Phong tục hôn nhân - Từ truyền thồng đến hiện đại - Tiểu luận môn Cơ sở văn hóa Việt Nam | Đại học Gia Định

Tiểu luận môn Cơ sở văn hóa Việt Nam | Đại học Gia Định. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF gồm 29 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TIỂU LUẬN CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
Đề tài: Phong tục hôn nhân – Từ truyền thống đến
hiện đại.
Xu hướng già hóa trong kết hôn và quan niệm về sống
thử của giới trẻ ngày nay
MỤC LỤC
I/ Phần mở đầu.................................................................................................................2
II/ Phần nội dung..............................................................................................................3
1. QUAN NIỆM VỀ HÔN NHÂN TRUYỀN THỐNG VÀ NHỮNG NGHI LỄ....3
1.1. Khái niệm về hôn nhân......................................................................................3
1.2. Quan niệm về hôn nhân truyền thống...............................................................3
1.3. Những nghi lễ trong hôn nhân truyền thống....................................................7
1.4. Trang phục........................................................................................................12
2. QUAN NIỆM VỀ HÔN NHÂN VÀ NHỮNG NGHI LỄ TRONG XÃ HỘI HIỆN
ĐẠI NGÀY NAY.........................................................................................................15
3. BÀN VỀ XU HƯỚNG GIÀ HÓA TRONG KẾT HÔN VÀ SỐNG THỬ CỦA
GIỚI TRẺ HIỆN NAY...............................................................................................18
3.1. Vấn đề già hóa trong kết hôn...........................................................................19
3.2. Quan niệm về sống thử.....................................................................................22
III/ Kết luận....................................................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................27
I/ Phần mở đầu
Trong truyền thống văn hoá của dân tộc Việt, nhiều thuần phong mĩ tục rất
cần thiết cho đạo lý làm người và kỷ cương xã hội. Cũng như mọi lễ tục những lễ
nghi khác - Tập tục cưới hỏi cũng có tính kế thừa những giá trị tốt đẹp của nếp
sống xưa và biến hóa, phát triển theo nhịp sống hiện đại. Trong bất kỳ giai đoạn
nào của lịch sử nó cũng chịu sự ảnh hưởng ít nhiều của văn hoá, kinh tế, chính trị.
Các lễ nghi- tập tục này có khi rất đơn giản nhưng có khi lại rất nhiều phức tạp
theo tập quán của từng vùng, từng dân tộc.
Quan niệm về tầm quan trọng của một lễ cưới ngày nay vẫn giữ nguyên vẹn.
Thế nhưng việc dựng vợ gả chồng không còn quá phụ thuộc vào cộng đồng. Nghĩa
là đó là quyền quyết định của đôi trẻ, cho dù gia đình có ‘môn đăng hộ đối’ hay
không. Việc này cũng cho phép cô dâu và chú rể được đặt tính cá nhân của mình
vào một lễ cưới nhiều hơn. Quan niệm hôn nhân ngày nay được tự do hơn, thoải
mái hơn ngày xưa rất nhiều bởi giới trẻ hoàn toàn có thể làm chủ mình trong vấn
đề hôn nhân. Cũng có nhiều trường hợp những người thích yêu nhưng không thích
cưới, cũng có nghĩa là không tiến tới hôn nhân trên mặt pháp luật, các vấn đề về
sống độc thân, sống thử, hôn nhân thực dụng đã và đang đặt ra cho việc hiện đại
hóa các giá trị truyền thống về hôn nhân ở nước ta hiện nay
Trên sở nghiên cứ về quan niệm những nghi lễ hôn nhân truyền thống.
Tôi xin được trình bày những hiểu biết của mình thông qua chủ đề tiểu luận:
Phong tục hôn nhân Từ truyền thống đến hiện đại, xu hướng già hóa trong
kết hôn và quan niệm về sống thử của giới trẻ ngày nay”. Quá trình thực hiện nội
dung, chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót kiến thức nhân còn hạn
hẹp, kinh nghiệm sống chưa phong phú. Kính mong quý thầy cùng các bạn
giúp đỡ.
II/ Phần nội dung
1. QUAN NIỆM VỀ HÔN NHÂN TRUYỀN THỐNG NHỮNG
NGHI LỄ
1.1. Khái niệm về hôn nhân
Với những người theo phái tự nhiên phái phân tâm học họ định nghĩa hôn
nhân như sau: Hôn nhân một hiện tượng tự nhiên. Đó sự liên kết giữa hai con
người khác giới với nhau thành một gia đình để giữ chức năng duy trì nòi giống.
Chủ nghĩa Mác – Lê nin nhìn nhận hôn nhân và gia đình là những hiện tượng
hội quá trình phát sinh, phát triển, do các điều kiện kinh tế hội quyết
định. Trong tác phẩm nổi tiếng “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ hữu và của
Nhà nước”, Mác và Enghen đã phân tích, chứng minh một cách khoa học rằng: lịch
sử gia đình lịch sử của quá trình xuất hiện chế độ quần hôn, chuyển sang gia
đình đối ngẫu, phát triển lên gia đình một vợ một chồng quá trình không
ngừng hoàn thiện hình thức gia đình, trên cơ sở sự phát triển của các điều kiện sinh
hoạt vật chất của con người.
Như vậy, thể hiểu, hôn nhân trước hết là một quy chế xã hộisau đó mới
một hiện tượng sinh học, hiện tượng tự nhiên. Đây một sự thật đã tồn tại suốt
mấy ngàn năm qua tất cả các nước trên thế giới. Quan niệm về hôn nhân truyền
thống trong 54 dân tộc Việt Nam - mỗi một dân tộc đều những quan niệm
trực lệ hôn nhân khác nhau, trong đó người Việt một trong những tộc người
quan niệm và tục lệ hôn nhân vào loại đa dạng nhất.
1.2. Quan niệm về hôn nhân truyền thống
* Vấn đề môn đăng hộ đối
Một trong những đặc trưng bản của làng Việt Nam tính cộng đồng.
Mọi việc liên quan đến cá nhân cũng đồng thời liên quan đến cộng đồng, kể cả hôn
nhân lĩnh vực riêng nhất. Thời phong kiến, theo luân “tam cương ngũ
thường”, con cái mà có cha khi nào cũng ở địa vị phụ thuộc, việc hôn nhân của con
cái, cha mẹ quyền độc đoán “đặt đâu ngồi đấy”. Hôn nhân của người Việt
Nam truyền thống không phải việc hai người lấy nhau việc “hai họ” dựng
vợ gả chồng cho con cái. Tục lệ này xuất phát từ quyền lợi của tập thể. Việc hôn
nhân tuy của hai người nhưng lại kéo theo việc xác lập quan hệ giữa hai gia tộc.
vậy, điều cần làm đầu tiên chưa phải lựa chọn một nhân cụ thể, lựa
chọn một dòng họ, một gia đình xem cửa nhà hai bên tương xứng không,
môn đăng hộ đối không.
Hầu hết các vùng nông thôn, cả trong đô thị, việc hôn nhân theo phong
tục đều phải qua một cầu trung gian người mối lái. Nhà trai muốn chọn vợ cho
con thì xem “chỗ nào môn đăng hộ đối, tuổi không xung khắc nhau” mới mượn
người mối lái. Mối lái nói với cha mẹ “người con gái bằng lòng gả rồi”, nhà trai
mới đem trầu đến dạm. Môn đăng - hộ đối tiêu chuẩn quan trọng nhất đối với
tầng lớp trên hội phong kiến cũng thường tiêu chuẩn chung của hội
Việt Nam. Quan niệm “đăng đối” phải theo nguyên tắc “địa vị hội điều kiện
kinh tế” của nhà gái thể thấp hơn nhà tri nhưng không chuyện ngược lại”.
Tuổi tác bố mẹ dâu chú rể cũng được xem tiêu chuẩn quan trọng của “môn
đăng - hộ đối”.
Theo tập quán người Việt, sau khi quan hệ thông gia đã được thiết lập thì
thay đổi về cách xưng hộ giữa hai gia đình hai tộc họ. Do đó nếu cách biệt quá
tuổi thì người ta cũng không làm thông gia với nhau. Ngoài hai tiêu chuẩn
bản trên trong quan niệm “môn đăng - hộ đối” người ta còn chú trọng đến tình
trạng sức khoẻ của gia đình, tình trạng phương pháp, quan hệ bố mẹ như thế nào?
anh em trong gia đình, vấn đề dòng họ. Các tiêu chuẩn này được đúc kết lại trong
quan niệm “Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống”.
* Vấn đề tuổi tác:
Hợp tuổi tiêu chuẩn quan trọng thứ hai trong việc kén rể, chọn dâu của các
cụ ngày trước. Việc xem tuổi đây không phải sự chênh lệch tuổi tác giữa hai
người quan trọng tuổi cầm tinh con mỗi người tính theo hệ can chi của
âm lịch. Ngoài ra, người ta còn so tuổi theo nguyên âm dương, ngũ hành, tức
“mệnh” của hai người. ai cũng cho rằng hợp tuổi nhau thì gia đình mới hoà
thuận, thậm chí việc này ảnh hưởng đến cả đường con cái, tính mạng của nhau.
Trên hai tiêu chuẩn chung đối với nhà trai lẫn nhà gái. Nhưng trên thực tế người
ta chỉ tuân thủ chặt chẽ đầy đủ với việc chọn dâu, còn trong việc kén rể thì tiêu
chuẩn trên thường được nới lỏng hơn cũng chỉ diễn ra các gia đình nhà gái
tương đối thân thế.
Trong hôn nhân truyền thống, việc chênh lệch tuổi tác cũng nội dung được
đặt ra: “vừa hợp tuổi và người chồng phải nhiều tuổi hơn người vợ”. Nhưng không
chênh lệch tuổi tác quá nhiều. Phụ nữ vẫn đóng vai trò phụ trong gia đình “phải
nghe theo lời người chồng”, chưa được “tự ý quyết định cũng như chưa được tạo
nhiều hội trong các công việc quan trọng của quan nhà nước, các doanh
nghiệp”. Người “trụ cột” trong gia đình vẫn người đàn ông, xuất phát từ quan
niệm này, thường thì người đàn ông luôn chọn những người phụ nữ ít tuổi hơn để
tìm hiểu và cưới.
* Vấn đề sống thử và trinh tiết người phụ nữ
hội truyền thống Việt Nam xưa đặt ra luật bất thành văn quy định đôi lứa
yêu nhau không được phép sống thử (quan hệ tình dục) trước khi kết hôn, vì hai
do:
- Một là, Muốn bảo vệ sức khỏe cho đôi trai gái do không tìm được cách
phòng tránh thai. Ngoài ra còn để tránh xảy ra việc mang thai ngoài ý muốn khi
đôi bên chưa có sự ràng buộc chính thức.
- Hai là, Quan niệm về đạo đức: Việc đôi trai gái giữ gìn sự trong trắng cho
nhau thể hiện sự trong trắng trong tâm hồn, đức hạnh trong tình yêu, ý thức tiết chế
dục vọng để giữ gìn thể xác thuần khiết trong hôn nhân, thể hiện sự tôn trọng
chung thủy với bạn đời. Khái niệm trinh tiết khái niệm mang tính “nền tảng”,
quyết định đến việc có nên quan hệ trước hôn nhân hay không.
Hôn nhân truyền thống luôn quan tâm tới trinh tiết của người con gái, một
luật bất thành văn được ngầm quy định trong xã hội đó là con gái phải giữ được
chữ trinh trước khi về nhà chồng, vì ba lí do
Một là, về mặt sinh lý: bảo vệ sức khỏe cho người chồng (tránh các bệnh lây
lan qua đường tình dục) và tránh việc người con gái “chửa hoang”.
Hai là, việc giữ gìn cho chồng thể hiện sự trong trắng trong tâm hồn, đức
hạnh trong tình yêu, ý thức tiết chế dục vọng để giữ gìn thể xác thuần khiết trong
hôn nhân, thể hiện sự tôn trọng và chung thủy với chồng.
Ba là, ngày xưa xã hội trọng nam khinh nữ, người con gái phải giữ gìn để
dâng hiến trọn vẹn cho người con trai chứ không có chuyện ngược lại.
Những giá trị truyền thống trên giá trị đẹp. Tuy nhiên, trong thời đại nam
nữ bình quyền hiện nay, cả ba do trên đều hàm chứa sự bất công, bởi người đàn
ông cũng phải thể hiện ý thức tiết chế dục vọng, thể hiện sự tôn trọng chung
thủy với bạn đời, phải bảo vệ sức khỏe cho người con gái, phải trách nhiệm khi
người con gái mang thai. Do đó, nếu yêu cầu người con gái phải giữ chữ trinh, thì
người con trai cũng phải thế. Nếu người con trai không giữ được thì họ không
quyền đòi hỏi người con gái điều mà bản thân họ cũng không có.
