lOMoARcPSD| 53331727
I. Nêu quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh?
1. Thờì kỳ trước 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng
2. Thời kỳ từ giữa 1911 đến cuối năm 1920: Dần dần hình thành tư tưởng yêu nước, giải
phóng dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản
3. Thời kỳ cuối năm 1920 đến đầu năm 1930: Hình thành những nội dung cơ bản tư tưởng
Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam
4. Thời kỳ đầu năm 1930 đến đầu năm 1941: Vượt qua thử thách, giữu vững đường lối,
phương pháp cách mạng Việt Nam đúng đắn, sáng tạo
5. Thời kỳ từ đầu năm 1941 đến tháng 9 – 1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển,
hoàn thiện, soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân dân ta II. Phân tích
quá trình hình thành và phát triển tư tưởng của Người thời kỳ từ trước 1911 đến năm
1930?
Tháng 7-1911, Hồ Chí Minh đặt chân lên đất Pháp. Tiếp đó Người còn đến nhiều nước thuộc địa
ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh và các nước đế quốc như Mỹ, Anh để nghiên cứu và tìm lời
giải đáp cho câu hỏi lúc ra đi. Cuộc hành trình vạn dặm ấy đã giúp Người tìm ra mọi cội nguồn
những khổ đau của nhân loại là các nước đế quốc “chính quốc”.
Giữa lúc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất ở vào thời kỳ ác liệt cuối năm 1917, Người từ nước
Anh trở lại nước Pháp. Ngày 11-1917, Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười nổ ra và thắng
lợi, Hồ Chí Minh có cảm tình sâu sắc với cuộc cách mạng ấy và với lãnh tụ Lênin.
Chiến tranh kết thúc năm 1919, các nước đế quốc họp hội nghị ở Vécy (Pháp). Thực chất của
hội nghị là các nước thắng trận chia lại thuộc địa được dấu dưới những lời lẽ “tự do”, “công
bằng”, “nhân đạo”, theo chương trình 14 điều của Uynxơn - Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ.
Thay mặt nhóm những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã gửi đến hội nghị
“Yêu sách của nhân dân An Nam” đòi các cường quốc thừa nhận quyền tự do, dân chủ, bình
đẳng cho dân tộc Việt Nam. Qua hội nghị Vécxây, Hồ Chí Minh rút ra kết luận: ““Chủ nghĩa
Uynxơn” chỉ là một trò bịp bợm lớn” (6) ; các dân tộc muốn được giải phóng chỉ có thể dựa vào
sức lực của bản thân mình. Nhờ nhận thức rút ra từ thực tiễn gần 10 năm lăn lộn tìm đường cứu
nước nên khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa
của Lênin (7-1920), Hồ Chí Minh tìm thấy những lời giải đáp đầy thuyết phục cho những câu hỏi
của mình. Người viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động phấn khởi, sáng tỏ, tin
tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên
như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau khổ! Đây là cái cần thiết
cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta” (7) . Đến đây, Hồ Chí Minh khẳng định con
đường cứu nước của mình: giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản, gắn giải phóng
dân tộc với giải phóng giai cấp vô sản. Hồ Chí Minh rời bỏ Đảng Xã hội theo quan điểm Đệ nhị
quốc tế để đến với Quốc tế III - Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập (3-1919).
Tháng 12-1920, đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp gắn liền với việc Hồ Chí Minh trở
thành người cộng sản đánh dấu bước ngoặt trong quá trình phát triển tư tưởng và cuộc đời hoạt
lOMoARcPSD| 53331727
động cách mạng của Người - chủ nghĩa yêu nước chân chính đã gặp chủ nghĩa quốc tế vô sản
chân chính.
2 . Thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành về cơ bản (1920-1930)
Những năm bôn ba, lăn lộn trong phong trào yêu nước, phong trào công nhân “chính quốc” và các
nước thuộc địa, Hồ Chí Minh đã mở rộng quan hệ hội tri thức của mình. Nhờ thông hiểu
nhiều ngoại ngữ và giao tiếp rộng với nhiều bạn bè quốc tế mà Người tiếp thu được kiến thức cổ,
kim, đông, tây, nắm được cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin. Do tích cực tham gia các hoạt động
quốc tế các buổi sinh hoạt luận bàn về chiến lược sách lược cách mạng thế giới, qua thực
tiễn công tác, tổng kết kinh nghiệm nhiều cuộc cách mạng, Hồ Chí Minh đã tích y được nhiều
tri thức cách mạng, dần dần trongduy của Người hình thành nên một luận điểm đúng đắn: Giải
phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp sản các dân tộc thuộc địa, giải phóng nhân
loại. Cũng từ đó, lý luận, chiến lược cách mạng vô sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, đã
từng bước hình thành trong tư duy Hồ Chí Minh.
Từ khi trở thành người cộng sản, cùng với việc thực hiện những nhiệm vụ của Đảng Cộng sản
Pháp và Quốc tế Cộng sản, Quốc tế Nông dân…, Hồ Chí Minh đã truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin
tưởng của mình về nước chuẩn bị cho việc thành lập một Đảng cộng sản Việt Nam. c
bài viết trên báo Người cùng khổ (1922), báo Thanh niên (1925), báo Nhân đạo, Tạp chí Cộng
sản, Đời sống thợ thuyền, Thông tin quốc tế, các tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925),
Đường Cách mệnh (1927) ,… của Hồ Chí Minh là những công cụ quan trọng trong việc giáo dục
những người Việt Nam u nước từng bước chuyển từ yêu nước truyền thống thành u nước theo
lập trường cách mạng vô sản.
Từ giữa những năm 20 của thế kXX, do việc truyền bá chủ nghĩa c - Lênin của Hồ Chí Minh,
phong trào cách mạng Việt Nam những chuyển biến mạnh mẽ. Bên cạnh những đảng theo xu
hướng tưởng sản đã xuất hiện nhiều tổ chức cách mạng từ sau đại hội lần thứ nhất của đội
Việt Nam cách mạng thanh niên (5-1929) ba tổ chức cộng sản Việt Nam ra đời: Đông Dương
Cộng sản Đảng (6-1929), An Nam Cộng sản Đảng (9-1929) và Đông Dương Cộng sản liên đoàn
(l-1930).
Trước tình hình Đông Dương các tổ chức cộng sản xuất hiện, ngày 28-11-1929, Quốc tế Cộng
sản đã nghị quyết về việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương. Thực hiện Nghị quyết của
Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã chủ trì Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam,
ngày 3-2-1930.
Hội nghị hợp nhất đã thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt,
Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh soạn thảo.
Các văn kiện quan trọng nói trên đã trở thành Cương nh đầu tiên của Đảng. Trong Cương lĩnh
đầu tiên của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định Việt Nam một nước thuộc địa, nửa
phong kiến, “vì bản Pháp hết sức ngăn trở sức sinh sản làm cho công nghệ bản xứ không thế
mở mang được”… “nông nghệ một ngày một tập trung... nông dân thất nghiệp nhiều”
(8)
. Đánh
giá về giai cấp sản dân tộc giai cấp địa chủ, Chánh cương vắn tắt sự phân biệt ràng:
“Tư bản bản xứ không có thể lực gì ta không nên nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại
địa chủ mới thế lực đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa”. Đây là một sự đánh giá hết sức
khách quan, chân thực, không hề bị chi phối của tư tưởng giáo điều hay “tả” khuynh. Từ thực tế
đó, Đảng chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản” (9) .
Như vậy, ngay từ khi Đảng ra đời, Hồ Chí Minh Đảng ta đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa dân tộc và giai cấp, phân tích đúng đắn đặc điểm của hội, sắp xếp đúng vị trí của từng giai
lOMoARcPSD| 53331727
cấp, tầng lớp nhân trong lực lượng cách mạng, tạo điều kiện cho Đảng vừa ra đời đã nắm
trọn quyền lãnh đạo cách mạng.
Với cột mốc lịch sử ngày 3-2-1930, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam đã
hình thành về cơ Ý NGHĨA:
- Đối với cách mạng Việt Nam:
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh đưa cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đến thắng lợi và bắt đầu
xây dựng một xã hội mới trên đất nước ta.
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam.
- Đối với sự phát triển tiến bộ của nhân loại :
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần mở ra cho các dân tộc thuộc địa con đường giải phóng dân
tộc gắn với sự tiến bộ xã hội.
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộcdân chủ, hòa
bình, hợp tác và phát triển trên thế giới.12:03/-heart1/-heart/-strong/-heart:>:o:-((:-h.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 53331727
I. Nêu quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh?
1. Thờì kỳ trước 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng
2. Thời kỳ từ giữa 1911 đến cuối năm 1920: Dần dần hình thành tư tưởng yêu nước, giải
phóng dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản
3. Thời kỳ cuối năm 1920 đến đầu năm 1930: Hình thành những nội dung cơ bản tư tưởng
Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam
4. Thời kỳ đầu năm 1930 đến đầu năm 1941: Vượt qua thử thách, giữu vững đường lối,
phương pháp cách mạng Việt Nam đúng đắn, sáng tạo
5. Thời kỳ từ đầu năm 1941 đến tháng 9 – 1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển,
hoàn thiện, soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân dân ta II. Phân tích
quá trình hình thành và phát triển tư tưởng của Người thời kỳ từ trước 1911 đến năm 1930?
Tháng 7-1911, Hồ Chí Minh đặt chân lên đất Pháp. Tiếp đó Người còn đến nhiều nước thuộc địa
ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh và các nước đế quốc như Mỹ, Anh để nghiên cứu và tìm lời
giải đáp cho câu hỏi lúc ra đi. Cuộc hành trình vạn dặm ấy đã giúp Người tìm ra mọi cội nguồn
những khổ đau của nhân loại là các nước đế quốc “chính quốc”.
Giữa lúc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất ở vào thời kỳ ác liệt cuối năm 1917, Người từ nước
Anh trở lại nước Pháp. Ngày 11-1917, Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười nổ ra và thắng
lợi, Hồ Chí Minh có cảm tình sâu sắc với cuộc cách mạng ấy và với lãnh tụ Lênin.
Chiến tranh kết thúc năm 1919, các nước đế quốc họp hội nghị ở Vécxây (Pháp). Thực chất của
hội nghị là các nước thắng trận chia lại thuộc địa được dấu dưới những lời lẽ “tự do”, “công
bằng”, “nhân đạo”, theo chương trình 14 điều của Uynxơn - Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ.
Thay mặt nhóm những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã gửi đến hội nghị
“Yêu sách của nhân dân An Nam” đòi các cường quốc thừa nhận quyền tự do, dân chủ, bình
đẳng cho dân tộc Việt Nam. Qua hội nghị Vécxây, Hồ Chí Minh rút ra kết luận: ““Chủ nghĩa
Uynxơn” chỉ là một trò bịp bợm lớn” (6) ; các dân tộc muốn được giải phóng chỉ có thể dựa vào
sức lực của bản thân mình. Nhờ nhận thức rút ra từ thực tiễn gần 10 năm lăn lộn tìm đường cứu
nước nên khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa
của Lênin (7-1920), Hồ Chí Minh tìm thấy những lời giải đáp đầy thuyết phục cho những câu hỏi
của mình. Người viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động phấn khởi, sáng tỏ, tin
tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên
như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau khổ! Đây là cái cần thiết
cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta” (7) . Đến đây, Hồ Chí Minh khẳng định con
đường cứu nước của mình: giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản, gắn giải phóng
dân tộc với giải phóng giai cấp vô sản. Hồ Chí Minh rời bỏ Đảng Xã hội theo quan điểm Đệ nhị
quốc tế để đến với Quốc tế III - Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập (3-1919).
Tháng 12-1920, đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp gắn liền với việc Hồ Chí Minh trở
thành người cộng sản đánh dấu bước ngoặt trong quá trình phát triển tư tưởng và cuộc đời hoạt lOMoAR cPSD| 53331727
động cách mạng của Người - chủ nghĩa yêu nước chân chính đã gặp chủ nghĩa quốc tế vô sản chân chính.
2 . Thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành về cơ bản (1920-1930)
Những năm bôn ba, lăn lộn trong phong trào yêu nước, phong trào công nhân “chính quốc” và các
nước thuộc địa, Hồ Chí Minh đã mở rộng quan hệ xã hội và tri thức của mình. Nhờ thông hiểu
nhiều ngoại ngữ và giao tiếp rộng với nhiều bạn bè quốc tế mà Người tiếp thu được kiến thức cổ,
kim, đông, tây, nắm được cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin. Do tích cực tham gia các hoạt động
quốc tế và các buổi sinh hoạt lý luận bàn về chiến lược sách lược cách mạng thế giới, qua thực
tiễn công tác, tổng kết kinh nghiệm nhiều cuộc cách mạng, Hồ Chí Minh đã tích lũy được nhiều
tri thức cách mạng, dần dần trong tư duy của Người hình thành nên một luận điểm đúng đắn: Giải
phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa, giải phóng nhân
loại. Cũng từ đó, lý luận, chiến lược cách mạng vô sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, đã
từng bước hình thành trong tư duy Hồ Chí Minh.
Từ khi trở thành người cộng sản, cùng với việc thực hiện những nhiệm vụ của Đảng Cộng sản
Pháp và Quốc tế Cộng sản, Quốc tế Nông dân…, Hồ Chí Minh đã truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin
và tư tưởng của mình về nước chuẩn bị cho việc thành lập một Đảng cộng sản ở Việt Nam. Các
bài viết trên báo Người cùng khổ (1922), báo Thanh niên (1925), báo Nhân đạo, Tạp chí Cộng
sản, Đời sống thợ thuyền, Thông tin quốc tế,
các tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925),
Đường Cách mệnh (1927) ,… của Hồ Chí Minh là những công cụ quan trọng trong việc giáo dục
những người Việt Nam yêu nước từng bước chuyển từ yêu nước truyền thống thành yêu nước theo
lập trường cách mạng vô sản.
Từ giữa những năm 20 của thế kỷ XX, do việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí Minh,
phong trào cách mạng Việt Nam có những chuyển biến mạnh mẽ. Bên cạnh những đảng theo xu
hướng tư tưởng tư sản đã xuất hiện nhiều tổ chức cách mạng từ sau đại hội lần thứ nhất của đội
Việt Nam cách mạng thanh niên (5-1929) ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời: Đông Dương
Cộng sản Đảng (6-1929), An Nam Cộng sản Đảng (9-1929) và Đông Dương Cộng sản liên đoàn (l-1930).
Trước tình hình ở Đông Dương có các tổ chức cộng sản xuất hiện, ngày 28-11-1929, Quốc tế Cộng
sản đã có nghị quyết về việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương. Thực hiện Nghị quyết của
Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã chủ trì Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 3-2-1930.
Hội nghị hợp nhất đã thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt,
Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh soạn thảo.
Các văn kiện quan trọng nói trên đã trở thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Trong Cương lĩnh
đầu tiên của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định Việt Nam là một nước thuộc địa, nửa
phong kiến, “vì tư bản Pháp hết sức ngăn trở sức sinh sản làm cho công nghệ bản xứ không thế
mở mang được”… “nông nghệ một ngày một tập trung... nông dân thất nghiệp nhiều” (8) . Đánh
giá về giai cấp tư sản dân tộc và giai cấp địa chủ, Chánh cương vắn tắt có sự phân biệt rõ ràng:
“Tư bản bản xứ không có thể lực gì ta không nên nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại
địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa”. Đây là một sự đánh giá hết sức
khách quan, chân thực, không hề bị chi phối của tư tưởng giáo điều hay “tả” khuynh. Từ thực tế
đó, Đảng chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” (9) .
Như vậy, ngay từ khi Đảng ra đời, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa dân tộc và giai cấp, phân tích đúng đắn đặc điểm của xã hội, sắp xếp đúng vị trí của từng giai lOMoAR cPSD| 53331727
cấp, tầng lớp và cá nhân trong lực lượng cách mạng, tạo điều kiện cho Đảng vừa ra đời đã nắm
trọn quyền lãnh đạo cách mạng.
Với cột mốc lịch sử ngày 3-2-1930, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam đã
hình thành về cơ Ý NGHĨA:
- Đối với cách mạng Việt Nam:
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh đưa cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đến thắng lợi và bắt đầu
xây dựng một xã hội mới trên đất nước ta.
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam.
- Đối với sự phát triển tiến bộ của nhân loại :
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần mở ra cho các dân tộc thuộc địa con đường giải phóng dân
tộc gắn với sự tiến bộ xã hội.
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộcdân chủ, hòa
bình, hợp tác và phát triển trên thế giới.12:03/-heart1/-heart/-strong/-heart:>:o:-((:-h.