Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam | Chủ nghĩa xã hội khoa học | Đại học Huế

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Trường Đại học Huế. Hi vọng tài liệu này sẽ giúp các bạn học tốt, ôn tập hiệu quả, đạt kết quả cao trong các bài thi, bài kiểm tra sắp tới. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết bài viết dưới đây nhé.

Trường:

Đại học Huế 272 tài liệu

Thông tin:
8 trang 4 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam | Chủ nghĩa xã hội khoa học | Đại học Huế

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Trường Đại học Huế. Hi vọng tài liệu này sẽ giúp các bạn học tốt, ôn tập hiệu quả, đạt kết quả cao trong các bài thi, bài kiểm tra sắp tới. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết bài viết dưới đây nhé.

54 27 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD|40651217
lOMoARcPSD|40651217
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Thấm nhuần những tưởng căn bản của các nhà kinh điển về thời kỳ quá độ Đảng ta
khẳng định, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa ởnước ta ". . .là một quá trình cách mạng
sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về
chất trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá
độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen"
(11)
.
Chỉ với một đoạn văn ngắn, trên sở luận của chủ nghĩa Mác - Lênin những
thành tựu về lý luận cũng như thực tiễn có được trong quá trình lãnh đạo xây dựng chủ
nghĩa hội nước ta mấy chục m qua, nhất trong 25 năm đổi mới, Đảng ta đã
đưa ra sự khái quát về thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
Theo sự khái quát của Đảng, thời kỳ quá độ đó một quá trình cách mạng sâu sắc,
triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cái mới. thể hiểu cái đây không chỉ
những tàn của hội tiền bản hội ta mới thoát ra mấy chục năm qua,
cái đây còn những yếu tố bản chủ nghĩa đang sẽ hiện diện trong đời
sống kinh tế - hội. Những nhân tố này thể mới so với thực trạng hội ta
(chẳng hạn như sở hữu nhân, kinh tế thị trường...) nhưng lại so với những nhân
tố hội chủ nghĩa chúng ta đang xây dựng; Đó để tạo ra sự biến đổi về chất
trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống hội. Sự biến đổi về chất nghĩa sự biến đổi
mang tính chất bản chất, căn bản, toàn diện khác với sự biến đổi về lượng, sự biến đổi
của từng bộ phận. Nghĩa là trong thời kỳ quá độ, ở nước ta sẽ diễn ra sự biến đổi mang
tính chất bản chất, căn bản toàn diện tất cả mọi lĩnh vực của đời sống hội; và,
quá trình đó phải diễn ra lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh
tế, xã hội đan xen: Đó là do xuất phát điểm của nước ta thấp và xã hội ta cũng chưa trải
qua sự phát triển của chủ nghĩa tư bản vì vậy, thời kỳ quá độ phải diễn ra lâu dài là một
tất yếu lịch sử. Đồng thời, với sự lâu dài đó, thời kỳ quá độ phải trải qua nhiều bước
phát triển khác nhau với nhiều hình thức tổ chức kinh tế, hội cùng phát triển hội
nhập, đan xen nhau. thể khẳng định, khi bước o thời kỳ quá độ, chúng ta gặp rất
nhiều khó khăn. Đó do, đất nước ta mới trải qua hai cuộc chiến tranh nên mọi lĩnh
vực của đời sống hội đều bị tàn phá, chưa kinh qua thời kỳ phát triển bản chủ
nghĩa nên hầu như chưa những tiền đề thực tiễn bản cho sự ra đời của chủ
nghĩa hội, hệ thống chủ nghĩa hội thế giới tan phong trào hội chủ nghĩa
công nhân quốc tế đang thời kỳ thoái trào. Bên cạnh đó, "các thế lực thù địch tiếp
tục chống phá, tìm cách xóa bỏ chủ nghĩa xã hội". Trong bối cảnh khó khăn đó, Đảng ta
vẫn lạc quan khẳng định, "Chúng ta nhiều thuận lợi bản: sự lãnh đạo đúng
đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập rèn luyện,
bản lĩnh chính trị vững vàng và dày dặn kinh nghiệm lãnh đạo; dân tộc ta là một dân tộc
anh hùng; nhân dân ta lòng yêu nước nồng nàn, truyền thống đoàn kết nhân
ái, cần lao động sáng tạo, luôn ủng hộ tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng;
chúng ta đã từng bước xây dựng được những sở vật chất - kỹ thuật rất quan trọng;
cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, sự hình thành phát triển của kinh
lOMoARcPSD|40651217
tế tri thức cùng với quá trình toàn cầu hóa hội nhập quốc tế là một thời để phát
triển”
(12)
.
Trong bối cảnh những thuận lợi khó khăn hiện nay, Đảng ta chỉ mục tiêu tổng
quát khi kết thúc thời kỳ quá độ nước ta là, chúng ta xây dựng được về bản nền
tảng kinh tế của chủ nghĩa hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tưởng, văn
hóa phù hợp tạo sở để nước ta trở thành một nước hội chủ nghĩa ngày càng
phồn vinh, hạnh phúc. Cụ thể hơn, Đảng ta chỉ rõ, đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở
thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng hội chủ nghĩa. Đây quả
những nhiệm vụ nặng nề bởi trước hết "xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của
chủ nghĩa hội" nghĩa nền kinh tế của chúng ta phải liên tục phát triển vượt bậc để
đến khi kết thúc thời kỳ quá độ chúng ta đạt được nền kinh tế phát triển rất cao đủ
sở hiện thực để đưa hội ta bước vào thời kỳ phát triển hội hội chủ nghĩa; thứ
hai, phải xây dựng được kiến trúc thượng tầng về chính trị, tưởng, văn hóa phù hợp
với hạ tầng sở phát triển cao như thế. Đây quả vấn đề không đơn giản như các
nhà kinh điển đã chỉ ra. Bởi vì, thời kỳ quá độ là thời kỳ diễn ra những cuộc biến đổi hết
sức sâu sắc căn bản, diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt giữa cái cái mới,
giữa chủ nghĩa bản chủ nghĩa hội, giữa giai cấp sản, những thế lực phản
động giai cấp công nhân, nhân dân lao động. Nghĩa là, đó chúng ta không chỉ
xây dựng mà cơ bản hơn là phải đấu tranh quyết liệt để giữ chính quyền, bảo vệ chế độ
xây dựng những "cơ sở để nước ta trở thành một nước hội chủ nghĩa ngày càng
phồn vinh, hạnh phúc".
Nhận thức đúng những thời thách thức đang đặt ra để thực hiện được mục tiêu
tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ, Đảng ta chỉ chúng ta phải quán triệt thực
hiện tốt các phương hướng, nhiệm vụ bản: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường;
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân,
thực hiện tiến bộ công băng hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng an ninh
quốc gia, trật tự an toàn hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, dân chủ, hòa
bình, hữu nghị, hợp tác phát triển; chủ động tích cực hội nhập quốc tế; Xây dựng
nền dân chủ hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường mở
rộng mặt trận dân tộc thống nhất; Xây dựng nhà nước pháp quyền hội ch nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Đặc biệt, trong Đại hội XI, vấn đề hình phát triển hội - hình chủ nghĩa hội
Việt Nam đã được Đảng ta trình bày một cách vừa cụ thể vừa hết sức sâu sắc, toàn
diện. Đảng ta khẳng định, "Xã hội hội chủ nghĩa nhân dân ta xây dựng một
hội: Dân giàu, nước mạnh dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền
kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại quan hệ sản xuất tiến bộ
phù hợp; nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng
Việt Nam bình đẳng đoàn kết, tôn trọng giúp nhau cùng phát triển; Nhà nước
pháp quyền hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, nhân dân do Đảng Cộng
sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”
(13)
.
lOMoARcPSD|40651217
Đây hình chủ nghĩa hội đặc thù Việt Nam mang tính định hướng trong suốt
thời kỳ quá độ. Sở nói định hướng vì, như đã nêu trên, thời kỳ quá độ một giai
đoạn phát triển mang tinh độc lập nằm trong giai đoạn chuyên đổi từ chủ nghĩa
bản lên chủ nghĩa hội. vậy, hội trong thời kỳ quá độ chưa phải hội hội
chủ nghĩa mà chỉ là xã hội quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Những đặc trưng củahội hội chủ nghĩa mà Đảng ta khái quát trên phản ánh thực
trạng xã hội ta hiện nay với tư cách là những bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ. Khác
với những nước bản phát triển, khi tiến lên chủ nghĩa hội, họ trực tiếp thực hiện
bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản, Việt Nam khi bước vào thời kỳ quá độ chúng ta chưa
trải qua sự phát triển của chủ nghĩa bản, nhiên, chúng ta đủ sở thực tiễn
khách quan chủ quan như Đảng ta đã chỉ rõ để thực hiện thành công sự quá độ tiến
lên chủ nghĩa xã hội.
Những đặc trưng của hình hội hội chủ nghĩa Việt Nam vừa mang tính chất
định hướng lâu dài vừa mang tính chất những nhiệm vụ cụ thể cần đạt tới trong từng
bước đi, từng giai đoạn, từng thời kỳ của cả thời kỳ quá độ. Điều này mang ý nghĩa
phương pháp luận rất quan trọng không chỉ đối với thực tiễn mà cả lý luận. Về mặt thực
tiễn, mô hình chủ nghĩa xã hội không phải là một hệ chuẩn cố định, cứng nhắc, bất biến
một hệ thống giá trị phổ quát, sinh động luôn vận động biến đổi cùng với sự
vận động biến đổi của thực tiễn lịch sử. Về mặt luận, nhận thức một quá trình
do đó, chân cũng quá trình. Nhận thức về chủ nghĩa hội với cách nhận
thức về một thực thể đang hình thành, đang vận động phát triển càng một quá
trình phức tạp với nhiều bất ngờ, mới mẻ. Do đó, nhận thức hình chủ nghĩa
hội càng phải tuân thủ các phương pháp nhận thức biện chứng duy vật. Quan điểm của
Đảng ta về hình chủ nghĩa hội hội Việt Nam chính thành tựu to lớn về
duy luận của Đảng ta mấy chục năm lãnh đạo nhân dân ta xây dựng chủ nghĩa
hội, nhất hai mươi lăm năm đổi mới vừa qua. Nhưng thể khẳng định rằng, đó
hình tổng quát, trong thời kỳ quá độ, nhiều đặc trưng mới, cụ thể phù hợp hơn
với thực tiễn, với chủ nghĩa hội chủ nghĩa cộng sản chắc chắn sẽ được Đảng ta
tiếp tục bổ sung và hoàn thiện./.
Đảng ta xác định mục tiêu, nội dung và phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội của thời kỳ
quá độ ở nước ta trong công cuộc đổi mới
Về mục tiêu, từ Đại hội VI (năm 1986) đến nay, dù cách diễn đạt khác nhau, nhưng tựu chung Đảng
ta đều xác định rõ được mục tiêu xây dựng CNXH ở nước ta trong thời kỳ quá độ. Cụ thể là: Đại hội
VI xác định: Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu
tiên ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc
đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường tiếp theo. Đại hội VII (năm 1991) thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội, trong đó xác định: Mục
tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độxây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh
tế của CNXH, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho nước ta
trở thành một nước XHCN phồn vinh. Đại hội XI thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), xác định: Mục tiêu tổng quát khi
lOMoARcPSD|40651217
kết thúc thời kỳ quá độ nước ta xây dựng được về bản nền tảng kinh tế của CNXH với kiến
trúc thượng tầng về chính trị, tưởng, văn hóa phù hợp, tạosở để nước ta trở thành một nước
XHCN ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra
sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại.
Về nội dung, Đại hội VI của Đảng năm 1986 xác định nội dung với nhiệm vụ của những năm còn lại
của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ là: sản xuất đủ tiêu dùng có tích lũy; bước đầu tạo
ra một cấu kinh tế hợp nhằm phát triển sản xuất; xây dựng hoàn thiện một bước quan hệ
sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; tạo ra chuyển biến
tốt về mặt hội; bảo đảm nhu cầu quốc phòng an ninh. Đại hội VII (năm 1991), Đảng ta xác
định nội dung bản là: hội XHCN nhân dân ta xây dựng một hội: Do nhân dân lao
động làm chủ. một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại chế độ
công hữu về các liệu sản xuất chủ yếu. nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Con
người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động,
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, điều kiện phát triển toàn diện nhân. Các dân tộc trong
nước bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. quan hệ hữu nghị hợp tác với nhân
dân các nước trên thế giới.
Đến Đại hội XI của Đảng năm 2011, Đảng ta nêu nội dung xây dựng CNXH gọn hơn: hội
XHCN nhân dân ta xây dựng một xã hội: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng
Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; Nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân, dân do Đảng lãnh đạo; quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước
trên thế giới.
Về phương hướng, Đại hội VI (năm 1986) nêu tưởng chỉ đạo của kế hoạch các chính sách
kinh tế giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước
và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây
dựng củng c quan hệ sản xuất XHCN. Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh theo con
đường XHCN, điều quan trọng nhất phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế - hội kém phát
triển, chiến thắng những lực cản đối với công cuộc xây dựng CNXH. thế, Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Đảng ta xác định phương hướng cơ
bản xây dựng nhà nước XHCN, nhà nước của dân, do dân, dân; thực hiện đầy đủ quyền làm
chủ của nhân dân; phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại;
không ngừng nâng cao năng suất lao động hội cải thiện đời sống nhân dân; thiết lập từng
bước quan hệ sản xuất XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu; phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN; tiến hành cách mạng XHCN trên lĩnh
vực tưởng văn hóa; thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận
dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu sự nghiệp dân giàu nước mạnh; thực hiện
chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác hữu nghị với tất cả các nước; xây dựng CNXHbảo vệ
Tổ quốc hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam; nâng cao cảnh giác, củng cố quốc
phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng;
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tưởng tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo
đảm cho Đảng làm tròn nhiệm vụ lãnh đạo sự nghiệp cách mạng XHCN ở nước ta.
Những thành tựu đạt được trong 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991 ý nghĩa hết sức quan
trọng, góp phần thực hiện thành công chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, đưa đất nước thoát
khỏi tình trạng kém phát triển, sức mạnh quốc gia về mọi mặt được tăng cường, độc lập, tự chủ
chế độ XHCN được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao, tạo
tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ và bền vững hơn trong giai đoạn mới.
Tuy nhiên, quá độ lên CNXHnước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau diễn
biến phức tạp, không thể xem thường. Để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, Đại hội XI của
lOMoARcPSD|40651217
Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội (bổ
sung, phát triển năm 2011), trong đó xác định phương hướng bản là: Một , đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Hai , phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Ba , xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ công bằng hội.
Bốn , bảo đảm vững chắc quốc phòng an ninh quốc gia, trật tự, an toàn hội. Năm , thực
hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế. Sáu là, xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc,
tăng cường và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất. Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
ràng, mục tiêu, nội dung phương hướng của thời kỳ quá độ đi lên CNXH Việt Nam được
Đảng ta xác định ngày càng hơn khác về nguyên tắc với kiểu quá độ “trực tiếp” từ chủ nghĩa
bản lên CNXH, quá độ “gián tiếp” từ một hội thuộc địa, nửa phong kiến, bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa tiến lên CNXH. Đó là tính đặc thù của thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt
Nam.
3. Khái quát những bước chuyển căn bản trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam từ năm 1986 đến nay
Quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ bản chủ nghĩa Việt Nam một quá trình lịch slâu dài với
những bước đi và giải pháp phù hợp với điều kiện và trình độ của xã hội nước ta từ sản xuất nhỏ
phổ biến đi lên CNXH. Từ năm 1986 đến nay, quá độ đi lên CNXH nước ta những bước
chuyển căn bản, thể hiện rõ ở những vấn đề nổi bật sau đây:
Một , từ hình kinh tế hiện vật với stuyệt đối hóa sở hữu hội (nhà nước tập thể) với
sự phát triển vượt trước của quan hệ sản xuất đối với s phát triển của lực lượng sản xuất sang
thực hiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo
trong sự thống nhất biện chứng với tính đa dạng các hình thức sở hữu, phân phối, lấy phân phối
theo lao động làm đặc trưng chủ yếu, thúc đẩy sản xuất phát triển. Đây là bước chuyển căn bản
ý nghĩa sâu xa tôn trọng quy luật khách quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất
trình độ của lực lượng sản xuất; dựa vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất từng
bước thiết lập quan hệ sản xuất tương ứng. Nhờ đó, đã mở đường giải phóng sức sản xuất, giải
phóng mọi tiềm năng hội. Nhân tố quan trọng bậc nhất được thúc đẩy lợi ích, trong đó lợi ích
của người lao động được coi trọnglà động lực trực tiếp để thực hiện, phát triển lợi ích tập thể và
lợi ích xã hội. Bước chuyển này có ý nghĩa cách mạng, đã đặt đúng vị trí tầm quan trọng của cái
tất yếu kinh tế trong sự phát triển quá độ lên CNXH theo con đường phát triển “rút ngắn”, loại hình
quá độ “gián tiếp” mà quy luật của lịch sử đã đặt ra.
Hai là, từ quản lý nền kinh tế dựa trên mô hình kế hoạch hóa tập trung tuyệt đối với cơ chế bao cấp,
bình quân, cào bằng sang hình quản mới thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, có sự điều tiết ở tầm vĩ mô, thông qua quản lý, kiểm soát bằng pháp luật của Nhà nước. Nền
kinh tế vận hành trong cơ chế thị trường đã dẫn đến sự tác động, thâm nhập lẫn nhau giữa các
thành phần kinh tế, tạo thành sự đan xen các hình thức sở hữu, các phương thức quản phân
phối lợi ích phù hợp với quan hệ sản xuất, tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản
xuất thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Trong chế thị trường, các chủ thể sản xuất kinh doanh, vừa
chủ thể tiêu dùng sản phẩm hàng hóa được đặt vào những cơ hội như nhau để phát triển, được
thể hiện tài năng, được thử thách về trình độ, năng lực, phẩm chất sự sáng tạo trong hoạt
động kinh tế, sản xuất kinh doanh đòi hỏi chấp nhận cạnh tranh. chế thị trường có mặt trái của
cạnh tranh, dẫn đến schênh lệch thu nhập, bất bình đẳng phân hóa giàu nghèo. Vấn đề
đặt ra phải chính sách đúng đắn để hạn chế tác động tiêu cực từ mặt trái của chế thị
trường, hướng tới mục tiêu công bằng xã hội, theo định hướng XHCN.
Ba , đã tiến hành đổi mới hệ thống chính trị. Từ chế độ kế hoạch hóa tập trung, bao cấp và
phương thức quảnhành chính mệnh lệnh chuyển sang dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã
hội, thực hiện dân chủ gắn với tôn trọng pháp luật, kỷ cương hội, phát huy quyền làm chủ của
lOMoARcPSD|40651217
nhân dân. Nội dung cơ bản của đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta là thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân, xây dựng nền dân chủ XHCN. Ngay từ đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã chủ trương
giữ vững ổn định chính trị, coi đó tiền đề, điều kiện bản để thực hiện đổi mới toàn diện đất
nước. Đảng Nhà nước ta đã thực hiện nhiều biện pháp để xây dựng hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Thực hiện đổi mới hệ thống chính trị sau đổi mới kinh tế
đã tạo ra sổn định xã hội, đồng thời xác nhận tầm quan trọng của những nguyên tắc, biện pháp,
bước đi trong thời kỳ quá độ lên CNXH nước ta. Bước chuyển này góp phần quan trọng vào việc
tháo gỡ khó khăn, tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, hội, làm nảy sinh những nhân tố mới,
động lực mới cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn , phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo để tìm cách giải quyết phù hợp hiệu quả
những vấn đề do thực tiễn đặt ra trong thời kỳ quá độ lên CNXH, đó quan niệm về shình thành
và phát triển CNXHnước ta. CNXH với cách là một chế độ hội là giai đoạn đầu của hình
thái kinh tế - hội cộng sản chủ nghĩa. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ
tiến tới CNXH. Song, không một hình duy nhất, không mẫu hình duy nhất giống hệt nhau
được áp dụng tất cả các nước, đòi hỏi phải sáng tạo phù hợp với điều kiện cthể của từng
nước. Vấn đề đặt ra phải kết hợp dân tộc quốc tế, truyền thống với hiện đại, chủ nghĩa yêu
nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Đồng thời, phải vừa hợp tác, vừa
đấu tranh để bảo v những lợi ích chính đáng của quốc gia dân tộc. Tuy nhiên, để giữ vững định
hướng XHCN phải không ngừng sáng tạo, phải khắc phục ảnh hưởng của chủ nghĩa giáo điều, rập
khuôn, máy móc, sao chép hình của nước ngoài, đồng thời phải đấu tranh với âm mưu chống
phá của các thế lực thù địch.
Năm , khắc phục những hạn chế khiếm khuyết về hình xây dựng CNXH kiểu cũ liên
quan đến vấn đề con người trong thời kỳ quá độ, Đảng và Nhà nước ta đã làm sáng tỏ hơn
tưởng nhân đạo, khoa học cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, thừa nhận bảo vệ những
lợi ích chính đáng của người lao động một trong những động lực trực tiếp thúc đẩy sphát triển
kinh tế - hội, sở thực hiện lợi ích chung của tập thể của hội. Con người nguồn lực
của mọi nguồn lực, vừa động lực, vừa mục tiêu, nguồn nội sinh quan trọng của mọi chính
sách kinh tế - hội, của phát triển đất nước bền vững. Do đó, Đảng ta chủ trương đầu cho con
người đầu cho phát triển, đầu cho giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ đầu
theo chiều sâu, đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế.
Quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ bản chủ nghĩa nước ta đã được thực tiễn xây dựng và phát
triển đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng khẳng định là đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể của
Việt Nam. Những thành tựu đạt được trong hơn 35 năm đổi mới to lớn, ý nghĩa lịch sử. Đất
nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, sức mạnh v mọi mặt được tăng cường, độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của
Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ
hơn trong những thập niên tới, như Đại hội XIII của Đảng đã đề ra: “Đến năm 2025: nước đang
phát triển, công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm
2030: nước đang phát triển, công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045:
Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”
(12
Vận dụng phát triển luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện lịch sử cách mạng Việt
Nam, Đảng ta luôn khẳng định, theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định s tiến
lên chủ nghĩa xã hội và kiên định con đường đó. Tuy nhiên, xuất phát từ một nước thuộc địa nửa
phong kiến, Đảng ta đặt lên hàng đầu nhiệm vụ chống đế quốc để giải phóng dân tộc. Nhiệm vụ
chống phong kiến đem lại ruộng đất cho dân cày được tiến hành từng bước. Sau khi giành được
thắng lợi trong cách mạng dân tộc dân chủ, phải chuyển tiếp lên cách mạng hội chủ nghĩa, bỏ
lOMoARcPSD|40651217
qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa bản với thời kỳ quá độ lâu dài, khó khăn, nhiều chặng
đường. Các nước đang phát triển bản chủ nghĩa quá độ lên chủ nghĩa hội sẽ dễ dàng hơn,
thời gian ngắn hơn. Nhưng nước ta, xuất phát điểm quá độ lên chủ nghĩa hội không qua giai
đoạn phát triển của tư bản chủ nghĩa, chắc chắn sẽ lâu dài hơn, khó khăn hơn, phức tạp hơn và sẽ
trải qua nhiều chặng đường hơn.
Thời kỳ trước năm 2001, Đảng ta xác định quá độ lên chủ nghĩa hội, bỏ qua giai đoạn phát
triển của chủ nghĩa tư bản. Đến Đại hội IX của Đảng (năm 2001), Đảng ta có bước phát triển mới
về thời kỳ quá độ “bỏ qua chế độ bản chủ nghĩa”, tức bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của quan hệ sản xuất kiến trúc thượng tầng bản chủ nghĩa, nhưng kế thừa những thành tựu
đạt được dưới chế độ bản chủ nghĩa, đặc biệt những thành tựu về khoa học - công nghệ để
phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Trong chương IV, các tác giả đã chỉ ra một sđặc điểm bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, bỏ qua chế độ tư bản ở Việt Nam hiện nay, đó là:
- Từ nước nền sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa hội không qua chủ nghĩa bản, nhưng
khôngtheo chế kế hoạch hóa, tập trung bao cấp nữa chuyển sang chế thị trường sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Chịu sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ xu thế toàn cầu
hóa.Cộng đồng quốc tế đang đứng trước nhiều vấn đề tính toàn cầu, kinh tế tri thức vai
trò ngày càng nổi bật.
- Việt Nam vẫn bị các thế lực thù địch tiến hành bao vây, chống phá.
Với những đặc điểm nêu trên, nội dung chủ yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội, bỏ qua
chế độ tư bản Việt Nam hiện nay: Một , từng bước khắc phục dần căn bệnh đối lập một cách
trừu tượng chủ nghĩa bản với chủ nghĩa hội. Hai , tuân theo quy luật quan hệ sản xuất
phải phù hợp với tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Ba, xử quan hệ sở
hữu dựa trên tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Bốn , thị
trường vừa căn cứ, vừa đối tượng của kế hoạch. Năm , ngày càng đề cao sản xuất hàng
hóa. Sáu là, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác, chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế.
Nhiệm vụ chủ yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội, bỏ qua chế độ bản chủ nghĩa
Việt Nam hiện nay được nhóm tác giả sách chỉ ra là:
- Bố trí lại cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cấu đầu rút ngắn quá trình công nghiệp
hóa,hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
- Cần có chính sách nhất quán với các thành phần kinh tế.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, nhân dân dựa trên nền tảng
liênminh công nhân, nông dân trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong của giai cấp
công nhân.
Để thực hiện tốt nội dung, nhiệm vụ của của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội, bỏ qua chế độ
bản Việt Nam cần phải giữ vững nền tảng luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tưởng Hồ Chí
lOMoARcPSD|40651217
Minh về chủ nghĩa hội con đường xây dựng chủ nghĩa hội ở Việt Nam. Đồng thời, phải
xuất phát từ thực tiễn đất nước, nhất quy luật về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội từ một
nước nông nghiệp. Phải nhận thức một cách đầy đủ toàn diện bối cảnh mới của đất nước
thế giới hiện nay. Phải kiên trì giữ vững vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản Việt Nam
đối với cách mạng Việt Nam.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội, bỏ qua chế độ bản chủ nghĩa, Việt Nam xác định
phát triển kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa. Đây thành tựu nổi bật cả về luận
thực tiễn trong thời kỳ đổi mới Việt Nam. Tuy nhiên, hội một thể thống nhất
đồng bộ. Các lĩnh vực của đời sống xã hội trong quá trình vận động và phát triểncó sự không
đồng đều, nhưng vềbản phải tương thích thống nhất với nhau tạo thành một tổng thể hoàn
chỉnh. Nhưng hiện nay, Việt Nam mới thừa nhận kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
còn các lĩnh vực khác như: nhà nước, văn hóa, hội… đều được khẳng định hội chủ
nghĩa. Như vậy, về mặt luận thực tiễn chưa nhất quán, dẫn đến khó điều hành triển
khai. Do vậy, nhóm tác giả đề xuất quan điểm trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội, bỏ qua
chế độ bản chủ nghĩa cần tập trung triển khai bốn trụ cột là: Kinh tế thị trường định hướng
hội chủ nghĩa; Nhà nước pháp quyền định hướng hội chủ nghĩa; Nền văn hóa tiên tiến định
hướng xã hội chủ nghĩa; Xã hội dân chủ định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đọc hơn 400 trang sách chúng ta dễ dàng nhận thấy, các tác giả đã khái quát cả luận thực
tiễn quá độ lên chủ nghĩa hội, bỏ qua chế độ bản chủ nghĩa một số nước trên thế giới
Việt Nam với cách tiếp cận mới, đó là theo phương pháp liên ngành, trong đó đề cao các phương
pháp tiếp cận chuyên biệt như: triết học, kinh tế - chính trị học, chính trị học, sử học. Đồng thời,
về mặt luận, cuốn sách đã làm một số khái niệm, phạm trù với nội dung mới. Chỉ ra điều
kiện tiên quyết để tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa của các nước lạc hậu
như Việt Nam hiện nay phải kế thừa thành tựu của chủ nghĩa bản hiện đại giữ vững vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuốn sách sẽ góp phần làm sở luận cho Đảng,
Nhà nước khi hoạch định chủ trương, chính sách phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ định
hướng hội chủ nghĩa Việt Nam. Đồng thời, cuốn sách sẽ làm hài lòng những ai đang quan
tâm tới xu thế vận động của các nước trên thế giớiquá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ
bản chủ nghĩa Việt Nam tất yếu khách quan. Trên sở đó niềm tin vào chủ nghĩa
hội cũng như hình thành mục tiêu, nhiệm vụ của mình trong tương lai./.
| 1/8

Preview text:

lOMoARcPSD|40651217

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Thấm nhuần những tư tưởng căn bản của các nhà kinh điển về thời kỳ quá độ Đảng ta khẳng định, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã ởnước ta ". . .là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen"(11). Chỉ với một đoạn văn ngắn, trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và những thành tựu về lý luận cũng như thực tiễn có được trong quá trình lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta mấy chục năm qua, nhất là trong 25 năm đổi mới, Đảng ta đã đưa ra sự khái quát về thời kỳ quá độ ở Việt Nam.

Theo sự khái quát của Đảng, thời kỳ quá độ đó là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới. Có thể hiểu cái cũ ở đây không chỉ là những tàn dư của xã hội tiền tư bản mà xã hội ta mới thoát ra mấy chục năm qua, mà cái cũ ở đây còn là những yếu tố tư bản chủ nghĩa đang và sẽ hiện diện trong đời sống kinh tế - xã hội. Những nhân tố này có thể là mới so với thực trạng xã hội ta (chẳng hạn như sở hữu tư nhân, kinh tế thị trường...) nhưng lại cũ so với những nhân tố xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng; Đó là để tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự biến đổi về chất nghĩa là sự biến đổi mang tính chất bản chất, căn bản, toàn diện khác với sự biến đổi về lượng, sự biến đổi của từng bộ phận. Nghĩa là trong thời kỳ quá độ, ở nước ta sẽ diễn ra sự biến đổi mang tính chất bản chất, căn bản và toàn diện ở tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; và, quá trình đó phải diễn ra lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen: Đó là do xuất phát điểm của nước ta thấp và xã hội ta cũng chưa trải qua sự phát triển của chủ nghĩa tư bản vì vậy, thời kỳ quá độ phải diễn ra lâu dài là một tất yếu lịch sử. Đồng thời, với sự lâu dài đó, thời kỳ quá độ phải trải qua nhiều bước phát triển khác nhau với nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội cùng phát triển hội nhập, đan xen nhau. Có thể khẳng định, khi bước vào thời kỳ quá độ, chúng ta gặp rất nhiều khó khăn. Đó là do, đất nước ta mới trải qua hai cuộc chiến tranh nên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đều bị tàn phá, chưa kinh qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa nên hầu như chưa có những tiền đề thực tiễn cơ bản cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội, hệ thống chủ nghĩa xã hội thế giới tan rã và phong trào xã hội chủ nghĩa và công nhân quốc tế đang ở thời kỳ thoái trào. Bên cạnh đó, "các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, tìm cách xóa bỏ chủ nghĩa xã hội". Trong bối cảnh khó khăn đó, Đảng ta vẫn lạc quan khẳng định, "Chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản: có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng và dày dặn kinh nghiệm lãnh đạo; dân tộc ta là một dân tộc anh hùng; nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, có truyền thống đoàn kết và nhân ái, cần cù lao động và sáng tạo, luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; chúng ta đã từng bước xây dựng được những cơ sở vật chất - kỹ thuật rất quan trọng; cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự hình thành và phát triển của kinh tế tri thức cùng với quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là một thời cơ để phát triển”(12).

Trong bối cảnh những thuận lợi và khó khăn hiện nay, Đảng ta chỉ rõ mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là, chúng ta xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Cụ thể hơn, Đảng ta chỉ rõ, đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây quả là những nhiệm vụ nặng nề bởi trước hết "xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội" nghĩa là nền kinh tế của chúng ta phải liên tục phát triển vượt bậc để đến khi kết thúc thời kỳ quá độ chúng ta đạt được nền kinh tế phát triển rất cao đủ cơ sở hiện thực để đưa xã hội ta bước vào thời kỳ phát triển xã hội xã hội chủ nghĩa; thứ hai, phải xây dựng được kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp với hạ tầng cơ sở phát triển cao như thế. Đây quả là vấn đề không đơn giản như các nhà kinh điển đã chỉ ra. Bởi vì, thời kỳ quá độ là thời kỳ diễn ra những cuộc biến đổi hết sức sâu sắc và căn bản, nó diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt giữa cái cũ và cái mới, giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, giữa giai cấp tư sản, những thế lực phản động và giai cấp công nhân, nhân dân lao động. Nghĩa là, ở đó chúng ta không chỉ có xây dựng mà cơ bản hơn là phải đấu tranh quyết liệt để giữ chính quyền, bảo vệ chế độ và xây dựng những "cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc".

Nhận thức đúng những thời cơ và thách thức đang đặt ra để thực hiện được mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ, Đảng ta chỉ rõ chúng ta phải quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng, nhiệm vụ cơ bản: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công băng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, dân chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Đặc biệt, trong Đại hội XI, vấn đề mô hình phát triển xã hội - mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam đã được Đảng ta trình bày một cách vừa cụ thể vừa hết sức sâu sắc, toàn diện. Đảng ta khẳng định, "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(13).

Đây là mô hình chủ nghĩa xã hội đặc thù Việt Nam mang tính định hướng trong suốt thời kỳ quá độ. Sở dĩ nói định hướng là vì, như đã nêu trên, thời kỳ quá độ là một giai đoạn phát triển mang tinh độc lập và nằm trong giai đoạn chuyên đổi từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, xã hội trong thời kỳ quá độ chưa phải là xã hội xã hội chủ nghĩa mà chỉ là xã hội quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta khái quát trên phản ánh thực trạng xã hội ta hiện nay với tư cách là những bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ. Khác với những nước tư bản phát triển, khi tiến lên chủ nghĩa xã hội, họ trực tiếp thực hiện bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản, Việt Nam khi bước vào thời kỳ quá độ chúng ta chưa trải qua sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, dĩ nhiên, chúng ta có đủ cơ sở thực tiễn khách quan và chủ quan như Đảng ta đã chỉ rõ để thực hiện thành công sự quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Những đặc trưng của mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa mang tính chất định hướng lâu dài vừa mang tính chất những nhiệm vụ cụ thể cần đạt tới trong từng bước đi, từng giai đoạn, từng thời kỳ của cả thời kỳ quá độ. Điều này mang ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng không chỉ đối với thực tiễn mà cả lý luận. Về mặt thực tiễn, mô hình chủ nghĩa xã hội không phải là một hệ chuẩn cố định, cứng nhắc, bất biến mà là một hệ thống giá trị phổ quát, sinh động luôn vận động và biến đổi cùng với sự vận động và biến đổi của thực tiễn lịch sử. Về mặt lý luận, nhận thức là một quá trình và do đó, chân lý cũng là quá trình. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội với tư cách là nhận thức về một thực thể đang hình thành, đang vận động và phát triển càng là một quá trình phức tạp với nhiều bất ngờ, mới mẻ. Do đó, nhận thức vê mô hình chủ nghĩa xã hội càng phải tuân thủ các phương pháp nhận thức biện chứng duy vật. Quan điểm của Đảng ta về mô hình chủ nghĩa xã hội xã hội Việt Nam chính là thành tựu to lớn về tư duy lý luận của Đảng ta mấy chục năm lãnh đạo nhân dân ta xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là hai mươi lăm năm đổi mới vừa qua. Nhưng có thể khẳng định rằng, đó là mô hình tổng quát, trong thời kỳ quá độ, nhiều đặc trưng mới, cụ thể và phù hợp hơn với thực tiễn, với chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản chắc chắn sẽ được Đảng ta tiếp tục bổ sung và hoàn thiện./.

Đảng ta xác định mục tiêu, nội dung và phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội của thời kỳ quá độ ở nước ta trong công cuộc đổi mới

Về mục tiêu, từ Đại hội VI (năm 1986) đến nay, dù cách diễn đạt khác nhau, nhưng tựu chung Đảng ta đều xác định rõ được mục tiêu xây dựng CNXH ở nước ta trong thời kỳ quá độ. Cụ thể là: Đại hội VI xác định: Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường tiếp theo. Đại hội VII (năm 1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó xác định: Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của CNXH, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước XHCN phồn vinh. Đại hội XI thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), xác định: Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của CNXH với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước XHCN ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại.

Về nội dung, Đại hội VI của Đảng năm 1986 xác định nội dung với nhiệm vụ của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ là: sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy; bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất; xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; tạo ra chuyển biến tốt về mặt xã hội; bảo đảm nhu cầu quốc phòng và an ninh. Đại hội VII (năm 1991), Đảng ta xác định nội dung cơ bản là: Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Do nhân dân lao động làm chủ. Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.

Đến Đại hội XI của Đảng năm 2011, Đảng ta nêu nội dung xây dựng CNXH gọn và rõ hơn: Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân do Đảng lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

Về phương hướng, Đại hội VI (năm 1986) nêu tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tế là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất XHCN. Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh theo con đường XHCN, điều quan trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế - xã hội kém phát triển, chiến thắng những lực cản đối với công cuộc xây dựng CNXH. Vì thế, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Đảng ta xác định phương hướng cơ bản là xây dựng nhà nước XHCN, nhà nước của dân, do dân, vì dân; thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân; phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại; không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; thiết lập từng bước quan hệ sản xuất XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu; phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN; tiến hành cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa; thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh; thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước; xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam; nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn nhiệm vụ lãnh đạo sự nghiệp cách mạng XHCN ở nước ta.

Những thành tựu đạt được trong 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991 có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần thực hiện thành công chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển, sức mạnh quốc gia về mọi mặt được tăng cường, độc lập, tự chủ và chế độ XHCN được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ và bền vững hơn trong giai đoạn mới.

Tuy nhiên, quá độ lên CNXH ở nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau và diễn biến phức tạp, không thể xem thường. Để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, Đại hội XI của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó xác định phương hướng cơ bản là: Một là, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Sáu là, xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất. Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Rõ ràng, mục tiêu, nội dung và phương hướng của thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam được Đảng ta xác định ngày càng rõ hơn và khác về nguyên tắc với kiểu quá độ “trực tiếp” từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH, mà là quá độ “gián tiếp” từ một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến lên CNXH. Đó là tính đặc thù của thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt

Nam.

3. Khái quát những bước chuyển căn bản trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay

Quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là một quá trình lịch sử lâu dài với những bước đi và giải pháp phù hợp với điều kiện và trình độ của xã hội nước ta từ sản xuất nhỏ là phổ biến đi lên CNXH. Từ năm 1986 đến nay, quá độ đi lên CNXH ở nước ta có những bước chuyển căn bản, thể hiện rõ ở những vấn đề nổi bật sau đây:

Một là, từ mô hình kinh tế hiện vật với sự tuyệt đối hóa sở hữu xã hội (nhà nước và tập thể) và với sự phát triển vượt trước của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất sang thực hiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong sự thống nhất biện chứng với tính đa dạng các hình thức sở hữu, phân phối, lấy phân phối theo lao động làm đặc trưng chủ yếu, thúc đẩy sản xuất phát triển. Đây là bước chuyển căn bản mà ý nghĩa sâu xa là tôn trọng quy luật khách quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất; dựa vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà từng bước thiết lập quan hệ sản xuất tương ứng. Nhờ đó, đã mở đường giải phóng sức sản xuất, giải phóng mọi tiềm năng xã hội. Nhân tố quan trọng bậc nhất được thúc đẩy là lợi ích, trong đó lợi ích của người lao động được coi trọng và là động lực trực tiếp để thực hiện, phát triển lợi ích tập thể và lợi ích xã hội. Bước chuyển này có ý nghĩa cách mạng, đã đặt đúng vị trí và tầm quan trọng của cái tất yếu kinh tế trong sự phát triển quá độ lên CNXH theo con đường phát triển “rút ngắn”, loại hình quá độ “gián tiếp” mà quy luật của lịch sử đã đặt ra.

Hai là, từ quản lý nền kinh tế dựa trên mô hình kế hoạch hóa tập trung tuyệt đối với cơ chế bao cấp, bình quân, cào bằng sang mô hình quản lý mới thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, có sự điều tiết ở tầm vĩ mô, thông qua quản lý, kiểm soát bằng pháp luật của Nhà nước. Nền kinh tế vận hành trong cơ chế thị trường đã dẫn đến sự tác động, thâm nhập lẫn nhau giữa các thành phần kinh tế, tạo thành sự đan xen các hình thức sở hữu, các phương thức quản lý và phân phối lợi ích phù hợp với quan hệ sản xuất, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất ở thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Trong cơ chế thị trường, các chủ thể sản xuất kinh doanh, vừa là chủ thể tiêu dùng sản phẩm hàng hóa được đặt vào những cơ hội như nhau để phát triển, được thể hiện ở tài năng, được thử thách về trình độ, năng lực, phẩm chất và sự sáng tạo trong hoạt động kinh tế, sản xuất kinh doanh đòi hỏi chấp nhận cạnh tranh. Cơ chế thị trường có mặt trái của nó là cạnh tranh, dẫn đến sự chênh lệch thu nhập, bất bình đẳng và phân hóa giàu nghèo. Vấn đề đặt ra là phải có chính sách đúng đắn để hạn chế tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường, hướng tới mục tiêu công bằng xã hội, theo định hướng XHCN.

Ba là, đã tiến hành đổi mới hệ thống chính trị. Từ chế độ kế hoạch hóa tập trung, bao cấp và phương thức quản lý hành chính mệnh lệnh chuyển sang dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội, thực hiện dân chủ gắn với tôn trọng pháp luật, kỷ cương xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nội dung cơ bản của đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta là thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nền dân chủ XHCN. Ngay từ đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã chủ trương giữ vững ổn định chính trị, coi đó là tiền đề, điều kiện cơ bản để thực hiện đổi mới toàn diện đất nước. Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều biện pháp để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Thực hiện đổi mới hệ thống chính trị sau đổi mới kinh tế đã tạo ra sự ổn định xã hội, đồng thời xác nhận tầm quan trọng của những nguyên tắc, biện pháp, bước đi trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Bước chuyển này góp phần quan trọng vào việc tháo gỡ khó khăn, tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, xã hội, làm nảy sinh những nhân tố mới, động lực mới cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bốn là, phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo để tìm cách giải quyết phù hợp và có hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra trong thời kỳ quá độ lên CNXH, đó là quan niệm về sự hình thành và phát triển CNXH ở nước ta. CNXH với tư cách là một chế độ xã hội và là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH. Song, không có một mô hình duy nhất, không có mẫu hình duy nhất giống hệt nhau được áp dụng ở tất cả các nước, mà đòi hỏi phải sáng tạo phù hợp với điều kiện cụ thể của từng nước. Vấn đề đặt ra là phải kết hợp dân tộc và quốc tế, truyền thống với hiện đại, chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Đồng thời, phải vừa hợp tác, vừa đấu tranh để bảo vệ những lợi ích chính đáng của quốc gia dân tộc. Tuy nhiên, để giữ vững định hướng XHCN phải không ngừng sáng tạo, phải khắc phục ảnh hưởng của chủ nghĩa giáo điều, rập khuôn, máy móc, sao chép mô hình của nước ngoài, đồng thời phải đấu tranh với âm mưu chống phá của các thế lực thù địch.

Năm là, khắc phục những hạn chế và khiếm khuyết về mô hình xây dựng CNXH kiểu cũ có liên quan đến vấn đề con người trong thời kỳ quá độ, Đảng và Nhà nước ta đã làm sáng tỏ hơn tư tưởng nhân đạo, khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, thừa nhận và bảo vệ những lợi ích chính đáng của người lao động là một trong những động lực trực tiếp thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, là cơ sở thực hiện lợi ích chung của tập thể và của xã hội. Con người là nguồn lực của mọi nguồn lực, vừa là động lực, vừa là mục tiêu, là nguồn nội sinh quan trọng của mọi chính sách kinh tế - xã hội, của phát triển đất nước bền vững. Do đó, Đảng ta chủ trương đầu tư cho con người là đầu tư cho phát triển, đầu tư cho giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là đầu tư theo chiều sâu, đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế.

Quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta đã được thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng khẳng định là đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Những thành tựu đạt được trong hơn 35 năm đổi mới là to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, sức mạnh về mọi mặt được tăng cường, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong những thập niên tới, như Đại hội XIII của Đảng đã đề ra: “Đến năm 2025: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”(12

Vận dụng và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện lịch sử cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn khẳng định, theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội và kiên định con đường đó. Tuy nhiên, xuất phát từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, Đảng ta đặt lên hàng đầu nhiệm vụ chống đế quốc để giải phóng dân tộc. Nhiệm vụ chống phong kiến đem lại ruộng đất cho dân cày được tiến hành từng bước. Sau khi giành được thắng lợi trong cách mạng dân tộc dân chủ, phải chuyển tiếp lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, bỏ qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản với thời kỳ quá độ lâu dài, khó khăn, nhiều chặng đường. Các nước đang phát triển tư bản chủ nghĩa quá độ lên chủ nghĩa xã hội sẽ dễ dàng hơn, thời gian ngắn hơn. Nhưng nước ta, xuất phát điểm quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển của tư bản chủ nghĩa, chắc chắn sẽ lâu dài hơn, khó khăn hơn, phức tạp hơn và sẽ trải qua nhiều chặng đường hơn.

Thời kỳ trước năm 2001, Đảng ta xác định quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản. Đến Đại hội IX của Đảng (năm 2001), Đảng ta có bước phát triển mới về thời kỳ quá độ là “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng kế thừa những thành tựu đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt những thành tựu về khoa học - công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.

Trong chương IV, các tác giả đã chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản ở Việt Nam hiện nay, đó là:

  • Từ nước có nền sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội không qua chủ nghĩa tư bản, nhưng khôngtheo cơ chế kế hoạch hóa, tập trung bao cấp nữa mà chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
  • Chịu sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu hóa.Cộng đồng quốc tế đang đứng trước nhiều vấn đề có tính toàn cầu, kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật.
  • Việt Nam vẫn bị các thế lực thù địch tiến hành bao vây, chống phá.

Với những đặc điểm nêu trên, nội dung chủ yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản ở Việt Nam hiện nay: Một là, từng bước khắc phục dần căn bệnh đối lập một cách trừu tượng chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội. Hai là, tuân theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Ba là, xử lý quan hệ sở hữu dựa trên tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Bốn là, thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch. Năm là, ngày càng đề cao sản xuất hàng hóa. Sáu là, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.

Nhiệm vụ chủ yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay được nhóm tác giả sách chỉ ra là:

  • Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư và rút ngắn quá trình công nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
  • Cần có chính sách nhất quán với các thành phần kinh tế.
  • Xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dựa trên nền tảng liênminh công nhân, nông dân và trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong của giai cấp công nhân.

Để thực hiện tốt nội dung, nhiệm vụ của của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản ở Việt Nam cần phải giữ vững nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đồng thời, phải xuất phát từ thực tiễn đất nước, nhất là quy luật về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp. Phải nhận thức một cách đầy đủ và toàn diện bối cảnh mới của đất nước và thế giới hiện nay. Phải kiên trì giữ vững vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam.

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, Việt Nam xác định phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là thành tựu nổi bật cả về lý luận và thực tiễn trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam. Tuy nhiên, xã hội là một cơ thể thống nhất và đồng bộ. Các lĩnh vực của đời sống xã hội trong quá trình vận động và phát triển dù có sự không đồng đều, nhưng về cơ bản phải tương thích và thống nhất với nhau tạo thành một tổng thể hoàn chỉnh. Nhưng hiện nay, Việt Nam mới thừa nhận kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, còn các lĩnh vực khác như: nhà nước, văn hóa, xã hội… đều được khẳng định là xã hội chủ nghĩa. Như vậy, về mặt lý luận và thực tiễn là chưa nhất quán, dẫn đến khó điều hành và triển khai. Do vậy, nhóm tác giả đề xuất quan điểm trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa cần tập trung triển khai bốn trụ cột là: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Nhà nước pháp quyền định hướng xã hội chủ nghĩa; Nền văn hóa tiên tiến định hướng xã hội chủ nghĩa; Xã hội dân chủ định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đọc hơn 400 trang sách chúng ta dễ dàng nhận thấy, các tác giả đã khái quát cả lý luận và thực tiễn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở một số nước trên thế giới và Việt Nam với cách tiếp cận mới, đó là theo phương pháp liên ngành, trong đó đề cao các phương pháp tiếp cận chuyên biệt như: triết học, kinh tế - chính trị học, chính trị học, sử học. Đồng thời, về mặt lý luận, cuốn sách đã làm rõ một số khái niệm, phạm trù với nội dung mới. Chỉ ra điều kiện tiên quyết để tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa của các nước lạc hậu như Việt Nam hiện nay là phải kế thừa thành tựu của chủ nghĩa tư bản hiện đại và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuốn sách sẽ góp phần làm cơ sở lý luận cho Đảng, Nhà nước khi hoạch định chủ trương, chính sách phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đồng thời, cuốn sách sẽ làm hài lòng những ai đang quan tâm tới xu thế vận động của các nước trên thế giới và quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là tất yếu khách quan. Trên cơ sở đó có niềm tin vào chủ nghĩa xã hội cũng như hình thành mục tiêu, nhiệm vụ của mình trong tương lai./.