịch sử rất
quan trọng trong việc lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột
trong đấu tranh từng bước xóa bỏ chủ nghĩa tư bản và xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội, đó là giai cấp tiên tiến nhất, có tư tưởng các mạng, chính trị triệt để
nhất trong xã hội. Tuy rằng để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công
nhân phải trải qua những khó khăn, khổ cực, những bước thăng trầm, nhưng họ
vẫn hằng ngày, hằng giờ gắng sức hoàn thành nhiệm vụ của lịch sử giao phó.
Trước sự khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô,
nhiều người đã bộc lộ sự dao động và hoài nghi về sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân. Bọn cơ hội và các thế lực chống phá có cơ hội mới để phủ nhận sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chủ
nghĩa xã hội. Vì vậy vấn đề là sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, nhất
là trong bối cảnh lịch sử mới đang được đặt ra một cách bức thiết trên cả phương
diện lý luận lẫn thực tế.
Ở Việt Nam, giai cấp công nhân giữ một vai trò hết sức quan trọng. Là một bộ
phân của giai cấp công nhân thế giới, giai cấp công nhân Việt Nam luôn thể hiện
và phát huy tinh thần trách nhiệm của mình trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Bước ra từ khói lửa chiến tranh, trải qua nhiều thời kỳ thăng trầm,
giai cấp công nhân Việt Nam đã chứng minh họ là những người lãnh đạo xứng
đáng trong sự nghiệp chung của đất nước. Họ vẫn không ngừng đấu tranh. Trong
chiến tranh thì đấu tranh giải phóng dân tộc, trong hòa bình thì đấu tranh xây dựng đất nước.
Trong công cuộc hiện nay, công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa diễn ra
trên toàn thế giới, chủ nghĩa xã hội đang ở thời kỳ thoái trào, thời đại ngày nay vẫn
đang là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn
thế giới còn đang có nhiều biên động và tiêu cực. Thì vấn đề làm sáng tỏ sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân được đặt ra càng bức thiết hơn bao giờ hết, kể cả
trên phương diện lý luận lẫn thực tiễn.
Giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử vô cùng trọng đại, xóa bỏ xã hội cũ, lạc
hậu, xây dựng xã hội mới tiến bộ, giải phóng giai cấp mình đồng thời giải phóng
toàn nhân loại trên phạm vi toàn thế giới. Ngày nay đứng trước tình hình phát triển
mới của đất nước và thế giới, nhân loại bước vào thiên niên kỷ mới, nhiều ý kiến
đặt ra cho việc xây dựng và phát triền giai cấp công nhân. Đảng ta khẳng định giai
cấp công nhân Việt Nam vẫn là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Vì thế, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không chỉ
thể hiện rõ trong các văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc mà đây còn là một trong
những đề tài nghiên cứu khoa học của nhiều nhà lý luận nhà nghiên cứu lịch sử và
của nhiều thế hệ công nhân, sinh viên. Sau khi học xong học phần Chủ nghĩa khoa
học xã hội và sự hướng dẫn của quý cô giáo phụ trách học phần. Dựa vào tình
hình thực tế của Việt Nam, bản thân em chọn đề tài “Tình hình phát triển giai
cấp công nhân Việt Nam trong thời kì công nghiệp hoá và hiện đại hoá” để góp
một phần nào đó vào việc làm sáng tỏ thêm vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.
2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu 2.1 Mục đích
Mục đích của đề tài này là làm rõ bản chất của giai cấp công nhân và vai
trò của giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kì công nghiệp hóa và hiện đại hóa. 2.2 Nhiệm vụ
Phân tích các quan điểm về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Liên hệ tình hình thực tế của giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kì
công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
2.3 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nằm trong phạm vi nghiên cứu sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân
trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, đề tài sử dụng các phương pháp sau đây: Phương pháp phân tích Phương pháp tổng hợp
4. Kết cấu đề tài
Chương 1. Lý luận chung về sứ mệnh của giai cấp công nhân
Chương 2. Giai cấp công nhân VIệt Nam và tình hình phát triển giai
cấp công nhân trong thời kì công nghiệp hóa và hiện đại hóa B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỨ MỆNH CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1.1. Khái niệm giai cấp công nhân
Khi sử dụng khái niệm giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng một
số thuật ngữ khác nhau để biểu đạt khái niệm đó, như: giai cấp vô sản, giai cấp vô
sản hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp,...
Mặc dù vậy, về cơ bản những thuật ngữ này trước hết đều biểu thị một khái niệm
thống nhất, đó là chỉ giai cấp công nhân hiện đại, con đẻ của nền sản xuất đại công
nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho
phương thức sản xuất hiện đại.
Dù khái niệm giai cấp công nhân có nhiều tên gọi khác nhau như thế nào đi nữa
thì theo C. Mác và Ph. Ăngghen vẫn chỉ mang hai thuộc tính cơ bản:
- Về phương thức lao động, phương thức sản xuất, đó là những người lao
động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất
công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao.
- Về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, đó là những người lao
động không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và
bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư. Thuộc tính thứ hai này nói lên
một trong những đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân dưới chế độ
TBCN nên C.Mác và Ph.Ăngghen còn gọi giai cấp công nhân là giai cấp vô sản.
Trong hai tiêu chí này, C.Mác và Ph.Ăngghen tới tiêu chí một đó là công nhân
công xưởng, được coi là bộ phận tiêu biểu cho giai cấp công nhân hiện đại. Hai
ông cho rằng: “Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển
của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của nền đại công nghiệp”;
“công nhân cũng là một phát minh của thời đại mới, giống như máy móc cũng
vậy ... công nhân Anh là đứa con đầu lòng của nền đại công nghiệp hiện đại”.[2, tr610]
Với tiêu chí thứ hai, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đặc biệt nhấn mạnh vì chính
điều này khiến cho người công nhân trở thành giai cấp đối kháng với giai cấp tư
sản: “giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vô sản, giai cấp công
nhân hiện đại - tức là giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được việc làm,
và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động của họ làm tăng thêm tư bản - cũng phát
triển theo. Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để kiếm ăn từng bữa một,
là một hàng hóa, tức là một món hàng đem bán như bất cứ một món hàng nào
khác, vì thế họ phải chịu hết sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị
trường”.[3,tr35] Tiêu chí này đã nói lên một trong những đặc trưng cơ bản nhất của
giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản, do đó C.Mác và Ph.Ăngghen còn gọi giai
cấp công nhân là giai cấp vô sản.
Tại sao C.Mác và Ph.Ăngghen lại đặc biệt nhấn mạnh hai tiêu chí trên? Sở dĩ như
vậy vì đây chính là hai vị trí phân biệt giai cấp công nhân với các giai cấp khác
trong xã hội. Họ phải kiếm được việc làm và họ phải kiếm được việc làm khi họ
bán được sức lao động.
Giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông nhân có sự khác nhau. Hai khái niệm về
hai giai cấp này khác nhau ở chỗ: Nông dân sử dụng tất cả các công cụ sản xuất để
tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh; sản phẩm của nông dân mang tính chất cá nhân và
công cụ sản xuất của họ còn thô sơ. Còn giai cấp công nhân có khác: công cụ sản
xuất hiện đại; mỗi công nhân là một mắt khâu của công việc sản xuất; sản phẩm
của họ mang tính chất xã hội.
Giai cấp công nhân cũng khác với vô sản. Đó là giai cấp công nhân không có tư
liệu sản xuất, họ tồn tại được là nhờ bị bóc lột giá trị thặng dư. Còn giai cấp tư sản,
họ có nhiều tư liệu sản xuất nhưng lại không có sức lao động, họ phải thuê giai cấp
công nhân và bóc lột sức lao động của giai cấp công nhân để tồn tại. Đây chính là
hai mặt của một vấn đề.
Dưới chế độ chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân lại là những người lao động tự
do, những người bán sức lao động để sống, họ là những người làm công ăn lương
(hay làm thuê), là lao động trong lĩnh vực công nghiệp.
Ngày nay, với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trong nửa sau của thế kỷ XX, bộ
mặt của giai cấp công nhân hiện đại có nhiều thay đổi khác trước. Từ dự kiến của
C.Mác và Ph.Ăngghen, giai cấp công nhân xét về diện mạo có nhiều biến đổi.
Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội hiện nay đã vượt xa trình độ văn
minh công nghiệp trước đây, sự xã hội hoá và phân công lao động xã hội mới, cơ
cấu của giai cấp công nhân hiện đại; các hình thức bóc lột giá trị thặng dư... đã làm
cho diện mạo của giai cấp công nhân hiện đại không còn giống với những mô tả
của C.Mác trong thế kỷ XIX. Tuy thế nhưng giai cấp công nhân hiện đại vẫn tồn
tại, vẫn có sứ mệnh lịch sử của mình trong xã hội tư bản hiện đại; những thuộc tính
cơ bản của giai cấp công nhân mà C.Mác đã phát hiện ra vẫn còn nguyên giá trị.
Hiện nay, cơ cấu ngành nghề của giai cấp công nhân đã có nhiều thay đổi to lớn.
Bên cạnh lực lượng công nhân truyền thống, xuất hiện công nhân trình độ tự động
hoá với việc áp dụng phổ biến công nghệ thông tin vào sản xuất. Bên cạnh những
ngành công nghiệp truyển thống, xuất hiện công nhân hoạt động ở lĩnh vực dịch
vụ. Thực tế ở các nước tư bản, công nhân trong các ngành dịch vụ này chiếm 50%
đến 70% lao động. Tuy nhiên, điều này không hể làm giảm vai trò của giai cấp
công nhân trong nền kinh tế và ngay cả tỷ trọng của giai cấp công nhân trong dân
cư. Bởi vì những người làm thuê trong các ngành dịch vụ gắn liền với công nghiệp
và hoạt động theo lối công nghiệp vẫn là công nhân xét cả trên hai thuộc tính về
giai cấp công nhân. Mặt khác, bên cạnh trình độ thấp của giai cấp công nhân
truyền thống đã xuất công nhân có trình độ cao, có xu hướng “tri thức hoá” và
cũng ngày càng tiếp thu thêm đông đảo những người thuộc tầng lớp trí thức vào
hàng ngũ của mình. Mặc dù vậy, bản chất về giai cấp công nhân cũng không hề
thay đổi. Nếu trước kia, công nhân bán sức lao động chân tay là chủ yếu thì nay, họ
bán cả sức lao động chân tay và lao động trí óc, giá trị ngày càng lớn và do đó càng
bị bóc lột giá trị thặng dư theo chiều sâu. Giai cấp công nhân bắt đầu có sự thay đổi
về tài sản. Phần lớn, họ không còn là những người vô sản trần trụi với hai bàn tay
trắng, mà họ đã có một số tư liệu sản xuất phụ có thể cùng gia đình làm thêm; một
số công nhân đã có cổ phần, cổ phiếu ở xí nghiệp. Tuy vậy nhưng nó cũng không
làm thay đổi toàn bộ lực lượng sản xuất cơ bản nhất, quyết định nhất đối với nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa, họ vẫn bị bóc lột dưới những hình thức khác nhau.