1.3. Những nghi lễ trong hôn nhân truyền thống
Người việt xưa luôn coi cưới xin một trong ba việc lớn của đời người (sự
nghiệp, làm nhà và cưới vợ) khi nhấn mạnh trong câu ca dao: "tậu trâu cưới vợ làm
nhà..." Ảnh hưởng văn hoá Trung Hoa, hôn nhân của người Việt xưa (thời phong
kiến) sáu lễ chính. Để tiến đến lễ cưới, hai gia đình phải thực hiện những lễ
chính sau:
Lễ nạp thái: sau khi nghị hôn, nhà trai mang sang nhà gái một cặp "nhạn" để
tỏ ý đã kén chọn ở nơi ấy.
Lễ vấn danh: lễ do nhà trai sai người làm mối đến hỏi tên tuổi ngày
sinh tháng Đẻ của người con gái.
Lễ nạp cát: lễ báo cho nhà gái biết rằng đã xem bói được quẻ tốt, nam nữ
hợp tuổi nhau thì lấy được nhau, nếu tuổi xung khắc thì thôi, quan niệm thoáng
hơn người ta tìm cách hóa giài.
Lễ nạp tệ (hay nạp trưng): lễ nạp đồ sính lễ cho nhà gái, tang chứng cho
sự hứa hôn chắc chắn.
Lễ thỉnh kỳ: là lễ xin định ngày giờ làm rước dâu tức lễ cưới.
Lễ thân nghinh (tức lễ rước dâu hay lễ cưới): đúng ngày giờ đã định, họ nhà
trai mang lễ đến để rước dâu về.
Tiếp đến là phong tục hôn nhân truyền thống ( sau thời phong kiến) của người
Việt Nam, thể những cách thức, tên gọi khác nhau, đa số những điểm
chung:
Lễ dạm ngõ
Được sự đồng ý của nhà gái, nhà trai đem lễ sang.
Đồ lễ bắt buộc phải trầu, cau, rượu, chè. Phải
trầu cau câu chuyện trầu cau trong cổ tích Việt Nam
tiêu biểu cho tình nghĩa vợ chồng, họ hàng ruột thịt.
Miếng trầu đầu câu chuyện, không trầu không
theo lễ.
Lễ Ăn hỏi
Hay còn gọi lễ vấn danh, theo tục xưa hỏi tên tuổi gái, nhưng ngày
này cha mẹ đôi bên đã biết biết rồi.gái nhà nào đã nhận lễ vấn danh coi như
đã có nơi, có chốn. Sau ngày lễ ăn hỏi, phải có báo hỉ, chia trầu. Nhà gái trích trong
lễ vật nhà trai đưa đến một lá trầu, một quả cau, một gói trà nhỏ, một cái bánh cốm,
hoặc vài hạt mứt. Tất cả gói thành hộp hay phong bao giấy hồng, mang đến cho
các gia đình họ hàng, bạn hữu của nhà gái. Nhà trai cũng báo hỉ, nhưng không phải
lễ vật này chỉ cần thiếp báo hỉ. Cũng trong lễ ăn hỏi, hai họ định luôn ngày
cưới.
Lễ cưới
Lễ nạp tài: ngày nhà trai đem sính lễ sang
nhà gái. Đồ sính lễ gồm trầu cau, gạo nếp, Thịt lợn,
quần áo đồ trang sức cho dâu. Ý nghĩa của lễ
nạp tài nhà trai góp với nhà gái chi phí cỗ bàn,
cho nhà gái dâu biết mọi thứ đã chuẩn bị sẵn.
Với đồ nữ trang cho dâu làm vốn, thể yên tâm xây dựng tổ ấm mới, chứ
không đến nỗi sẽ gặp cảnh thiếu thốn.
Lễ xin dâu: Trước giờ đón dâu nhà trai cử
người đem trầu, rượu đến xin dâu, báo đoàn đón
dâu sẽ đến.
Tục chăng dây: một số đám cưới, nhà gái bố
trí vài em nhỏ bụ bẫm, xinh xắn, mặc áo đỏ chăng dây trước của nhà gái. Khi nhà
trai đến, một trong các em nhỏ chạy về báo cho nhà gái biết. Nhà trai chuẩn bị một
ít kẹo để phân phát cho trẻ chăng dây này, khi đã nhận được kẹo bọn chúng sẽ
rút dây để đoàn nhà trai đi vào nhà gái.
Lễ rước dâu: Đoàn rước dâu của
nhà trai đi thành một đoàn, cụ già cầm
hương đi trước, cùng với người mang lễ
vật. Nhà gái cho mời cụ già thắp hương
vái trước bàn thờ rồi cùng ra đón đoàn
nhà trai vào. dâu cùng với chú rể lạy
trước bàn thờ, trình với tổ tiên. Sau đó
hai người cùng bưng trầu ra mời họ hàng.
Bố mẹ cô dâu tặng quà cho con gái mình.
gia đình cũng lúc này bày cỗ bàn cho
cả họ nhà gái chung vui. Khách nhà trai cũng được mời vào cỗ. Sau đó cả đoàn
rời nhà gái, để đưa dâu về nhà chồng. Họ nhà gái chọn sẵn người đi theo gái,
gọi là các cô phù dâu.
Rước dâu vào nhà: đoàn đưa dâu về đến ngõ. Lúc này, bà mẹ chồng cầm bình
vôi, tránh mặt đi một lúc, để dâu bước vào nhà. Hiện tượng này được giải thích
theo nhiều cách. Thường người ta cho rằng việc làm này ý nghĩa khắc phục
những chuyện cay nghiệt giữa mẹ chồng và nàng dâu sau này.
Lễ hồng: khi hai họ ra về, một số người trừ
người thân tín lại chứng kiến dâu chú rể làm lễ
cúng hồng. Người ta cho rằng vợ chồng lấy được
nhau do ông Nguyệt trên trời xe duyên cho.
Cúng hồng để tạ ơn hai ông này. Lễ cúng đơn
giản, ông cụ già cầm hương lúc đón dâu, hoặc ông cụ
già cả nhất của họ hàng làm chủ lễ. Hai vợ chồng lạy
lễ tơ hồng rồi vái nhau.
Trải giường chiếu: mẹ chồng,
hoặc một bà cao tuổi khác, đông con nhiều
cháu, phúc hậu, hiền từ, dâu chú rể vào
phòng tân hôn, sẽ trải sẽ trải đôi chiếu
lên giường ngay ngắn, xếp gối màn cẩn
thận...
Lễ hợp cẩn: đây là buổi lễ kết thúc đám cưới tại nhà trai. Trước giường có bàn
bày trầu Rượu một đĩa bánh phu thê. Ông cụ già đứng lên rót rượu vào chén rồi
mời đôi vợ chồng cùng uống.
Tiệc cưới: đám cưới to hay nhỏ, cũng phải tiệc cưới. Đặc biệt nông
thôn, tính cộng đồng xóm giềng, làng xã,
họ hàng đang còn mạnh thì tiệc cưới
một dịp tốt để củng cố tính cộng đồng ấy.
thành phố, người ta thường tổ chức tiệc
cưới ngay sau lễ thành hôn, cho nên nhiều
khi cái "tục" của sự ăn lấn át mất cái
"thiêng" của lễ cưới. Người ta đến ăn, ngồi
cùng bàn ăn những người không quen
biết, ăn sao cho đúng giờ. Tiệc cưới có thể tổ chức nhà gái (trước hôm cưới) và nhà
trai (trong ngày cưới); nhưng cũng có thể hai nhà tổ chức chung thành một tiệc.
Lễ cheo: một số vùng của Việt Nam còn có lễ cheo. Lễ cheo có thể tiến hành
trước nhiều ngày, hoặc sau lễ cưới một ngày. Lễ cheo là nhà trai phải có lễ vật hoặc
kinh phí đem đến cho làng hay cho xóm con gái đi lấy chồng. Khi đã nộp tiền
cheo cho làng, làng công nhận xem đây như giấy giá thú chứng minh sự hợp
pháp cho đám cưới. Khoản tiền cheo này sẽ được nộp cho làng dưới các hình thức
khác nhau: thể bằng tiền, bằng vật liêu xây dựng, tu sửa các công trình công
ích của làng như: đường, xá, đình,
đền…..Lễ cưới là để họ hàng công nhận, lễ
cheo để xóm làng tiếp thu thêm thành
viên mới, tế bào mới của làng.
Lễ lại mặt: (còn gọi nhị hỉ hoặc
tứ hỉ), sau lễ cưới (2 hoặc 4 ngày), hai vợ
chồng trẻ sẽ tr về nhà cha mẹ vợ mang theo lễ vật để tạ gia tiên. Lễ vật cũng
trầu, xôi, lợn. Bố mẹ vợ làm cơm để mời chàng rể con gái mình. một số
trường hợp nếu xảy ra chuyện gì mà nhà trai không bằng lòng sau đêm hợp cẩn, thì
lễ nhị hỉ lại có những chuyện không hay, nhưng trường hợp này rất hiếm.
1.4. Trang phục
Áo dài là loại trang phục truyền thống của dân tộc Việt Nam, áo dài cưới được
mặc vào ngày trọng đại của dâu sắp về nhà chồng. tôn lên vẻ đẹp của người
phụ nữ Việt ,thể hiện sự dịu dàng , trong trắng , thước tha khi khoát lên mình.
Trong lễ cưới truyền thống, các dâu
miền Bắc thường mặc bộ áo mớ ba, ngoài cùng
chiếc áo the thâm, bên trong ẩn hiện hai
chiếc áo màu hồng màu xanh hoặc màu
vàng với màu hồ thủy. Rồi đến áo cánh trắng,
cuối cùng chiếc yếm hoa đào dải bằng lụa
bạch. Thắt lưng gồm hai chiếc bằng lụa màu
hoa đào, hoa lý, ngoài cùng thắt lưng sồi xe
hay vải sa màu đen, cả ba thắt lưng đều tua
hai đầu. Lúc bấy giờ kiểu trang điểm cho mái
tóc thật đơn giản, chỉ vấn khăn, đầu khăn gài
chiếc đinh ghim, đính con bướm vàng chạm
bạc, để tóc đuôi gà. Lúc đưa dâu, đi đường đội nón thúng quai thao (chủ yếu để
che mặt cho đỡ thẹn với mọi người). Ðồ trang sức khuyên đeo tai bằng vàng
hoặc bằng bạc, cạnh sườn đeo bộ tích, con dao, ống vôi… bằng bạc chạm trổ
tinh vi.
Các dâu miền Trung thường theo phong tục đặc thù của mỗi vùng những
cũng mặc áo mớ ba, trong cùng là áo màu đỏ hoặc hồng điều, áo giữa bằng the hay
vân tha màu xanh chàm, áo ngoài cùng bằng the hay vân tha màu đen. Cổ đeo
kiềng hoặc quấn chuỗi hột vàng cao lên quanh cổ. Cổ tay đeo vòng vàng, xuyến
vàng…
Trang phục của dâu miền Nam, ấn
tượng đáng nhớ nhất bao giờ cũng bộ áo
dài gấm, quần lĩnh đen, đi hài thêu. Tóc chải
lật, búi lại cuốn ba vòng phía sau đầu, gài
lược “bánh lái” bằng đồi mồi hoặc bằng
vàng, bạc. người cài trâm vàng, đầu trâm
có đính lò xo nhỏ nối tiếp với một con bướm
bằng vàng hay bạc tạo nên một độ rung, tăng
thêm nhiều phần sinh động và thẩm mỹ. Ðeo
dây chuyền nách (xà nách) bằng vàng, đeo
nhiều chuỗi hột vàng ở cổ.
Trang phục của chú rể ở cả ba miền đều giống nhau, thường thì mặc áo thụng
bằng gấm hay the màu lam, quần trắng ống sớ, búi tóc, chít khăn nhiều màu lam.
Chân đi văn hài thêu đẹp... Từ năm 1954, nước ta nhiều nghi thức, trang phục lễ
cưới được lược bỏ. thành thị, dâu mặc áo dài màu trắng hoặc các màu sáng,
nhạt, mặc quần trắng, đi giày cao gót, tay ôm hoa lay ơn, tóc phi hoặc chải
bồng, cặp tóc. Trang điểm hồng, môi son. Chú rể mặc com lê, thắt cravat, đi
giày. Còn nông thôn, dâu thưòng mặc áo mi trắng hoặc áo cánh trắng hay
áo ba, quần đen, đi dép mới. Chú rể mặc áo mi mới, quần Âu, đi giày, xăng
đan hoặc dép nhựa. Bộ đội vẫn thể mặc bộ quân phục, cán bộ thì mặc quần áo
đại cán mới, tóc chải gọn gàng.
2. QUAN NIỆM VỀ HÔN NHÂN
NHỮNG NGHI LỄ TRONG
HỘI HIỆN ĐẠI NGÀY NAY
Ngày nay, hôn nhân không chỉ đơn thuần quy chế hội, trước tiên
được luật định trong Luật hôn nhân gia đình. Lễ cưới ngày nay thường được tổ
chức sau khi đã được chính quyền cấp giấy chứng nhận kết hôn
Nếu như hôn nhân trước đây thường quan tâm đến vấn đề “môn đăng hộ đối”
thì ngày nay địa vị hội không phải yếu tố quan trọng để tiến tới hôn nhân,
điều quan trọng hơn cả đó tình yêu, sự chia sẻ thấu hiểu dành cho nhau. Họ
yêu nhau vượt qua mọi rào cản: tuổi tác, hoàn cảnh hay cấm cản của gia đình… họ
thể nhau làm mọi việc. Tình yêu sẽ dẫn đến hôn nhân, hôn nhân sẽ góp
phần tạo nên một gia đình hạnh phúc. Hôn nhân xã hội hiện nay còn khác ngày xưa
ở một điểm đó là nam nữ bình đẳng, được bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ trước pháp
luật.
Trước ảnh hưởng của lối sống hiện đại, cùng với sự phát triển kinh tế hội,
hôn nhân hiện đại ngày nay những đổi mới. Một số tục lệ trong đám cưới xưa
đã được lược bớt để phù hợp với đời sống hiện đại.
Hiện nay chỉ còn giữ lại 5 lễ chính
dạm ngõ, ăn hỏi, xin dâu, đón dâu, lại mặt. Đa
phần dâu chú rể ngày nay thường đến
một số địa điểm đẹp ngoài trời để chụp ảnh
làm kỷ niệm, tùy theo điều kiện gia đình.
Chuẩn bị vật phẩm hôn lễ, quà cưới, phòng
cưới, tiệc cưới, quần áo, xe hoa...Phải chọn
một người trung gian, đóng vai trò bắc cầu
cho hai bên gia đình. Đó thường người
đứng tuổi, uy tín, kinh nghiệm trong ăn
nói. Lễ cưới sẽ được tổ chức tại nhà của
dâu, chú rể hoặc tại các nhà hàng. Nếu tổ
chức tại nhà hàng, dâu chú rể sẽ các nghi lễ như rót rượu mời bố mẹ, cắt
bánh cưới, trao nhẫn và mời khách dùng tiệc.
Tuy vậy, dẫu cuộc sống nhiều thay đổi, tâm hồn con người Việt Nam, tính
cách con người Việt Nam thể hiện trên nhiều mặt, trong đó phần trang phục
không thể tách rời môi trường, cảnh trí, thiên nhiên Việt Nam. Trang phục lễ cưới,
nông thôn hay thành thị, sự biến đổi tất yếu, vẫn cần góp phần tạo nên
một bức tranh đời sống văn hóa thật độc đáo của con người Việt Nam. Cần nối tiếp
và phát huy cái đẹp từ ngàn xưa để lại, mỗi lần trong đời người nhớ tới hình ảnh ấy
củng cố thêm cho mình lòng yêu quê hương, đất nước, lòng quyết tâm bảo vệ hạnh
phúc gia đình và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Trang phục lễ cưới của người Việt cho đến nay đã trải qua nhiều giai đoạn.
Những nét tiến bộ trên sở truyền thống dân tộc được nhân dân phát huy làm
phong phú thêm cho trang phục ngày cưới. Những mốt "hiện đại" theo sự biến
động của trào lưu trang phục nước ngoài xa lạ với thẩm mỹ của nhân dân, không
phù hợp với tầm vóc thể của người phụ nữ Việt Nam đã dần bị loại trừ như thứ
váy năm, bảy tầng, kiểu tóc những hình thức "trang điểm" diêm dúa, lạc lõng,
lai căn, đua đòi, thiếu sự hài hòa thẩm mỹ, không làm đẹp đi ngược lại điều
mong muốn của các cô dâu và mọi người.
Trong hoàn cảnh đất nước ta hiện nay,
trang phục lễ cưới nói chung của dâu chú rể
nói riêng cũng cần tùy thuộc vào khả năng kinh
tế của từng gia đình, dựa theo phong tục tập
quán từng địa phương định liệu. thành
thị (hoặc nông thôn, nếu điều kiện), dâu
mặc áo dài trắng hoặc áo dài màu sáng, nhạt.
Hoặc hiện đại hơn, một bộ váy cưới đuôi dài
của cô dâu thường được đi cùng với một bộ vest
trắng cho chú rể với áo mi trắng kèm một
chiếc cravat hoặc cổ. Nhìn chung, lễ nghi
trang phục vừa cần phải thể hiện được bản sắc
dân tộc, vừa cần phải hiện đại để theo nhịp
bước của thời cuộc.
thể nói, quan niệm về tầm quan
trọng của lễ cưới trong hội hiện đại vẫn
được bảo tồn gìn giữ. Nhưng hiện nay,
đôi uyên ương đãnhiều quyền quyết định
hạnh phúc của mình hơn, họ quyền tìm
hiểu quyết định đến với nhau bằng đám
cưới. Ngày nay. Ngoài việc tổ chức lễ cưới,
đôi uyên ương cũng cần đăng kết hôn
đây điều không thể thiếu, đảm bảo cho
cuộc sống vợ chồng được pháp luật bảo vệ.
Tuy nhiên, trong tâm thức văn hóa dân
tộc, lễ cưới chứ không phải tờ hôn thú, mới
thời điểm để họ hàng, bạn mọi
người chính thức công nhận đôi trai gái vợ chồng. Đám cưới hiện đại của người
Việt Nam đã có nhiều thay đổi song vẫn giữ nhiều nét văn hóa truyền thống.
3. BÀN VỀ XU HƯỚNG GIÀ HÓA TRONG KẾT HÔN VÀ SỐNG THỬ
CỦA GIỚI TRẺ HIỆN NAY
Đất nước ta đang bước những bước dài trên chặng đường đổi mới, hội
nhập quốc tế về mọi mặt, đồng nghĩa với việc chấp thuận hội nhập về văn hóa
lối sống một mức độ nhất định, giới trẻ hiện cách nghĩ lối sống hiện đại
hơn, quan niệm về giới tính “thoáng” hơn so với trước đây. Chính thế, xu
hướng “tình dục thoáng” đang một thực tế đã được báo động trước chúng ta
không thể nào tránh được. Biểu hiện xu thế đó chính vấn đề già hóa trong kết
hôn và sống thử trước hôn nhân của giới trẻ hiện nay.
3.1. Vấn đề già hóa trong kết hôn
Việt Nammột nước nông nghiệp ở phương Đông, hôn nhân và gia đình từ
xưa đến nay vẫn có một ý nghĩa hết sức hệ trọng. Tuổi quy định của nhà nước Việt
Nam hiện nay (ghi trong Luật Hôn nhân Gia đình) nam từ đủ 20 tuổi, nữ từ
đủ 18 tuổi được phép đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, những số liệu thống kê của Tổng
cục Cục thống lại cho thấy tuổi kết hôn trung bình lần đầu của cả nam nữ
nước ta trong những năm gần đây có xu hướng tăng.
Bảng 1. Tuổi trung bình kết hôn lần đầu (đvt: tuổi)
m
Cảớc Thành th ng thôn
Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ
1989
1999
2009
2018
24,5
25,4
26,2
27,2
23,2
22,8
22,8
23,4
...
27,5
27,7
27,8
...
24,4
24,4
24,6
...
24,5
25,6
26,0
...
22,1
22,0
21,9
Nếu như năm 1989, tuổi kết hôn trung bình lần đầu của nam 24.5 và nữ
23.2 thì đến năm 2018, tuổi kết hôn trung bình lần đầu đã tăng lên đáng kể, của
nam 27.2 (ở nông thôn 26.0 tuổi còn thành thị 27.8 tuổi) nữ 23.4
(trong đó, thành thị 24,6 tuổi nông thôn 21.9 tuổi). Thành thị nơi có tuổi
lập gia đình trễ hơn so với khu vực ng thôn, bởi điều kiện kinh tế khá giả hơn, đời
sống tinh thần phong phú hơn, cho n giới trẻ trước tiên quan tâm nhiều hơn đến
việc ởng thụ và trải nghiệm cuộc sống hơn là lập gia đình. Điều y phản ánh xu
hướng kết hôn muộn nhìn chung đang diễn ra ở Việt Nam, đặc biệt là ở các đô thị.
Suy nghĩ ngại kết hôn sớm ngày càng phổ biến trong giới trẻ nước ta hiện
nay, trước tiên bị tác động một phần không nhỏ bởi một trào lưu sống độc thân
tạm thời. Nét nổi bật của một hội khi chuyển sang thời hiện đại là xu hướng giải
phóng cá nhân, khởi sự từ c tầng lớp trung lưu. Lúc này, con người muốn thoát ra
khỏi những ràng buộc của các mối quan hệ cổ truyền (đồng tộc, đồng hương...) để
c lập cái tôi như là một cá nhân tự chủ, tự lập. Ý thức đề cao giá trị gia đình dần dà
giảm bớt, tuy không bao gi mất hẳn, để nhường chỗ cho ý thức coi trọng giá trị tự
do cá nhân. Giới trẻ hiện nay bắt đầu có xu hướng coi việc kết hôn sớm là bước sớm
o cảnh “chim lồng chậu”. Lối sống độc thân tạm thời hay còn gọi kết hôn
muộn đang trở thành “mốt sống” của thanh niên các nước phát triển.
Với sự mở cửa vào giao lưu rộng rãi trên trường quốc tế, tuổi trẻ Việt Nam
đã đang tạo cho mình những cách sống riêng. Trong đó, những đối tượng được
tiếp xúc hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp (báo chí, truyền hình) xu hướng kết hôn
muộn. Chúng ta thể thấy rõ sự ảnh hưởng của "mốt sống” của thanh niên trên
thế giới đến cuộc sống thanh niên Việt Nam
Kết hôn muộn không phải "mốt sống” một xu hướng tất yếu khi
con người cá thể ngày càng độc lập với nhau hơn. Tốc độ sống nhanh hơn rất nhiều
cùng hàng trăm mối quan tâm phát sinh trong một hội hiện đại làm giảm sự gắn
kết ước muốn gắn kết giữa các thành viên trong hội. Thế giới toàn cầu hoá,
Việt Nam đang mở cửa, những người trẻ hiển nhiên chịu tác động rất lớn từ
khuynh hướng chung này . Cuộc sống phát triển kéo theo nhiều vấn đề đáng để
quan tâm hơn chuyện hôn nhân. Khi cảm thấy cuộc sống độc thân sẽ đem đến
nhiều lợi nhuận hơn trong việc phát triển sự nghiệp, họ sẽ kết hôn muộn. Giới trẻ
Việt Nam không phải ngoại lệ, khi điều này xu hướng chung. Việc này hoàn
toàn hợp lẽ tự nhiên
Phần lớn những người bênh vực cho chuyện độc thân đều học vấn tương
đối cao, nghề nghiệp ổn định, đủ tự lập về i chính. Một trong những biểu hiện của
xu hướng khẳng định tính cá nhân là hiện tượng lấy vợ lấy chồng ngàyng trễ hơn.
y giờ không còn thời “lấy chồng từ thu mười ba, đến năm ời tám thiếp đà
m con”.
Bản thân tôi nghĩ rằng con người, theo bản chất luôn luôn muốn tìm kiếm
tình bạn, sự chấp nhận tình yêu thương từ người khác, với những người trẻ,
nhu cầu này càng trở nên cùng quan trọng. Họ những người luôn nhu cầu
được công nhận, được người khác thừa nhận những thành quả mình đạt được,
được xã hội thừa nhận và đánh giá cao.
Tìm hiểu mối liên hệ giữa nhu cầu về tình yêu thương với nhu cầu sống độc
thân tạm thời giới trẻ hiện nay sẽ góp phần làm nhu cầu sống độc thân của họ
không phải nhu cầu tính chất lâu dài vĩnh viễn, chỉ mang tính tạm thời -
việc họ chưa kết hôn hoặc kết hôn muộn so với chuẩn chung của hội trước đây
không có nghĩa là họ sẽ không kết hôn. Bản thân những người này không những
nhu cầu kết hôn còn mong muốn được một cuộc hôn nhân hoàn hảo hơn,
hạn chế tối đa những sai lầm thể trong hôn nhân. Mặt khác, trong chuyện
tình yêu những người trưởng thành thường rất coi trọng tình cảm. Họ suy nghĩ chín
chắn hơn,ràng, hôn nhân không thể sự ép buộc, mà phải xuất phát từ tình
yêu. “Tình yêu phải xuất phát từ những rung cảm thực sự của hai người”. Rõ ràng
những người xu hướng kết hôn muộn không nghĩa họ không muốn tìm
kiếm bạn đời, tìm kiếm tình thương yêu, tìm kiếm sự chấp nhận từ người khác như
nhiều người nhầm tưởng. Ngược lại, nhu cầu này những người trẻ còn được đặt
ra ở một cấp độ cao hơn, sâu sắc hơn. Điều này,đôi chút mâu thẫn đối với quan
niệm hôn nhân truyền thống “trai lớn lấy vợ, gái lớn lấy chồng”. Việc định nghĩa
như thế nào là “lớn” để đến với cuộc sống hôn nhân của mỗi người khác nhau. Tuy
nhiên quan điểm nhân của tôi cho rằng, khi tình yêu đủ “lớn”, để người ta cảm
nhận cần thiết phải đến với nhau, khi con người đủ trưởng thành để thể đảm
đương với tất cả những sóng gió trong đời sống nhân gia đình, thì cuộc sống
hôn nhân sẽ trọn vẹn hơn.
3.2. Quan niệm về sống thử.
Khác với hội ngày xưa , ngày nay việc sống thử xảy ra khắp nơi trên
thế giới . Trước khi tiến đến con đường hôn nhân lâu dài, họ muốn trải nghiệm
cuộc sống hôn nhân cũng như quyết định của chung bản thân họ. Ngày nay , giới
trẻ đã phá vỡ những “quy luật bất thành văn” trong quá khứ để xây dựng một khía
cạnh mới trong hôn nhân.
“Sống thử” việc hai người khác giới chung sống với nhau như vợ chồng
trước hôn nhân mà không có sự ràng buộc về mặt pháp lý.
Nhu cầu sống thử xuất phát từ nhu cầu thỏa mãn sinh hay xuất phát từ sự
mò” thiếu hiểu biết của các đôi bạn trẻ hiện nay. Đây một vấn đề được
luận hết sức quan tâm và lên án một cách mạnh mẽ nhưng nó không phải là hành vi
vi phạm pháp luật thực sự trong pháp luật của nước Cộng Hòa Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam hiện nay không một chế tài nào hay những quy đinh nào mang
tính cấm đoán việc sống thử. Bởi vậy pháp luật không thể đứng ra can thiệp
hiện tượng này đối với pháp luật Việt Nam được coi hợp pháp người
tham gia sống thử không bị pháp luật xử lý. Xét về mặt đạo đức, “sống thử”
không thể chấp nhận được, đó bị coi hành động tiêu cực bị luận phê phán
thông qua nhiều hình thức thể hiện khác nhau, dụ như qua các phương tiện
thông tin đại chúng. xuất phát trên tinh thần tự nguyện của cả hai người
không mang tính chất ép buộc .
 









Bảng thống kê tỷ lệ sống thử (có quan hệ tình dục)
trước hôn nhân ở hai nhóm tuổi vào năm 2016
"sống chung - sống thử" đang trở thành phổ biến trong giới trẻ Việt Nam
hiện tượng này một trong những thực trạng của hội, đang nguy lan
rộng như một “dịch bệnh”. Đối tượng được nói đến phổ biến lại rơi chủ yếu vào
lứa tuổi từ 14 đến 25 tuổi (nhất từ 22 đến 25 tuổi). Họ những sinh viên đang
ngồi trên các giảng đường đại học, những công nhân, người lao động tr vừa rời
ghế trường phổ thông… do họ sống với nhau thể xa nhà, thiếu thốn tình
cảm, thiếu vật chất, hoặc thể đua đòi đi theo những điều sai lệch được tự
do quảng bá dưới mọi hình thức trong đời sống xã hội: phim, ảnh, internet…
Sống thử để lại những hậu quả rất nghiêm trọng có thể dẫn đến việc mang thai
ngoài ý muốn. Hiện tượng nạo phá thai không chỉ phát triển ở các cặp vợ chồng trẻ
không muốn sinh con theo ý muốn nhiều nữ thanh niên kể cả khi còn vị
thành niên- chưa có gia đình. Theo thống kê của bộ y tế thì trong số các ca nạo phá
thai nước ta hiện nay thì 25% phụ nữ chưa lập gia đình, 20% nữ vị thành niên
không thể sinh con mà hậu quả của những lần phá thai để lại; hiện tại họ không có
lựa chọn nào khác hơn phá bỏ cái thai, nhẫn tâm trở nên “thú dữ” với chính
mầm sống đang từng ngày lớn lên trong bụng.
Quan điểm của nhân tôi cho rằng, sống thử không hoàn toàn tiêu cực
nhưng để lại hậu quả xấu ảnh hưởng rất lớn đến các thế hệ trẻ nhất đối
với hôn nhân sau này. Nguyên nhân dẫn đến sống thử chủ yếu do sự mò,
muốn khám phá, họ đến với nhau chủ yếu để thỏa mãn nhu cầu tình dục và sự thiếu
thốn tình cảm. Cùng với đó những ảnh hưởng của suy nghĩ và lối sống “ Tây hóa ”
hiện đang trong giai đoạn chuyển mình và phát triển. Phụ nữ ngày nay có điều kiện
học tập và làm việc thể hiện bản lĩnh của bản thân không kém phái nam. Từ đó một
bộ phận phái nữ đã không còn quan trọng vấn đề trinh tiết cũng như những hậu quả
của nó.
Hệ lụy của việc sống thử thì không phải tranh cãi, đương nhiên ai cũng biết
phần thiệt thòi luôn thuộc về con gái, vấn đề trinh tiết rồi định kiến hội
trong bối cảnh xã hội Việt Nam tuy cởi mở, nhưng vẫn coi trọng truyền thống.
Nhưng quan trọng hơn chỗ, việc sống thử để kiểm định tiến tới hôn
nhân là một vấn đề nhìn nhận có phần thiếu chín chắn trong quan niệm của giới tr
hiện nay. Hôn nhân không chỉ đơn thuần “hai mảnh giấy ghép cuộc đời ta lại”
đó trách nhiệm, tình yêu, cả sự bao dung tất cả mọi điều để
được một “gia đình” nguyên nghĩa. Hôn nhân trong hội hiện đại hiện nay luôn
đòi hỏi sự thích nghi từ hai phía.
một
điều đặc biệt,
trong quan hệ
hôn nhân trước


T l đ a đ n ly hôn xã h i hi n nay ư ơ

  ơ
kia thì việc kết hôn vẫn chưa được luật pháp bảo vệ nên việc ly hôn hay kết hôn
hầu như không được kiểm soát , tuy nhiên thể thấy tỉ lệ này hầu như sẽ rất ít,
bởi lẽ một phần xuất phát từ quan niệm truyền thống.Tuy nhiên ngày nay với sự
phát triển mạnh mẻ của xã hội thì tỷ lệ ly hôn ngày một tăng.
Trong chúng ta ai cũng muốn một (hoặc một vài, hoặc nhiều) người yêu
mình đến mãnh liệt, đời đời chung thủy một lòng, cho sông thể cạn, núi
thể mòn, nhưng tình cảm ấy không bao giờ thay đổi. Người ta luôn ngưỡng mộ
những cặp đôi thể yêu nhau cả chục năm trước khi kết hôn, họ cũng luôn tự
đặt ra câu hỏi rằng tại sao giới trẻ ngày nay yêu nhiều, yêu không thật lòng, tại sao
càng phát triển thì tỉ lệ ly hôn càng cao.
Theo tôi, xuất phát từ quan niệm “thoáng”, nhưng không “khoa học” của
giới trẻ về tình yêu hiện nay, phần nào liên quan đến việc “sống thử”. nhân tôi
cho rằng, sống thử cũng nhiều mặt lợi, tuy nhiên nếu ta không xét đến vấn đề
truyền thống, quan niệm hội, thì với vấn đề tâm, sinh lý, dường như việc đã
“sống thử” phần nào tác động đến cuộc hôn nhân nhạt đi. Mặt khác, những người
càng quỵ lụy trong tình yêu thì càng đau khổ. Nhìn thẳng vào thực tế đối diện
với mới sự lựa chọn khôn ngoan. "Chọn con tim hay nghe trí?" Thật ra
trong tình yêu, trí con tim đều quan trọng như nhau. Lắng nghe đi theo
tiếng gọi của con tim để tìm kiếm sự thăng hoa trong cảm xúc. Tỉnh táo và lý trí để
không quáng sống chết một người, cân bằng các yếu tố của cuộc sống.
hơn hết với mỗi người trẻ tuổi, nếu không coi trọng cuộc sống hôn nhân, thì sẽ
không bao giờ có một cuộc hôn nhân viên mãn.
III/ Kết luận
Thế hệ trẻ - chủ nhân tương lai của đất nước, để có thể một gia đình hạnh
phúc, chúng ta phải bắt đầu xây nền móng từ một cuộc hôn nhân khôn ngoan
trọn vẹn. sự kết hợp của tình yêu, trí sự đồng cảm...Để xây dựng một
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thì trước tiên cần phải
những con người trân trọng truyền thống bắt nhịp cùng với sự phát triển của
thời đại. Trước tiên, chúng ta hãy nhìn nhận một cách đúng đắn hãy nói không
với sống thử để có thể tránh được những hệ lụy của nó và xây nền móng vững chắc
cho một cuộc hôn nhân nguyên nghĩa.
Tự khẳng định mình, xây dựng cho mình một tình yêu chân chính
quan điểm nghiêm túc trong đời sống tình dục, Tất cả những điều này đều phục vụ
cho mục đích cuối cùng chuẩn bị các điều kiện tốt nhất cho một cuộc hôn nhân
hạnh phúc, hạn chế tối đa những rủi ro trong hôn nhân. Giới trẻ hiện nay nhận thức
rất tốt những “cái được” “cái mất” của việc kết hôn muôn. Không tưởng hoá
cuộc sống gia đình nhưng cũng không hoàn toàn đề cao việc sống độc thân tạm
thời hiện tại. Việc đánh giá đúng đắn hai mặt của một vấn đề và quan tâm một cách
nghiêm túc đến cuộc sống hiện tại, để sống ích, trách nhiệm gánh vác
những trọng trách to lớn, tương lai dân tộc giao phó cho thế hệ trẻ chúng ta
Hôn nhân việc cả đời của mỗi con người cũng câu chuyện muôn đời
của xã hội nhưng cách thực hiện mỗi thời một khác. Sự tôn nghiêm thiêng liêng
của các nghi lễ cưới hỏi truyền thống những kế thừa phát huy của thời nay
tuy một số phần mai một. Nhưng qua đó thấy được dân tộc ta một dân tộc
giàu văn hoá truyền thống lâu đời. Qua đề tài này tôi hi vọng rằng chúng ta hiểu
được những nghi thức diễn ra để được một hôn nhân hoàn chỉnh trong truyền
thống trong hội hiện đại. Ngoài ra còn thấy được sự biến đổi của hôn nhân
hiện đại so với hôn nhân truyền thống. Từ đó định hướng trong việc tạo dựng
nếp sống lành mạnh trong việc cưới hỏi để góp phần xây dựng hội văn minh,
gia đình văn hóa, tiến tới xây dựng một nền văn hóa tiên tiến mang đậm bản sắc
văn hóa dân tộc Viêt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Cục thống Việt Nam. Điều tra biến động dân số KHHGĐ 1/4/2019:
Những kết quả chủ yếu.
Lê Thi. Phụ nữ độc thân ở Việt Nam. NXB KHXH, Hà Nội 2004,
trang 23
“Hôn sự xưa và nay”. Tác giả Đức Quang; NXB Văn hoá văn nghệ Tp.HCM
“ Đám cưới xưa và nay” Vũ Thanh Việt; NXB Văn hoá thông tin
http://www.ubmvgiadinh.org
www.tuoitre.com
http://dantri.com.vn/tinh-yeu-gioi-tinh/hon-nhan-xua-va-nay-1165969896.htm
http://afamily.vn/chum-anh-khac-biet-nhin-tan-mat-ve-dam-cuoi-xua-va-nay-
20160914052841526.chn
http://www.marry.vn/ke-hoach-cuoi/nghi-le-cuoi-truyen-thong-gom-co-
nhung-gi
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%85_c%C6%B0%E1%BB%9Bi_ng
%C6%B0%E1%BB%9Di_Vi%E1%BB%87t
https://plo.vn/xa-hoi/bao-dong-ket-hon-muon-va-khong-muon-sinh-con-
859720.html
| 1/29

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
TIỂU LUẬN CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
Đề tài: Phong tục hôn nhân – Từ truyền thống đến hiện đại.
Xu hướng già hóa trong kết hôn và quan niệm về sống
thử của giới trẻ ngày nay MỤC LỤC
I/ Phần mở đầu.................................................................................................................2
II/ Phần nội dung..............................................................................................................3
1. QUAN NIỆM VỀ HÔN NHÂN TRUYỀN THỐNG VÀ NHỮNG NGHI LỄ....3
1.1. Khái niệm về hôn nhân......................................................................................3
1.2. Quan niệm về hôn nhân truyền thống...............................................................3
1.3. Những nghi lễ trong hôn nhân truyền thống....................................................7
1.4. Trang phục........................................................................................................12
2. QUAN NIỆM VỀ HÔN NHÂN VÀ NHỮNG NGHI LỄ TRONG XÃ HỘI HIỆN
ĐẠI NGÀY NAY
.........................................................................................................15
3. BÀN VỀ XU HƯỚNG GIÀ HÓA TRONG KẾT HÔN VÀ SỐNG THỬ CỦA
GIỚI TRẺ HIỆN NAY
...............................................................................................18
3.1. Vấn đề già hóa trong kết hôn...........................................................................19
3.2. Quan niệm về sống thử.....................................................................................22
III/ Kết luận....................................................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................27 I/ Phần mở đầu
Trong truyền thống văn hoá của dân tộc Việt, nhiều thuần phong mĩ tục rất
cần thiết cho đạo lý làm người và kỷ cương xã hội. Cũng như mọi lễ tục những lễ
nghi khác - Tập tục cưới hỏi cũng có tính kế thừa những giá trị tốt đẹp của nếp
sống xưa và biến hóa, phát triển theo nhịp sống hiện đại. Trong bất kỳ giai đoạn
nào của lịch sử nó cũng chịu sự ảnh hưởng ít nhiều của văn hoá, kinh tế, chính trị.
