



















Preview text:
PHÒNG CHÔNG THAM NHŨNG
1. Tham nhũng là gì?
- Định nghĩa về tham nhũng được quy định chi tiết tại khoản 1 Điều 3 Luật
Phòng, chống tham nhũng năm 2018 như sau: “Tham nhũng là hành vi của
người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi.” Trong đó:
- Người có chức vụ, quyền hạn được bổ nhiệm, có quyền hạn, được giao thực
hiện công vụ nhất định. Họ lợi dụng quyền hạn, chức vụ của mình để đạt được
các mục đích, tìm kiếm lợi ích riêng. Trong khi không đảm bảo thực hiện lý
tưởng chung, hướng đến lợi ích chung như kế hoạch đề ra.
- Vụ lợi là nhằm đạt được lợi ích vật chất hoặc phi vật chất không chính đáng.
Họ có thể tìm kiếm lợi ích cá nhân, lợi ích cho người thân mà làm ảnh hưởng
đến sự trong sạch của một tổ chức. Các lợi ích đáng lẽ được trao cho xã hội, cho
phát triển kinh tế lại được đút túi làm của riêng.
=> Theo định nghĩa này, đối tượng tham nhũng phải là người có chức vụ, quyền
hạn và người này phải lợi dụng chính chức vụ, quyền hạn của mình để đạt được
một lợi ích nào đó không chính đáng.
2. Các hành vi tham nhũng được nêu tại Điều 2 của Luật Phòng, chống
tham nhũng rất đa dạng. Thể hiện sự phức tạp trong hành vi, tính chất
tham nhũng. Gồm có: + Tham ô tài sản; + Nhận hối lộ; + Đưa hối lộ;
+ Nhũng nhiễu vì vụ lợi;
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản công vì vụ lợi,…
3. Nguyên nhân tham nhũng
- Các nguyên nhân tác động từ bên ngoài:
+ Hệ thống pháp luật còn lỏng lẻo, còn nhiều kẽ hở trong quy định quyền hạn,
nhiệm vụ. Các quy trình ra quyết định và hoạch định chính sách còn thiếu minh
bạch, thủ tục hành chính còn rườm rà. Chính các nội dung này mang đến tính
thiếu minh bạch, giúp các cá nhân có cơ hội tham nhũng,…
+ Do sự sơ hở của tổ chức bộ máy, do sự thiếu đồng bộ và đầy đủ.
+ Công tác kiểm tra, giám sát còn thiếu chặt chẽ, chưa ngang tầm nhiệm vụ.
Do đó mà tội nhận hối lộ, nhũng nhiễu,… được thực hiện nhiều.
+ Đấu tranh và xử lý những hành vi tham nhũng chưa kịp thời, còn tình trạng
nể nang, né tránh, sợ “đứt dây động rừng”,…
+ Tiền lương của công chức còn thấp. Chưa đảm bảo để họ có thể tận tụy vì
công việc chung, bỏ qua các lợi ích bên ngoài để hoàn thành trách nhiệm, lý
tưởng ban đầu. Quy định kê khai tài sản, thu nhập còn nhiều tiêu cực.
+ Còn thiếu những chế độ, chính sách, quy định chặt chẽ để từng bước ngăn chặn tham nhũng.
+ Tính tích cực của người dân trong đấu tranh chống tham nhũng chưa được
phát động thường xuyên.
+ Vai trò của các cơ quan bảo vệ pháp luật, như công an, viện kiểm sát, tòa án
chưa được phát huy đầy đủ nhất.
+ Công tác giáo dục phẩm chất đạo đức cách mạng trong cán bộ, đảng viên đã
không được quan tâm đúng mức hoặc triển khai thực hiện chưa nghiêm túc,
chưa hiệu quả, thậm chí ở nơi này nơi khác công tác đó còn bị xao nhãng, lãng quên.
- Nguyên nhân từ chính đối tượng tham nhũng:
+ Tất cả các nguyên nhân trên tác động tư tưởng, nhận thức dẫn đến sự suy
thoái nhanh chóng của bộ phận lớn cán bộ.
+ Sự suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên. Đến từ các nhận thức ích kỷ, tham lam và tư tưởng, lập trường
ban đầu không được giữ vững.
+ Khi họ được trao quyền hạn nhưng có cơ chế để lợi dụng, chức vụ, quyền hạn
một cách tinh vi. Nhất là những cán bộ, đảng viên có chức, có quyền. Họ dễ
dàng tiếp cận với nhiều cám dỗ, lợi ích lớn hơn thay vì nhận được quyền lợi từ thực hiện công vụ.
4. Các tác hại của tham nhũng
4.1. Tác hại về chính trị:
- Tham nhũng phá hoại đội ngũ cán bộ, tầm thường hoá hệ thống pháp luật. Các
giá trị quản lý nhà nước xây dựng không mang đến ý nghĩa tương xứng trong
nhu cầu của người dân. Đây cũng là nguyên nhân căn bản nhất dẫn đến thất bại
của Đảng và Nhà nước.
- Kỷ cương xã hội không thể giữ vững, các sức mạnh của nhà nước cũng giảm
đi trong lòng tin của nhân dân. Gây mất đoàn kết nội bộ, làm giảm uy tín của
Đảng và Nhà nước trước nhân dân. Từ đó hạn chế sức mạnh, niềm tin mãnh liệt
của nhân dân vào lực lượng lãnh đạo. Cũng mang đến cơ hội để cho kẻ thù phá
hoại, xâm lược, lực lượng phản động.
- Làm cho bộ máy trở thành quan liêu, đội ngũ viên chức tốt cũng có thể bị tác
động trong nhận thức và thái độ.
- Tham nhũng là trở lực lớn đối với quá trình đổi mới đất nước, tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Khi bộ phận lãnh đạo không đảm bảo đóng góp vai trò, thành quả
vào sự nghiệp chung. Cản trở, tác động lên các tư tưởng mạnh mẽ trong thống
nhất xây dựng đất nước.
4.2. Tác hại về kinh tế:
- Tham nhũng làm thất thoát những khoản tiền lớn trong chi tiêu chính sách
công. Như các chi phí cho việc đấu thầu, việc cấp vốn, việc thanh tra, kiểm toán
và hàng loạt các chi phí khác. Từ đó không đảm bảo ý nghĩa, hiệu quả sử dụng
triệt để ngân sách nhà nước.
- Tham nhũng gây tổn thất lớn cho nguồn thu của ngân sách nhà nước thông qua
thuế. Làm thất thoát nguồn thu, không phải ánh đúng giá trị nghĩa vụ các tổ
chức, cá nhân phải thực hiện.
- Một số lượng lớn tài sản công trở thành tài sản tư của một số cán bộ, công
chức, viên chức. Do đó không đảm bảo sử dụng, đầu tư công.
- Do tham nhũng mà một số công trình xây dựng như các công trình cầu đường,
nhà cửa kém chất lượng. Gây nguy hiểm cho cuộc sống của người dân, ảnh
hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của nền kinh tế – xã hội. Các chất lượng
công trình không đảm bảo về mặt thời gian, vật chất đã bỏ ra.
- Tham nhũng gây ảnh hưởng lớn đến môi trường kinh doanh. Làm giảm đáng
kể năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, chậm tốc độ tăng trưởng của nền
kinh tế. Các hành vi tham nhũng gây mất công bằng, bình đẳng để các doanh
nghiệp tiếp cận quyền lợi theo pháp luật.
- Hành vi sách nhiễu, gây khó khăn, đòi hối lộ của một bộ phận cán bộ, công
chức, viên chức là có thật. Làm ảnh hưởng đến giải quyết thủ tục hành
chính, làm đình trệ các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tác động sâu sắc đến
nhận thức, mất niềm tin của nhân dân khi sử dụng các dịch vụ của nhà nước.
4.3. Tác hại về xã hội:
- Tham nhũng xâm phạm, thậm chí làm thay đổi, đảo lộn những chuẩn mực đạo
đức xã hội. Các giá trị phản ánh, giá trị nhận thức trong xã hội không được duy
trì. Làm tha hoá một bộ phận không nhỏ trong đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.
- Nhiều cán bộ, công chức đã không giữ được phẩm chất đạo đức của người cán
bộ cách mạng, không phục vụ nhân dân. Họ coi nghề nghiệp của mình là cơ hội,
là điều kiện để thực hiện các hành vi tham nhũng. Từ đó hướng tới các lợi ích
bất chính, làm trái công vụ, trái lương tâm, đạo đức nghề nghiệp. Mục đích là để
nhanh chóng giàu có, bất chấp việc vi phạm pháp luật.
- Điều đáng báo động là việc tham nhũng dường như đã trở thành bình thường
trong quan niệm của một số cán bộ, công chức. Đây cũng là nhận thức, đánh giá
của người dân. Họ không dám tin, không có cơ sở để tin tưởng tuyệt đối vào
một cá nhân lãnh đạo nào. Đó chính là biểu hiện của sự suy thoái, xuống cấp về
đạo đức một cách nghiêm trọng.
4.4. Tham nhũng phát sinh ở rất nhiều lĩnh vực khác nhau:
- Tham nhũng được thực hiện mạnh mẽ trong các lĩnh vực kinh tế, tài chính,
ngân hàng, đầu tư, xây dựng cơ bản, quản lý đất đai,… Đây là các lĩnh vực có
điều kiện tiếp cận khoản đầu tư lớn, chính sách kinh tế lớn.
- Tham nhũng cũng có xu hướng lan sang các lĩnh vực từ trước tới nay ít có khả
năng xảy ra tham nhũng như: văn hoá, y tế, giáo dục, thể dục, thể thao,… Đây
là các lĩnh vực quản lý nhà nước đặc thù, tác động trực tiếp đến hoạt động dịch
vụ xã hội của người dân.
- Thậm chí, cả những lĩnh vực lẽ ra không thể có tham nhũng, cả dưới góc độ
đạo đức và pháp luật, như lĩnh vực phúc lợi xã hội hay bảo vệ pháp luật. Từ đó
càng làm mất niềm tin của nhân dân trong chế độ quản lý của Đảng, nhà nước.
Mất niềm tin ở đội ngũ cán bộ, công chức.
- Hành vi tham nhũng xảy ra không ít trong các chương trình trợ cấp cho thương
binh, liệt sĩ, các gia đình chính sách. Tham nhũng tiền, hàng hoá cứu trợ xã hội,
trong cả xét duyệt công nhận di tích lịch sử, văn hoá, thi đua khen thưởng.
5. Lấy ví dụ về hành vi tham nhũng
- Ví dụ 1: Chẳng hạn, A là thủ quỹ của một đơn vị nhà nước, được quản lý
nguồn tài chính của đơn vị. A đã lợi dụng quyền hạn mà tổ chức giao cho mình
để lấy quỹ cơ quan và đầu tư mua bán đất riêng. A thực hiện các thủ tục liên
quan để hợp pháp hóa nguồn tiền được chuyển đến mình trong nhu cầu sử dụng,
chi tiêu cá nhân. Trường hợp này chính là tham nhũng. Vì A là người có chức
vụ, quyền hạn (thủ quỹ) và đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để đạt
được mục đích hưởng lợi ích vật chất trái pháp luật. Hành vi được cấu thành tội
tham nhũng chỉ khi nó có yếu tố lợi dụng chức vụ, quyền hạn.
Ví dụ 2: Một vụ án tham nhũng rất nổi tiếng cách đây vài năm là vụ ăn hối lộ
tại trạm kiểm soát liên hợp Đồng Bành (Lạng Sơn). Trong vụ việc này, trạm
trưởng đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình thông đồng, cho các chủ hàng
nhập lậu hàng hóa qua biên giới. Họ lợi dụng chức vụ, quyền hạn để nhận lợi
ích riêng, hợp pháp hóa các hành vi theo quy định pháp luật.
1. Thực trạng công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam
- Theo số liệu do Tổ chức Minh bạch thế giới (TI) công bố, Chỉ số cảm nhận
tham nhũng (CPI) của Việt Nam trong những năm gần đây đã tăng lên, thể hiện
một chỉ báo tích cực đối với các nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta trong công tác
phòng, chống tham nhũng. Cụ thể, năm 2018, Việt Nam đạt 33/100 điểm, xếp hạng 117/180 toàn cầu.
- Trong năm 2018, Đảng và Nhà nước đã có nhiều nỗ lực đẩy mạnh công tác
PCTN, điển hình là việc nhanh chóng, kiên quyết xử lý các vụ án tham nhũng
lớn và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về PCTN. Tháng 11/2018, Quốc hội đã
thông qua Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) gồm 10 chương với 96 điều.
Chính phủ đã chỉ đạo tăng cường kiểm tra và tổ chức thực hiện nghiêm các biện
pháp PCTN như: đề cao tính liêm chính trong khu vực công, thực hiện hiệu quả
công tác kê khai và công khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức...
- Vì vậy, chỉ số CPI của Việt Nam năm 2019 đạt 37/100 điểm, tăng 4 điểm so
với năm 2018, đứng thứ 96/180 quốc gia, vùng lãnh thổ trong bảng xếp hạng
toàn cầu, tăng 21 bậc so với năm 2018. Đây là mức điểm cao nhất mà Tổ chức
Minh bạch thế giới đánh giá đối với Việt Nam và là năm có mức tăng điểm cao
nhất từ trước đến nay; cũng là sự khẳng định những kết quả tích cực trong công tác PCTN ở Việt Nam.
- Những kết quả nêu trên thể hiện quyết tâm chính trị cùng với những hành
động quyết liệt, thực hiện những giải pháp hiệu quả của Đảng và Nhà nước, của
cả hệ thống chính trị từ Trung ương tới địa phương trong công tác PCTN.
- Cụ thể, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng được thành lập
“với mong muốn đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng thêm một
bước”. Trong nhiệm kỳ Đại hội ĐBTQ lần thứ XI, có 56.572 đảng viên bị xử lý
kỷ luật, trong đó có 16.259 cấp ủy viên các cấp. Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã
tiến hành kiểm tra 13 tổ chức đảng và 33 đảng viên. Qua kiểm tra, kết luận các
tổ chức đảng, đảng viên đều có khuyết điểm, vi phạm, trong đó đề nghị thi hành
kỷ luật bằng hình thức khiển trách 3 tổ chức đảng, thi hành kỷ luật 13 đảng viên
(khiển trách 7, cảnh cáo 6). Ủy ban kiểm tra các địa phương, đơn vị đã kiểm tra
15.898 tổ chức đảng và 55.217 đảng viên, trong đó số tổ chức đảng có vi phạm
là 10.478, phải thi hành kỷ luật 791 tổ chức đảng; số đảng viên có vi phạm là
42.757, trong đó phải thi hành kỷ luật 20.344 trường hợp.
- Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội ĐBTQ lần thứ XII của Đảng đến cuối năm 2018,
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành 45 nghị
quyết, chỉ thị, quy định, kết luận về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và
phòng, chống tham nhũng; Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông
qua, ban hành 45 luật, pháp lệnh, 46 nghị quyết; Chính phủ đã ban hành 511
nghị định, 413 nghị quyết, 160 quyết định nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần phòng ngừa
tiêu cực, tham nhũng; đã thi hành kỷ luật 53.306 đảng viên với hơn 60 cán bộ
thuộc diện Trung ương quản lý, trong đó có 16 Ủy viên Trung ương Đảng,
nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, trong đó có cả Ủy viên Bộ Chính trị.
- Trong năm 2019, công tác PCTN đã có bước tiến mạnh mẽ với nhiều chủ
trương, giải pháp đột phá, đi vào chiều sâu, do đó tham nhũng được kiềm chế,
từng bước ngăn chặn và có chiều hướng thuyên giảm, góp phần quan trọng giữ
vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao uy tín và vị thế của
nước ta trên trường quốc tế. Nổi bật là đẩy mạnh việc xây dựng, hoàn thiện thể
chế trên các lĩnh vực đời sống: “Cụ thể là Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư
đã ban hành gần 30 văn bản về xây dựng Đảng, hệ thống chính trị và PCTN.
Quốc hội đã thông qua 18 luật, 20 nghị quyết; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành 100 nghị định, 119 nghị quyết, 37 quyết định, 33 chỉ thị. Như vậy,
tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội ĐBTQ lần thứ XII đến nay, đã thi hành kỷ luật
hơn 90 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, trong đó có 21 đồng chí Ủy viên
Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng (2 Ủy viên Bộ Chính trị),
22 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang”. Những tháng đầu năm 2020,
Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN yêu cầu tập trung đưa ra xét xử sơ thẩm 10
vụ án nghiêm trọng, phức tạp được dư luận xã hội quan tâm.
- Có thể khẳng định rằng, công tác PCTN ở Việt Nam đã đạt được những kết
quả đáng ghi nhận; nạn tham nhũng đã bị ngăn chặn, đẩy lùi; niềm tin của nhân
dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước được nâng lên. Có thể
khái quát một số đặc điểm của công tác PCTN ở Việt Nam như sau:
+ Không có vùng cấm, không có đặc quyền, không có ngoại lệ, không chịu sự
tác động không đúng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào;
+ Làm từng bước, rõ đến đâu xử lý đến đó;
+ Nhân dân và cả hệ thống chính trị vào cuộc;
+ Nhân văn, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội;
+ Lấy phòng ngừa là chính, cơ bản, phát hiện, xử lý là quan trọng, cấp bách.
- Bên cạnh kết quả đạt được, công tác PCTN ở Việt Nam vẫn còn một số hạn
chế như: công tác tuyên truyền, giáo dục về PCTN hiệu quả chưa cao, hiện
tượng phải hối lộ, bôi trơn hoặc tác động bằng hình thức khác để được thuận lợi
hơn trong giải quyết công việc còn phổ biến; một số cơ chế, chính sách còn
thiếu chặt chẽ, chưa phù hợp với thực tiễn; thực thi pháp luật có lúc, có nơi chưa
nghiêm. Công tác tổ chức, cán bộ, kiểm soát tài sản, thu nhập còn nhiều hạn
chế, vướng mắc; vấn đề phát hiện, xử lý tham nhũng chưa đáp ứng yêu cầu,
nhất là tự phát hiện, xử lý tham nhũng trong nội bộ...
2. Một số quan điểm của Đảng trong Văn kiện Đại hội XIII về phòng,
chống tham nhũng
- Quan điểm, chủ trương của Đảng trong Đại hội XIII đã có những bước phát
triển mới về phòng, chống tham nhũng, với nhiều biện pháp, như hoàn thiện
pháp luật, chính sách, kê khai tài sản, kiên trì, kiên quyết và nâng cao hiệu quả
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, đặc biệt nhấn mạnh vấn đề phòng tham
nhũng: “Khẩn trương xây dựng cơ chế phòng ngừa, cơ chế răn đe để kiểm soát
tham nhũng. Thực hiện nghiêm quy định của pháp luật về thực hành tiết kiệm
chống lãng phí. Tiếp tục thực hiện chặt chẽ có hiệu quả về kê khai, kiểm soát,
kê khai tài sản, thu nhập của đội ngũ cán bộ, công viên chức, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp”.
- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã đề ra chủ trương về phát
huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội,
các cơ quan báo chí, đài truyền hình, các doanh nghiệp và nhân dân tham gia
vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Đảng ta xem đấu tranh
phòng, chống tham nhũng là sự nghiệp của toàn dân. Quan điểm này được thể
hiện rất rõ trong Văn kiện: “Nâng cao vai trò phát huy tính tích cực, chủ động
và phối hợp của Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị xã hội, nhân dân, doanh
nghiệp, báo chí trong phát hiện, đấu tranh phòng, chống tham nhũng”.
- Quan điểm của Đảng trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII đã có nhiều điểm
mới về phòng, chống tham nhũng, nhất là vấn đề động viên, khuyến khích, khen
thưởng những tổ chức, cá nhân dám tố cáo hành vi tham nhũng. Đặc biệt, Đảng
đã chỉ đạo phải có cơ chế bảo vệ những người tố cáo hành vi tham nhũng tránh
sự trả thù hoặc trù dập, đồng thời chỉ ra một số biện pháp về thanh tra, kiểm tra,
kiểm toán, giám sát để phòng, chống tham nhũng và thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội. Vấn đề này được Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
khẳng định: “Có cơ chế khuyến khích và bảo vệ người tố cáo hành vi tham
nhũng, lãng phí. Nâng cao hiệu quả công tác giám sát thanh tra, kiểm tra, làm
tốt chức năng hỗ trợ thúc đẩy phát triển”.
- Nhận thức sâu sắc về sự phức tạp và vô cùng khó khăn của công tác phòng,
chống tham nhũng nên Đảng đã chỉ đạo: Trong phòng chống tham nhũng phải
kiên quyết, kiên trì và sử dụng tổng hợp nhiều phương thức, biện pháp mới
mang lại hiệu quả. Quan điểm này được thể hiện rất rõ trong Văn kiện Đại hội
XIII: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí
với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ hơn và hiệu quả hơn”.
- Có thể nói vấn đề đấu tranh phòng chống tham nhũng được Đảng ta đặc biệt
quan tâm, đề cập trên nhiều lĩnh vực và trong nhiều nội dung của văn kiện đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII với một quyết tâm chính trị cao để phòng ngừa,
ngăn chặn và xử lý nghiêm minh đối với hành vi tham nhũng với một phương
châm: “Sai phạm đến đâu thì xử lý đến đó và không có “vùng cấm” trong phòng, chống tham nhũng".
2. Một số vấn đề về thực tiễn thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng về
phòng, chống tham nhũng trong những năm qua
- Thực hiện đường lối, chủ trương về phòng, chống tham nhũng trong các văn
kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, XII và XIII của Đảng, trong những
năm qua đã thu được những thành quả to lớn sau:
+ Quốc hội đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống
tham nhũng, như: Ngày 20/11/2018 Quốc hội lại tiếp tục ban hành Luật Phòng,
chống tham nhũng năm 2018. Đặc biệt tại khoản 2 Điều 8 Hiến pháp năm 2013
đã khẳng định: "Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải...
kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu,
hách dịch, cửa quyền". Có thể nói đây là đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, vấn đề
phòng, chống tham nhũng được ghi nhận vào Hiến pháp. Cùng với Hiến pháp
và Luật Phòng, chống tham nhũng, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
59/2019/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng,
chống tham nhũng. Để phòng, chống tham nhũng, Bộ luật Hình sự năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã có một chế định pháp lý riêng, quy định các tội
phạm tham nhũng. Những văn bản quy phạm pháp luật nêu trên đã tạo cơ sở
pháp lý vững chắc cho việc phòng, chống tham nhũng và góp phần rất lớn vào
công cuộc phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.
+ Để phòng, chống tham nhũng, Chính phủ, các bộ, Ủy ban nhân dân các cấp
và các cơ quan nhà nước khác đã thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt
động của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Xây dựng và thực hiện các chế độ, định mức,
tiêu chuẩn. Thực hiện các biện pháp về minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ,
công chức. Đổi mới khoa học công nghệ quản lý và phương thức thanh toán
không dùng tiền mặt nhằm phòng ngừa tham nhũng. Công tác tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục đấu tranh phòng, chống tham nhũng với nhiều hình thức, như
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục đã được thực hiện. Nhất là Chính phủ đã lãnh
đạo, chỉ đạo các cơ quan như Thanh tra Chính phủ, các bộ, các cơ quan ngang
bộ đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
- Đặc biệt, Ban Chỉ đạo Phòng, chống tham nhũng Trung ương, mà đứng đầu là
đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, cùng với Ủy ban Kiểm tra Trung
ương, Ban Nội chính Trung ương đã lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, nên trong
những năm qua, nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp đã
được phát hiện và đưa ra xét xử nghiêm minh theo đúng các quy định của pháp
luật, được dư luận xã hội đồng tình ủng hộ, đánh giá cao.
- Tại hội nghị tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2013-2020
đã đưa ra nhiều số liệu cho thấy công tác phòng, chống tham nhũng đã thu được
kết quả quan trọng: Theo Báo Thanh niên số ra ngày 13/12/2020 cho thấy: Từ
2013-2020 đã xử lý kỷ luật 131.000 đảng viên, trong đó có nhiều trường hợp
liên quan đến tham nhũng. Cũng từ năm 2013 đến năm 2020, đã có 110 cán bộ
thuộc diện Trung ương quản lý bị xử lý (trong đó có 27 Ủy viên Trung ương
Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 4 Ủy viên Bộ Chính trị, 30 sĩ quan
cấp tướng thuộc lực lượng vũ trang). Còn từ năm 2016 đến năm 2020, đã kỷ
luật 87.000 đảng viên, trong đó có hơn 3.200 trường hợp liên quan tới tham
nhũng. Từ năm 2013 đến năm 2020, các cơ quan có thẩm quyền đã kiến nghị
thu hồi 700.000 tỉ đồng, 20.000 ha đất, kiến nghị xử lý trách nhiệm 14.000 tập
thể và cá nhân; chuyển cơ quan điều tra xử lý 700 vụ việc có dấu hiệu tội phạm;
tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng đạt 32,04%.
- Từ 2013-2020 đã khởi tố, điều tra truy tố xem xét hơn 1.900 vụ án tham nhũng
với 4.400 bị cáo trong đó có 18 cán bộ diện Trung ương quản lý bị xử lý hình
sự, trong đó có: 1 Ủy viên Bộ Chính trị, 7 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương
Đảng, 4 Bộ trưởng và nguyên Bộ trưởng, 7 sĩ quan cấp tướng thuộc lực lượng vũ trang.
- Bên cạnh những thành tựu đạt được công tác phòng, chống tham nhũng, vẫn
còn tồn tại một số bất cập, hạn chế:
+ Hệ thống pháp luật về phòng, chống tham nhũng còn có một số quy định
chưa phù hợp, tính khả thi thấp, hoặc còn có "lỗ hổng", nhưng chưa được sửa
đổi bổ sung; hoàn thiện kịp thời để làm cơ sở pháp lý cho việc phòng, chống tham nhũng.
+ Hiện nay, quyền tiếp cận thông tin của người dân, doanh nghiệp chưa được
bảo đảm đầy đủ. Một số cán bộ, công chức lợi dụng quy định về bí mât ̣ nhà
nước để che giấu thông tin, nhằm mục đích tham nhũng.
- Việc kê khai tài sản, thu nhập còn nặng về hình thức; hầu hết các bản kê khai
chưa được kiểm tra, xác minh, kiểm chứng; chưa giúp cho các cơ quan chức
năng kiểm soát được những biến động về tài sản của người có chức vụ, quyền
hạn; nhiều cơ quan, đơn vị chưa nắm đầy đủ trình tự, thủ tục kê khai và công khai giải trình.
+ Một số người đứng đầu chưa nêu cao vai trò của mình trong phòng, chống
tham nhũng, số người bị xử lý trách nhiệm khi để xảy ra tham nhũng ở các cơ
quan, đơn vị còn ít so với số vụ việc tham nhũng được phát hiện.
+ Việc xử lý tham nhũng trong nhiều trường hợp còn chưa nghiêm, chưa kịp
thời. Hành vi tham nhũng ngày càng tinh vi, phức tạp, vì vậy việc phát hiện và
xử lý tham nhũng gặp nhiều khó khăn. Hành vi “tham nhũng vặt” của một số
cán bộ, công chức chưa bị xử lý một cách triệt để.
+ Việc xử lý và thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, tham nhũng còn gặp rất nhiều khó
khăn do một số nguyên nhân như: bị can, bị cáo trốn ra nước ngoài, hoặc bị can,
bị cáo chết, hoặc chưa kiểm soát được tài sản, thu nhập của xã hội nên tài sản có
nguồn gốc tham nhũng dễ dàng bị tẩu tán. Do đó, một số vụ án tiền, tài sản
tham nhũng thu hồi được nhỏ hơn nhiều so với tổng số thiệt hại do các đối tượng chiếm đoạt.
- Trước thực trạng và những hạn chế, bất cập về phòng, chống tham nhũng ở
Việt Nam hiện nay, trong thời gian tới, cần phải có những giải pháp để tiếp tục
thực hiện các chủ trương, quan điểm của Đảng về phòng, chống tham nhũng.
3. Giải pháp thực hiện các chủ trương, quan điểm của Đảng trong Văn kiện
Đại hội XIII về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam
3.1. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng
- Để tiếp tục phòng, chống hiệu quả tham nhũng trong suốt nhiệm kỳ XIII, cần
phải tiếp tục tăng cường và phát huy hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, tập trung
vào các giải pháp cơ bản sau:
+ Nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền,
người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phòng, chống tham nhũng. Các
cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền và người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị
phải thật sự coi công tác phòng, chống tham nhũng là một nhiệm vụ trọng tâm,
thường xuyên và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện.
+ Nâng cao vai trò, trách nhiệm, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, tính
tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Người đứng đầu cấp ủy, tổ chức
đảng, chính quyền các cấp phải cam kết về sự liêm khiết và kiên quyết đấu tranh
chống tham nhũng. Các cấp ủy quản lý chặt chẽ đảng viên, cán bộ; thường
xuyên kiểm tra, nhắc nhở, ngăn ngừa và phát hiện cán bộ, đảng viên vi phạm
pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
+ Ủy ban Kiểm tra các cấp cần làm tốt công tác tham mưu giúp cấp ủy kiểm
tra, giám sát trong các lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng cao, dễ xảy ra sai phạm.
Tăng cường kiểm tra, giám sát đối với các ban cán sự đảng, các tổ chức đảng và
đảng viên ở các cơ quan nhà nước. Tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ
trang, Tập đoàn kinh tế và Tổng công ty nhà nước, các ngân hàng thương mại
cổ phần nhà nước. Cơ quan kiểm tra của Đảng phối hợp chặt chẽ với các cơ
quan có chức năng phòng, chống tham nhũng của Nhà nước để kiểm tra, giám
sát, phát hiện, xử lý kịp thời và công khai kết quả xử lý tổ chức, cán bộ, đảng
viên có vi phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
3.2. Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng
- Thứ nhất, hoàn thiện Luật phòng, chống tham nhũng:
+ Một là, Luật phòng, chống tham nhũng cần tiếp tục sửa đổi để quy định một
cách toàn diện, bao quát, nhất là quy định cụ thể các biện pháp để bảo đảm thực
hiện việc công khai, minh bạch đầy đủ, kịp thời các hoạt động của cơ quan, tổ
chức, đơn vị để mọi người biết. Cần quy định rõ các nguyên tắc, hình thức, nội
dung, thời gian, trách nhiệm thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động
của cơ quan, tổ chức, đơn vị, để từ đó hạn chế sự tham nhũng.
+ Hai là, Luật Phòng, chống tham nhũng cần quy định các biện pháp hữu hiệu
để quản lý, xác minh các tài sản, thu nhập của những người có chức vụ, quyền
hạn; cần có các cơ quan, tổ chức chuyên trách quản lý, xác minh các bản kê
khai tài sản, thu nhập xem có đúng không, có trung thực, chính xác không? Đặc
biệt là cần quy định một cơ chế hữu hiệu theo dõi sự biến động tài sản, thu nhập
của người có chức vụ, quyền hạn và trách nhiệm giải trình, làm rõ tài sản, thu
nhập gia tăng không hợp lý, không rõ ràng.
+ Ba là, hoàn thiện các quy định tố cáo và giải quyết tố cáo hành vi tham
nhũng. Thực tế cho thấy, những người tham nhũng chủ yếu là những người có
chức vụ, quyền hạn, nên những người dưới quyền hoặc người dân phát hiện họ
có hành vi tham nhũng, muốn tố cáo, nhưng rất e ngại, sợ bị trả thù. Vì vậy, cần
ban hành quy định xem xét đơn thư tố cáo tham nhũng nặc danh thì sẽ phát huy
hiệu quả, tạo điều kiện cho người dưới quyền, người dân dám nói lên sự thật,
dám tố cáo người có hành vi tham nhũng.
- Thứ hai, hoàn thiện pháp luật hình sự: Để đấu tranh phòng, chống tham nhũng
có hiệu quả hơn, chúng tôi cho rằng cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về hình
sự, cụ thể ở một số điểm như sau:
+ Một là, hình sự hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp để tăng hiệu quả chế tài
xử lý tham nhũng. Cần phải thừa nhận rằng, việc điều tra, chứng minh tài sản
bất minh để qua đó buộc tội người có hành vi tham nhũng và để thu hồi tài sản
tham nhũng ở bất cứ quốc gia nào đều rất khó khăn và tốn thời gian, dẫn đến
nhiều vụ việc tham nhũng bị bỏ lọt hoặc tài sản tham nhũng không thu hồi
được. Do vậy, kinh nghiệm lập pháp một số nước cho thấy, họ đã hình sự hóa
hành vi làm giàu bất hợp pháp như một giải pháp để đấu tranh hiệu quả đối với
tội phạm tham nhũng. Thực chất, hình sự hóa hành vi này là đảo ngược trách
nhiệm chứng minh; nghĩa là trách nhiệm chứng minh tài sản có bất minh hay
không được chuyển từ các cơ quan tố tụng sang người nắm giữ tài sản. Nếu cán
bộ, công chức có chức vụ quyền hạn không chứng minh được tài sản của mình
là hợp pháp thì tài sản đó là tài sản tham nhũng.
+ Hai là, bổ sung trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với tội phạm đưa hối
lộ và xây dựng chế tài thích hợp với pháp nhân. Bộ luật Hình sự năm 2015 đã
quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân và giới hạn trong 31 tội danh, trong
đó, không có tội đưa hối lộ. Chúng tôi cho rằng, việc quy định trách nhiệm hình
sự của pháp nhân đối với hành vi đưa hối lộ là cần thiết. Bởi vì: Thực tiễn cho
thấy, các pháp nhân thương mại đã thực hiện hành vi đưa hối lộ cho người có
chức vụ, quyền hạn để được các lợi thế trong hoạt động sản xuất, kinh doanh,
đấu thầu, được giao hoặc cho thuê “đất vàng” hoặc được nhận nguồn hỗ
trợ,...Trong hoạt động quản lý của các doanh nghiệp, nhiều chính sách, và hoạt
động của doanh nghiệp được thực hiện theo quyết định của tập thể lãnh đạo,
điều hành doanh nghiệp. Do vậy, việc quy trách nhiệm cho một hay một số cá
nhân là rất khó khăn và việc xử lý trách nhiệm hình sự đối với họ là thiếu công
bằng, chưa thật sự hợp lý. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế về pháp luật và tư
pháp diễn ra mạnh mẽ, Việt Nam đã trở thành thành viên của nhiều công ước
quốc tế về phòng, chống tội phạm như: Công ước chống tội phạm có tổ chức
xuyên quốc gia, Công ước chống tham nhũng, Công ước chống rửa tiền,…
trong đó, có quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với tội phạm đưa hối lộ.
- Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về kiện dân sự để thu hồi tài sản
tham nhũng: Thông thường cách thức tốt nhất để xử lý tham nhũng và thu hồi
tải sản tham nhũng là điều tra và truy tố hình sự. Tuy nhiên, biện pháp hình sự
này cũng có một số hạn chế, bao gồm yêu cầu tiêu chuẩn cao về bằng chứng
buộc tội. Ngoài ra, truy tố hình sự sẽ không có giá trị hoặc gặp trở ngại lớn
trong trường hợp người phạm tội chết hoặc bỏ trốn hoặc được hưởng quyền miễn trừ.
+ Theo nghiên cứu của chúng tôi và theo kinh nghiệm quốc tế, việc thu hồi tài
sản tham nhũng có thể khởi kiện về tài sản theo pháp luật dân sự và tố tụng dân
sự. Trước mắt, có thể áp dụng thu hồi tài sản tham nhũng theo quy trình khởi
kiện dân sự đối với các trường hợp: Người phạm tội bỏ trốn, không thể mở
phiên tòa để phán xử hình sự (như trường hợp bà Hồ Thị Kim Thoa ở Bộ Công
Thương); người phạm tội chết hoặc chết trước khi ra phán quyết buộc tội (như
vụ án ông Trần Bắc Hà). Người phạm tội mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác
làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình; không
xác định được người phạm tội nhưng phát hiện được tài sản phạm tội. Không đủ
chứng cứ để tiếp tục tiến trình truy cứu hình sự đối với người tình nghi phạm tội tham nhũng.
- Để thực hiện được những vấn đề nêu trên, Nhà nước cần nhanh chóng xây
dựng hoàn thiện pháp luật về kiện dân sự làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện
cơ chế kiện dân sự để thu hồi tài sản tham nhũng.
3.3. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước để đấu tranh
phòng, chống tham nhũng có hiệu quả: Để đấu tranh phòng, chống tham
nhũng có hiệu quả thì kiểm soát quyền lực nhà nước là môt ̣ trong những biên ̣
pháp quan trọng bậc nhất. Vì tham nhũng gắn với quyền lực nhà nước. Kinh
nghiệm của Mỹ, Hàn Quốc và một số nước đã xây dựng được một cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước chặt chẽ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư
pháp nên các vụ, việc tham nhũng đã được hạn chế rất nhiều. Để tiếp tục phát
huy vai trò kiểm soát quyền lực nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tham
nhũng ở Viêt ̣Nam, theo chúng tôi cần thực hiêṇ tốt những nôi ̣ dung sau:
+ Thứ nhất, nâng cao nhân ̣ thức của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp về nguy
cơ tham nhũng, quan liêu từ sự tha hóa quyền lực nhà nước và vai trò kiểm soát
quyền lực nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
+ Thứ hai, tiếp tục nghiên cứu lý luân, tổng kết thực tiễn để hoàn thiên ̣ cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm phát huy cơ chế này trong phòng, chống
tham nhũng ở nước ta hiêṇ nay. Trong đó, Đảng và Nhà nước cần tâp̣ trung vào
hoàn thiện cơ cấu, tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
+ Thứ ba, hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ
quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Bởi nếu quyền lực nhà nước được kiểm
soát thì sẽ hạn chế được tham nhũng.
3.4. Xây dựng cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng độc lập để
điều tra, xử lý các hành vi tham nhũng
- Đấu tranh phòng, chống tham nhũng là đấu tranh phòng, chống những hành vi
trái pháp luật của những người có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy nhà nước.
Vì vậy đây là cuộc đấu tranh rất khó khăn, phức tạp. Muốn đấu tranh có hiệu
quả cần nghiên cứu xây dựng mô hình cơ quan chống tham nhũng thích hợp.
- Học tập kinh nghiệm của Singapore, Mỹ và một số nước trên thế giới, ở Việt
Nam, để đấu tranh phòng, chống tham nhũng có hiệu quả, cần xây dựng cơ quan
phòng, chống tham nhũng riêng. Theo chúng tôi, cần thành lập một cơ quan
phòng, chống tham nhũng chuyên trách trực thuộc Tổng Bí thư hoặc Chủ tịch
nước. Ban hành cơ chế, tổ chức hoạt động để cơ quan này có quyền thanh tra,
kiểm tra, giám sát vụ việc có dấu hiệu tham nhũng đối với tất cả các cơ quan, tổ
chức, các cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị từ
Trung ương đến địa phương. Có như vậy mới xử lý kịp thời, trên diện rộng hành
vi tham nhũng, hạn chế sự bao che, tẩu tán tài sản hoặc trốn ra nước ngoài của những người tham nhũng.
- Những người làm việc trong các cơ quan này phải có trình độ, năng lực
chuyên môn nghiệp sâu trong nhiều lĩnh vực, có phẩm chất đạo đức tốt, trung
thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân; có bản lĩnh chính trị vững
vàng, sẵn sàng đối mặt với những khó khăn, thách thức và nguy hiểm trong đấu
tranh phòng, chống tham nhũng. Nhà nước phải ban hành các quy định pháp
luật riêng để cơ quan này thực hiện chức năng nhiệm vụ phòng, chống tham
nhũng nhanh chóng kịp thời, có hiệu quả.
3.5. Xử lý kiên quyết, kịp thời, nghiêm minh và không có vùng cấm đối với
các hành vi tham nhũng
- Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở các nước cũng như ở nước ta
cho thấy hiệu quả của cuộc đấu tranh này cũng tùy thuộc rất lớn vào việc xử lý
có kiên quyết, kịp thời và nghiêm minh hay không? Vì vậy, theo chúng tôi, đối
với các vụ án tham nhũng cần xét xử nghiêm minh, kịp thời và công khai, với
những mức hình phạt thích đáng đối với các hành vi và hậu quả đã gây ra. Áp
dụng các biện pháp trừng phạt một cách triệt để đối với các hành vi tham nhũng
dù người đó là ai, giữ bất cứ cương vị gì cũng phải xử lý. Như, Đảng ta đã chỉ
đạo: Trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng không có “vùng cấm”. Giải
pháp này vừa có tính trừng trị, vừa có tính răn đe làm cho những kẻ có ý định
tham nhũng sợ mà không dám tham nhũng.
3.6. Đổi mới chế độ tiền lương và các chính sách đãi ngộ cho cán bộ, công
chức, viên chức nhà nước
- Đây được xem là một phương án phòng, chống hữu hiệu đối với nạn tham
nhũng, nhất là tệ nạn “tham nhũng vặt”. Bởi một trong những nguyên nhân sâu
xa của những hiện tượng tham nhũng, đó là chế độ tiền lương và các chế độ
chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ, công chức còn bất hợp lý, chưa đáp
ứng được những nhu cầu cơ bản thiết yếu. Cán bộ, công chức, viên chức có nền
tảng học thức cao và có ham muốn cống hiến cho đất nước thì được trả một
mức lương cực kỳ khiêm tốn. Vì vậy cần phải có chính sách đãi ngộ đối với cán
bộ, công chức và nâng mức lương của cán bộ, công chức đủ nuôi sống bản thân,
gia đình và có tích luỹ thì mới hạn chế được tham nhũng, nhất là “tham nhũng
vặt” ở Việt Nam hiện nay.
3.7. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và có chế
độ khen thưởng, bảo vệ đối với những cán bộ, công chức làm công tác
phòng, chống tham nhũng
- Đảng và Nhà nước cần đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ năng lực chuyên
môn, nghiệp vụ cho những cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ đấu tranh
phòng, chống tham nhũng. Rèn luyện bản lĩnh chính trị, không khoan nhượng
trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Có chế độ khen thưởng xứng đáng,
đề bạt kịp thời những cán bộ, công chức có thành tích trong đấu tranh phòng,
chống tham nhũng. Đồng thời, trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tham
nhũng rất phức tạp và khó khăn này, cần sớm có cơ chế bảo vệ đối với những
cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tham nhũng, cũng như gia đình họ.
- Trên đây là một số giải pháp để thực hiện đường lối, quan điểm phòng, chống
tham nhũng trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nếu chúng
ta tiến hành một cách đồng bộ, đầy đủ, toàn diện các giải pháp nêu trên, thì chắc
chắn rằng, công tác phòng, chống tham nhũng sẽ mang lại hiệu quả cao, tình
trạng tham nhũng sẽ được đẩy lùi và các chủ trương, đường lối của Đảng về
phòng, chống tham nhũng đề ra trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII sẽ đi vào cuộc sống.
4. Những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
Tác phẩm “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực,
góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh”
của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu lên nhiều bài học kinh nghiệm từ
thực tiễn phòng, chống tham nhũng (PCTN). Đây là những đúc kết rất quan
trọng, có thể làm nền tảng cho những chỉ đạo, định hướng về công tác này trong
thời gian tới ở nước ta. Có thể tóm lược lại thành 6 bài học chủ yếu, gồm:
* Thứ nhất, biến quyết tâm chính trị thành hành động thực tế
- Theo Tổng Bí thư, trong công tác PCTN, trước hết phải có quyết tâm chính trị
cao và phải đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, tập trung, thống nhất của
Đảng, mà trực tiếp, thường xuyên là Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN (nay là
Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, tiêu cực). Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Phải
biến quyết tâm chính trị thành hành động thực tế của cán bộ, đảng viên, công
chức, viên chức và nhân dân, trước hết là sự gương mẫu, quyết liệt, nói đi đôi
với làm của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, của người đứng đầu cấp ủy,
chính quyền, cơ quan, tổ chức, đơn vị trong PCTN”.
- Tham nhũng liên quan đến lợi ích, tiền tài, chức vụ, danh vọng, uy tín của tổ
chức, cá nhân. Vì vậy, phải có quyết tâm chính trị rất cao, phải kiên quyết,
không khoan nhượng và hành động quyết liệt, cụ thể, thiết thực, hiệu quả.
Người được giao chức vụ, quyền hạn phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện,
thường xuyên tự soi, tự sửa; đồng thời phải tăng cường giám sát, kiểm soát có
hiệu quả việc thực thi quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn.
* Thứ hai, phải tiến hành kiên quyết, kiên trì, không nghỉ, không ngừng:
- PCTN là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, vừa cấp bách, vừa khó khăn,
phức tạp, lâu dài; phải tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục, “không ngừng”,
“không nghỉ” ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực; thực hiện đồng bộ các
biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh tế, hình sự; với những
bước đi vững chắc, tích cực, chủ động và có trọng tâm, trọng điểm; phải xây
dựng cho được một cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để “không thể tham nhũng”,
một cơ chế răn đe, trừng trị nghiêm khắc để “không dám tham nhũng” và một
cơ chế bảo đảm để “không cần tham nhũng”.
- Trong đấu tranh PCTN, không được chủ quan, nóng vội, thỏa mãn; không
được né tránh, cầm chừng, không “ngừng”, không “nghỉ”, thiếu quyết liệt; vừa
phải kiên quyết phát hiện, xử lý tham nhũng, vừa phải kiên trì giáo dục, quản lý,
ngăn ngừa không để xảy ra tham nhũng, vừa phải luôn cảnh giác, đấu tranh với
những âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, phần tử xấu lợi dụng đấu
tranh PCTN để kích động, chia rẽ, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta.
* Thứ ba, kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa với chủ động phát
hiện, xử lý:
- Theo Tổng Bí thư, phòng ngừa là chính, là cơ bản, lâu dài; phát hiện, xử lý là
đột phá, quan trọng. Trong phát hiện, xử lý phải quán triệt nguyên tắc: Có vụ
việc thì phải xác minh làm rõ; tích cực, khẩn trương, rõ đến đâu xử lý đến đó;
xử lý cả hành vi tham nhũng và hành vi dung túng, bao che cho tham nhũng,
can thiệp, cản trở việc chống tham nhũng. Có dấu hiệu phạm tội thì phải khởi
tố, điều tra; kết luận có tội thì phải truy tố, xét xử theo quy định của pháp luật;
vụ việc chưa đến mức xử lý hình sự thì xử lý kỷ luật nghiêm theo quy định của
Đảng, Nhà nước, đoàn thể. Phải tiến hành đồng bộ giữa kỷ luật đảng, kỷ luật
hành chính của Nhà nước, đoàn thể và xử lý hình sự. Kỷ luật của Đảng phải
thực hiện trước, là tiền đề để xử lý kỷ luật hành chính của Nhà nước, của đoàn
thể và xử lý hình sự.
- Từ năm 2012 đến 2022, qua công tác thanh tra, kiểm toán, đã xử lý, thu hồi
được hơn 975.000 tỷ đồng, gần 76.000 ha đất; xử lý trách nhiệm gần 44.700 tập
thể, cá nhân; chuyển cho cơ quan điều tra, xử lý gần 1.200 vụ việc có dấu hiệu phạm tội...
* Thứ tư, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn xã
hội trong đấu tranh PCTN:
- Để PCTN có hiệu quả, cần phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm của cơ quan
và đại biểu dân cử, MTTQ và các tổ chức thành viên, nhân dân, cơ quan truyền
thông và báo chí, doanh nghiệp, doanh nhân... Phải “lấy dân làm gốc”, dựa vào
dân, lắng nghe dân, lắng nghe dư luận để chọn lọc tiếp thu cái đúng, nhưng
không chạy theo dư luận. Triển khai có hiệu quả hoạt động PCTN ra khu vực
ngoài Nhà nước; tăng cường hợp tác quốc tế về PCTN.
- Từ năm 2013 đến 2022, Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cơ quan
tham mưu của Đảng đã ban hành hơn 250 văn bản về xây dựng, chỉnh đốn Đảng
và PCTN; Quốc hội ban hành hơn 300 luật, pháp lệnh, nghị quyết; Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ ban hành hơn 2.600 nghị định, quyết định, chỉ thị; cấp ủy,
tổ chức đảng trực thuộc Trung ương ban hành hơn 45.000 văn bản; các bộ,
ngành, địa phương ban hành gần 100.000 văn bản để cụ thể hóa, hướng dẫn thi
hành, tổ chức thực hiện công tác này.
- Qua đó, đã xử lý nhiều vụ việc nổi cộm như vụ án Nguyễn Đức Kiên và đồng
phạm, vụ án Dương Chí Dũng và đồng phạm, vụ án Vũ Việt Hùng và đồng
phạm, vụ án Vũ Quốc Hảo và đồng phạm, vụ án Huỳnh Thị Huyền Như và
đồng phạm, vụ án Giang Kim Đạt và đồng phạm, vụ án Phạm Công Danh và
đồng phạm, vụ án Hà Văn Thắm và đồng phạm, vụ án Châu Thị Thu Nga và
đồng phạm, vụ án Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm, vụ án Trần Phương Bình,
vụ án Phan Văn Anh Vũ, vụ án Đinh Ngọc Hệ, vụ án Nguyễn Văn Dương và
Phan Sào Nam, vụ án Hứa Thị Phấn, vụ án tại Tổng Công ty Viễn thông
Mobifone, vụ án tại Công ty Hải Thành,..., và mới đây là vụ Công ty Việt Á, FLC, Tân Hoàng Minh.
* Thứ năm, tăng cường kiểm soát quyền lực:
- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhắc đến vấn đề kiểm soát được
việc thực hiện quyền lực nhà nước, đồng thời phát huy vai trò nòng cốt và sự
phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, kịp thời, hiệu quả của các cơ quan chức năng
PCTN. Ban chỉ đạo các cấp phải thực sự là trung tâm chỉ đạo, điều hòa phối hợp
hoạt động, là chỗ dựa vững chắc để các cơ quan chức năng PCTN thực thi
nhiệm vụ được giao. Kiểm soát quyền lực và thực hành liêm chính trước hết
phải được tiến hành có hiệu quả trong các cơ quan này, phải chống tham nhũng
ngay trong các cơ quan chống tham nhũng.
- Trong đó, đội ngũ cán bộ làm công tác PCTN phải có bản lĩnh vững vàng, có
dũng khí đấu tranh, phải trung thực, liêm chính, “chí công vô tư”, thực sự là
“thanh bảo kiếm” của Đảng, Nhà nước trong công tác này. Nhờ đó, trong 10
năm qua, các cơ quan tố tụng trong cả nước đã khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
sơ thẩm gần 16.000 vụ án tham nhũng, chức vụ, kinh tế với hơn 30.300 bị cáo.
Riêng Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN đã đưa vào diện theo dõi, chỉ đạo gần
1.000 vụ án, vụ việc; trong đó trực tiếp theo dõi, chỉ đạo 313 vụ án, vụ việc
tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng phức tạp, dư luận xã hội quan tâm, đã đưa ra
xét xử sơ thẩm 120 vụ án, 1.083 bị cáo, trong đó có 37 cán bộ diện Trung ương
quản lý, bị xử lý hình sự (1 ủy viên Bộ Chính trị, 10 ủy viên, nguyên ủy viên
Trung ương Đảng, 6 bộ trưởng, nguyên bộ trưởng, 13 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang...).
* Thứ sáu, các giải pháp PCTN, tiêu cực phải phù hợp với đặc điểm, tình
hình ở Việt Nam:
- Các giải pháp PCTN phải phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa Việt Nam và truyền thống văn hóa của dân tộc; tiếp thu có chọn
lọc kinh nghiệm của nước ngoài. Đồng thời, phải xây dựng được văn hóa công
vụ của mỗi ngành, cơ quan, đơn vị. Trong từng giai đoạn khác nhau phải xác
định những nhiệm vụ trọng tâm, những giải pháp có tính đột phá, phù hợp với
tình hình của đất nước, của địa phương để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả.
- Điều này góp phần đánh tan các luận điệu xuyên tạc cho rằng Việt Nam đang
thực hiện công tác PCTN rập khuôn của nước khác. Trên thực tế, chúng ta luôn
nghiên cứu, rút kinh nghiệm, tiếp thu các cách làm hay của tất cả các nước và
vận dụng phù hợp với tình hình của Việt Nam.
=> Thực tế cho thấy, trong thời gian qua, nhất là khoảng 10 năm trở lại đây,
công tác đấu tranh PCTN được tiến hành ráo riết, quyết liệt, “không có vùng
cấm, không có ngoại lệ”, đạt nhiều kết quả toàn diện, tích cực, rõ rệt, được nhân
dân hoan nghênh, đồng tình, ủng hộ, được dư luận quốc tế ghi nhận, đánh giá
cao. Thực tiễn đó thực sự có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của đất nước và
tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục phát triển theo các mục tiêu đã được
xác định tại Đại hội XIII của Đảng.
THI ĐUA – KHEN THƯỞNG
1. Đặc điểm pháp luật thi đua, khen thưởng
1.1. Pháp luật thi đua, khen thưởng được hình thành sớm
- Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra
đời, chính quyền cách mạng non trẻ phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử
thách. Với niềm tin tưởng sâu sắc vào sức mạnh to lớn của nhân dân, Đảng,
Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân phát huy cao độ sức
mạnh của mình đóng góp sức lực cho công cuộc xây dựng, bảo vệ và củng cố chính quyền cách mạng.
- Ngày 26/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Quốc lệnh 10 điểm thưởng, nêu
rõ: "Trong một nước thưởng, phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn,
kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công. Vậy, Chính phủ ra Quốc
lệnh rõ ràng gồm có 10 điểm thưởng và 10 điểm phạt, cho quân dân biết rõ
những tội nên tránh, những việc nên làm". Quốc lệnh ra đời là cơ sở pháp lý đầu
tiên về công tác thi đua khen thưởng.
- Ngày 15/5/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh số 49-SL đặt
một giải thưởng tên là giải thưởng Hồ Chí Minh để thưởng cho Ty Quân giới
nào xuất sắc nhất trong việc bảo tồn vật liệu, sản xuất vũ khí, trang bị quốc
phòng, kỹ thuật và thực hiện tốt kỷ luật. Đồng thời, để thưởng cho quân đội
hoặc dân quân tự vệ lập được nhiều thành tích chiến đấu, cũng trong
ngày 15/5/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 50/SL đặt hai loại
Huy chương là Huy chương Quân công và Huy chương Chiến sĩ. Chưa đầy một
tháng sau, ngày 06/6/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số
58/SL về việc đặt ba thứ Huân chương "Sao vàng", "Hồ Chí Minh", "Độc
lập" để thưởng hoặc truy tặng cho đoàn thể hay những người nào có công với
nước, với dân và để tặng các nhân vật ngoại quốc đã có công với nước Việt Nam.
- Đây là những phần thưởng cao quý của Nhà nước để trao tặng những tập thể,
cá nhân có thành tích công tác xuất sắc, là sự ghi nhận thành tích, sự trưởng