Có thể nói, những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về hai tiêu chí cơ bản
của giai cấp công nhân cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị, vẫn là cơ sở phương
pháp luận để chúng ta nghiên cứu giai cấp công nhân hiện đại, đặc biệt là để làm
sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay. Từ hai tiêu
chí trên ta có thể định nghĩa: “Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định,
hình thành và phát triển cùng với quá trình hình thành và phát triển của nền công
nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội
hoá ngày càng cao; là lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp hoặc tham gia
vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội;
là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”.[1,tr55]
1.2. Vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân
Một trong những phát hiện vĩ đại của Mác, Ăngghen là đã sớm biết tách riêng
giai cấp vô sản ra đời từ khối quần chúng bị áp bức, phát hiện ra vị trí đặc biệt và
những xu hướng lịch sử của nó. Từ đó khẳng định sứ mệnh lớn của giai cấp vô sản
và chỉ ra những phương pháp thực hiện sứ mệnh đó.
Lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những vấn đề
chủ yếu nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nó đã được Mác, Ăngghen luận chứng
một cách khoa học xuyên suốt trong nhiều tác phẩm và được Lênin tiếp tục phát
triển trong những điều kiện lịch sử mới.
Ngay từ cuối năm 1944, trong tác phẩm “góp phần phê phán triết học” Pháp
quyền của Hê-Ghen, lần đầu tiên Mác đã nêu lên vấn đề sứ mệnh lịch sử của giai
cấp vô sản là những điều kiện mà qua đó nó xóa bỏ mối quan hệ bóc lột tư bản chủ
nghĩa, thiết lập quan hệ xã hội mới. Đến bản “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” và
bộ “Tư bản” thì lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đã phát triển
đến một mức độ nhất định. “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” là một khái quát về
lý luận phong trào TBCN vạch rõ cơ sở kinh tế của cơ cấu xã hội và những xu
hướng tiếp tục phát triển của nó, đặt cơ sở cho việc giải thích vai trò của giai cấp
công nhân trong việc xây dựng CNXH. Đến thời kì này, nhiều phạm trù, khái niệm
cơ bản nhất đã được xác lập và sau đó được tiếp tục phát triển.
Trong điều kiện mới Lênin đã phát triển lý luận Maxit về giai cấp công nhân
như là “điều chủ yếu của học thuyết Mác”. Trong tất cả mọi giai đoạn đấu tranh vì
một thế giới mới, vì chủ nghĩa cộng sản, giai cấp công nhân là lãnh tụ của phong
trào cách mạng, là người lãnh đạo của nhân dân lao động. Lênin đã cụ thể hóa sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân trong điều kiện của cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản.
Lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được
thể hiện ở một số luận điểm cơ bản sau:
+ Giai cấp công nhân là người đào mộ chôn CNTB và người sáng tạo ra xã hội mới.
+ Giai cấp công nhân là lãnh đạo trong phong trào cách mạng giải phóng của
quần chúng bị áp bức trong xã hội hiện tại.
+ Lợi ích giai cấp tư sản và vô sản là đối lập và không điều hòa được. Cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản là tất yếu và sẽ dẫn đến chuyên chính vô sản.
+ Giai cấp vô sản phải hiểu rõ sứ mệnh của mình. Chủ nghĩa Mác-Lênin là
điều kiện ắt có, cơ bản để giai cấp vô sản từ giai cấp “tự nó” chuyển thành giai cấp “vì nó”.
+ Sự ra đời của Đảng Cộng sản là tất yếu khách quan, ĐCS là sản phẩm của
sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và là nhân tố quyết
định thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Vai trò, sứ mệnh
của giai cấp vô sản luôn là vấn đề trung tâm trong suốt một cuộc đấu tranh
chính trị - tư tưởng lâu dài và quyết liệt từ khi chủ nghĩa Mác- Lênin ra đời và
các giai đoạn phát triển sau đó.
Hình thức khá phổ biến của sự phủ nhận vai trò của giai cấp vô sản là sự công
kích khái niệm khoa học của Mác, Ăngghen về giai cấp vô sản. Một số người nêu
lên tư tưởng “phi kinh tế” về giai cấp để xóa mờ quan niệm của chủ nghĩa Mác cho
rằng giai cấp vừa là phạm trù kinh tế vừa là một phạm trù xã hội. Không thể khẳng
định giai cấp vô sản một cách tủy tiện, không tính đến vấn đề chiếm hữu - sở hữu
tư liệu sản xuất, hơn nữ lại chỉ coi đó là một hiện tượng tâm lý. Một số người khác
lại cho rằng không có một giai cấp công nhân được xác định rõ ràng. Điểm tựa của
những luận điểm xuyên tạc phạm trù giai cấp nói trên là ở chỗ không xem quan hệ
sở hữu tư liệu sản xuất như là một tiêu chuẩn khách quan để xem xét sản xuất.
Ngày nay trước sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - kỹ thuật và
những hệ quả mà nó tạo ra, một lập luận phổ biến chống lại sự lãnh đạo của giai
cấp công nhân cho rằng lý luận Mác - Lênin về vấn đề này là lỗi thời, giai cấp vô
sản sẽ bị xói mòn, thậm chí tiêu vong trước sự phát triển của cách mạng khoa học
kỹ thuật. Theo họ, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã và đang tạo ra những biến
đổi sâu sắc trong sự phân công lao động xã hội, hiện tượng “trí thức hóa lao động”
phát triển mạnh tỷ lệ lao động ngày càng tăng cao hơn so với lao động chân ta, cơ
cấu xã hội chủ nghĩa xã hội sẽ thay đổi mạnh.
Họ cũng cho rằng vai trò kinh tế của giai cấp công nhân sẽ giảm dần và trong
tương lai, giai cấp công nhân sẽ biến mất. Một số nhà lý luận tư sản khác tuy
không đồng ý rằng giai cấp công nhân sẽ biến mất. Một số nhà lý luận tư sản khác
tuy không đồng ý rằng giai cấp công nhân sẽ biến mất, nhưng lại cho rằng giai cấp
công nhân không còn là nhân vật chủ yếu của lịch sử.
Cách mạng khoa học kỹ thuật có đem đến những biến đổi trong phân công lao
động xã hội trong nội dung, phương thức lao động, trong thành phần giai cấp vô
sản. Thế nhưng điều đó hoàn toàn “không xóa mờ” quan hệ sản xuất TBCN và
mâu thuẫn giữa lao động với tư bản. Trí thức không là một giai cấp mà chỉ là một
tẩng lớp đặc biệt thuộc nhiều giai cấp khác. Sự ngăn cách giữa lao động chân tay
và lao động trí óc là một sai lầm về lý luận. Cách mạng khoa học kỹ thuật làm cho
thành phần giai cấp công nhân thêm đa dạng, bao gồm cả lao động chân tay và lao
động trí óc, lao động trong khu vực sản xuất vật chất và dịch vụ…. Quá trình trí
thức hóa phát triển sẽ có thể đưa tới một tầng lớp đặc biệt trong giai cấp công nhân
chứ không hề xóa bỏ giai cấp công nhân. Nhìn chung cách mạng Khoa học kỹ
thuật sẽ làm cho giai cấp công nhân phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng.
Ngày nay, sau sự sụp đổ của mô hình Chủ nghĩa xã hội ở nhiều nước, các nhà
lý luận tư sản lại một lần nữa cao giọng cho rằng họ đang nói “những lời cuối cùng
cho Mác” và cho lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Sự sụp đổ của
mô hình CNXH ở một số nước vừa qua không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa Mác
và lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Trái lại, ở nhiều nguyên nhân
của cuộc khủng hoảng sự sụp đổ đó là xuất phát từ chỗ không nắm vững vai trò
lãnh đạo của giai cấp công nhân và không thực hiện chuyên chính vô sản một cách
đúng đắn, mơ hồ về mâu thuẫn giai cấp trên bình diện thế giới.
1.3. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về nội dung sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân cho đến nay vẫn giữ nguyên giá trị khoa học và thực
tiễn. Bởi vì, những nguyên lý cơ bản đó được chủ nghĩa Mác – Lênin khái quát từ
thực tiễn sản xuất, kinh tế và phát triển trong CNTB gắn với sự phát triển của nền
công nghiệp ngày càng hiện đại, có thể khái quát nội dung cơ bản sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân qua mấy điểm sau đây:
Một là, ngay trong CNTB hàng thế kỷ nay, cũng như trong CNXH, giai cấp
công nhân trước hết phải được đảm nhận sứ mệnh trực tiếp là chủ thể lao động
sản xuất công nghiệp để đóng góp cho xã hội những sản phẩm vật chất và tinh
thần ngày càng hiện đại hơn. Tách rời sản xuất công nghiệp, giai cấp công nhân
không còn là mình nữa. Những thành tựu to lớn về sản xuất CNTB hàng thế kỷ
nay và những thành tựu bước đầu trong xây dựng CNXH đều có sự đóng góp rất
to lớn và quyết định nhất của giai đoạn công dân. Số lượng và chất lượng giai cấp
công nhân ngày càng tăng. Cả trong CNTB và trong chủ nghĩa xã hội, nếu để giai
cấp công nhân không có việc làm, không phát triển sản xuất công nghiệp hiện đại
thi công là gạt bỏ một nội dung cơ bản nhất của sứ mệnh lịch sử giai cấp công
nghiệp. CNXH đang và sẽ từng bước khắc phục tình trạng thất nghiệp, thiếu việc
làm và nghèo khổ của giai cấp công nhân, điều mà do bản chấ của mình, chế độ
tư bản chủ nghĩa qua 4 thế kỷ nay đã không giải quyết được.