Các lễ nghi- tập tục này có khi rất đơn giản nhưng có khi lại rất nhiều phức tạp
theo tập quán của từng vùng, từng dân tộc.
Quan niệm về tầm quan trọng của một lễ cưới ngày nay vẫn giữ nguyên vẹn.
Thế nhưng việc dựng vợ gả chồng không còn quá phụ thuộc vào cộng đồng. Nghĩa
là đó là quyền quyết định của đôi trẻ, cho dù gia đình có ‘môn đăng hộ đối’ hay
không. Việc này cũng cho phép cô dâu và chú rể được đặt tính cá nhân của mình
vào một lễ cưới nhiều hơn. Quan niệm hôn nhân ngày nay được tự do hơn, thoải
mái hơn ngày xưa rất nhiều bởi giới trẻ hoàn toàn có thể làm chủ mình trong vấn
đề hôn nhân. Cũng có nhiều trường hợp những người thích yêu nhưng không thích
cưới, cũng có nghĩa là không tiến tới hôn nhân trên mặt pháp luật, các vấn đề về
sống độc thân, sống thử, hôn nhân thực dụng đã và đang đặt ra cho việc hiện đại
hóa các giá trị truyền thống về hôn nhân ở nước ta hiện nay
Trên cơ sở nghiên cứ về quan niệm và những nghi lễ hôn nhân truyền thống.
Tôi xin được trình bày những hiểu biết của mình thông qua chủ đề tiểu luận:
Phong tục hôn nhân – Từ truyền thống đến hiện đại, xu hướng già hóa trong
kết hôn và quan niệm về sống thử của giới trẻ ngày nay”. Quá trình thực hiện nội
dung, chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót vì kiến thức cá nhân còn hạn
hẹp, và kinh nghiệm sống chưa phong phú. Kính mong quý thầy cô cùng các bạn giúp đỡ. II/ Phần nội dung
1. QUAN NIỆM VỀ HÔN NHÂN TRUYỀN THỐNG VÀ NHỮNG NGHI LỄ
1.1. Khái niệm về hôn nhân
Với những người theo phái tự nhiên và phái phân tâm học họ định nghĩa hôn
nhân như sau: Hôn nhân là một hiện tượng tự nhiên. Đó là sự liên kết giữa hai con
người khác giới với nhau thành một gia đình để giữ chức năng duy trì nòi giống.
Chủ nghĩa Mác – Lê nin nhìn nhận hôn nhân và gia đình là những hiện tượng
xã hội có quá trình phát sinh, phát triển, do các điều kiện kinh tế – xã hội quyết
định. Trong tác phẩm nổi tiếng “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của
Nhà nước”, Mác và Enghen đã phân tích, chứng minh một cách khoa học rằng: lịch
sử gia đình là lịch sử của quá trình xuất hiện chế độ quần hôn, chuyển sang gia
đình đối ngẫu, phát triển lên gia đình một vợ một chồng – là quá trình không
ngừng hoàn thiện hình thức gia đình, trên cơ sở sự phát triển của các điều kiện sinh
hoạt vật chất của con người.
Như vậy, có thể hiểu, hôn nhân trước hết là một quy chế xã hội và sau đó mới
là một hiện tượng sinh học, hiện tượng tự nhiên. Đây là một sự thật đã tồn tại suốt
mấy ngàn năm qua tất cả các nước trên thế giới. Quan niệm về hôn nhân truyền
thống trong 54 dân tộc Việt Nam - mỗi một dân tộc đều có những quan niệm và
trực lệ hôn nhân khác nhau, trong đó người Việt là một trong những tộc người có
quan niệm và tục lệ hôn nhân vào loại đa dạng nhất.
1.2. Quan niệm về hôn nhân truyền thống
* Vấn đề môn đăng hộ đối
Một trong những đặc trưng cơ bản của làng xã Việt Nam là tính cộng đồng.
Mọi việc liên quan đến cá nhân cũng đồng thời liên quan đến cộng đồng, kể cả hôn
nhân là lĩnh vực riêng tư nhất. Thời phong kiến, theo luân lý “tam cương ngũ
thường”, con cái mà có cha khi nào cũng ở địa vị phụ thuộc, việc hôn nhân của con
cái, cha mẹ có quyền độc đoán và “đặt đâu ngồi đấy”. Hôn nhân của người Việt
Nam truyền thống không phải là việc hai người lấy nhau mà là việc “hai họ” dựng
vợ gả chồng cho con cái. Tục lệ này xuất phát từ quyền lợi của tập thể. Việc hôn
nhân tuy là của hai người nhưng lại kéo theo việc xác lập quan hệ giữa hai gia tộc.
Vì vậy, điều cần làm đầu tiên chưa phải là lựa chọn một cá nhân cụ thể, mà là lựa
chọn một dòng họ, một gia đình xem cửa nhà hai bên có tương xứng không, có
môn đăng hộ đối không.
Hầu hết ở các vùng nông thôn, và cả trong đô thị, việc hôn nhân theo phong
tục đều phải qua một cầu trung gian là người mối lái. Nhà trai muốn chọn vợ cho
con thì xem “chỗ nào môn đăng hộ đối, tuổi không xung khắc nhau” mới mượn
người mối lái. Mối lái nói với cha mẹ “người con gái bằng lòng gả rồi”, nhà trai
mới đem trầu đến dạm. Môn đăng - hộ đối là tiêu chuẩn quan trọng nhất đối với
tầng lớp trên ở xã hội phong kiến mà cũng thường là tiêu chuẩn chung của xã hội
Việt Nam. Quan niệm “đăng đối” phải theo nguyên tắc “địa vị xã hội và điều kiện
kinh tế” của nhà gái có thể thấp hơn nhà tri nhưng không có chuyện ngược lại”.
Tuổi tác bố mẹ cô dâu chú rể cũng được xem là tiêu chuẩn quan trọng của “môn đăng - hộ đối”.
Theo tập quán người Việt, sau khi quan hệ thông gia đã được thiết lập thì
thay đổi về cách xưng hộ giữa hai gia đình và hai tộc họ. Do đó nếu cách biệt quá
vì tuổi thì người ta cũng không làm thông gia với nhau. Ngoài hai tiêu chuẩn cơ
bản trên trong quan niệm “môn đăng - hộ đối” người ta còn chú trọng đến tình
trạng sức khoẻ của gia đình, tình trạng phương pháp, quan hệ bố mẹ như thế nào?
anh em trong gia đình, vấn đề dòng họ. Các tiêu chuẩn này được đúc kết lại trong
quan niệm “Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống”.
* Vấn đề tuổi tác:
Hợp tuổi là tiêu chuẩn quan trọng thứ hai trong việc kén rể, chọn dâu của các
cụ ngày trước. Việc xem tuổi ở đây không phải là sự chênh lệch tuổi tác giữa hai
người mà quan trọng là tuổi cầm tinh con gì ở mỗi người tính theo hệ can chi của
âm lịch. Ngoài ra, người ta còn so tuổi theo nguyên lý âm dương, ngũ hành, tức là
“mệnh” của hai người. Vì ai cũng cho rằng hợp tuổi nhau thì gia đình mới hoà
thuận, thậm chí việc này có ảnh hưởng đến cả đường con cái, tính mạng của nhau.
Trên là hai tiêu chuẩn chung đối với nhà trai lẫn nhà gái. Nhưng trên thực tế người
ta chỉ tuân thủ chặt chẽ và đầy đủ với việc chọn dâu, còn trong việc kén rể thì tiêu
chuẩn trên thường được nới lỏng hơn và cũng chỉ diễn ra ở các gia đình nhà gái tương đối thân thế.
Trong hôn nhân truyền thống, việc chênh lệch tuổi tác cũng là nội dung được
đặt ra: “vừa hợp tuổi và người chồng phải nhiều tuổi hơn người vợ”. Nhưng không
chênh lệch tuổi tác quá nhiều. Phụ nữ vẫn đóng vai trò phụ trong gia đình “phải
nghe theo lời người chồng”, chưa được “tự ý quyết định cũng như chưa được tạo
nhiều cơ hội trong các công việc quan trọng của cơ quan nhà nước, các doanh
nghiệp”. Người “trụ cột” trong gia đình vẫn là người đàn ông, xuất phát từ quan
niệm này, thường thì người đàn ông luôn chọn những người phụ nữ ít tuổi hơn để tìm hiểu và cưới.
* Vấn đề sống thử và trinh tiết người phụ nữ
Xã hội truyền thống Việt Nam xưa đặt ra luật bất thành văn quy định đôi lứa
yêu nhau không được phép sống thử (quan hệ tình dục) trước khi kết hôn, vì hai lý do:
- Một là, Muốn bảo vệ sức khỏe cho đôi trai gái do không tìm được cách
phòng tránh thai. Ngoài ra còn là để tránh xảy ra việc mang thai ngoài ý muốn khi
đôi bên chưa có sự ràng buộc chính thức.
- Hai là, Quan niệm về đạo đức: Việc đôi trai gái giữ gìn sự trong trắng cho
nhau thể hiện sự trong trắng trong tâm hồn, đức hạnh trong tình yêu, ý thức tiết chế
dục vọng để giữ gìn thể xác thuần khiết trong hôn nhân, thể hiện sự tôn trọng và
chung thủy với bạn đời. Khái niệm trinh tiết là khái niệm mang tính “nền tảng”,
quyết định đến việc có nên quan hệ trước hôn nhân hay không.
Hôn nhân truyền thống luôn quan tâm tới trinh tiết của người con gái, một
luật bất thành văn được ngầm quy định trong xã hội đó là con gái phải giữ được
chữ trinh trước khi về nhà chồng, vì ba lí do
Một là, về mặt sinh lý: bảo vệ sức khỏe cho người chồng (tránh các bệnh lây
lan qua đường tình dục) và tránh việc người con gái “chửa hoang”.
Hai là, việc giữ gìn cho chồng thể hiện sự trong trắng trong tâm hồn, đức
hạnh trong tình yêu, ý thức tiết chế dục vọng để giữ gìn thể xác thuần khiết trong
hôn nhân, thể hiện sự tôn trọng và chung thủy với chồng.
Ba là, ngày xưa xã hội trọng nam khinh nữ, người con gái phải giữ gìn để
dâng hiến trọn vẹn cho người con trai chứ không có chuyện ngược lại.
Những giá trị truyền thống trên là giá trị đẹp. Tuy nhiên, trong thời đại nam
nữ bình quyền hiện nay, cả ba lý do trên đều hàm chứa sự bất công, bởi người đàn
ông cũng phải thể hiện ý thức tiết chế dục vọng, thể hiện sự tôn trọng và chung
thủy với bạn đời, phải bảo vệ sức khỏe cho người con gái, phải có trách nhiệm khi
người con gái mang thai. Do đó, nếu yêu cầu người con gái phải giữ chữ trinh, thì
người con trai cũng phải thế. Nếu người con trai không giữ được thì họ không có
quyền đòi hỏi người con gái điều mà bản thân họ cũng không có.
1.3. Những nghi lễ trong hôn nhân truyền thống
Người việt xưa luôn coi cưới xin là một trong ba việc lớn của đời người (sự
nghiệp, làm nhà và cưới vợ) khi nhấn mạnh trong câu ca dao: "tậu trâu cưới vợ làm
nhà..." Ảnh hưởng văn hoá Trung Hoa, hôn nhân của người Việt xưa (thời phong
kiến) có sáu lễ chính. Để tiến đến lễ cưới, hai gia đình phải thực hiện những lễ chính sau:
Lễ nạp thái: sau khi nghị hôn, nhà trai mang sang nhà gái một cặp "nhạn" để
tỏ ý đã kén chọn ở nơi ấy.
Lễ vấn danh: là lễ do nhà trai sai người làm mối đến hỏi tên tuổi và ngày
sinh tháng Đẻ của người con gái.
Lễ nạp cát: lễ báo cho nhà gái biết rằng đã xem bói được quẻ tốt, nam nữ
hợp tuổi nhau thì lấy được nhau, nếu tuổi xung khắc thì thôi, quan niệm thoáng
hơn người ta tìm cách hóa giài.
Lễ nạp tệ (hay nạp trưng): là lễ nạp đồ sính lễ cho nhà gái, tang chứng cho sự hứa hôn chắc chắn.
Lễ thỉnh kỳ: là lễ xin định ngày giờ làm rước dâu tức lễ cưới.
Lễ thân nghinh (tức lễ rước dâu hay lễ cưới): đúng ngày giờ đã định, họ nhà
trai mang lễ đến để rước dâu về.
Tiếp đến là phong tục hôn nhân truyền thống ( sau thời phong kiến) của người
Việt Nam, có thể có những cách thức, tên gọi khác nhau, đa số có những điểm chung:
Lễ dạm ngõ
Được sự đồng ý của nhà gái, nhà trai đem lễ sang.
Đồ lễ bắt buộc phải có là trầu, cau, rượu, chè. Phải có
trầu cau vì câu chuyện trầu cau trong cổ tích Việt Nam
là tiêu biểu cho tình nghĩa vợ chồng, họ hàng ruột thịt.
Miếng trầu là đầu câu chuyện, không có trầu là không theo lễ. Lễ Ăn hỏi
Hay còn gọi là lễ vấn danh, theo tục xưa là hỏi tên tuổi cô gái, nhưng ngày
này cha mẹ đôi bên đã biết biết rõ rồi. Cô gái nhà nào đã nhận lễ vấn danh coi như
đã có nơi, có chốn. Sau ngày lễ ăn hỏi, phải có báo hỉ, chia trầu. Nhà gái trích trong
lễ vật nhà trai đưa đến một lá trầu, một quả cau, một gói trà nhỏ, một cái bánh cốm,
hoặc vài hạt mứt. Tất cả gói thành hộp hay phong bao giấy hồng, mang đến cho
các gia đình họ hàng, bạn hữu của nhà gái. Nhà trai cũng báo hỉ, nhưng không phải
có lễ vật này mà chỉ cần thiếp báo hỉ. Cũng trong lễ ăn hỏi, hai họ định luôn ngày cưới. Lễ cưới
Lễ nạp tài: Là ngày nhà trai đem sính lễ sang
nhà gái. Đồ sính lễ gồm trầu cau, gạo nếp, Thịt lợn,
quần áo và đồ trang sức cho cô dâu. Ý nghĩa của lễ
nạp tài là nhà trai góp với nhà gái chi phí cỗ bàn,
cho nhà gái và cô dâu biết mọi thứ đã chuẩn bị sẵn.
Với đồ nữ trang cho cô dâu làm vốn, cô có thể yên tâm xây dựng tổ ấm mới, chứ
không đến nỗi sẽ gặp cảnh thiếu thốn.
Lễ xin dâu: Trước giờ đón dâu nhà trai cử
người đem trầu, rượu đến xin dâu, báo đoàn đón dâu sẽ đến.
Tục chăng dây: ở một số đám cưới, nhà gái bố
trí vài em nhỏ bụ bẫm, xinh xắn, mặc áo đỏ chăng dây trước của nhà gái. Khi nhà
trai đến, một trong các em nhỏ chạy về báo cho nhà gái biết. Nhà trai chuẩn bị một
ít kẹo để phân phát cho lũ trẻ chăng dây này, khi đã nhận được kẹo bọn chúng sẽ
rút dây để đoàn nhà trai đi vào nhà gái.
Lễ rước dâu: Đoàn rước dâu của
nhà trai đi thành một đoàn, có cụ già cầm
hương đi trước, cùng với người mang lễ
vật. Nhà gái cho mời cụ già thắp hương
vái trước bàn thờ rồi cùng ra đón đoàn
nhà trai vào. Cô dâu cùng với chú rể lạy
trước bàn thờ, trình với tổ tiên. Sau đó
hai người cùng bưng trầu ra mời họ hàng.
Bố mẹ cô dâu tặng quà cho con gái mình.
Có gia đình cũng lúc này bày cỗ bàn cho
cả họ nhà gái chung vui. Khách nhà trai cũng được mời vào cỗ. Sau đó là cả đoàn
rời nhà gái, để đưa dâu về nhà chồng. Họ nhà gái chọn sẵn người đi theo cô gái, gọi là các cô phù dâu.
Rước dâu vào nhà: đoàn đưa dâu về đến ngõ. Lúc này, bà mẹ chồng cầm bình
vôi, tránh mặt đi một lúc, để cô dâu bước vào nhà. Hiện tượng này được giải thích
theo nhiều cách. Thường người ta cho rằng việc làm này có ý nghĩa khắc phục
những chuyện cay nghiệt giữa mẹ chồng và nàng dâu sau này.
Lễ tơ hồng: khi hai họ ra về, một số người trừ
người thân tín ở lại chứng kiến cô dâu chú rể làm lễ
cúng tơ hồng. Người ta cho rằng vợ chồng lấy được
nhau là do ông Tơ bà Nguyệt trên trời xe duyên cho.
Cúng tơ hồng là để tạ ơn hai ông bà này. Lễ cúng đơn
giản, ông cụ già cầm hương lúc đón dâu, hoặc ông cụ
già cả nhất của họ hàng làm chủ lễ. Hai vợ chồng lạy
lễ tơ hồng rồi vái nhau.
Trải giường chiếu: bà mẹ chồng,
hoặc một bà cao tuổi khác, đông con nhiều
cháu, phúc hậu, hiền từ, cô dâu chú rể vào
phòng tân hôn, bà sẽ trải sẽ trải đôi chiếu
lên giường ngay ngắn, xếp gối màn cẩn thận...
Lễ hợp cẩn: đây là buổi lễ kết thúc đám cưới tại nhà trai. Trước giường có bàn
bày trầu Rượu và một đĩa bánh phu thê. Ông cụ già đứng lên rót rượu vào chén rồi
mời đôi vợ chồng cùng uống.
Tiệc cưới: dù đám cưới to hay nhỏ, cũng phải có tiệc cưới. Đặc biệt là ở nông
thôn, tính cộng đồng xóm giềng, làng xã,
họ hàng đang còn mạnh thì tiệc cưới là
một dịp tốt để củng cố tính cộng đồng ấy.
Ở thành phố, người ta thường tổ chức tiệc
cưới ngay sau lễ thành hôn, cho nên nhiều
khi cái "tục" của sự ăn lấn át mất cái
"thiêng" của lễ cưới. Người ta đến ăn, ngồi
cùng bàn ăn là những người không quen
biết, ăn sao cho đúng giờ. Tiệc cưới có thể tổ chức nhà gái (trước hôm cưới) và nhà
trai (trong ngày cưới); nhưng cũng có thể hai nhà tổ chức chung thành một tiệc.
Lễ cheo: một số vùng của Việt Nam còn có lễ cheo. Lễ cheo có thể tiến hành
trước nhiều ngày, hoặc sau lễ cưới một ngày. Lễ cheo là nhà trai phải có lễ vật hoặc
kinh phí đem đến cho làng hay cho xóm có con gái đi lấy chồng. Khi đã nộp tiền
cheo cho làng, làng công nhận và xem đây như giấy giá thú chứng minh sự hợp
pháp cho đám cưới. Khoản tiền cheo này sẽ được nộp cho làng dưới các hình thức
khác nhau: có thể là bằng tiền, bằng vật liêu xây dựng, tu sửa các công trình công
ích của làng như: đường, xá, đình,
đền…..Lễ cưới là để họ hàng công nhận, lễ
cheo là để xóm làng tiếp thu thêm thành
viên mới, tế bào mới của làng.
Lễ lại mặt: (còn gọi là nhị hỉ hoặc
tứ hỉ), sau lễ cưới (2 hoặc 4 ngày), hai vợ
chồng trẻ sẽ trở về nhà cha mẹ vợ mang theo lễ vật để tạ gia tiên. Lễ vật cũng có
trầu, xôi, lợn. Bố mẹ vợ làm cơm để mời chàng rể và con gái mình. Ở một số
trường hợp nếu xảy ra chuyện gì mà nhà trai không bằng lòng sau đêm hợp cẩn, thì
lễ nhị hỉ lại có những chuyện không hay, nhưng trường hợp này rất hiếm. 1.4. Trang phục
Áo dài là loại trang phục truyền thống của dân tộc Việt Nam, áo dài cưới được
mặc vào ngày trọng đại của cô dâu sắp về nhà chồng. Nó tôn lên vẻ đẹp của người
phụ nữ Việt ,thể hiện sự dịu dàng , trong trắng , thước tha khi khoát lên mình.
Trong lễ cưới truyền thống, các cô dâu
miền Bắc thường mặc bộ áo mớ ba, ngoài cùng
là chiếc áo the thâm, bên trong ẩn hiện hai
chiếc áo màu hồng và màu xanh hoặc màu
vàng với màu hồ thủy. Rồi đến áo cánh trắng,
cuối cùng là chiếc yếm hoa đào có dải bằng lụa
bạch. Thắt lưng gồm hai chiếc bằng lụa màu
hoa đào, hoa lý, ngoài cùng là thắt lưng sồi xe
hay vải sa màu đen, cả ba thắt lưng đều có tua
ở hai đầu. Lúc bấy giờ kiểu trang điểm cho mái
tóc thật đơn giản, chỉ là vấn khăn, đầu khăn gài
chiếc đinh ghim, có đính con bướm vàng chạm
bạc, để tóc đuôi gà. Lúc đưa dâu, đi đường đội nón thúng quai thao (chủ yếu là để
che mặt cho đỡ thẹn với mọi người). Ðồ trang sức có khuyên đeo tai bằng vàng
hoặc bằng bạc, cạnh sườn đeo bộ xà tích, con dao, ống vôi… bằng bạc chạm trổ tinh vi.
Các cô dâu miền Trung thường theo phong tục đặc thù của mỗi vùng những
cũng mặc áo mớ ba, trong cùng là áo màu đỏ hoặc hồng điều, áo giữa bằng the hay
vân tha màu xanh chàm, áo ngoài cùng bằng the hay vân tha màu đen. Cổ đeo
kiềng hoặc quấn chuỗi hột vàng cao lên quanh cổ. Cổ tay đeo vòng vàng, xuyến vàng…
Trang phục của cô dâu miền Nam, ấn
tượng đáng nhớ nhất bao giờ cũng là bộ áo
dài gấm, quần lĩnh đen, đi hài thêu. Tóc chải
lật, búi lại và cuốn ba vòng phía sau đầu, gài
lược “bánh lái” bằng đồi mồi hoặc bằng
vàng, bạc. Có người cài trâm vàng, đầu trâm
có đính lò xo nhỏ nối tiếp với một con bướm
bằng vàng hay bạc tạo nên một độ rung, tăng
thêm nhiều phần sinh động và thẩm mỹ. Ðeo
dây chuyền nách (xà nách) bằng vàng, đeo
nhiều chuỗi hột vàng ở cổ.
Trang phục của chú rể ở cả ba miền đều giống nhau, thường thì mặc áo thụng
bằng gấm hay the màu lam, quần trắng ống sớ, búi tóc, chít khăn nhiều màu lam.
Chân đi văn hài thêu đẹp... Từ năm 1954, ở nước ta nhiều nghi thức, trang phục lễ
cưới được lược bỏ. Ở thành thị, cô dâu mặc áo dài màu trắng hoặc các màu sáng,
nhạt, mặc quần trắng, đi giày cao gót, tay ôm hoa lay ơn, tóc phi dê hoặc chải
bồng, cặp tóc. Trang điểm má hồng, môi son. Chú rể mặc com lê, thắt cravat, đi
giày. Còn ở nông thôn, cô dâu thưòng mặc áo sơ mi trắng hoặc áo cánh trắng hay
áo bà ba, quần đen, đi dép mới. Chú rể mặc áo sơ mi mới, quần Âu, đi giày, xăng
đan hoặc dép nhựa. Bộ đội vẫn có thể mặc bộ quân phục, cán bộ thì mặc quần áo
đại cán mới, tóc chải gọn gàng.
2. QUAN NIỆM VỀ HÔN NHÂN
VÀ NHỮNG NGHI LỄ TRONG XÃ
HỘI HIỆN ĐẠI NGÀY NAY
Ngày nay, hôn nhân không chỉ đơn thuần là quy chế xã hội, trước tiên nó
được luật định trong Luật hôn nhân và gia đình. Lễ cưới ngày nay thường được tổ
chức sau khi đã được chính quyền cấp giấy chứng nhận kết hôn
Nếu như hôn nhân trước đây thường quan tâm đến vấn đề “môn đăng hộ đối”
thì ngày nay địa vị xã hội không phải là yếu tố quan trọng để tiến tới hôn nhân,
điều quan trọng hơn cả đó là tình yêu, sự chia sẻ và thấu hiểu dành cho nhau. Họ
yêu nhau vượt qua mọi rào cản: tuổi tác, hoàn cảnh hay cấm cản của gia đình… họ
có thể vì nhau mà làm mọi việc. Tình yêu sẽ dẫn đến hôn nhân, hôn nhân sẽ góp
phần tạo nên một gia đình hạnh phúc. Hôn nhân xã hội hiện nay còn khác ngày xưa
ở một điểm đó là nam nữ bình đẳng, được bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ trước pháp luật.
Trước ảnh hưởng của lối sống hiện đại, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội,
hôn nhân hiện đại ngày nay có những đổi mới. Một số tục lệ trong đám cưới xưa
đã được lược bớt để phù hợp với đời sống hiện đại.
Hiện nay chỉ còn giữ lại 5 lễ chính là
dạm ngõ, ăn hỏi, xin dâu, đón dâu, lại mặt. Đa
phần cô dâu và chú rể ngày nay thường đến
một số địa điểm đẹp ngoài trời để chụp ảnh
làm kỷ niệm, tùy theo điều kiện gia đình.
Chuẩn bị vật phẩm hôn lễ, quà cưới, phòng
cưới, tiệc cưới, quần áo, xe hoa...Phải chọn
một người trung gian, đóng vai trò bắc cầu
cho hai bên gia đình. Đó thường là người
đứng tuổi, có uy tín, có kinh nghiệm trong ăn
nói. Lễ cưới sẽ được tổ chức tại nhà của cô
dâu, chú rể hoặc tại các nhà hàng. Nếu tổ
chức tại nhà hàng, cô dâu chú rể sẽ có các nghi lễ như rót rượu mời bố mẹ, cắt
bánh cưới, trao nhẫn và mời khách dùng tiệc.
Tuy vậy, dẫu cuộc sống có nhiều thay đổi, tâm hồn con người Việt Nam, tính
cách con người Việt Nam thể hiện trên nhiều mặt, trong đó có phần trang phục
không thể tách rời môi trường, cảnh trí, thiên nhiên Việt Nam. Trang phục lễ cưới,
dù ở nông thôn hay thành thị, dù có sự biến đổi tất yếu, vẫn cần góp phần tạo nên
một bức tranh đời sống văn hóa thật độc đáo của con người Việt Nam. Cần nối tiếp
và phát huy cái đẹp từ ngàn xưa để lại, mỗi lần trong đời người nhớ tới hình ảnh ấy
củng cố thêm cho mình lòng yêu quê hương, đất nước, lòng quyết tâm bảo vệ hạnh
phúc gia đình và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Trang phục lễ cưới của người Việt cho đến nay đã trải qua nhiều giai đoạn.
Những nét tiến bộ trên cơ sở truyền thống dân tộc được nhân dân phát huy làm
phong phú thêm cho trang phục ngày cưới. Những mốt "hiện đại" theo sự biến
động của trào lưu trang phục nước ngoài xa lạ với thẩm mỹ của nhân dân, không
phù hợp với tầm vóc cơ thể của người phụ nữ Việt Nam đã dần bị loại trừ như thứ
váy năm, bảy tầng, kiểu tóc và những hình thức "trang điểm" diêm dúa, lạc lõng,
lai căn, đua đòi, thiếu sự hài hòa thẩm mỹ, nó không làm đẹp mà đi ngược lại điều
mong muốn của các cô dâu và mọi người.
Trong hoàn cảnh đất nước ta hiện nay,
trang phục lễ cưới nói chung của cô dâu chú rể
nói riêng cũng cần tùy thuộc vào khả năng kinh
tế của từng gia đình, dựa theo phong tục tập
quán ở từng địa phương mà định liệu. Ở thành
thị (hoặc ở nông thôn, nếu có điều kiện), cô dâu
mặc áo dài trắng hoặc áo dài màu sáng, nhạt.
Hoặc hiện đại hơn, một bộ váy cưới đuôi dài
của cô dâu thường được đi cùng với một bộ vest
trắng cho chú rể với áo sơ mi trắng kèm một
chiếc cravat hoặc nơ cổ. Nhìn chung, lễ nghi và
trang phục vừa cần phải thể hiện được bản sắc
dân tộc, vừa cần phải hiện đại để theo nhịp bước của thời cuộc.
Có thể nói, quan niệm về tầm quan
trọng của lễ cưới trong xã hội hiện đại vẫn
được bảo tồn và gìn giữ. Nhưng hiện nay,
đôi uyên ương đã có nhiều quyền quyết định
hạnh phúc của mình hơn, họ có quyền tìm
hiểu và quyết định đến với nhau bằng đám
cưới. Ngày nay. Ngoài việc tổ chức lễ cưới,
đôi uyên ương cũng cần đăng ký kết hôn và
đây là điều không thể thiếu, đảm bảo cho
cuộc sống vợ chồng được pháp luật bảo vệ.
Tuy nhiên, trong tâm thức và văn hóa dân
tộc, lễ cưới chứ không phải tờ hôn thú, mới
là thời điểm để họ hàng, bè bạn và mọi
người chính thức công nhận đôi trai gái là vợ chồng. Đám cưới hiện đại của người
Việt Nam đã có nhiều thay đổi song vẫn giữ nhiều nét văn hóa truyền thống.
3. BÀN VỀ XU HƯỚNG GIÀ HÓA TRONG KẾT HÔN VÀ SỐNG THỬ
CỦA GIỚI TRẺ HIỆN NAY

Đất nước ta đang bước những bước dài trên chặng đường đổi mới, hội
nhập quốc tế về mọi mặt, đồng nghĩa với việc chấp thuận hội nhập về văn hóa và
lối sống ở một mức độ nhất định, giới trẻ hiện có cách nghĩ và lối sống hiện đại
hơn, quan niệm về giới tính “thoáng” hơn so với trước đây. Chính vì thế, xu
hướng “tình dục thoáng” đang là một thực tế đã được báo động trước mà chúng ta
không thể nào tránh được. Biểu hiện xu thế đó chính là vấn đề già hóa trong kết
hôn và sống thử trước hôn nhân của giới trẻ hiện nay.
3.1. Vấn đề già hóa trong kết hôn
Việt Nam là một nước nông nghiệp ở phương Đông, hôn nhân và gia đình từ
xưa đến nay vẫn có một ý nghĩa hết sức hệ trọng. Tuổi quy định của nhà nước Việt
Nam hiện nay (ghi rõ trong Luật Hôn nhân và Gia đình) nam từ đủ 20 tuổi, nữ từ
đủ 18 tuổi được phép đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, những số liệu thống kê của Tổng
cục Cục thống kê lại cho thấy tuổi kết hôn trung bình lần đầu của cả nam và nữ ở
nước ta trong những năm gần đây có xu hướng tăng.
Bảng 1. Tuổi trung bình kết hôn lần đầu (đvt: tuổi) Cả nước Thành thị Nông thôn Năm Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ 1989 24,5 23,2 ... ... ... ... 1999 25,4 22,8 27,5 24,4 24,5 22,1 2009 26,2 22,8 27,7 24,4 25,6 22,0 2018 27,2 23,4 27,8 24,6 26,0 21,9
Nếu như năm 1989, tuổi kết hôn trung bình lần đầu của nam là 24.5 và nữ là
23.2 thì đến năm 2018, tuổi kết hôn trung bình lần đầu đã tăng lên đáng kể, của
nam là 27.2 (ở nông thôn là 26.0 tuổi còn ở thành thị là 27.8 tuổi) và ở nữ là 23.4
(trong đó, ở thành thị là 24,6 tuổi và nông thôn là 21.9 tuổi). Thành thị nơi có tuổi
lập gia đình trễ hơn so với khu vực nông thôn, bởi điều kiện kinh tế khá giả hơn, đời
sống tinh thần phong phú hơn, cho nên giới trẻ trước tiên quan tâm nhiều hơn đến
việc hưởng thụ và trải nghiệm cuộc sống hơn là lập gia đình. Điều này phản ánh xu
hướng kết hôn muộn nhìn chung đang diễn ra ở Việt Nam, đặc biệt là ở các đô thị.
Suy nghĩ ngại kết hôn sớm ngày càng phổ biến trong giới trẻ ở nước ta hiện
nay, trước tiên nó bị tác động một phần không nhỏ bởi một trào lưu sống độc thân
tạm thời. Nét nổi bật của một xã hội khi chuyển sang thời hiện đại là xu hướng giải
phóng cá nhân, khởi sự từ các tầng lớp trung lưu. Lúc này, con người muốn thoát ra
khỏi những ràng buộc của các mối quan hệ cổ truyền (đồng tộc, đồng hương...) để
xác lập cái tôi như là một cá nhân tự chủ, tự lập. Ý thức đề cao giá trị gia đình dần dà
giảm bớt, tuy không bao giờ mất hẳn, để nhường chỗ cho ý thức coi trọng giá trị tự
do cá nhân. Giới trẻ hiện nay bắt đầu có xu hướng coi việc kết hôn sớm là bước sớm
vào cảnh “chim lồng cá chậu”. Lối sống độc thân tạm thời hay còn gọi là kết hôn
muộn đang trở thành “mốt sống” của thanh niên các nước phát triển.
Với sự mở cửa vào giao lưu rộng rãi trên trường quốc tế, tuổi trẻ Việt Nam
đã và đang tạo cho mình những cách sống riêng. Trong đó, những đối tượng được
tiếp xúc hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp (báo chí, truyền hình) có xu hướng kết hôn
muộn. Chúng ta có thể thấy rõ sự ảnh hưởng của "mốt sống” của thanh niên trên
thế giới đến cuộc sống thanh niên Việt Nam
Kết hôn muộn không phải là "mốt sống” mà là một xu hướng tất yếu khi mà
con người cá thể ngày càng độc lập với nhau hơn. Tốc độ sống nhanh hơn rất nhiều
cùng hàng trăm mối quan tâm phát sinh trong một xã hội hiện đại làm giảm sự gắn
kết và ước muốn gắn kết giữa các thành viên trong xã hội. Thế giới toàn cầu hoá,
Việt Nam đang mở cửa, những người trẻ hiển nhiên chịu tác động rất lớn từ
khuynh hướng chung này . Cuộc sống phát triển kéo theo nhiều vấn đề đáng để
quan tâm hơn chuyện hôn nhân. Khi cảm thấy cuộc sống độc thân sẽ đem đến
nhiều lợi nhuận hơn trong việc phát triển sự nghiệp, họ sẽ kết hôn muộn. Giới trẻ
Việt Nam không phải là ngoại lệ, khi điều này là xu hướng chung. Việc này hoàn toàn hợp lẽ tự nhiên
Phần lớn những người bênh vực cho chuyện độc thân đều có học vấn tương
đối cao, nghề nghiệp ổn định, đủ tự lập về tài chính. Một trong những biểu hiện của
xu hướng khẳng định tính cá nhân là hiện tượng lấy vợ lấy chồng ngày càng trễ hơn.
Bây giờ không còn là thời “lấy chồng từ thuở mười ba, đến năm mười tám thiếp đà năm con”.
Bản thân tôi nghĩ rằng con người, theo bản chất luôn luôn muốn tìm kiếm
tình bạn, sự chấp nhận và tình yêu thương từ người khác, và với những người trẻ,
nhu cầu này càng trở nên vô cùng quan trọng. Họ là những người luôn có nhu cầu
được công nhận, được người khác thừa nhận những thành quả mà mình đạt được,
được xã hội thừa nhận và đánh giá cao.
Tìm hiểu mối liên hệ giữa nhu cầu về tình yêu thương với nhu cầu sống độc
thân tạm thời ở giới trẻ hiện nay sẽ góp phần làm rõ nhu cầu sống độc thân của họ
không phải là nhu cầu có tính chất lâu dài vĩnh viễn, mà chỉ mang tính tạm thời -
việc họ chưa kết hôn hoặc kết hôn muộn so với chuẩn chung của xã hội trước đây
không có nghĩa là họ sẽ không kết hôn. Bản thân những người này không những có
nhu cầu kết hôn mà còn mong muốn có được một cuộc hôn nhân hoàn hảo hơn,
hạn chế tối đa những sai lầm có thể có trong hôn nhân. Mặt khác, trong chuyện
tình yêu những người trưởng thành thường rất coi trọng tình cảm. Họ suy nghĩ chín
chắn hơn, Rõ ràng, hôn nhân không thể là sự ép buộc, mà phải là xuất phát từ tình
yêu. “Tình yêu phải xuất phát từ những rung cảm thực sự của hai người”. Rõ ràng
là những người có xu hướng kết hôn muộn không có nghĩa là họ không muốn tìm
kiếm bạn đời, tìm kiếm tình thương yêu, tìm kiếm sự chấp nhận từ người khác như
nhiều người nhầm tưởng. Ngược lại, nhu cầu này ở những người trẻ còn được đặt
ra ở một cấp độ cao hơn, sâu sắc hơn. Điều này, có đôi chút mâu thẫn đối với quan
niệm hôn nhân truyền thống “trai lớn lấy vợ, gái lớn lấy chồng”. Việc định nghĩa
như thế nào là “lớn” để đến với cuộc sống hôn nhân của mỗi người khác nhau. Tuy
nhiên quan điểm cá nhân của tôi cho rằng, khi tình yêu đủ “lớn”, để người ta cảm
nhận cần thiết phải đến với nhau, khi con người đủ trưởng thành để có thể đảm
đương với tất cả những sóng gió trong đời sống cá nhân và gia đình, thì cuộc sống
hôn nhân sẽ trọn vẹn hơn.
3.2. Quan niệm về sống thử.
Khác với xã hội ngày xưa , ngày nay việc sống thử xảy ra ở khắp nơi trên
thế giới . Trước khi tiến đến con đường hôn nhân lâu dài, họ muốn trải nghiệm
cuộc sống hôn nhân cũng như quyết định của chung bản thân họ. Ngày nay , giới
trẻ đã phá vỡ những “quy luật bất thành văn” trong quá khứ để xây dựng một khía cạnh mới trong hôn nhân.
“Sống thử” là việc hai người khác giới chung sống với nhau như vợ chồng
trước hôn nhân mà không có sự ràng buộc về mặt pháp lý.
Nhu cầu sống thử xuất phát từ nhu cầu thỏa mãn sinh lí hay xuất phát từ “ sự
tò mò” và thiếu hiểu biết của các đôi bạn trẻ hiện nay. Đây là một vấn đề được dư
luận hết sức quan tâm và lên án một cách mạnh mẽ nhưng nó không phải là hành vi
vi phạm pháp luật vì thực sự trong pháp luật của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam hiện nay không có một chế tài nào hay những quy đinh nào mang
tính cấm đoán việc sống thử. Bởi vậy mà pháp luật không thể đứng ra can thiệp
hiện tượng này và đối với pháp luật Việt Nam nó được coi là hợp pháp và người
tham gia sống thử không bị pháp luật xử lý. Xét về mặt đạo đức, “sống thử” là
không thể chấp nhận được, đó bị coi là hành động tiêu cực và bị dư luận phê phán
thông qua nhiều hình thức thể hiện khác nhau, ví dụ như qua các phương tiện
thông tin đại chúng. Nó xuất phát trên tinh thần tự nguyện của cả hai người và
không mang tính chất ép buộc . 60% 50% 40% 30% Nam giới N ữ giới 20% 10% 0% 14 - 17 tu i ổ 22 - 25 tu i ổ
Bảng thống kê tỷ lệ sống thử (có quan hệ tình dục)
trước hôn nhân ở hai nhóm tuổi vào năm 2016
"sống chung - sống thử" đang trở thành phổ biến trong giới trẻ ở Việt Nam và
hiện tượng này là một trong những thực trạng của xã hội, nó đang có nguy cơ lan
rộng như một “dịch bệnh”. Đối tượng được nói đến phổ biến lại rơi chủ yếu vào
lứa tuổi từ 14 đến 25 tuổi (nhất là từ 22 đến 25 tuổi). Họ là những sinh viên đang
ngồi trên các giảng đường đại học, những công nhân, người lao động trẻ vừa rời
ghế trường phổ thông… lý do họ sống với nhau có thể vì xa nhà, thiếu thốn tình
cảm, thiếu vật chất, hoặc có thể vì đua đòi và đi theo những điều sai lệch được tự
do quảng bá dưới mọi hình thức trong đời sống xã hội: phim, ảnh, internet…
Sống thử để lại những hậu quả rất nghiêm trọng có thể dẫn đến việc mang thai
ngoài ý muốn. Hiện tượng nạo phá thai không chỉ phát triển ở các cặp vợ chồng trẻ
không muốn sinh con theo ý muốn mà ở nhiều nữ thanh niên – kể cả khi còn là vị
thành niên- chưa có gia đình. Theo thống kê của bộ y tế thì trong số các ca nạo phá
thai ở nước ta hiện nay thì 25% là phụ nữ chưa lập gia đình, 20% nữ vị thành niên
không thể sinh con mà hậu quả của những lần phá thai để lại; hiện tại họ không có
lựa chọn nào khác hơn là phá bỏ cái thai, nhẫn tâm trở nên “thú dữ” với chính
mầm sống đang từng ngày lớn lên trong bụng.
Quan điểm của cá nhân tôi cho rằng, sống thử không hoàn toàn tiêu cực
nhưng nó để lại hậu quả xấu và có ảnh hưởng rất lớn đến các thế hệ trẻ nhất là đối
với hôn nhân sau này. Nguyên nhân dẫn đến sống thử chủ yếu là do sự tò mò,
muốn khám phá, họ đến với nhau chủ yếu để thỏa mãn nhu cầu tình dục và sự thiếu
thốn tình cảm. Cùng với đó những ảnh hưởng của suy nghĩ và lối sống “ Tây hóa ”
hiện đang trong giai đoạn chuyển mình và phát triển. Phụ nữ ngày nay có điều kiện
học tập và làm việc thể hiện bản lĩnh của bản thân không kém phái nam. Từ đó một
bộ phận phái nữ đã không còn quan trọng vấn đề trinh tiết cũng như những hậu quả của nó.
Hệ lụy của việc sống thử thì không phải tranh cãi, đương nhiên ai cũng biết
rõ là phần thiệt thòi luôn thuộc về con gái, vấn đề trinh tiết rồi định kiến xã hội
trong bối cảnh xã hội Việt Nam tuy cởi mở, nhưng vẫn coi trọng truyền thống.
Nhưng quan trọng hơn là ở chỗ, việc sống thử để kiểm định tiến tới hôn
nhân là một vấn đề nhìn nhận có phần thiếu chín chắn trong quan niệm của giới trẻ
hiện nay. Hôn nhân không chỉ đơn thuần là “hai mảnh giấy ghép cuộc đời ta lại”
mà ở đó là trách nhiệm, là tình yêu, là cả sự bao dung và là tất cả mọi điều để có
được một “gia đình” nguyên nghĩa. Hôn nhân trong xã hội hiện đại hiện nay luôn
đòi hỏi sự thích nghi từ hai phía. Có một T ỷ l ệ đưa đ n ơ ly hôn ở xã h i ộ hi n ệ nay điều đặc biệt, trong quan hệ 25.00%
Sốố đăng ký kếốt hốn Sốố đơn ly dị hôn nhân trước 75.00%
kia thì việc kết hôn vẫn chưa được luật pháp bảo vệ nên việc ly hôn hay kết hôn
hầu như không được kiểm soát , tuy nhiên có thể thấy tỉ lệ này hầu như sẽ rất ít,
bởi lẽ một phần xuất phát từ quan niệm truyền thống.Tuy nhiên ngày nay với sự
phát triển mạnh mẻ của xã hội thì tỷ lệ ly hôn ngày một tăng.
Trong chúng ta ai cũng muốn có một (hoặc một vài, hoặc nhiều) người yêu
mình đến mãnh liệt, đời đời chung thủy một lòng, dù cho sông có thể cạn, núi có
thể mòn, nhưng tình cảm ấy không bao giờ thay đổi. Người ta luôn ngưỡng mộ
những cặp đôi có thể yêu nhau cả chục năm trước khi kết hôn, và họ cũng luôn tự
đặt ra câu hỏi rằng tại sao giới trẻ ngày nay yêu nhiều, yêu không thật lòng, tại sao
càng phát triển thì tỉ lệ ly hôn càng cao.
Theo tôi, nó xuất phát từ quan niệm “thoáng”, nhưng không “khoa học” của
giới trẻ về tình yêu hiện nay, phần nào liên quan đến việc “sống thử”. Cá nhân tôi
cho rằng, sống thử cũng có nhiều mặt lợi, tuy nhiên nếu ta không xét đến vấn đề
truyền thống, quan niệm xã hội, thì với vấn đề tâm, sinh lý, dường như việc đã
“sống thử” phần nào tác động đến cuộc hôn nhân nhạt đi. Mặt khác, những người
càng quỵ lụy trong tình yêu thì càng đau khổ. Nhìn thẳng vào thực tế và đối diện
với nó mới là sự lựa chọn khôn ngoan. "Chọn con tim hay là nghe lý trí?" Thật ra
trong tình yêu, lý trí và con tim đều quan trọng như nhau. Lắng nghe và đi theo
tiếng gọi của con tim để tìm kiếm sự thăng hoa trong cảm xúc. Tỉnh táo và lý trí để
không mù quáng sống chết vì một người, cân bằng các yếu tố của cuộc sống. Và
hơn hết với mỗi người trẻ tuổi, nếu không coi trọng cuộc sống hôn nhân, thì sẽ
không bao giờ có một cuộc hôn nhân viên mãn. III/ Kết luận
Thế hệ trẻ - chủ nhân tương lai của đất nước, để có thể có một gia đình hạnh
phúc, chúng ta phải bắt đầu xây nền móng từ một cuộc hôn nhân khôn ngoan và
trọn vẹn. Nó là sự kết hợp của tình yêu, lý trí và sự đồng cảm...Để xây dựng một
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thì trước tiên cần phải có
những con người trân trọng truyền thống và bắt nhịp cùng với sự phát triển của
thời đại. Trước tiên, chúng ta hãy nhìn nhận một cách đúng đắn và hãy nói không
với sống thử để có thể tránh được những hệ lụy của nó và xây nền móng vững chắc
cho một cuộc hôn nhân nguyên nghĩa.
Tự khẳng định mình, xây dựng cho mình một tình yêu chân chính và có
quan điểm nghiêm túc trong đời sống tình dục, Tất cả những điều này đều phục vụ
cho mục đích cuối cùng là chuẩn bị các điều kiện tốt nhất cho một cuộc hôn nhân
hạnh phúc, hạn chế tối đa những rủi ro trong hôn nhân. Giới trẻ hiện nay nhận thức
rất tốt những “cái được” và “cái mất” của việc kết hôn muôn. Không lý tưởng hoá
cuộc sống gia đình nhưng cũng không hoàn toàn đề cao việc sống độc thân tạm
thời hiện tại. Việc đánh giá đúng đắn hai mặt của một vấn đề và quan tâm một cách
nghiêm túc đến cuộc sống hiện tại, để sống có ích, có trách nhiệm và gánh vác
những trọng trách to lớn, tương lai dân tộc giao phó cho thế hệ trẻ chúng ta
Hôn nhân là việc cả đời của mỗi con người và cũng là câu chuyện muôn đời
của xã hội nhưng cách thực hiện mỗi thời một khác. Sự tôn nghiêm và thiêng liêng
của các nghi lễ cưới hỏi truyền thống và những kế thừa và phát huy của thời nay
tuy có một số phần mai một. Nhưng qua đó thấy được dân tộc ta là một dân tộc
giàu văn hoá truyền thống lâu đời. Qua đề tài này tôi hi vọng rằng chúng ta hiểu
được những nghi thức diễn ra để có được một hôn nhân hoàn chỉnh trong truyền
thống và trong xã hội hiện đại. Ngoài ra còn thấy được sự biến đổi của hôn nhân
hiện đại so với hôn nhân truyền thống. Từ đó có định hướng trong việc tạo dựng
nếp sống lành mạnh trong việc cưới hỏi để góp phần xây dựng xã hội văn minh,
gia đình văn hóa, tiến tới xây dựng một nền văn hóa tiên tiến mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Viêt. TÀI LIỆU THAM KHẢO
Cục thống kê Việt Nam. Điều tra biến động dân số và KHHGĐ 1/4/2019:
Những kết quả chủ yếu.
Lê Thi. Phụ nữ độc thân ở Việt Nam. NXB KHXH, Hà Nội 2004, trang 23
“Hôn sự xưa và nay”. Tác giả Đức Quang; NXB Văn hoá văn nghệ Tp.HCM
“ Đám cưới xưa và nay” Vũ Thanh Việt; NXB Văn hoá thông tin http://www.ubmvgiadinh.org www.tuoitre.com
http://dantri.com.vn/tinh-yeu-gioi-tinh/hon-nhan-xua-va-nay-1165969896.htm
http://afamily.vn/chum-anh-khac-biet-nhin-tan-mat-ve-dam-cuoi-xua-va-nay- 20160914052841526.chn
http://www.marry.vn/ke-hoach-cuoi/nghi-le-cuoi-truyen-thong-gom-co- nhung-gi
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%85_c%C6%B0%E1%BB%9Bi_ng
%C6%B0%E1%BB%9Di_Vi%E1%BB%87t
https://plo.vn/xa-hoi/bao-dong-ket-hon-muon-va-khong-muon-sinh-con- 859720.html
Document Outline

  • I/ Phần mở đầu
  • II/ Phần nội dung
    • 1. QUAN NIỆM VỀ HÔN NHÂN TRUYỀN THỐNG VÀ NHỮNG NGHI LỄ
      • 1.1. Khái niệm về hôn nhân
      • 1.2. Quan niệm về hôn nhân truyền thống
      • 1.3. Những nghi lễ trong hôn nhân truyền thống
      • 1.4. Trang phục
    • 2. QUAN NIỆM VỀ HÔN NHÂN VÀ NHỮNG NGHI LỄ TRONG XÃ HỘI HIỆN ĐẠI NGÀY NAY
    • 3. BÀN VỀ XU HƯỚNG GIÀ HÓA TRONG KẾT HÔN VÀ SỐNG THỬ CỦA GIỚI TRẺ HIỆN NAY
      • 3.1. Vấn đề già hóa trong kết hôn
      • 3.2. Quan niệm về sống thử.
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO