








Preview text:
lOMoAR cPSD| 53331727
Trong giai đoạn từ 1941 - 1969, Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, soi đường cho
sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân dân ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối
của Đảng trong thời kì này về cơ bản là thống nhất. Trong những lần làm việc với các cán
bộ, đảng viên, nhân dân các địa phương, ban, bộ, ngành, Hồ Chí Minh nhiều lần đưa ra
quan điểm sáng tạo, đi trước thời gian.
I. GIAI ĐOẠN NĂM 1941 - 1945
Vào mùa Xuân năm 1941, Hồ Chí Minh trở về Tổ quốc trực tiếp chỉ đạo Ban Chấp hành
Trung ương Đảng lãnh đạo và tổ chức nhân dân đánh Pháp, đuổi Nhật để giành lại quyền
độc lập, tự do. Trung ương Đảng đã khẳng định và tiếp tục phát triển tư tưởng cách mạng
dân tộc của Hồ Chí Minh, rằng: Nói đến vấn đề dân tộc là nói đến quyền tự do độc lập của
mỗi dân tộc. Dân tộc đó có quyền lựa chọn con đường giải phóng của mình. Sau khi đánh
đuổi Pháp, Nhật, Đảng phải thi hành đúng chính sách dân tộc tự quyết cho các quốc gia ở
Đông Dương. Các dân tộc sống trên bán đảo Đông Dương sẽ tuỳ ý muốn, tổ chức thành
liên bang cộng hoà dân chủ hay đứng riêng thành lập một quốc gia tùy theo ý muốn của mình.
Tháng 5-1941, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì Hội nghị trung ương lần thứ 8 của Đảng.
Hội nghị quyết định nêu cao ngọn cờ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, thống nhất lực
lượng cách mạng trên toàn cõi Đông Dương, không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú
nông, tiểu tư sản, tư sản bản xứ, trung, tiểu địa chủ, ai có lòng yêu nước thương nòi vào
một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, đánh Pháp, đuổi Nhật giành quyền độc lập, tự
do cho các dân tộc ở Đông Dương theo quan điểm thực hiện quyền dân tộc tự quyết. Người
kêu gọi: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải
đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đảng cứu giống nòi rút khỏi nước sôi lửa nóng”.
Ngày 19/5/1941, Hồ Chí Minh sáng lập Mặt trận Việt Minh. Ta có thể thấy tư tưởng của
Hồ Chí Minh là con đường đúng đắn để Đảng ta đi theo trên con đường cách mạng. Sự
thành lập của Mặt trận Việt Minh đã trở thành một nhân tố cơ bản, quyết định thắng lợi
của Cách mạng Tháng Tám 1945. “Hai chữ Việt Minh trong một thời kỳ dài làm nức lòng
đồng bào cả nước, Hai chữ Việt Minh còn mãi trong lịch sử, chói lọi nét vàng". Việt Minh
là một tổ chức mặt trận tiêu biểu, hoàn chỉnh, sáng chói như một cột mốc đánh dấu sự ra
đời của Mặt trận thống nhất trong cách mạng Việt Nam:
Việt Minh ra đời là kết quả của quá trình vận động cách mạng ở Việt Nam, kết quả thắng
lợi của tư tưởng độc lập, tự do và chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, của lOMoAR cPSD| 53331727
Đảng ta; kết quả của một tư tưởng khoa học và sáng tạo, kiên quyết khắc phục tư tưởng ấu
trĩ, “tả" khuynh, giáo điều rập khuôn.
Sự ra đời và hoạt động của Việt Minh gắn liền với tư tưởng, đường lối chính trị, đường
lối tổ chức và sự hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Người là hiện thân của khối đại
đoàn kết dân tộc vì độc lập, tự do.
Mặt trận Việt Minh là một thành công sáng tạo của Hồ Chí Minh, của Đảng về công tác
mặt trận trong Cách mạng tháng Tám khi đã giương cao ngọn cờ dân tộc, khơi dậy mạnh
mẽ tinh thần yêu nước và đoàn kết thống nhất dân tộc, dựa vững vào khối liên minh công
nông và trí thức, đoàn kết chân thành với mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ của dân tộc
trong một Mặt trận thống nhất rộng rãi.
Ngày 22/12/1944, sáng lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của
Quân đội nhân dân Việt Nam.
Ngày 18/8/1945, chớp đúng thời cơ Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã lật đổ chế độ phong kiến hơn nghìn
năm, lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp hơn 80 năm và giành lại độc lập dân tộc trực
tiếp từ tay phát xít Nhật. Đây là thắng lợi to lớn đầu tiên của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam. Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945 chính là
một mốc son chói lọi, đây cũng là mốc son để chứng minh cho sự sáng suốt, tinh anh về
đường lối của một thiên tài. Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam của Hồ Chí Minh không
chỉ được những người cách mạng ca ngợi mà cả những tên phe địch cũng phải cúi đầu kính
nể. Denis Warner - một người chống cộng ở Australia đã viết về Hồ Chí Minh “Vừa mới
tập hợp những người cộng sản lại với nhau năm 1930, thì khi cuộc chiến tranh Thái Bình
Dương mới nổ ra, Cụ Hồ lại sẵn sàng bắt tay vào việc tập hợp những người theo chủ nghĩa
dân tộc và những người cộng sản thành một Mặt trận thống nhất rộng rãi hơn… vào mùa
Xuân năm 1941”. Nguyễn Tường Bách, một đảng viên Việt Cách chống Việt Minh đã thán
phục sức mạnh của Việt Minh như sau: “Đâu đâu cũng là Việt Minh cả… Tại sao? Đó là
câu tôi tự hỏi. Họ tài thật. Chúng tôi không khỏi thầm phục… Việt Minh đã thắng khắp
nơi. Ngày 2-9, Chính phủ Hồ Chí Minh làm lễ tuyên thệ độc lập ở Quảng trường Ba Đình.
Tôi đã biết… Hồ Chí Minh ngày nay là Nguyễn Ái Quốc mà chúng tôi vẫn khâm phục như
một nhân vật thần kỳ”
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình - Hà Nội, Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn
độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Một thời đại mới trong lịch sử dân lOMoAR cPSD| 53331727
tộc Việt Nam đã được mở ra: Thời đại độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là nhà nước
dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền về
nhà nước của dân, do dân, vì dân có bước phát triển mới.
II. GIAI ĐOẠN 1945 - 1946
Từ tháng 9/1945 đến tháng 12/1946, tư tưởng đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh tiếp tục được
thể hiện sâu sắc trong một loạt chủ trương:
+ Đề ra chiến lược, sách lược cách mạng sáng suốt, lãnh đạo Đảng và chính quyền non trẻ
trải qua thử thách ngàn cân treo sợi tóc. *
Phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, giữ vững mục tiêu đấu tranh cho chủ
quyền độc lập dân tộc, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân; *
Sách lược cách mạng linh hoạt, mềm dẻo: Khi thì hoà hoãn với Tưởng để rảnh tay
đối phó với thực dân Pháp, lúc thì tạm hoà hoãn với Pháp để đuổi quân Tưởng và quét sạch
bọn phản động tay sai của Tưởng về nước.
=> Đây là sách lược rất đúng đắn, thể hiện được sự sáng suốt và thấu đáo trong Tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Tổ chức cuộc bầu cử tự do đầu tiên để xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
+ Phát động phong trào bình dân học vụ để xóa "giặc dốt" và phát động phong trào tăng
gia, tiết kiệm, hũ gạo cứu đói để chống "giặc đói";
+ Tổ chức Tuần lễ Vàng để động viên toàn dân xây dựng nền tài chính quốc gia; + Tiến
hành đàm phán với Chính phủ Pháp để ký Hiệp định sơ bộ ngày 6/3 và Tạm ước
14/09/1946 nhằm tranh thủ thời gian hòa bình mà nỗ lực xây dựng lực lượng chuẩn bị cho
cuộc kháng chiến chống xâm lược.
III. GIAI ĐOẠN 1946 - 1954
Trong bức thư ngày 23/11/1946 gửi người Việt Nam, người Pháp và thế giới, Chủ tịch
Hồ Chí Minh viết: "Chính phủ và nhân dân Việt Nam kiên quyết cộng tác thật thà với
người Pháp. Trong khi phải giữ chủ quyền của Tổ quốc, cần hy sinh thì cũng phải kiên
quyết hy sinh.... Người Việt và người Pháp có thể và cần phải bắt tay nhau trong một sự
nghiệp công tác bình đẳng, thật thà để gây dựng hạnh phúc chung cho cả hai dân tộc". lOMoAR cPSD| 53331727
Trước dã tâm của thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta một lần nữa, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã cùng Trung ương Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến trên phạm vi cả
nước. Sáng ngày 20/12/1946, trên làn sóng phát thanh của Đài tiếng nói Việt Nam, lời kêu
gọi cứu nước của Người đã truyền đi khắp nước:
"Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu
làm nô lệ... Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng
phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc.
Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc thuổng, gậy
gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước"
Một trong những nhân tố quan trọng đảm bảo kháng chiến thắng lợi là sự lãnh đạo của
Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những nhiệm vụ cụ thể về xây dựng Đảng nhằm
nâng cao vai trò tập hợp, đoàn kết và lãnh đạo toàn dân. Trong tác phẩm: "Sửa đổi lối làm
việc" viết nǎm 1947, Người nêu lên những kinh nghiệm, những bài học thực tiễn có tính
lý luận, bồi dưỡng tác phong lãnh đạo của người đảng viên cộng sản. Người đặc biệt chú
trọng đến việc nâng cao tư cách và đạo đức cách mạng của đảng viên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi xướng phong trào Thi đua yêu nước. Người nhắc nhở toàn
dân: "Mỗi một người lấy việc xung phong trong phong trào thi đua ái quốc làm nhiệm vụ thiêng liêng của mình".
Người yêu cầu các cán bộ Đảng, Chính quyền và các đoàn thể phải thấm nhuần và thực
hiện tư tưởng: Nước lấy dân làm gốc"
Tháng 2/1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng khai mạc tại chiến khu
Việt Bắc. Trong Báo cáo Chính trị trình bày tại Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ
nhiệm vụ chính trị của Đảng là : Đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và tổ chức Đảng Lao động Việt Nam.
Ngày 06/12/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bộ Chính trị Trung ương Đảng thông qua
kế hoạch tác chiến của Bộ Tổng Tư lệnh và quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ.
Người chỉ thị cho Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp: "Chiến dịch này là một chiến
dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong
nước mà còn đối với quốc tế. Vì vậy toàn quân toàn dân, toàn Đảng, phải tập trung hoàn thành cho kỳ được".
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về quá đô lên chủ nghĩa xã hộ i, bỏ qua chế độ tư bản chu ̣̉
nghĩa ở Viêt Nam (thời kỳ 1945-1954)̣̉ lOMoAR cPSD| 53331727
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thành quả lớn nhất của cuộc cách mạng Tháng Tám là tuyên
bố sự ra đời của chế độ xã hội mới - chế độ dân chủ nhân dân: “Cách mạng là tiêu diệt
những cái gì xấu, xây dựng những cái gì tốt. Chúng ta làm cách mạng để tiêu diệt chế độ
thực dân, phong kiến, để xây dựng dân chủ mới”.
Tuy nhiên, khi khẳng định Cách mạng Tháng Tám khai sinh chế độ dân chủ nhân dân thì
một vấn đề nảy sinh: mục tiêu tổng quát của cuộc cách mạng mà toàn thể nhân dân Việt
Nam tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được Chủ tịch Hồ Chí
Minh xác định một cách rõ ràng là “chế độ cộng sản”, là “xã hội cộng sản”, vậy tại sao sau
khi cách mạng thành công lại không bắt tay thực hiện ngay mục tiêu ấy mà lại phải trải qua
xây dựng chế độ dân chủ nhân dân?. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chế độ dân chủ nhân dân
không phải là chế độ xã hội chủ nghĩa, song đó là chế độ xã hội hướng tới xã hội chủ nghĩa,
hay nói cách khác, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam sẽ ra đời từ chế độ dân chủ nhân dân.
Năm 1954, miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Tức là bắt tay
“xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội”, song đây là
xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội ngay trong lòng chế độ dân chủ nhân dân. Từ 1945,
Người luôn khẳng định chế độ ta là chế độ dân chủ nhân dân, đặc biệt là về phương diện
chế độ chính trị. Trong những năm 1954-1955, Hồ Chí Minh nhiều lần nói rõ: “chế độ của
ta là chế độ dân chủ”, hay “nước ta là nước dân chủ”. Đến những năm 1964 - 1965, Hồ
Chí Minh vẫn tiếp tục khẳng định “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ”.
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, chế độ
dân chủ nhân dân được tuyên bố ra đời và tồn tại hiện thực. Với chế độ dân chủ nhân dân,
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng:
Thứ nhất, mục tiêu “không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”
là mục tiêu nhất quán của cách mạng Việt Nam, song ở trình độ phát triển của xã hội Việt
Nam, chế độ xã hội có thể thực hiện được mục tiêu ấy trước hết phải là chế độ dân chủ
nhân dân. Thứ hai, ở Việt Nam, những mầm mống của chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng
sản chủ nghĩa sẽ nảy sinh và phát triển trong lòng chế độ dân chủ nhân dân.
Theo Người, bước chuyển từ chế độ dân chủ nhân dân lên chế độ xã hội chủ nghĩa là
bước chuyển về chất, và chuyển dần dần, “không thể môt sớm mộ t chiều”...̣
Như vậy, quan hệ của chế độ dân chủ nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa trong tư tưởng
Hồ Chí Minh là quan hệ giữa hai giai đoạn trong quá trình vận động của xã hội. Chế độ xã
hội chủ nghĩa là giai đoạn phát triển cao hơn chế độ dân chủ nhân dân. Đây là sự vận động, lOMoAR cPSD| 53331727
phát triển đặc thù của xã hội Việt Nam, vừa phù hợp, vừa không hoàn toàn trùng khớp với
lôgic vận động chung của lịch sử toàn nhân loại.
Khi nói về con đường quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “Đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu
tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.
Tiến thẳng hiểu theo nghĩa là không phải “kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”,
song để tiến tới chủ nghĩa xã hội, chúng ta nhất định phải “kinh qua” một thời kỳ phát triển,
đó là chế độ dân chủ nhân dân. Xây dựng chế độ dân chủ nhân dân không chỉ là quá trình
từng bước xóa bỏ triệt để các tàn tích của chế độ thực dân, phong kiến, mà còn là quá trình
từng bước các mầm mống của chủ nghĩa xã hội phát triển. Rõ ràng, đối với Hồ Chí Minh,
xây dựng chế độ dân chủ nhân dân là một tất yếu lịch sử trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
IV. GIAI ĐOẠN 1954 - 1969
Hồ Chí Minh xác định và lãnh đạo thực hiện đường lối cùng một lúc thi hành 2 nhiệm vụ
chiến lược quan trọng của cách mạng Việt Nam:
+ Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
+ Tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
=> Tất cả nhằm giành được hòa bình, độc lập, thống nhất nước nhà.
Trong thời kỳ này, Hồ Chí Minh bổ sung, hoàn thiện hệ thống quan điểm cơ bản của
cách mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực chính trị , kinh tế, văn hoá, quân sự, đạo đức,
đối ngoại, v.v…nhằm hướng tới mục tiêu nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập, nhân
dân hoàn toàn tự do, dân chủ, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Tiêu biểu là trận đánh
Điện Biên Phủ (1954): Mặc dù trận này xảy ra vào trước 1954 nhưng nó là nền tảng cho
sự áp dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn sau. Chiến thắng Điện Biên Phủ là sự
thể hiện rõ nét của chiến lược quân sự và chính trị của Hồ Chí Minh.
Ngày 17/7/1966, Hồ Chí Minh công bố Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước. Trong
đó, một chân lý lớn của thời đại đã được Người nêu rõ: Không có gì quý hơn độc lập tự do.
Người khẳng định tinh thần và lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam, chẳng những không
sợ, mà còn quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. “Đến ngày thắng lợi , nhân dân ta sẽ
xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”.
Một số chiến dịch lớn áp dụng tư tưởng Hồ Chí Minh có thể kể đến là: lOMoAR cPSD| 53331727
+) Chiến dịch Đồng Xoài (1965): Đây là chiến dịch lớn đầu tiên trong giai đoạn chống
Mỹ, thể hiện sự chỉ đạo chiến lược của Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Chiến dịch này nhằm bảo vệ vùng giải phóng và gây tổn thương lớn cho quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa.
+) Chiến dịch Huế - Đà Nẵng (1968): Một phần của cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết
Mậu Thân, chiến lược tổng hợp quân sự và chính trị của Hồ Chí Minh đã được áp dụng
triệt để trong trận đánh này nhằm gây áp lực lên chính quyền Mỹ và chính quyền miền
Nam Việt Nam, đồng thời kích thích phong trào phản chiến ở Mỹ.
+) Chiến dịch Quảng Trị (1969): Trong khoảng thời gian cuối đời của Hồ Chí Minh,
chiến dịch này tiếp tục thể hiện tư tưởng quân sự và tư tưởng của Người, đặc biệt là sử
dụng chiến thuật linh hoạt để tạo ra thế mạnh cho lực lượng cách mạng
=> Tất cả những trận đánh và chiến dịch trên đều được thiết kế để phù hợp với các
nguyên tắc và chiến lược của Hồ Chí Minh, bao gồm việc sử dụng sức mạnh tổng hợp,
chiến tranh nhân dân và sự linh hoạt trong điều kiện chiến trường.
Tư tưởng Hồ Chí Minh có một quá trình từng bước hình thành, phát triển lâu dài và là một hệ thống mở.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiếp tục vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam đi đến thành công và lập
nên nền độc lập, tự do cho đất nước.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiếp tục lãnh đạo miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội,
miền Nam tiếp tục thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Kết quả của sự vận dụng, kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, ngày 30/4/1975,
cả nước hoà bình , độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Và ngày nay, Đảng Cộng
sản Việt Nam đang đưa sự nghiệp đổi mới vững bước đi lên.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về quá đô lên chủ nghĩa xã hộ i, bỏ qua chế độ tư bản chu ̣̉
nghĩa (thời kỳ 1954-1969)
Sau năm 1954, là thời kỳ Người trực tiếp bàn nhiều về vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trước hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai
đoạn tư bản chủ nghĩa là một tất yếu. Tính tất yếu của việc lựa chọn định hướng xã hội chủ
nghĩa và quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Hồ Chí Minh luận giải trên mấy phương diện sau: lOMoAR cPSD| 53331727
+ Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là tương lai của xã hội loài người. +
Thứ hai, chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn tích cực, là nhân sinh quan của chủ thể hành động
- những người cách mạng Việt Nam.
+ Thứ ba, với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã
hội đã trở thành xu thế phát triển của lịch sử không thể đảo ngược.
Về thời kỳ quá độ, Người nói: “Một chế độ này biến đổi thành một chế độ khác là cả một
cuộc đấu tranh gay go, kịch liệt và lâu dài giữa cái xấu và cái tốt, giữa cái cũ và cái mới,
giữa cái thoái bộ và cái tiến bộ, giữa cái đang suy tàn và cái đang phát triển. Kết quả là cái
mới, cái đang tiến bộ nhất định thắng”.
Các luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn về vấn đề này rất phong phú, đa dạng.
Quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
giai đoạn tư bản chủ nghĩa được Người trình bày một cách khái quát nhất trong Diễn văn
khai mạc lớp học lý luận khóa I trường Nguyễn Ái Quốc.
* Tư tưởng đổi mới sáng tạo kết tinh trong Di chúc
Vào những năm cuối cuộc đời cách mạng Hồ Chí Minh, Người đã để lại Di chúc, một
văn kiện lịch sử vô giá, kết tính tư tưởng, trí tuệ, tâm hồn, đạo đức, phong cách của một
lãnh tụ cách mạng, anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà tư tưởng lỗi lạc, nhà văn hoá kiệt xuất,
suốt đời vì dân, vì nước.
Đây là quá trình vận động phát triển của tư tưởng đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh trong
hơn 60 năm hoạt động cách mạng của Người.
Ở đầu bản Di chúc, Bác đã căn dặn, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
của nhân dân ta hoàn toàn thắng lợi, công việc của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta
phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong
cuộc chiến tranh xâm lược.
=> Từ đây, tư tưởng của Bác được thể hiện rằng nhiệm vụ trọng tâm, tiền đề của đổi mới,
trọng trách của Đảng ta trong lãnh đạo sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ
quốc là xây dựng đất nước, phát triển kinh tế, cải thiện đời sống của nhân dân.. Cho nên
Người căn dặn công cuộc đổi mới bắt đầu từ Đảng, Đảng phải tự xây dựng và chỉnh đốn mình.
Trong tư tưởng mà Người căn dặn là giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng từ Trung
ương tới chi bộ. Mục đích chính của chỉnh đốn Đảng là "làm cho mỗi Đảng viên, mỗi đoàn lOMoAR cPSD| 53331727
viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân".
=> Điều này là cực kỳ hệ trọng vì Đảng ta là Đảng lãnh đạo, là Đảng cầm quyền. Sự thành
bại của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc tùy thuộc vào năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng. Để Đảng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, Người căn dặn
cán bộ Đảng viên phải ra sức rèn luyện đạo đức cách mạng, tính tiên phong và sự gương mẫu.
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, mục tiêu lý tưởng của Đảng, của sự nghiệp cách
mạng là: Mọi người đều được sống trong tự do ấm no hạnh phúc. Do đó Người căn dặn
Đảng ta phải có kế hoạch, có cơ chế chính sách để phát triển kinh tế, văn hóa xã hội để
không ngừng nâng cao đời sống cho nhân dân, nhất là đối với thương binh, gia đình liệt sĩ,
người có công với nước, giới phụ nữ, rất chú ý quan tâm giáo dục để số chị em tệ nạn xã
hội hoàn lương. Muốn công cuộc đổi mới thành công, Người căn dặn Đảng ta phải coi
trọng lãnh đạo sự nghiệp xây dựng con người mới, nhất là giáo dục bồi dưỡng thanh niên
là tương lai của dân tộc, là lớp kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng.
Tuy không trực tiếp đề cập đến quan niệm đổi mới nhưng trong bản Di chúc thiêng liêng
của Người, tư tưởng đổi mới sáng tạo đã thể hiện sáng rõ.
+ Về tính chất của đổi mới, Người coi đây là trận chiến to lớn, quan trọng nhất.
+ Về sức mạnh của đổi mới, toàn bộ nhân dân đồng bào cả nước đã tham gia chiến đấu,
thể hiện tinh thần yêu nước mãnh liệt.
+ Về lực lượng lãnh đạo đổi mới, Người chỉ rõ trọng trách tập hợp nhân dân phát huy
vai trò của nhân dân thuộc về Đảng bằng công tác giáo dục, công tác tổ chức. Đảng
phải ra sức dựa vào dân, giữ mối liên hệ mật thiết với dân.
+ Về phương thức lãnh đạo phát huy sức mạnh của nhân dân, Người khẳng định: "Để
giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này, cần phải động viên toàn dân, tổ chức
và giáo dục toàn dân dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân". => Thông qua bản Di chúc
này, tư tưởng của Người được thể hiện rõ và Người luôn luôn mong muốn: “Toàn Đảng,
toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.