Hai là, giai cấp công nhân phải có những hoạt dộng chính trị, tư tưởng, tổ
chức để thông qua Đảng của mình lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền,
xóa bỏ chế độ kinh tế - chính trị và xã hội cũ, bảo vệ chính quyền mới của mình.
Ba là, giai cấp công nhân thông qua Đảng của mình lãnh đạo toàn xã hội trên
lĩnh vực chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội … nhất là về kinh tế, để từng bước
hình thành và phát triển xã hội mới – xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Đây là nội dung cơ bản nhất quyết định nhất, phức tạp và lâu dài nhất trong sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Không thể nhận thức và hoạt động chủ
quan, duy ý chí, giản đơn, nóng vội cũng không thể mơ hồ, hữu khuynh dẫn đến
tự phát tư bản chủ nghĩa.
Bốn là, giai cấp công nhân ở mỗi nước luôn luôn mở rộng và tăng cường hợp
tác quốc tế với giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở tất cả các nước vì hòa
bình, độc lập, tự do, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đây là nội dung thể hiện bản chất
quốc tế của giai cấp công nhân.
Năm là, giai cấp công nhân và Đảng cộng sản thường xuyên đấu tranh chống
mọi thứ chủ nghĩa cơ hội, bọn phản động, đầu tranh chống lại mọi thể lực thù
địch của nhân dân với Chủ nghĩa xã hội.
1.4. Những điều kiện quy định và thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
1.4.1. Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh của giai cấp công nhân
Học thuyết C.Mác và Ph.Ăngghen về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
là luận chứng khoa học về địa vị kinh tế xã hội và vai trò lịch sử của giai cấp công
nhân, về mục tiêu và con đường để giai cấp đó hoàn thành sứ mệnh lịch sử của
mình. Học thuyết đã chứng minh sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được quy
định bởi những điều kiện kinh tế, xã hội khách quan.
a. Về địa vị kinh tế của giai cấp công nhân:
Dưới CNTB, giai cấp công nhân là sản phẩm của nền đại công nghiệp TBCN,
nó ra đời và phát triển cùng với sự hình thành phát triển của nền đại công nghiệp
TBCN, được nền sản xuất công nghiệp hiện đại rèn dũa tổ chức lại thành một lực
lượng xã hội hùng mạnh. Đại công nghiệp càng phát triển, tập trung làm phá sản
những người sản xuất hàng hoá nhỏ, bổ sung lực lượng cho giai cấp công nhân.
Mặt khác, đại công nghiệp phát triển tiếp tục bổ sung lực lượng cho giai cấp công
nhân, thu hút lực lượng lao động từ nhiều ngành, nhiều nghề khác nhau tạo nên tập
đoàn hùng mạnh. Bản thân sự phát triển nền đại công nghiệp cũng yêu cầu cao với
từng người lao động, tập thể lao động về tác phong lao động, kỷ luật lao động...
Dưới CNTB, giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất trong các bộ phận
tiêu biểu cấu thành của lực lượng sản xuất của xã hội tư bản. Họ đại diện cho lực
lượng sản xuất tiên tiến nhất với trình độ xã hội hoá ngày càng cao. Nhưng CNTB
lại được xây dựng trên nền tảng của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư lệu sản xuất
mà giai cấp tư sản là đại diện. Bởi thể, ở phương thức sản xuất TBCN luôn luôn
tồn tại mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao
(mà giai cấp công nhân là đại diện) với quan hệ sản xuất có tính chất chiếm hữu tư
nhân (mà giai cấp tư sản là đại diện). Đây là mâu thuẫn cơ bản vớc có và không thể
khắc phục được nếu không xoá bỏ được chế độ tư bản. Biểu hiện về mặt chính trị,
xã hội của mâu thuẫn cơ bản đó là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp
tư sản. Sự vận động phát triển của những mâu thuẫn tất yếu trên dẫn đến cách
mạng xã hội chủ nghĩa, dẫn tới sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi của chủ
nghĩa xã hội. Như vậy giai cấp công nhân gắn liền với nền lao động sản xuất vật
chất, đi liền sự phát triển của công nghiệp ngày càng hiện đại kể cả khi xuất hiện nền kinh tế tri thức.
Do không có tư liệu sản xuất, giai cấp công nhân phải bán sức lao động làm
thuê, bị nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư, bị lệ thuộc hoàn toàn vào quá trình
phân phối các kết quả lao động của chính họ. Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa,
giai cấp công nhân bị toàn bộ giai cấp tư sản bóc lột, là giai cấp trực tiếp đối kháng
với giai cấp tư sản, không có quyền trong tổ chức, điều hành lao động, phân phối
sản phẩm lao động. Do đó giai cấp công nhân không được làm chủ trong xã hội tư
bản chủ nghĩaHọ bị bần cùng hoá so với giai cấp tư sản (bị bóc lột trong quá trình
sản xuất, ngoài quá trình sản xuất và bị bóc lột theo chiều sâu).
Giai cấp công nhân hiện nay ở các nước tư bản có đời sống vật chất cao vẫn
bị bóc lột, bần cùng hoá theo đúng nghĩa của nó. Công nhân có cổ phần, tức là đã
ra nhập vào quá trình sản xuất, điều hành sản xuất đó là công nhân tư bản nhân dân
nhưng con số này vẫn còn rất khiêm tốn. Còn ở các nớc tư bản phá triển, công
nhân bị bóc lột cao hơn rất nhiều, từ 200% tới 300% và sự chênh lệch giàu nghèo
cũng khá cao. Trong tất cả các giai cấp đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có
giai cấp công nhân là thực sự cách mạng vì nó là sản phẩm của nền đại công
nghiệp, đại diện cho lực lượng sản xuất với trình độ xã hội hoá ngày càng cao, và
nó lao động trong nền đại công nghiệp với trình độ công nghệ ngày càng hiện đại
và sản xuất ra tuyệt đại của cải cho xã hội.
Từ địa vị giai cấp công nhân và giai cấp công nhân có lợi ích cơ bản thống
nhất với lợi ích của đông đảo nhân dân lao động đã tạo điều kiện cho giai cấp công
nhân đoàn kết với giai cấp khác, đi đầu trong công cuộc đấu tranh để thực hiện quá
trình giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Họ có khả năng đoàn kết giai cấp khác
(tất cả giai cấp vô sản) vì giai cấp công nhân: có cùng lợi ích cơ bản, thống nhất
nhau do bị bóc lột giá trị thặng dư; cùng tồn tại trong một môi trường sản xuất nh
nhau có tính chất công nghiệp thậm chí dịch vụ; có cùng tư bản trong nước và quốc
tế bóc lột; có cùng mục tiêu, sứ mệnh lịch sử tiêu diệt tư sản, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
b. Về đặc điểm chính trị, xã hội
Địa vị kinh tế - xã hội đã tạo cho giai cấp công nhân có những đặc điểm
chính trị - xã hội mà những giai cấp khác không thể có được, đó là những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng.
Giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng vì họ đại biểu cho
phương thức sản xuất tiên tiến, gắn liền với những thành tựu khoa học và công
nghệ hiện đại. Đó là giai cấp đuợc trang bị bởi một lý luận khoa học, cách mạng và
luôn luôn đi đầu trong mọi phong trào cách mạng theo mục tiêu xóa bỏ xã hội cũ
lạc hậu, xây dựng xã hội mới tiến bộ, nhờ đó có thể tập hợp được đông đảo các giai
cấp, tầng lớp khác vào phong trào cách mạng.
Thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất thời đại ngày nay.
Trong cuộc cách mạng tư sản, giai cấp tư sản chỉ có tinh thần cách mạng
trong thời kỳ đấu tranh chống chế độ phong kiến, còn khi giai cấp này đã giành
được chính quyền thì họ quay trở lại bóc lột giai cấp công nhân, giai cấp nông dân,
những giai cấp đã từng kề vai sát cánh với giai cấp này trong cuộc cách mạng dân
chủ tư sản. Khác với giai cấp tư sản, giai cấp công nhân bị giai cấp tư sản bóc lột,
có lợi ích cơ bản đối lập trực tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản. Điều kiện sống,
điều kiện lao động trong chế độ tư bản chủ nghĩa đã chỉ cho họ thấy: họ chỉ có thể
được giải phóng bằng giải phóng toàn xã hội khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa.
Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ:
“Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp
vô sản là giai cấp thật sự cách mạng... Các tầng lớp trung đẳng là những tiểu công
nghiệp, tiểu thương, thợ thủ công và nông dân, tất cả đều đấu tranh chống giai cấp
tư sản để cứu lấy sự sống còn của họ với tính cách là những tầng lớp trung đẳng.
Cho nên họ không cách mạng mà bảo thủ”.
Thứ ba, giai cấp công nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật cao.
Giai cấp công nhân lao động trong nền sản xuất đại công nghiệp với hệ
thống sản xuất mang tính chất dây chuyền và nhịp độ làm việc khẩn trương buộc
giai cấp này phải tuân thủ nghiêm ngặt kỷ luật lao động; cùng với cuộc sống đô thị
tập trung đã tạo nên tính tổ chức, kỷ luật chặt chẽ cho giai cấp công nhân.
Tính tổ chức và kỷ luật cao của giai cấp này được tăng cường khi nó phát
triển thành một lực lượng chính trị lớn mạnh, có tổ chức: được sự giác ngộ bởi một
lý luận khoa học, cách mạng và tổ chức ra được chính đảng có nó - đảng cộng sản.
Giai cấp công nhân không có ý thức tổ chức kỷ luật cao thì không thể giành được
thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản và xây dựng chế độ xã hội mới.
Thứ tư, giai cấp công nhân có bản chất quốc tế.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, giai cấp tư sản là một lực lượng quốc tế.
Giai cấp tư sản không chỉ bóc lột giai cấp công nhân ở chính nước họ mà còn bóc
lột giai cấp công nhân ở các nước thuộc địa. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ
của lực lượng sản xuất, sản xuất mang tính toàn cầu hóa. Tư bản của nước này có
thể đầu tư sang nước khác là một xu hướng khách quan. Nhiều sản phẩm không
phải do một nước sản xuất ra mà là kết quả lao động của nhiều quốc gia. Vì thế,
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân không chỉ diễn ra đơn lẻ ở từng doanh
nghiệp, ở mỗi quốc gia mà ngày càng phải có sự gắn bó giữa phong trào công nhân
các nước, có như vậy, phong trào công nhân mới có thể giành được thắng lợi.
V.I.Lênin chỉ rõ: “... không có sự ủng hộ của cách mạng quốc tế của thế giới thì
thắng lợi của cách mạng vô sản là không thể có được”, “Tư bản là một lực lượng
quốc tế. Muốn thắng nó, cần phải có sự liên minh quốc tế”.
Tóm lại, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân sở dĩ được thực hiện bởi
giai cấp công nhân, vì nó là một giai cấp cách mạng, đại biểu cho lực lượng sản
xuất hiện đại, cho phương thức sản xuất tiên tiến thay thế phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa, xác lập phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa, hình thái kinh tế -
xã hội cộng sản chủ nghĩa. Giai cấp công nhân là giai cấp đại biểu cho tương lai,
cho xu thế đi lên của tiến trình phát triển lịch sử. Đây là đặc tính quan trọng, quyết
định bản chất cách mạng của giai cấp công nhân. Hoàn toàn không phải vì nghèo
khổ mà giai cấp công nhân là một giai cấp cách mạng. Tình trạng nghèo khổ của
giai cấp công nhân dưới chù nghĩa tư bản là hậu quả của sự bóc lột, áp bức mà giai
cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản tạo ra đối với công nhân. Đó là trạng thái mà cách
mạng sẽ xóa bỏ để giải phóng giai cấp công nhân và giải phóng xã hội.
1.4.2. Điều kiện chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra những điều kiê ̣n thuô ̣c về nhân tố chủ quan để
giai cấp công nhân hoàn thành sứ mê ̣nh lịch sử của mình. Đó là:
Sự phát triऀn của bản thân giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng.
Thông qua sự phát triển này có thể thấy sự lớn mạnh của giai cấp công nhân cùng
với quy mô phát triển của nền sản xuất vâ ̣t chất hiê ̣n đại trên nền tảng của công
nghiê ̣p, của kỹ thuâ ̣t và công nghê ̣.
Là giai cấp đại diê ̣n tiêu biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, chất lượng
giai cấp công nhân còn phải thể hiê ̣n ở năng lực và trình đô ̣ làm chủ khoa học kỹ
thuâ ̣t và công nghê ̣ hiê ̣n đại, nhất là trong điều kiê ̣n hiê ̣n nay. Cuô ̣c cách mạng
công nghiê ̣p lần thứ 4 (4.0) đang tác đô ̣ng sâu sắc vào sản xuất, vào quản lý và đời
sống xã hô ̣i nói chung, đang đòi hỏi sự biến đổi sâu sắc tính chất, phương thức lao
đô ̣ng của công nhân, lao đô ̣ng bằng trí óc, bằng năng lực trí tuê ̣, bằng sức sáng tạo
sẽ ngày càng tăng lên, lao đô ̣ng giản dơn, cơ bắp trong truyền thống sẽ giảm dần
bởi sự hỗ trợ của máy móc, của công nghê ̣ hiê ̣n đại, trong đó có vai trò của công
nghê ̣ thông tin. Trình đô ̣ học vấn, tay nghề, bâ ̣c thợ của công nhân, văn hóa sản
xuất, văn hóa lao đô ̣ng đáp ứng yêu cầu của kinh tế tri thức là những thước đo
quan trọng về sự phát triển chất lượng của giai cấp công nhân hiê ̣n đại.
Chỉ với sự phát triển như vâ ̣y về số lượng và chất lượng, đặc biê ̣t về chất
lượng thì giai cấp công nhân mới có thể thực hiê ̣n được sứ mê ̣nh lịch sử của giai cấp mình.
Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan quan trọng nhất đऀ giai cấp công nhân
thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình.[1,tr63]
Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân ra đời và đảm nhận
vai trò lãnh đạo cuộc cách mạng là dấu hiệu về sự trưởng thành vượt bậc của giai
cấp công nhân với tư cách là giai cấp cách mạng.
Quy luâ ̣t chung, phổ biến cho sự ra đời của Đảng Cô ̣ng sản là sự kết hợp
giữa chủ nghĩa xã hô ̣i khoa học, tức chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân.
Giai cấp công nhân là cơ sở xã hô ̣i và nguồn bổ sung lực lượng quan trọng
nhất của Đảng, làm cho Đảng mang bản chất giai cấp công nhân trở thành đô ̣i tiên
phong, bô ̣ tham mưu chiến đấu của giai cấp. Đảng Cô ̣ng sản đại biểu trung thành
cho lợi ích của giai cấp công nhân, của dân tô ̣c và xã hô ̣i. Sức mạnh của Đảng
không chỉ thể hiê ̣n ở bản chất giai cấp công nhân mà còn ở mối liên hê ̣ mâ ̣t thiết
giữa Đảng với nhân dân, với quần chúng lao đô ̣ng đông đảo trong xã hô ̣i, thực hiê ̣n
cuô ̣c cách mạng do Đảng lãnh đạo để giải phóng giai cấp và giải phóng xã hô ̣i.
Ngoài hai điều kiê ̣n thuô ̣c về nhân tố chủ quan nêu trên chủ nghĩa Mác -
Lênin còn chỉ rõ, để cuô ̣c cách mạng thực hiê ̣n sứ mê ̣nh lịch sử của giai cấp công
nhân đi tới thắng lợi, phải có sự liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và các tầng lớp lao đô ̣ng khác do giai cấp công nhân thông qua đô ̣i
tiên phong của nó là Đảng Cô ̣ng sản lãnh đạo.
Tóm lại, chỉ duy nhất giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử xóa bỏ chủ
nghĩa tư bản, từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới.
CHƯƠNG 2. GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM VÀ TÌNH HÌNH PHÁT
TRIỂN GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRONG THỜI KÌ CÔNG NGHIỆP HÓA VÀ HIỆN ĐẠI HÓA
2.1. Sự ra đời và phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam
Giai cấp công nhân (GCCN) Việt Nam ra đời và phát triển gắn liền với quá
trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp những năm cuối thế kỷ XIX. Trước khi
thực dân Pháp nổ súng xâm lược, xã hội Việt Nam vẫn là một xã hội phong kiến
với hai giai cấp cơ bản là giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp nông dân; duy trì
nền kinh tế lạc hậu dựa vào sản xuất tiểu nông là chính, cơ sở kinh tế công nghiệp,
dịch vụ chưa phát triển. Sau khi cuộc xâm lăng và bình định đã cơ bản hoàn thành,
thực dân Pháp liền bắt tay tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ nhất với quy mô
mở rộng ra cả nước. Các nhà máy rượu bia, vải sợi, điện nước, ngành đường sắt,
hầm mỏ, đồn điền cao su, cà phê...lần lượt ra đời và cùng với đó đội ngũ những
người công nhân Việt Nam đầu tiên được hình thành. Họ là những người nông dân
bị tước đoạt hết ruộng đất, những người thợ thủ công bị phá sản buộc phải vào làm
việc trong các doanh nghiệp tư bản Pháp. Theo số liệu thống kê trước chiến tranh
thế giới lần thứ nhất, tổng số công nhân của Việt Nam khoảng trên 10 vạn người,
chủ yếu tập trung ở một số thành phố lớn như: Hà Nội, Sài Gòn - Chợ Lớn, Hải
Phòng và vùng mỏ Quảng Ninh…[5,tr1]
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, để bù đắp những tổn thất, thực dân
Pháp đã tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai với quy mô và tốc độ lớn
hơn trước. Chúng tăng cường đầu tư vào các ngành khai khoáng, giao thông vận
tải, đồn điền, công nghiệp chế biến, dệt may...nhằm tăng cường vơ vét và bóc lột ở
các nước thuộc địa. Thời kỳ này, số lượng công nhân Việt Nam đã phát triển nhanh
chóng lên đến trên 22 vạn người vào đầu năm 1929.
Dưới sự áp bức bóc lột hà khắc của thực dân, phong kiến, giai cấp công
nhân Việt Nam đã đoàn kết, tổ chức tập hợp nhau lại đấu tranh đòi quyền lợi, dẫn
đến hình thành các Hội Ái hữu, Hội Tương tế trong các nhà máy, xí nghiệp. Cuối
năm 1920, người công nhân yêu nước Tôn Đức Thắng đã vận động thành lập Công
hội Ba Son ở Sài Gòn, mở đầu cho phong trào đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc.
Là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp
ở Việt Nam, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ đầu thế kỉ này, lớp công nhân
đầu tiên xuất hiện gắn liền với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897) và thực
sự trở thành giai cấp công nhân Việt Nam từ thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ hai
(1924 – 1929). Cùng với quá trình phát triển cách mạng, giai cấp công nhân Việt
Nam sớm trở thành bộ phận của đội ngũ công nhân quốc tế. Giai cấp công nhân
Việt Nam là 1 bộ phận của giai cấp công nhân quốc tế nên có đặc điểm chung của
giai cấp công nhân quốc tế. Bên cạnh đó, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và
phát triển trong điều kiện cụ thể của dân tộc Việt Nam nên còn có những đặc điểm
riêng, ảnh hưởng đến việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam
Thứ nhất, sinh ra và lớn lên từ một nước vốn là thuộc địa, nửa phong kiến,
có truyền thống yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc, dù còn non trẻ, nhỏ bé, song giai
cấp công nhân sớm trở thành giai cấp duy nhất được lịch sử, dân tộc được thừa
nhận và giao phó sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ sau các phong trào cứu
nước theo lập trường Cần Vương, lập trường tư bản và tiêu tư bản thất bại.
Thứ hai, ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa mới lớn lên đã tiếp thu chủ
nghĩa Mác-Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân quốc tế, nhanh chóng trở
thành lực lượng chính trị tự giác thống nhất được chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục,
đã sớm giác ngộ mục tiêu cách mạng triệt để.
Thứ ba, giai cấp công nhân nước ta xuất thân từ nông dân lao động thực dân
phong kiên bóc lột, bần cùng hóa nên có quan hệ máu thịt với giai cấp nông dân và
các tầng lớp lao động khác. Qua thử thách của cách mạng, liên minh đã trở thành
động lực và là cơ sở vững chắc cho khối đại đoàn kết dân tộc.
Thứ tư, từ khi trở thành giai cấp cầm quyền, giai cấp công nhân Việt Nam
luôn phát huy bản chất cách mạng trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc, luôn là lực
lượng đi đầu và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp đây mạng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa xây dựng và phát triển nền kinh tế công nghiệp và nền kinh tế tri thức hiện đại.
Thứ năm, quá trình “tri thức hóa” giai cấp công nhân diễn ra mạnh mẽ, từng
bước hình thành giai cấp công nhân tri thức Việt Nam. Việc hình thành giai cấp
công nhân tri thức không có nghĩa là sự bổ sung và lực lượng giai cấp công nhân
có trình độ cao mà là giai cấp công nhân được điều khiển những công nghệ tự động
hóa của nền kinh tế tri thức.
Vậy sự ra đời và phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam có ảnh hưởng
đến quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân nước ta trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2.2. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình công
nghiệp hóa và hiện đại hóa
Đầu tiên khi nói tới sứ mệnh lịch sử của công nhân ta đã từng biết tới sứ
mệnh của họ trên toàn thế giới của giai cấp công nhân do C. Mác (1818 – 1883)
phát hiện và luận chứng từ cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên, đến nay đã trải
qua ba lần tiến hóa. Những nội hàm cơ bản của lý luận này đã thể hiện và tiếp tục
được bổ sung từ thực tiễn các cuộc công nghiệp và cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay sự phát triển của công nghiệp 4.0, về đại thể, sẽ vẫn tiếp tục những lí luận
và những nội dung mà C. Mác đã đưa ra, tiếp nối nội dung sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân trong thời đại phát triển thông tin.
Hiện nay chúng ta cũng có thể dễ dàng nhận thấy sự phát triển không ngừng và
vượt trội của cách mạng công nghiệp 4.0 có đặc điểm là “Tốc độ vận động ngày
càng nhanh chứ không đều đặn”, với quy mô là “thúc đẩy những chuyển đổi mô
hình chưa từng có trên các khía cạnh kinh tế, kinh doanh, xã hội và cá nhân”, có
những tác động “dẫn đến sự chuyển đổi của toàn bộ các hệ thống giữa các (và
trong mỗi) quốc gia, doanh nghiệp ngành công nghiệp và toàn xã hội”. Như vậy
nên đây cũng là cơ sở để chúng ta có thể nêu ra những quan điểm của mình đối với
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân từ lô-gíc chung của các cuộc cách mạng
công nghiệp đã diễn ra và từ những nhận thức ban đầu về Cách mạng công nghiệp
4.0 hiện nay, cũng như những dự báo.
Căn cứ dựa trên các chứng minh của chủ nghĩa Mác – Lênin giai cấp công nhân
được biết tới là giai cấp tiên tiến nhất và cách mạng nhất, là lực lượng xã hội duy
nhất có sứ mệnh lịch sử: xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ chế độ người bóc lột
người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và giải phóng toàn thể
nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội mới – xã
hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân bắt nguồn từ địa vị kinh tế-xã hội
khách quan cụ thể như sau:
– Giai cấp công nhân có xuất phát điểm ra đời dưới chủ nghĩa tư bản, có thể nói
giai cấp công nhân là lực lượng và cũng là một bộ phận quan trọng nhất, cách
mạng nhất của lực lượng sản xuất có trình độ xã hội hóa cao.
– Giai cấp công nhân họ ra đời là những người không có tư liệu sản xuất và việc
bán sức lao động của mình cho nhà tư bản để sống và duy trì các hoạt động ở thời
điểm hiện tại là điều đương nhiên. Họ bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư mà
họ đã tạo ra trong thời gian lao động.
– Không những rất yếu về tư liệu và kinh tế, những điều khó khăn đó cũng đã giúp
cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp cách mạng triệt để và có khả năng thực
hiện sứ mệnh lịch sử, đó là khả năng đoàn kết toàn thể giai cấp công nhân và các
dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế chống chủ nghĩa đế quốc.
Như vậy đối với dự phát triển như hiện nay ta thấy giai cấp công nhân Việt Nam đã
khẳng định được tầm cỡ và vị trí của chính họ, để có thể xứng đáng là bộ phận của
giai cấp công nhân thế giới, tiếp tục lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh là nền tảng tư tưởng. Ngày nay, công nhân Việt Nam chủ động tham gia giải
quyết các vấn đề là thu hút sự quan tâm hàng đầu của Việt Nam nói riêng và thế
giới nói chung. Các vấn đề đó có tính thời sự cao như dân số, môi trường, văn hóa,
năng lượng, lương thực, …
Giai cấp công nhân là lực lượng kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, không chấp nhận chế độ đa đảng, đa nguyên chính trị.
Giai cấp công nhân tham gia đông đảo vào các thành phần kinh tế, lấy mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh để phấn đấu.
Giai cấp công nhân là lực lượng tiên phong trong đấu tranh phòng chống tiêu cực,
tham nhũng, tệ nạn xã hội, là lực lượng chính trị – xã hội quan trọng trong việc bảo
vệ tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã hội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Qua những phân tích nêu trên ta kết luận:
Như vậy từ các thông tin đưa ra như trên ta thấy được những sứ mệnh lịch sử lớn
lao của giai cấp công nhân Việt Nam là xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế
độ bóc lột, tự giải phóng, giải phóng nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi
sự áp bức, bóc lột, xây dựng thành công xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Như vậy nên chúng hiện nay việc phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao
giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp thực hiện “tri thức
hóa công nhân”, cũng như việc nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ vào sản
xuất nhằm tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả làm việc của công nhân, xứng
đáng với vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới là một vấn đề cần thiết và
quan trọng cần được thực hiện.[7]
2.3. Tình hình phát triển giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH
2.2.1. Ưu điऀm
Qua hơn 25 năm đổi mới, giai cấp công nhân nước ta đã có những chuyển
biến quan trọng, đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng
thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng;
đóng góp trực tiếp to lớn vào sự phát triển của đất nước. Giai cấp công nhân Việt Nam có những ưu điểm:
Đội ngũ công nhân nước ta ngày càng đa dạng về cơ cấu ngành nghề, với
trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp được nâng lên đáng kể. Đội
ngũ công nhân đang tăng nhanh trong một số ngành kinh tế mũi nhọn của nền kinh
tế (điện lực, dầu khí, điện tử, tin học, viễn thông...); đồng thời cũng đang phát triển
mạnh ở một số ngành sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu (dệt may, giày da, chế biến
thủy sản...). Đã hình thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức (có
trình độ cao đẳng, đại học trở lên) làm công tác quản lý sản xuất kinh doanh,
nghiên cứu và quản lý khoa học kỹ thuật gắn với sản xuất kinh doanh hoặc trực
tiếp sản xuất. Hàng chục vạn cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh, công nhân bậc cao và thợ giỏi đã năng động, sáng tạo,
có nhiều sáng kiến có giá trị cao được áp dụng.
Đội ngũ công nhân nước ta đang là một lực lượng sản xuất cơ bản, có vai trò
quan trọng trong quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân theo con đường xã
hội chủ nghĩa. Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giai cấp công nhân đã đóng
góp trực tiếp to lớn vào sự nghiệp phát triển của đất nước, đưa nền kinh tế vượt
qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và phát triển tương đối toàn
diện, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra
nhiều sản phẩm có sức cạnh tranh, tăng cường tiềm lực và cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế.
Giai cấp công nhân nước ta thích nghi tương đối nhanh với cơ chế thị
trường, tư tưởng trông chờ vào bao cấp của Nhà nước được khắc phục rõ rệt; đã
bắt đầu hình thành được ý thức về giá trị của bản thân trong lao động; đã xuất hiện
một bộ phận công nhân có cổ phần trong trong doanh nghiệp nhà nước cổ phần
hóa. Trong quá trình hình thành và thực hiện đường lối đổi mới, công nhân nước
ta, đặc biệt là đội ngũ công nhân trí thức, đã phát huy tinh thần sáng tạo, đề xuất
nhiều giải pháp quý báu cho Đảng, Nhà nước đúc rút thành những chủ trương và
chính sách để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả phát triển kinh tế, giữ vững
ổn định chính trị - xã hội. Những cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh, cán bộ kỹ
thuật và bộ phận công nhân trực tiếp sản xuất có trình độ cao, đã phát huy tốt hơn
tính năng động, sáng tạo trong công việc, tự chủ trong sản xuất kinh doanh, thích
ứng với cơ chế thị trường, tiếp thu và từng bước làm chủ những thành tựu khoa học
kỹ thuật, công nghệ hiện đại.
Một bộ phận giai cấp công nhân, nhất là trong khu vực doanh nghiệp nhà
nước, có bản lĩnh chính trị, lập trường giai cấp vững vàng. Đại đa số công nhân tin
tưởng vào Đảng, Nhà nước, chế độ, vào công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển
của đất nước theo con đường Xã hội Chủ nghĩa, có ý thức dân tộc, tinh thần yêu
nước, cần cù lao động, tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái. Quan tâm mong
muốn hàng đầu của công nhân hiện nay là có việc làm ổn định và thu nhập công
bằng, bảo bảo đảm đời sống; đất nước phát triển, chính trị - xã hội ổn định, dân chủ
và công bằng xã hội được đảm bảo; doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thuận lợi;
được bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng về vật chất và tinh thần,
quyền được tham gia các hoạt động chính trị - xã hội, quyền được đối xử bình
đẳng, được chăm sóc sức khỏe, học tập, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn,
kỹ năng nghề nghiệp. Cùng với các giai cấp, tầng lớp và thành phần xã hội khác
trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giai cấp công nhân nước ta là cơ sở chính trị -
xã hội vững chắc của Đảng và Nhà nước.
Trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
dưới sự lãnh đạo của Đảng, khi chuyển sang kinh tế thị trường, giai cấp công nhân
đã phục vụ sản xuất và đời sống của nông dân ngày càng nhiều hơn, thông qua
cung cấp các tư liệu sản xuất tiên tiến và dịch vụ kỹ thuật, chế biến nông sản, xây
dựng kết cấu hạ tầng nông thôn; thu hút đội ngũ trí thức gắn bó với các doanh
nghiệp để nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, nâng cao hiệu quả và sức cạnh
tranh của doanh nghiệp. Đã có một số mô hình liên kết trực tiếp công nghiệp với
nông nghiệp và nghiên cứu khoa học, công nhân với nông dân và trí thức trong sản
xuất kinh doanh (như mô hình Công ty Mía đường Lam Sơn, hình thức liên kết
bốn nhà: nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học, nhà nước; các hình thức liên
kết trong thực hiện xây dựng cánh đồng 50 triệu đồng/ha/năm và hộ nông dân thu
nhập 50 triệu đồng/năm...) 2.2.2. Hạn chế
Trong điều kiện mới hiện nay bên cạnh những thành tựu thì giai cấp công
nhân ở nước ta hiện nay còn bộc lộ những hạn chế, đó là:
Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số
lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế, quốc tế.
Có thống kê của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam cho thấy trình độ
chuyên môn của công nhân Việt Nam tại các doanh nghiệp trong các thành phần
kinh tế còn khá khiêm tốn, cụ thể: 57,08% lao động phổ thông, 26,97% là lao động
có trình độ chuyên môn từ sơ cấp học nghề trở lên, 6,26% công nhân có trình độ
trung cấp và 10,09% tỷ lệ công nhân có trình độ đại học, cao đẳng. Còn theo số
liệu thống kê từ cuộc điều tra khảo sát về “tiền lương thu nhập của người lao động
trong các khu công nghiệp” do Viện Công nhân Công đoàn (thuộc Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam) tiến hành cho thấy trình độ chất lượng công nhân tại các khu
công nghiệp trong cả nước vẫn còn rất hạn chế. Cụ thể theo điều tra, công nhân có
10,5% trình độ tiểu học; 43,7% trình độ, trung học cơ sở 45,5% có trình độ tiểu
học phổ thông, đặc biệt vẫn còn 0,28% người lao động không biết chữ. Kết quả
khảo sát cũng cho thấy, lao động của ta chủ yếu là lao động giản đơn chưa qua đào
tạo nghề. Có tới 75% lao động chưa qua học nghề tại các cơ sở đào tạo ngoài
doanh nghiệp, trong số này có khoảng 94% người được đào tạo ngắn hạn tại doanh
nghiệp trước khi bắt đầu công việc của mình. Chỉ có 9,5% công nhân lao động kỹ
thuật, 3,7% công nhân có trình độ trung cấp, 3% cao đẳng và 5,6% có trình độ đại
học. Nếu tính chung số công nhân được đào tạo nghề (cả ở các cơ sở và doanh
nghiệp) thì tỷ lệ công nhân lao động bậc cao là rất ít. Số công nhân bậc 4 chiếm
8,4% và bậc 6-7 chỉ chiếm 3,2%. Đặc biệt, hiện chúng ta còn thiếu nghiêm trọng
các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong công
nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; đa phần công nhân từ nông dân chưa
được đào tạo cơ bản và có hệ thống, một bộ phận công nhân chậm thích nghi với cơ chế thị trường.
Địa vị chính trị của giai cấp công nhân chưa thể hiện đầy đủ. Giai cấp công
nhân còn hạn chế về phát huy vai trò nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Giác ngộ giai
cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân không đồng đều; sự hiểu biết về chính
sách, pháp luật còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo xuất thân từ
công nhân còn thấp. Một bộ phận công nhân chưa thiết tha phấn đấu vào Đảng và
tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã hội. Đặc biệt, tỷ lệ công nhân là
đảng viên trong tổng số đảng viên của Đảng những năm gần đây đang giảm dần là
một xu hướng rất đáng lo ngại. Do công tác phát triển Đảng trong công nhân chưa
thực sự được quan tâm, nên ở khu vực kinh tế ngoài nhà nước, có vốn đầu tư nước
ngoài (FDI), tỉ lệ doanh nghiệp có tổ chức cơ sở Đảng rất thấp.
Theo Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, hiện cả nước mới có 1,2% số
doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có chi bộ đảng, với số đảng viên chỉ
bằng 0,84% tổng số đảng viên của cả nước. Đặc biệt, từ năm 2000 đến nay, tỉ lệ
đảng viên là công nhân trong số đảng viên mới kết nạp chưa năm nào vượt quá 10%.
Tuy trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đời sống của đội
ngũ công nhân trong các thành phần ngày càng được cải thiện, những lợi ích của
một bộ phận công nhân được hưởng chưa tương xứng với những thành tựu của
công cuộc đổi mới và những đóng góp của chính mình; việc làm, đời sống vật chất
và tinh thần của công nhân đang có nhiều khó khăn, bức xúc, đặc biệt là ở bộ phận
công nhân lao động giản đơn tại các doanh nghiệp của tư nhân và doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài.
Theo số liệu điều tra của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cho thấy hiện
ở nước ta còn có 14,7% công nhân trong tình trạng thường xuyên không có việc
làm hoặc có việc làm nhưng không ổn định, 51,7% công nhân trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, 35,6% công nhân trong các doanh nghiệp tư
nhân phải đi thuê nhà ở trọ. Đặc biệt, sự an toàn đối với người lao động chưa được
bảo đảm. Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, cả
nước đã xảy ra hàng chục nghìn vụ tai nạn lao động dẫn đến những thiệt hại rất lớn
về người và vật chất. Riêng năm 2010, xảy ra 5.125 vụ tai nạn lao động, trong đó
có 554 vụ tai nạn lao động chết người. Tổng số người bị nạn là 5.307 người, trong
đó có 600 người chết, 1.260 người bị thương nặng. Tổng thiệt hại về vật chất lên
tới 137,5 tỷ đồng; số ngày nghỉ do tai nạn lao động cũng lên đến 75.454 ngày.
Theo guồng quay của nền kinh tế thị trường, người công nhân ngày càng
chịu nhiều áp lực hơn. Công việc khiến họ không còn có thời gian để quan tâm
nhiều tới đời sống tinh thần, chính trị xã hội. Nếu những công nhân trí thức làm
quản lý, làm chủ doanh nghiệp có mức thu nhập cao có điều kiện để tiếp xúc với
các phương tiện truyền thông, các dịch vụ giải trí thì những công nhân lao động
phổ thông với mức lương thấp phải làm thêm mới đủ sống dường như không có
điều kiện. Tại Việt Nam hiện nay theo số liệu thống kê, tỷ lệ công nhân tập trung
đông nhất là ở Thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Một thực tế đặt ra là hầu
hết họ là những công nhân từ các tỉnh lẻ lên làm thuê với mức lương thấp mà chi
phí cho cuộc sống ở hai thành phố này rất đắt đỏ do lượng người tập trung đông.
Với mức lương từ 1,5 đến 2 triệu đồng/tháng rất khó khăn trong việc duy trì một
cuộc sống vật chất tối thiểu của mình.
2.2.3. Nguyên nhân
Những hạn chế, yếu kém trên đây do nhiều nguyên nhân, trong đó có
nguyên nhân do vai trò lãnh đạo của Đảng trong công tác xây dựng đội ngũ còn
nhiều bất cập, thể hiện trên các phương diện sau:
Trong những năm qua, mặc dù Đảng có chú trọng xây dựng giai cấp công
nhân, nhưng quan tâm chưa đầy đủ, chưa ngang tầm với vị trí, vai trò của giai cấp
công nhân trong thời kỳ mới. Mặc dù giai cấp công nhân luôn được coi là giai cấp
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn khẳng định: “Đảng là đội tiền phong
của giai cấp công nhân”, nhưng trong thực tế từ trước khi có Đại hội VII của Đảng,
Ban Chấp hành Trung Ương và Bộ Chính trị chưa có nghị quyết, chỉ thị chuyên đề
về xây dựng giai cấp công nhân. Từ sau Đại hội VII, đặc biệt thực hiện triển khai
Nghị quyết Đại hội X, lần đầu tiên Đảng ta đã ban hành được nghị quyết chuyên đề
về giai cấp công nhân, nhưng việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng,
đặc biệt việc triển khai thực hiện Nghị quyết hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành
trung ương Đảng khóa X: “Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” trong thực tiễn hiện nay còn
chậm, do còn thiếu cơ chế đồng bộ để thực hiện, hoặc do nhận thức của các cấp
các ngành về các giải pháp thực hiện xây dựng giai cấp công nhân trong tình hình
mới vẫn còn có sự khác nhau.
Sự lãnh đạo của một số cấp ủy Đảng địa phương chưa được quyết liệt sát
sao; chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với người lao động chưa được thực
hiện nghiêm túc; vai trò, trách nhiệm của tổ chức Công đoàn chưa được phát huy
đầy đủ; sự phối kết hợp của cả hệ thống chính trị đối với việc xây dựng giai cấp
công nhân, chăm lo đến đời sống chưa đạt hiệu quả cao; chưa thường xuyên quan
tâm tổ chức các cuộc tiếp xúc, gặp gỡ và đối thoại trực tiếp giữa cán bộ của Đảng,
Nhà nước với công nhân lao động; ít có hình thức tôn vinh người lao động tiêu
biểu, nhằm kịp thời động viên những người lao động trực tiếp làm ra của cải vật
chất cho đất nước. Hệ thống cơ chế, chính sách đối với giai cấp công nhân chưa
đồng bộ, có những chủ trương chính sách không còn phù hợp, nhưng chậm được
sửa đổi, bổ sung kịp thời, v.v...
Tình trạng người sử dụng lao động vi phạm pháp luật lao động vẫn còn diễn
ra phổ biến nhưng chưa được xử lý nghiêm. Sự phân hoá giàu nghèo giữa đông đảo
công nhân với một bộ phận cán bộ quản lý trong doanh nghiệp và một số giai tầng
trong xã hội ngày càng tăng. Một số địa phương chỉ chú trọng đưa ra các cơ chế,
chính sách ưu đãi kêu gọi đầu tư, mà chưa chú ý đúng mức đến sự phát triển bền
vững, bảo vệ môi trường, chăm lo đời sống, thu nhập, nhà ở, cải thiện môi trường
sống, điều kiện lao động cho công nhân nên đã xảy ra nhiều vụ tranh chấp lao
động, đình công, ngừng việc tập thể trong thời gian qua.
Công tác đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ công nhân lao động, đào tạo
cán bộ xuất thân từ công nhân ưu tú, công tác phát triển đảng trong công nhân lao
động, nhất là trong công nhân lao động tại khu vực kinh tế ngoài nhà nước cũng
chưa được quan tâm đứng mức. Nhận thức của các cấp ủy đảng ở một số địa
phương về vai trò công nhân và các tổ chức Công đoàn Việt Nam chưa đầy đủ,
trong khi bản thân một bộ phận không nhỏ người lao động còn có trình độ còn
thấp, ý thức tổ chức kỷ luật còn hạn chế, quan hệ lao động còn có diễn biến phức
tạp; việc thu hút, tập hợp người lao động tham gia các tổ chức chính trị - xã hội
trong doanh nghiệp còn khó khăn.
2.3. Phương hướng và giải pháp để phát triển giai cấp công nhân hiện nay
Ở nước ta, giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên
phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam. Quá trình đổi mới mạnh mẽ theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang tạo ra những cơ hội mới
cho sự phát triển giai cấp công nhân Việt Nam. Việc cấu trúc lại nền kinh tế, sắp xếp và
đổi mới doanh nghiệp nhà nước, thu hút đầu tư của nước ngoài, thành lập doanh nghiệp
mới của các thành phần kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa và lao động, nhập -
chuyển giao kỹ thuật công nghệ cao, phát triển kết cấu hạ tầng, xây dựng các khu công
nghiệp, khu chế xuất..., đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển năng động với tốc độ tăng
trưởng cao, đồng thời tạo ra hàng triệu việc làm mới cho các lao động công nghiệp. Quá
trình này đã đưa lại những tích cực rõ rệt, một mặt, phát triển giai cấp công nhân về số
lượng; mặt khác, cũng tạo ra những cơ hội để người công nhân học hỏi, nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ và tay nghề.
Bên cạnh những thuận lợi, quá trình này cũng tạo ra những thách thức lớn đối với
giai cấp công nhân Việt Nam. Việc cơ cấu lại nền kinh tế, tập trung phát triển những
ngành kinh tế có lợi thế cạnh tranh quốc tế đã dẫn tới giảm việc làm ở những lĩnh vực
không được đầu tư. Cùng với quá trình này, việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà
nước, cổ phần hóa cũng làm xuất hiện một lượng lao động dôi dư khá lớn. Lượng lao
động không có việc làm vừa là vấn đề bức xúc của mỗi gia đình, mỗi doanh nghiệp vừa là
nỗi bức xúc của xã hội. Đội ngũ cán bộ, công nhân tiếp tục làm việc trong các doanh
nghiệp cổ phần hóa, về cơ bản, được đào tạo, rèn luyện và trưởng thành trong môi trường
làm việc cũ nên một bộ phận trình độ còn hạn chế, tay nghề thấp, ý thức tổ chức kỷ luật
kém, nặng tâm lý trông chờ ỷ lại, an phận... nên không ít người không đáp ứng được
những đòi hỏi của tác phong, quy trình, công nghệ sản xuất mới trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt.
Cùng với sự xuất hiện ồ ạt của các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài, các liên doanh đã tạo ra những khu công nghiệp - khu chế xuất tập
trung, thu hút một đội ngũ công nhân mới, rất đông đảo, trẻ và có trình độ văn hóa.
Nhưng, đội ngũ công nhân này cơ bản có nguồn gốc từ nông thôn, mang nặng tâm lý, ý
thức, lối sống của người nông dân; không được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ một cách
cơ bản; chưa được giáo dục một cách đầy đủ về ý thức chính trị, ý thức giai cấp; mục
đích đơn giản của họ là có việc làm, có thu nhập, ý thức làm thuê kiếm sống là chính.
Thu nhập của đội ngũ công nhân này rất thấp, đời sống vật chất và tinh thần vô cùng khó
khăn, nhất là về nhà ở, vệ sinh công nghiệp, vệ sinh môi trường, văn hóa...
Để giai cấp công nhân Việt Nam phát triển và trưởng thành, ngày càng xứng đáng
là lực lượng quan trọng nhất để xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và chế độ xã
hội chủ nghĩa, chúng ta cần sớm có một chiến lược quốc gia tổng thể, đồng bộ xây dựng
và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam trong thời gian tới. Gồm một số giải pháp cơ bản sau:
Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội một cách hài hòa. Vừa tăng trưởng kinh tế
với tốc độ cao, ổn định vừa bảo đảm phát triển văn hóa - xã hội hài hòa, lành mạnh;
không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động, đặc biệt là giai
cấp công nhân; giữ vững ổn định chính trị; bảo đảm an ninh quốc phòng, trật tự an toàn
xã hội. Một xã hội ổn định, phát triển toàn diện và hài hòa không chỉ là môi trường thuận
lợi cho sự phát triển của giai cấp công nhân mà còn của mọi người dân trong xã hội.
Tiếp tục phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quy
hoạch nền kinh tế, vùng kinh tế, khu vực kinh tế, cấu trúc lại nền kinh tế phù hợp với sự
phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước, thu hút đầu tư nước ngoài, khuyến khích các tập thể cá nhân phát triển sản xuất
- kinh doanh, chủ động và tích cực tham gia vào thị trường lao động quốc tế, phát triển
cảng biển, hệ thống đường giao thông thủy, bộ, đường sắt, hàng không, xây dựng những
khu công nghiệp, khu chế xuất mới... Đây sẽ là quá trình phát triển kinh tế theo hướng
công nghiệp, hiện đại; đồng thời, hướng tới việc tạo ra một thị trường lao động công
nghiệp mới, thu hút nhiều lao động với phong phú về ngành nghề, đa dạng về chủng loại.
Quá trình này sẽ phát triển giai cấp công nhân không chỉ về số lượng mà cả chất lượng.
Đẩy mạnh tuyên truyền và giáo dục để nhận thức rõ hơn về vai trò, vị trí và
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Xuất phát từ thực trạng đời sống của người
công nhân còn nhiều khó khăn, nên trong quan niệm của xã hội hiện nay, hình ảnh người
công nhân chưa phải là hình ảnh được đề cao. Trong điều kiện như thế, để giai cấp công
nhân có điều kiện khẳng định được vai trò, vị trí của mình cũng như hoàn thành được sứ
mệnh lịch sử cao quý của mình cần có một chiến dịch tuyên truyền, vận động rộng khắp
trong xã hội nhằm đề cao, tôn vinh người công nhân, sao cho cả xã hội nhận thức được
vai trò và vị trí quan trọng của giai cấp công nhân trong sự nghiệp phát triển kinh tế trong
điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; đồng thời, cũng là nhân tố quyết định xây
dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Cải cách triệt để hệ thống giáo dục và đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ và tay
nghề cho giai cấp công nhân. Đây là một vấn đề sống còn đối với người công nhân và
việc phát triển giai cấp công nhân trong tình hình mới. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế đang tạo ra một
nhu cầu mới về nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng. Đặc thù của kinh tế thị
trường là tính cạnh tranh cao, lao động và việc làm cũng không ngoài tình trạng đó. Sự
cạnh tranh trong sử dụng lao động đòi hỏi lực lượng lao động cần được đào tạo một cách
chuyên nghiệp và cơ bản. Do đó, chất lượng lao động, nguồn nhân lực mới là nhân tố
quyết định cho sự phát triển và tăng trưởng cao. Đối với người lao động, khi tham gia thị
trường lao động nếu chưa được đào tạo cơ bản, đáp ứng nhu cầu thực tế của thị trường
lao động, thì rất khó tìm được việc làm, và nếu có, thì cũng thường là việc làm không ổn
định, lao động giản đơn, nặng nhọc và thu nhập thấp. Tính cạnh tranh cao cùng với sự sôi
động của thị trường lao động đòi hỏi Nhà nước cần có một chiến lược xây dựng và phát
triển nguồn nhân lực vừa đông đảo, có chất lượng cao vừa phong phú, đa dạng nhằm đáp
ứng kịp thời và lâu dài nhu cầu nguồn lực con người cho quá trình đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thiết thực chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của giai cấp công
nhân. Trong xã hội hiện nay, cùng với nông dân, giai cấp công nhân là những người
nghèo trong xã hội. Đời sống vật chất và tinh thần của người công nhân lao động còn
nghèo nàn. Đây là một nghịch lý rất đáng suy nghĩ. Giai cấp tiên tiến, ưu tú, nắm quyền
lãnh đạo xã hội mà lại nghèo. Vì lẽ đó, Đảng và Nhà nước cần cấp thiết có một chiến
lược thiết thực chăm lo đời sống người công nhân, nhất là đội ngũ công nhân trẻ mới vào
nghề, tập trung đông ở các khu công nghiệp, khu chế xuất. Trong đó, trước hết, là các
chính sách mới về việc làm, nhà ở và tiền lương. Có như thế, giai cấp công nhân mới
thoát khỏi những bức bách của đời sống, có điều kiện học tập, rèn luyện nâng cao tay
nghề và ý thức xã hội. Chỉ khi đó, đội ngũ công nhân trẻ này mới gắn bó sâu sắc với sự
nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước, có ý thức giai cấp, có lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng giai cấp công nhân gắn liền với cuộc vận động thực hiện Quy chế
Dân chủ ở cơ sở và chống tham nhũng. Xây dựng và phát triển giai cấp công nhân phải
được thực hiện trong một môi trường kinh tế - xã hội mà mỗi người công nhân luôn có
điều kiện phát huy năng lực của mình và được thụ hưởng thành quả lao động do chính
mình làm ra. Muốn thế, cần thực hiện nghiêm chỉnh Quy chế Dân chủ trong các loại hình
doanh nghiệp khác nhau. Một khi người công nhân được tôn trọng, được thực sự góp
phần vào quá trình phát triển doanh nghiệp thì sẽ tạo ra một động lực mạnh mẽ thúc đẩy
cán bộ, công nhân yên tâm và hăng say làm việc, sáng tạo mang lại nhiều lợi ích cho
doanh nghiệp và bản thân.
Cùng với thực hiện nghiêm túc Quy chế Dân chủ trong các doanh nghiệp, đấu
tranh chống tham nhũng cũng là một vấn đề gây bức xúc trong không ít các doanh
nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp cổ phần. Tham nhũng đang tạo
ra khoảng cách giàu - nghèo giữa công nhân, viên chức và người lãnh đạo doanh nghiệp,
gây nên sự bất bình trong dự luận công nhân, mất đoàn kết nội bộ, mâu thuẫn trong
doanh nghiệp. Nếu không kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng sẽ dễ dẫn tới tình trạng
bất ổn, làm sản xuất đình đốn. Kiên quyết đấu tranh loại trừ tệ tham nhũng ra khỏi các
doanh nghiệp đó là một việc làm vừa có ý nghĩa phát triển sản xuất, kinh doanh vừa có ý
nghĩa bảo vệ cán bộ và công nhân không bị rơi vào trạng thái mâu thuẫn trên. Đó chính là
một con đường thiết thực góp phần xây dựng và phát triển giai cấp công nhân trong các doanh nghiệp.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội
trong các doanh nghiệp; đồng thời, đổi mới hoạt động của các tổ chức chính trị - xã
hội trong các doanh nghiệp phù hợp với tình hình mới. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng
đối với các tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp được đề cập ở đây là trong
các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp cổ phần hóa. Trong quá trình chuyển đổi
vừa qua, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với doanh nghiệp cũng như đối với các tổ
chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp còn lúng túng, có nhiều bất cập. Chính vì
vậy, vị thế, vai trò của Đảng trong các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp đã cổ phần
hóa khá mờ nhạt. Các tổ chức chính trị - xã hội trong nhiều doanh nghiệp hầu như rất
lúng túng trong phương hướng hoạt động, không hoạt động hoặc hoạt động chỉ mang tính hình thức.
Vấn đề đặt ra là, Đảng cần có phương thức lãnh đạo mới, một cơ chế mới để vừa
thể hiện được vai trò lãnh đạo của mình vừa thúc đẩy sự hoạt động một cách có hiệu quả
của các tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp. Trong đó, đặc biệt tạo lập mối
quan hệ mới giữa Đảng và tổ chức công đoàn, từng bước góp phần đưa Công đoàn trở
thành một tổ chức hùng mạnh, thực sự xứng đáng là tổ chức hoạt động vì quyền lợi chính
đáng của toàn thể công nhân, lao động. Sự lãnh đạo sát sao của Đảng đối với tổ chức
công đoàn sẽ là một sức mạnh mới thiết thực góp phần bảo vệ, chăm sóc và phát triển
giai cấp công nhân trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Bảo vệ
quyền lợi chính đáng của công nhân cũng là một cách xây dựng và phát triển giai cấp
công nhân trong giai đoạn hiện nay.[8] C. PHẦN KẾT LUẬN
Qua 37 năm thực hiện chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước (1986-
2023), giai cấp công nhân nước ta đã có những chuyển biến quan trọng, đang tiếp
tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng, là lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, lực
lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Ðảng; đóng góp trực tiếp to lớn vào sự phát
triển của đất nước. Sự nghiệp đổi mới còn rất nhiều khó khăn trở ngại đòi hỏi giai
cấp công nhân phát triển, lãnh đạo cách mạng, thực hiện tốt sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình.
Như vậy có thể thấy rằng, vai trò của giai cấp công nhân đối với sự phát triển
đất nước và tiến trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là hết sức quan
trọng. Đó không chỉ là giai cấp lãnh đạo mà còn là giai cấp đã, đang và sẽ cống
hiến, lãnh đạo con đường cách mạng của dân tộc ta, đất nước ta đi đến thắng lợi
cuối cùng. Trước những diễn biến ngày càng xấu đi của tình hình thế giới, công
nhân Việt Nam vẫn không ngừng nổ lực, phấn đấu, đóng góp sức mình trong sự
nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, giúp cho nước ta vượt qua giai
đoạn khủng hoảng của nền kinh tế thế giới với mức phát triển cao và ổn định
được bạn bè thế giới đánh giá cao. Đó là một trong những điều đáng mừng đối
với sự nghiệp phát triển đất nước. tuy nhiên, bên cạnh những thành công đạt được
thì cũng cần nhấn mạnh một điều rằng, giai cấp công nhân Việt Nam cần phải cố
gắng hơn nữa trong việc rèn luyện bản thân, phát huy những thế mạnh, hạn chế
những khuyết điểm, sao cho phù hợp với yêu cầu xã hội, phù hợp với yêu cầu của
Đảng, nhà nước nhất là trong bối cảnh xu hướng toàn cầu hóa đang ngày càng trở
nên mạnh mẽ và những cơ hội, thách thức được đạt ra ngày một nhiều hơn. Trong
công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa của đất nước, giai cấp công nhân phải
và luôn là giai cấp đi đầu trong đấu tranh xây dựng đất nước. Muốn sự nghiệp
được thành công và bền vững đòi hỏi giai cấp lãnh đạo tức là giai cấp công nhân
phải có cách nhìn nhận đúng vấn đề, hạn chế những sai sót, những vấn đề không
tốt, gây ảnh hưởng đến quá trình xây dựng chung. Điều đó buộc giai cấp công
nhân phải không ngừng phát triển, nâng cao trình độ và tay nghề, phát huy đúng
vai trò, sứ mệnh của mình trong việc xây dựng đất nước và liên kết các giai cấp
khác trong xã hội chung tay xây dựng đất nước. Hiện nay, các thế lực thù địch
đang âm mưu chống phá Đảng và Nhà nước ta, do đó, việc liên kết các giai cấp
khác là việc hết sức quan trọng. Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo trong sự
nghiệp chung của dân tộc nên cần phải tìm cách làm sao cho sợi dây liên kết các
giai cấp trong xã hội thật bền chặt thì mới có thể từng bước vững chắc thực hiện
sự nghiệp chung của toàn dân. Sự nghiệp đổi mới, và sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước chắc chắn sẽ còn tiếp diễn trong nhiều năm nữa với những
thời cơ, thuận lợi và những khó khăn, thách thức lớn. Do vậy, vị trí, vai trò của
giai cấp công nhân càng phải được nâng cao vì sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân Việt Nam – mà người đại diện là Đảng cộng sản - là một nhân tố hàng đầu
có ý nghĩa quyết định đảm bảo cho công cuộc đổi mới đi đúng hướng và thu được
kết quả cuối cùng. Muốn củng cố, tăng cường vị trí, vai trò của giai cấp công
nhân trong điều kiện hiện nay, Đảng và Nhà nước cần có một hệ thống giải pháp
đồng bộ để nhanh chóng khắc phục những mặt yếu kém, bất cập còn tồn tại trong
giai cấp công nhân đang từng ngày từng giờ làm giảm sút và xói mòn vị thế của
giai cấp công nhân. Chúng ta cũng cần phải giải quyết những vấn đề bức xúc ảnh
hưởng đến đời sống công nhân để giai cấp công nhân ngày càng phát huy hơn nữa
sức sáng tạo của mình. Có như vậy mới tạo nên được sức mạnh tổng hợp góp
phần đẩy nhanh tốc độ và nâng cao chất lượng của công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo (2021), Giáo trình Chủ nghĩa khoa học xã hội, Nhà xuất bản
chính trị Quốc gia sự thật Hà Nội
2. C.Mác và Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, tập 4, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật
3. C.Mác và Ph.Ănghen (1970), Toàn tập, tập 1, Nhà xuất bản Sự thật
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương khóa X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 5. ht
tp://congdoanthuathienhue.org.vn/printpage-tin-tuc/lien-doan-lao-dong-tinh/de-
cuong-tuyen-truyen-ky-niem-90-nam-ngay-thanh-lap-cong-doan-viet-nam.html 6. ht
tps://laodongcongdoan.vn/bai-1-tinh-hinh-viec-lam-thu-nhap-cua-cong-nhan-lao-
dong-trong-boi-canh-hien-nay-94033.html
7. Nguyễn Văn Dương, Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện nay.
8. Tạp Chí Cộng Sản (2023), Một số giải pháp xây dựng và phát triển giai cấp công
nhân trong thời ký đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
E. NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
Document Outline
- A. PHẦN MỞ ĐẦU
- 1. Lí do chọn đề tài
- 2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
- 3. Phương pháp nghiên cứu
- 4. Kết cấu đề tài
- Chương 1. Lý luận chung về sứ mệnh của giai cấp công nhân
- Chương 2. Giai cấp công nhân VIệt Nam và tình hình phát triển giai cấp công nhân trong thời kì công nghiệp hóa và hiện đại hóa
- B. PHẦN NỘI DUNG
- CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỨ MỆNH CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
- 1.1. Khái niệm giai cấp công nhân
- 1.2. Vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân
- 1.3. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
- 1.4. Những điều kiện quy định và thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
- 1.4.1. Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh của giai cấp công nhân
- 1.4.2. Điều kiện chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử
- CHƯƠNG 2. GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM VÀ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRONG THỜI KÌ CÔNG NGHIỆP HÓA VÀ HIỆN ĐẠI HÓA
- 2.1. Sự ra đời và phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam
- 2.2. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa
- 2.3. Tình hình phát triển giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH
- 2.2.1. Ưu điểm
- 2.2.2. Hạn chế
- 2.2.3. Nguyên nhân
- 2.3. Phương hướng và giải pháp để phát triển giai cấp công nhân hiện nay
- CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỨ MỆNH CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
- C. PHẦN KẾT LUẬN
- D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- E. NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN